Đề xuất hỗ trợ tâm lý 3 tháng đối với nạn nhân của mua bán người
Mua bán người là những tội ác vi phạm pháp luật nghiêm trọng và luôn được nhà nước đặc biệt quan tâm. Tại Dự thảo Luật Phòng chống mua bán người, có đề xuất hỗ trợ tâm lý 3 tháng đối với nạn nhân. Cụ thể thế nào, hãy cùng tìm hiểu. 1. Đề xuất, sửa đổi nguyên tắc phòng, chống mua bán người Căn cứ Điều 4 Dự thảo Luật Phòng chống mua bán người đề xuất, sửa đổi nguyên tắc phòng, chống mua bán người như sau: - Thực hiện đồng bộ các biện pháp phòng ngừa, phát hiện, xử lý hành vi quy định tại Điều 3 của Luật này. - Giải cứu, bảo vệ, tiếp nhận, xác minh, hỗ trợ nạn nhân, người đang trong quá trình xác định là nạn nhân kịp thời, chính xác. Tôn trọng quyền, lợi ích hợp pháp và không kỳ thị, phân biệt đối xử đối với nạn nhân, người đang trong quá trình xác định là nạn nhân. - Phát huy vai trò, trách nhiệm của cá nhân, gia đình, cộng đồng, cơ quan, tổ chức trong phòng, chống mua bán người. - Ngăn chặn, phát hiện và xử lý nghiêm minh, kịp thời, chính xác hành vi quy định tại Điều 3 của Luật này. - Tuân thủ Hiến pháp, pháp luật Việt Nam, pháp luật, tập quán quốc tế; thực hiện đúng các cam kết của Việt Nam đối với các tổ chức quốc tế, thỏa thuận, điều ước quốc tế về phòng, chống mua bán người mà Việt Nam là thành viên ký kết, tham gia. - Tăng cường hợp tác quốc tế trong phòng, chống mua bán người; chủ động, tích cực tham gia các tổ chức quốc tế, thỏa thuận, điều ước quốc tế về phòng, chống mua bán người. Những nguyên tắc phòng, chống mua bán người như trên không đơn thuần chỉ là quy định pháp luật, mà còn là kim chỉ nam cho hoạt động đấu tranh bảo vệ quyền lợi con người. Là định hướng để xây dựng xã hội công bằng và an toàn hơn. 2. Đề xuất hỗ trợ tâm lý 3 tháng đối với nạn nhân của mua bán người Hiện hành, Điều 35 Luật Phòng chống mua bán người 2011 chỉ quy định chung chung rằng nạn nhân của mua bán người được hỗ trợ để ổn định tâm lý trong thời gian lưu trú tại cơ sở bảo trợ xã hội hoặc cơ sở hỗ trợ nạn nhân. Nhưng tại Điều 38 Dự thảo Luật Phòng chống mua bán người đề xuất hỗ trợ tâm lý như sau: - Người đang trong quá trình xác định là nạn nhân được hỗ trợ để ổn định tâm lý trong thời gian chờ xác định là nạn nhân. - Nạn nhân được hỗ trợ để ổn định tâm lý trong thời gian 03 tháng. - Nạn nhân được hỗ trợ để ổn định tâm lý trong thời gian lưu trú tại cơ sở bảo trợ xã hội hoặc cơ sở hỗ trợ nạn nhân. Như vậy, khoảng thời gian hỗ trợ tâm lý đối với nạn nhân của mua bán người được đề xuất 3 tháng. Ngoài ra, tại Điều 43 Dự thảo Luật còn đề xuất các cơ quan, tổ chức thực hiện việc hỗ trợ nạn nhân mua bán người quy định sau: - Cơ quan đại diện Việt Nam ở nước ngoài, Ủy ban nhân dân cấp xã đã tiếp nhận người đang trong quá trình xác định là nạn nhân, nạn nhân, cơ quan Công an, Bộ đội biên phòng, Cảnh sát biển đã giải cứu nạn nhân thực hiện hỗ trợ nhu cầu thiết yếu cho người đang trong quá trình xác định là nạn nhân, nạn nhân. - Phòng Lao động - Thương binh và Xã hội thực hiện hỗ trợ chi phí đi lại cho người đang trong quá trình xác định là nạn nhân, nạn nhân trong trường hợp họ tự trở về nơi cư trú. - Cơ sở bảo trợ xã hội, cơ sở hỗ trợ nạn nhân thực hiện hỗ trợ nhu cầu thiết yếu, hỗ trợ tâm lý, hỗ trợ y tế cho người đang trong quá trình xác định là nạn nhân, nạn nhân. - Trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước và các tổ chức tham gia trợ giúp pháp lý thực hiện trợ giúp pháp lý cho người đang trong quá trình xác định là nạn nhân, nạn nhân. - Sở Lao động - Thương binh và Xã hội thực hiện trợ cấp khó khăn ban đầu cho nạn nhân; phối hợp với Sở Y tế, Sở Giáo dục và Đào tạo thực hiện hỗ trợ y tế cho người đang trong quá trình xác định là nạn nhân, nạn nhân và hỗ trợ học văn hóa, học nghề cho nạn nhân. Chung quy lại, việc đề xuất thời gian hỗ trợ tâm lý đối với nạn nhân của mua bán người có ý nghĩa rất quan trọng trong quá trình phục hồi và tái hòa nhập xã hội của họ. Đây là một yếu tố thiết yếu để đảm bảo rằng các nạn nhân không chỉ được cứu giúp về mặt thể chất mà còn được hỗ trợ đầy đủ về mặt tinh thần, ngoài ra còn thể hiện được tính nhân đạo của pháp luật nhà nước.
Cá nhân tham gia phòng ngừa mua bán người sẽ được nhà nước bảo vệ
Vấn nạn “mua bán người” có thể xem một trong những tội ác nặng nhất của loài người. Do đó những chính sách, pháp luật về vấn đề này là cần thiết. Thật vui mừng khi tại Dự thảo mới đã đề xuất cá nhân tham gia phòng ngừa mua bán người sẽ được nhà nước bảo vệ. Cụ thể thế nào, hãy cùng tìm hiểu. 1. Chính sách của Nhà nước về phòng chống mua bán người Căn cứ Điều 5 Dự thảo Luật Phòng chống mua bán người quy định chính sách của Nhà nước về phòng, chống mua bán người như sau: - Phòng, chống mua bán người là nội dung của chiến lược quốc gia phòng, chống tội phạm và được kết hợp với việc thực hiện các chương trình khác về phát triển kinh tế - xã hội. - Khuyến khích cơ quan, tổ chức, cá nhân trong nước và ngoài nước tham gia, hợp tác, tài trợ cho hoạt động phòng, chống mua bán người và hỗ trợ nạn nhân, người đang trong quá trình xác định là nạn nhân; khuyến khích cá nhân, tổ chức trong nước thành lập cơ sở hỗ trợ nạn nhân theo quy định của pháp luật. - Khen thưởng cơ quan, tổ chức, cá nhân có thành tích trong công tác phòng, chống mua bán người; bảo đảm chế độ, chính sách đối với người tham gia phòng, chống mua bán người bị thiệt hại về tính mạng, sức khỏe hoặc tài sản theo quy định của pháp luật. - Hằng năm, Nhà nước bố trí ngân sách cho công tác phòng, chống mua bán người. Cần nói, chính sách của Nhà nước về phòng, chống mua bán người nói chung mang ý nghĩa rất quan trọng đối với sự phát triển bền vững và nhân đạo của xã hội. 2. Đề xuất bảo vệ cá nhân tham gia phòng ngừa mua bán người Hiện hành, Điều 12 Luật Phòng chống mua bán người 2011 chỉ quy định cá nhân tham gia phòng ngừa mua bán người phải thực hiện những điều: - Tham gia các hoạt động phòng ngừa mua bán người. - Kịp thời báo tin, tố giác, tố cáo hành vi quy định tại Điều 3 của Luật Phòng chống mua bán người 2011. Dựa vào tính cấp thiết của thực tiễn, khuyến khích, ủng hộ cá nhân đứng lên, bảo vệ, tham phòng ngừa mua bán người, tại Điều 12 Dự thảo Luật có bổ sung quy định cá nhân tham gia phòng ngừa mua bán người như sau: - Tham gia các hoạt động phòng ngừa mua bán người. - Kịp thời báo tin, tố giác, tố cáo hành vi quy định tại Điều 3 của Dự thảo Luật. - Được bảo vệ khi tham gia phòng, chống mua bán người theo quy định của pháp luật. - Được khen thưởng, bảo đảm chế độ, chính sách khi bị thiệt hại về tính mạng, sức khỏe và tài sản theo quy định của pháp luật. Bên cạnh đó, căn cứ Điều 9 Dự thảo Luật có quy định về quản lý về an ninh, trật tự như sau: - Quản lý thông tin cư trú thông qua công tác, đăng ký quản lý cư trú, quản lý nhân khẩu thường trú, tạm trú, lưu trú, tạm vắng trên địa bàn, nắm rõ biến động dân cư có liên quan đến hoạt động mua bán người. - Quản lý, giám sát các đối tượng có tiền án, tiền sự về mua bán người và các đối tượng khác có dấu hiệu thực hiện hành vi mua bán người. - Quản lý và sử dụng có hiệu quả cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư, cơ sở dữ liệu về căn cước, cơ sở dữ liệu chuyên ngành, định danh điện tử, các thông tin về tàng thư, căn cước, cư trú, lý lịch tư pháp phục vụ công tác phòng, chống mua bán người. - Tăng cường tuần tra, kiểm soát tại các cửa khẩu, khu vực biên giới, hải đảo và trên biển nhằm kịp thời phát hiện, ngăn chặn hành vi mua bán người; tăng cường đấu tranh phòng, chống tội phạm mua bán người trên không gian mạng. - Trang bị các phương tiện kỹ thuật tại các cửa khẩu quốc tế phục vụ cho việc nhận dạng người và phát hiện nhanh chóng, chính xác các loại giấy tờ, tài liệu giả mạo; nâng cấp các trang thiết bị kiểm soát, kiểm tra tại các chốt kiểm soát, cửa khẩu. - Quản lý công tác cấp giấy tờ tùy thân, giấy tờ có giá trị xuất cảnh, nhập cảnh; ứng dụng công nghệ tiên tiến trong việc làm, cấp phát, quản lý và kiểm soát các loại giấy tờ tùy thân và giấy tờ có giá trị xuất cảnh, nhập cảnh. - Phối hợp với các cơ quan chức năng của nước có chung đường biên giới trong việc tuần tra, kiểm soát biên giới nhằm phòng ngừa, phát hiện, ngăn chặn hành vi mua bán người. Chung quy lại, đề xuất bảo vệ cá nhân tham gia phòng ngừa mua bán người là việc làm đúng đắn. Điều này khuyến khích sự tham gia tích cực của người dân, tăng cường sự đồng lòng xã hội và đảm bảo sự an toàn cho những người dám đứng lên đấu tranh vì chính nghĩa.
03 điểm đáng chú ý trong dự thảo Luật phòng, chống mua bán người sửa đổi
Dự thảo Luật Phòng, chống mua bán người (sửa đổi) trình Kỳ họp thứ 7 Quốc hội khóa XV. So với Luật hiện hành, dự thảo Luật Phòng, chống mua bán người (sửa đổi) có nhiều thay đổi. Bài viết này sẽ giới thiệu 03 điểm đáng chú ý trong dự thảo. Dự thảo Luật Phòng, chống mua bán người sửa đổi đang thu hút sự chú ý của dư luận bởi những điểm mới nhằm tăng cường hiệu quả công tác phòng, chống mua bán người. Việc sửa đổi này nhằm khắc phục những hạn chế trong luật hiện hành và đáp ứng yêu cầu thực tiễn trong bối cảnh tình hình tội phạm mua bán người diễn biến phức tạp. Dự thảo Luật Phòng, chống mua bán người (sửa đổi) trình Kỳ họp thứ 7 gồm 8 chương, 66 điều tăng 8 điều so với Luật Phòng, chống mua bán người năm 2011. (1) Đề xuất nâng cao chế độ hỗ trợ cho nạn nhân Về việc đối tượng và chế độ hỗ trợ, căn cứ theo Điều 35 dự thảo Luật Phòng, chống mua bán người sửa đổi quy định như sau: Người đang trong quá trình xác định là nạn nhân, nạn nhân là công dân Việt Nam, người không quốc tịch thường trú ở Việt Nam thì tùy trường hợp quy định tại các Điều 36, 37, 38, 39, 40, 41 và 42 của dự thảo được hưởng các chế độ hỗ trợ sau đây: - Hỗ trợ về nhu cầu thiết yếu và chi phí đi lại. - Hỗ trợ y tế. -Hỗ trợ tâm lý. -Trợ giúp pháp lý. - Hỗ trợ học văn hóa, học nghề. - Trợ cấp khó khăn ban đầu, hỗ trợ vay vốn. - Hỗ trợ chi phí phiên dịch. So với Luật Phòng, chống mua bán người năm 2011, dự thảo đã bổ sung hỗ trợ chi phí phiên dịch. Bên cạnh đó, thay đối tượng hỗ trợ là “nạn nhân” thành “người đang trong quá trình xác định là nạn nhân” Theo khoản 2 Điều 35 của dự thảo định nghĩa người đang trong quá trình xác định là nạn nhân được quy định như sau: - Người đang trong quá trình xác định là nạn nhân, nạn nhân là người nước ngoài bị mua bán tại Việt Nam, thì tùy trường hợp quy định tại các điều 36, 37, 38, 39 và 42 của dự thảo được hưởng các chế độ hỗ trợ quy định tại các điểm a, b, c và d, g khoản 1 Điều 35 của dự thảo -Người dưới 18 tuổi đi cùng người đang trong quá trình xác định là nạn nhân, nạn nhân, thì tùy trường hợp quy định tại các điều 36, 37, 38, 39, 40 và 42 của Luật này được hưởng chế độ hỗ trợ quy định tại các điểm a, b và c, d, đ, g khoản 1 Điều 35 dự thảo Xem cập nhật mới nhất Dự thảo Luật Phòng, chống mua bán Bài được viết theo Dự thảo Luật Phòng, chống mua bán (Dự thảo lần 02):https://cdn.thuvienphapluat.vn/uploads/danluatfile/2024/06/11/du-thao-luat-chong-mua-ban-nguoi.doc (2) Sửa đổi, bổ sung các hành vi bị nghiêm cấm Theo Điều 3 Dự thảo Luật Phòng, chống mua bán người sửa đổi quy định 08 hành vi bị nghiêm cấm như sau: - Mua bán người theo quy định của Bộ luật Hình sự. - Đe dọa, trả thù nạn nhân, người đang trong quá trình xác định là nạn nhân, người làm chứng, người tố giác, người tố cáo, người thân thích của họ hoặc người ngăn chặn hành vi quy định tại Điều 3 dự thảo. - Lợi dụng hoạt động phòng, chống mua bán người để trục lợi, thực hiện các hành vi trái pháp luật. - Cản trở việc phát hiện, báo tin, tố giác, tố cáo, ngăn chặn và xử lý hành vi mua bán người; cản trở việc tiếp nhận, bảo vệ, xác minh, hỗ trợ nạn nhân, người đang trong quá trình xác định là nạn nhân. - Kỳ thị, phân biệt đối xử với nạn nhân, người đang trong quá trình xác định là nạn nhân. - Tiết lộ thông tin về nạn nhân, người đang trong quá trình xác định là nạn nhân khi chưa có sự đồng ý của họ hoặc người đại diện hợp pháp của nạn nhân, người đang trong quá trình xác định là nạn nhân. - Giả mạo là nạn nhân. - Hành vi khác vi phạm các quy định của Luật Phòng, chống mua bán người So với Luật Phòng, chống mua bán người năm 2011, dự thảo đã sửa đổi, bổ sung từ 12 hành vi còn 8 hành vi bị nghiêm cấm. Trong đó, bổ sung hành vi cản trở việc tiếp nhận, bảo vệ, xác minh, hỗ trợ nạn nhân, người đang trong quá trình xác định là nạn nhân cũng như cấm tiết lộ thông tin của người đang trong quá trình xác định là nạn nhân (3) Tăng cường triển khai tiếp nhận, xác định nạn nhân đang ở nước ngoài So với Luật Phòng, chống mua bán người năm 2011, dự thảo đã sửa đổi, bổ sung mục tiếp nhận người trong quá trình xác định là nạn nhân, nạn nhân, xác định nạn nhân. Trong đó bổ sung quy định về việc tiếp nhận, xác định nạn nhân đang ở nước ngoài. Cụ thể tại Điều 26 dự thảo đề cập như sau: Cơ quan đại diện ngoại giao, cơ quan đại diện lãnh sự hoặc cơ quan khác được ủy quyền thực hiện chức năng lãnh sự của Việt Nam ở nước ngoài (gọi chung là cơ quan đại diện Việt Nam ở nước ngoài), khi tiếp nhận thông tin, tài liệu về người có dấu hiệu bị xâm hại bởi hành vi mua bán người, nạn nhân do cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài, tổ chức quốc tế, cơ quan chức năng của Việt Nam ở trong nước trao đổi hoặc do chính họ, người biết việc đến trình báo, thực hiện các công việc sau: - Trường hợp có thông tin cho biết người đó chưa được giải cứu thì thông báo ngay cho cơ quan có thẩm quyền của nước sở tại để phối hợp kiểm tra, xác minh và tổ chức giải cứu nếu xác định nguồn thông tin có căn cứ. - Trường hợp người đó đã được giải cứu hoặc người tự khai là nạn nhân đến trình báo tại cơ quan đại diện Việt Nam ở nước ngoài thì tiến hành kiểm tra, xác minh thông tin, thu thập tài liệu liên quan, phối hợp với cơ quan chức năng nước sở tại thực hiện hỗ trợ nhu cầu thiết yếu cho nạn nhân và cấp giấy tờ xuất nhập theo quy định. Ngay sau khi nhận được đề nghị xác minh của cơ quan đại diện Việt Nam ở nước ngoài quy định tại điểm b khoản 1 Điều 26, các cơ quan chức năng ở trong nước có trách nhiệm tổ chức xác minh, trả lời cơ quan đại diện Việt Nam ở nước ngoài và phối hợp tổ chức cấp giấy tờ cần thiết, làm thủ tục đưa những người này về nước. Như vậy, đây được xem là một điều luật mới nhằm đáp ứng công tác tiếp nhận và xác minh thông tin,danh tính nạn nhân, nâng cao hiệu quả công tác phòng, chống mà còn bảo vệ tốt hơn quyền lợi của nạn nhân. Tóm lại, so với Luật Phòng, chống mua bán người năm 2011, dự thảo mới đã có nhiều sự thay đổi, trong đó 03 điểm đáng chú ý là về việc đề xuất nâng cao chế độ hỗ trợ cho nạn nhân, sửa đổi các hành vi bị nghiêm cấm và bổ sung việc tiếp nhận, xác định nạn nhân đang ở nước ngoài. Xem cập nhật mới nhất Dự thảo Luật Phòng, chống mua bán Bài được viết theo Dự thảo Luật Phòng, chống mua bán (Dự thảo lần 02):https://cdn.thuvienphapluat.vn/uploads/danluatfile/2024/06/11/du-thao-luat-chong-mua-ban-nguoi.doc
Hồ sơ đề nghị cấp giấy phép thành lập cơ sở hỗ trợ nạn nhân mua bán người
Hồ sơ thành lập cơ sở hỗ trợ nạn nhân mua bán người bao gồm những gì? Cá nhân nước ngoài được cấp giấy phép thành lập cơ sở hỗ trợ nạn nhân mua bán người không? 1. Hồ sơ đề nghị cấp giấy phép thành lập cơ sở hỗ trợ nạn nhân mua bán người Căn cứ Điều 4 Thông tư 35/2013/TT-BLĐTBXH hướng dẫn Hồ sơ đề nghị cấp giấy phép thành lập cơ sở hỗ trợ nạn nhân theo quy định tại Điều 7 Nghị định số 09/2013/NĐ-CP 1. Đơn đề nghị cấp giấy phép thành lập cơ sở hỗ trợ nạn nhân theo mẫu quy định tại Phụ lục 1 ban hành kèm theo Thông tư này. 2. Đề án thành lập cơ sở hỗ trợ nạn nhân theo mẫu quy định tại Phụ lục 2 ban hành kèm theo Thông tư này. 3. Sơ yếu lý lịch của người dự kiến làm Giám đốc cơ sở hỗ trợ nạn nhân, có xác nhận của Ủy ban nhân dân cấp xã nơi cư trú hoặc tổ chức thành lập cơ sở theo mẫu quy định tại Phụ lục 3 kèm theo Thông tư này; danh sách nhân sự dự kiến làm việc tại cơ sở hỗ trợ nạn nhân theo mẫu quy định tại Phụ lục 4 kèm theo Thông tư này. 4. Các giấy tờ và văn bản có liên quan: - Giấy tờ hợp pháp về quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở hoặc tài sản gắn liền với đất phục vụ cho hoạt động của cơ sở hỗ trợ nạn nhân; - Ý kiến bằng văn bản của Ủy ban nhân dân cấp xã nơi cơ sở hỗ trợ nạn nhân đặt trụ sở hoạt động, trong đó nêu rõ đồng ý hay không đồng ý về việc đặt trụ sở của cơ sở hỗ trợ nạn nhân; - Các văn bằng, chứng chỉ chứng minh trình độ chuyên môn của nhân sự làm việc dự kiến tại cơ sở hỗ trợ nạn nhân. Theo đó Hồ sơ đề nghị cấp giấy phép thành lập cơ sở hỗ trợ nạn nhân mua bán người sẽ bao gồm các hồ sơ như trên. 2. Các trường hợp không cấp Giấy phép thành lập cơ sở hỗ trợ nạn nhân mua bán người Căn cứ Điều 10 Nghị định 09/2013/NĐ-CP quy định các trường hợp không cấp Giấy phép thành lập 1. Tổ chức, cá nhân nước ngoài. 2. Tổ chức cá nhân Việt Nam thuộc một trong các trường hợp sau: - Không đáp ứng đủ các điều kiện quy định tại Điều 4 Nghị định này; -) Việc thành lập cơ sở hỗ trợ nạn nhân gây phương hại đến quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội hoặc lợi dụng việc thành lập cơ sở hỗ trợ nạn nhân để thực hiện hành vi vi phạm pháp luật; - Hồ sơ không hợp lệ. Theo đó, nếu là cá nhân nước ngoài thì sẽ không được cấp giấy phép thành lập cơ sở hỗ trợ cho nạn nhân trong vụ việc mua bán người. 3. Các hành vi bị nghiêm cấm trong pháp luật phòng chống mua bán người. Căn cứ Điều 3 Luật phòng, chống mua bán người năm 2011 quy định các hành vi bị nghiêm cấm như sau: 1. Mua bán người theo quy định tại Điều 119 và Điều 120 của Bộ luật hình sự. 2. Chuyển giao hoặc tiếp nhận người để bóc lột tình dục, cưỡng bức lao động, lấy các bộ phận cơ thể hoặc vì mục đích vô nhân đạo khác. 3. Tuyển mộ, vận chuyển, chứa chấp người để bóc lột tình dục, cưỡng bức lao động, lấy các bộ phận cơ thể hoặc vì mục đích vô nhân đạo khác hoặc để thực hiện hành vi quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều này. 4. Cưỡng bức người khác thực hiện một trong các hành vi quy định tại các khoản 1, 2 và 3 Điều này. 5. Môi giới để người khác thực hiện một trong các hành vi quy định tại các khoản 1, 2 và 3 Điều này. 6. Trả thù, đe dọa trả thù nạn nhân, người làm chứng, người tố giác, người tố cáo, người thân thích của họ hoặc người ngăn chặn hành vi quy định tại Điều này. 7. Lợi dụng hoạt động phòng, chống mua bán người để trục lợi, thực hiện các hành vi trái pháp luật. 8. Cản trở việc tố giác, tố cáo, khai báo và xử lý hành vi quy định tại Điều này. 9. Kỳ thị, phân biệt đối xử với nạn nhân. 10. Tiết lộ thông tin về nạn nhân khi chưa có sự đồng ý của họ hoặc người đại diện hợp pháp của nạn nhân. 11. Giả mạo là nạn nhân. 12. Hành vi khác vi phạm các quy định của Luật này. Theo đó các hành vi như trên được xem là hành vi cấm theo Luật phòng, chống mua bán người
Bộ Công an: Kể tên những thủ đoạn buôn bán người cần cảnh giác
Theo Bộ Công an, trong quý III/2023, lực lượng Công an đã tiếp nhận, giải quyết 92 tố giác, tin báo về tội phạm và kiện nghị khởi tố liên quan đến tội phạm mua bán người; phát hiện, điều tra 85 vụ/230 đối tượng phạm tội mua bán người xác định 224 nạn nhân bị mua bán. Cụ thể, theo Trung tướng Tô Ân Xô cho biết - người phát ngôn Bộ Công an: Tội phạm mua bán người là loại tội phạm có độ ẩn cao và có khả năng xảy ra trên các địa bàn như khu vực nông thôn, miền núi, vùng sâu, vùng xa, biên giới, vùng đồng bào dân tộc ít người; trên các lĩnh vực như cho nhận con nuôi, kết hôn có yếu tố nước ngoài; đẻ thuê; cho, hiến tạng; xuất khẩu lao động, di cư (hợp pháp hoặc bất hợp pháp) ra nước ngoài lao động làm thuê, du lịch, chữa bệnh, thăm thân… Trong Quý III/2023, tình hình tội phạm mua bán người tại Việt Nam tiếp tục có nhiều diễn biến phức tạp. Để chủ động phòng tránh với tội phạm mua bán người, Bộ Công an khuyến cáo, người dân cần nâng cao cảnh giác, nhất là đối với các hành vi thủ đoạn sau: -Tội phạm mua, bán người thường dùng tên, tuổi, địa chỉ giả; thường xuyên không cung cấp hình ảnh, số điện thoại; liên lạc chủ yếu qua mạng xã hội như Zalo, Facebook… - Đối tượng không hẹn gặp trực tiếp, chủ yếu hướng dẫn, liên lạc qua điện thoại, đặc biệt là các đối tượng dùng nhiều số điện thoại khác nhau, hoặc liên lạc qua mạng xã hội. - Dụ dỗ, hứa hẹn tìm những công việc nhẹ, lương cao, lấy chồng nước ngoài để có cuộc sống giàu sang. Các đối tượng yêu cầu nạn nhân cung cấp hình ảnh thông tin, địa chỉ để tổ chức xem mặt chọn vợ. Giả danh lực lượng chức năng để đe dọa nạn nhân, không hẹn làm việc tại các cơ quan nhà nước mà hướng dẫn gặp riêng bên ngoài. - Công việc, địa điểm làm việc mà các đối tượng dụ dỗ, hứa hẹn đưa nạn nhân đến làm việc thường không có địa chỉ cụ thể… Theo đó, Bộ Công an khuyến cáo người dân cần nâng cao cảnh giác khi phát hiện các dấu hiệu tội phạm mua, bán người cần chủ động tố giác tội phạm, phối hợp đấu tranh ngăn chặn với loại tội phạm này. Cảnh giác thủ đoạn của các đối tượng mua bán người Nhằm dụ dỗ và thực hiện hành vi mua bán người, các đối tượng xấu thường sử dụng một số thủ đoạn sau đây: - Các đối tượng mua bán người thường lợi dụng khó khăn về kinh tế, sự nhẹ dạ cả tin, mất cảnh giác để lừa phụ nữ tại các tỉnh miền núi phía Bắc; lợi dụng sự phát triển của công nghệ thông tin (qua các trang mạng xã hội: Zalo, Facebook, Viber...) làm quen, giả vờ yêu đương, kết bạn nhằm môi giới hôn nhân nước ngoài trái phép; lợi dụng quy định về hiến ghép tạng, các đối tượng tìm gặp những nạn nhân khó khăn kinh tế có nhu cầu bán thận, thương lượng mua với giá rẻ, làm giả giấy tờ, con dấu, sau đó, bán cho những người bệnh với giá cao. - Các đối tượng lợi dụng sự quản lý lỏng lẻo của gia đình, nhà trường; thông qua các trang mạng xã hội như: Zalo, Facebook... tiếp cận, rủ rê, lôi kéo đi du lịch, làm thuê thu nhập cao..., lừa nhiều em gái ở các tỉnh đưa về thành phố bán cho nhà hàng, quán karaoke hoặc để tổ chức hoạt động mại dâm, cưỡng bức lao động. - Lợi dụng chính sách mở cửa của Việt Nam và nhu cầu lao động ở nước ngoài, các đối tượng mua bán người đã tổ chức nhiều vụ đưa người trái phép ra nước ngoài lao động, khi ra nước ngoài, chúng thu giữ giấy tờ tùy thân, bán để cưỡng bức lao động, quỵt tiền lương hay báo cơ quan chức năng kiểm tra, bắt giữ và trục xuất về nước hoặc dùng bạo lực khống chế đòi tiền chuộc; xuất hiện các đường dây môi giới lập tài khoản trên mạng với tên giả; dùng “tiền” làm mồi nhử, thông qua mạng lưới cò mồi đến các địa phương, nhất là miền núi, vùng sâu, vùng xa dụ dỗ, lôi kéo những người có nhu cầu xuất khẩu lao động với chi phí thấp, mức lương cao, thủ tục đơn giản, tổ chức xuất cảnh ra nước ngoài, sau đó, bán để cưỡng bức lao động. Bên cạnh đó, các đối tượng còn sử dụng mạng xã hội như: Zalo, Facebook, sử dụng hình ảnh, tên, địa chỉ giả để kết bạn làm quen với những phụ nữ, trẻ em gái, tán tỉnh yêu đương hoặc những người có nhu cầu tìm việc làm ở nước ngoài với mức lương cao, sau đó hứa hẹn rồi dẫn họ tổ chức vượt biên sang Trung Quốc, Lào, Campuchia rồi chúng đón ép bán làm vợ, bán vào các ổ mại dâm, các sòng bài tại Campuchia, Myanrma. Ngoài ra, các đối tượng lập các trang mạng trên Facebook, Zalo để tìm kiếm người mang thai, sinh con ngoài ý muốn... sau đó dụ dỗ đưa họ sang nước ngoài sinh con để bán; hoặc cũng bằng thủ đoạn trên để tìm kiếm những người bị bệnh phải ghép tạng, môi giới cho những người muốn bán tạng để thực hiện việc mua bán mô, bộ phận cơ thể. Những trường hợp có nguy cơ trở thành nạn nhân của tội phạm mua bán người Nạn nhân của tội phạm mua bán người thường tập trung ở những vùng nông thôn, nhất là vùng sâu, vùng xa, địa bàn biên giới (người dân tộc), đa phần trong số họ có hoàn cảnh kinh tế khó khăn, không có việc làm, gặp những chuyện éo le về tình cảm, thiếu hiểu biết xã hội và kỹ năng sống, nhận thức hạn chế, nhẹ dạ, cả tin hoặc một số cô gái trẻ thích hưởng thụ, ăn chơi, đua đòi, dễ tin theo lời hứa hẹn của đối tượng về việc làm ổn định, thu nhập cao hoặc lấy chồng người nước ngoài khá giả, dẫn đến bị lừa bán. Nếu không may trở thành nạn nhân của tội phạm mua bán người, nạn nhân cần làm gì? Giữ bình tĩnh, giữ thông tin bí mật không để các đối tượng nghi ngờ, tìm cách báo cho gia đình, người thân hoặc cơ quan nhà nước nơi gần nhất hoặc cơ quan nhà nước sở tại về địa điểm, địa danh của mình để được hướng dẫn, giúp đỡ giải cứu an toàn. Có thể gọi điện thoại trực tiếp đến Tổng đài quốc gia 111 để được tư vấn, hỗ trợ. Về việc tiếp nhận, xác minh, bảo vệ nạn nhân và hỗ trợ nạn nhân được quy định tại Chương IV và Chương V của Luật phòng, chống mua bán người. Xem bài viết liên quan: Mức xử phạt đối với hành vi mua bán người dưới 16 tuổi Nhận biết thủ đoạn thường sử dụng của các đối tượng mua bán người Nghi ngờ người khác mua bán người, người dân có báo Công an được không?
Đưa ra thông tin không đúng nhằm lừa dối sang Trung Quốc để kết hôn trái ý muốn thì phạm tội gì?
Cố tình đưa ra các thông tin không đúng sự thật nhằm lợi dụng lòng tin người bị hại để lừa dối đưa họ sang Trung Quốc kết hôn trái với ý muốn của họ thì phạm tội gì? Tìm hiểu nội dung của Án lệ số 66/2023/AL về việc xác định tội danh "mua bán người" (được ban hành kèm theo Quyết định 364/QĐ-CA năm 2023 công bố án lệ do Chánh án Tòa án nhân dân tối cao ban hành). Tóm tắt nội dung vụ việc: Khoảng tháng 08/2019, qua mạng xã hội Facebook, Trịnh Thị H quen người phụ nữ tên T (khoảng 30 tuổi) người ở tỉnh Bạc Liêu, hiện đang sinh sống ở Trung Quốc. T cho H biết ở tỉnh Hà Nam - Trung Quốc có nhiều người đàn ông Trung Quốc muốn lấy vợ Việt Nam, nếu ai có nhu cầu lấy chồng Trung Quốc thì giới thiệu, mỗi trường hợp đưa được người sang Trung Quốc, T sẽ trả cho H 04 vạn nhân dân tệ (khoảng 120.000.000đ). Sau khi biết được thông tin, H đăng bài vào hội nhóm “Môi giới kết hôn Trung - Hàn - Việt” trên mạng xã hội Facebook với nội dung “Hiện có rể người Trung Quốc muốn lấy vợ Việt Nam có cô dâu nào thật lòng muốn lấy chồng, tìm kiếm hạnh phúc thì liên hệ” thì H được chị Bùi Thị N sinh năm 1991, ở xã Y, huyện G, tỉnh Hải Dương cũng là thành viên trong hội nhóm “Môi giới kết hôn Trung - Hàn - Việt” nhắn tin với nội dung “N có đứa em muốn lấy chồng Trung Quốc thì giúp đỡ”, đồng thời cho số điện thoại của chị N1 để trực tiếp liên lạc, hướng dẫn N1 kết hôn với người Trung Quốc. Ngày 03/01/2020, H cùng Đặng Thị C (là mẹ nuôi H) đến nhà chị Nguyễn Thị N1, sinh năm 1991, ở xã T, huyện H, tỉnh Hải Dương trao đổi thông tin về việc kết hôn với người Trung Quốc, hướng dẫn N1 chuẩn bị các giấy tờ như: Hộ chiếu, sổ hộ khẩu, chứng minh thư nhân dân, giấy xác nhận tình trạng độc thân để làm thủ tục cấp visa nhập cảnh vào Trung Quốc. Nếu chị N1 và gia đình đồng ý sẽ nhận được tiền sính lễ 60.000.000 đồng từ nhà rể bên Trung Quốc. Tuy nhiên, ông Nguyễn Văn T1 (bố đẻ chị N1) không đồng ý nên giữ lại các giấy tờ của chị N1. Chị N1 vì vẫn muốn sang Trung Quốc kết hôn nên liên lạc với H và được H hướng dẫn đến Đặng Thị C để nói chuyện trực tiếp. Chiều ngày 03/01/2020, khi chị N1 đến nhà C, chị N1 gặp H và C, nhờ H tìm cách cho chị N1 đi sang Trung Quốc. H đã hướng dẫn chị N1 chuẩn bị căn cước công dân để H làm hộ chiếu cho N1 đi “chui” sang Trung Quốc, chị N1 đồng ý. Ngày 06/01/2020, Trịnh Thị H nhờ anh Trần Văn H1 (chồng H) đón chị N1 ở khu vực cầu vượt 789, địa phận phường A, thành phố H, tỉnh Hải Dương lên thành phố Hà Nội làm hộ chiếu cho chị N1. Đến sáng ngày 07/01/2020 H tiếp tục nhờ anh H1 thuê xe taxi đưa chị N1 lên nhà nghỉ “NN” ở thành phố LS, tỉnh Lạng Sơn. H không nói cho H1 biết mục đích việc làm hộ chiếu, thuê xe cho chị N1 đi Lạng Sơn để làm gì. Ngày 07/01/2020, H đưa cho C 4.500.000đ qua lái xe taxi (không nhớ tên, địa chỉ) để thanh toán tiền xe từ Hải Dương lên Lạng Sơn và thanh toán tiền nhà nghỉ, ăn uống của C và N1 ở nhà nghỉ “NN”, còn thừa C đổi được 300 nhân dân tệ để C và N1 chi phí trên đường đi đến tỉnh Hà Nam - Trung Quốc. Đồng thời, H liên lạc qua Zalo với anh Vi Văn N sinh năm 1987, ở phường Đ, thành phố LS là chủ nhà nghỉ “NN” nhờ xếp phòng nghỉ, thuê xe chở C, N1 đi đến tỉnh Hà Nam - Trung Quốc. Ngày 08/01/2020, Trịnh Thị H đã tổ chức cho Nguyễn Thị N1 trốn sang Trung Quốc qua đường mòn biên giới thuộc huyện L, tỉnh Lạng Sơn, C nhập cảnh vào Trung Quốc bằng hộ chiếu qua cửa khẩu Chi Ma - Lạng Sơn. Đến điểm hẹn ở Trung Quốc, C và N1 tiếp tục đi xe ô tô đến tỉnh Hà Nam - Trung Quốc gặp mặt 01 người đàn ông Trung Quốc (không rõ tên) dự kiến lấy làm chồng. Tuy nhiên khi gặp mặt chị N1 không đồng ý H bảo N1 ở lại nhà người đàn ông này chờ xem mặt rể khác, nếu không đồng ý N1 phải trả toàn bộ chi phí H đã bỏ ra để đưa N1 đi Trung Quốc. N1 đồng ý ở lại, nhưng do chờ lâu không xem mặt được người khác N1 đã đến nhà người quen ở tỉnh Quảng Tây - Trung Quốc đồng thời ra trình báo công an Trung Quốc để được về Việt Nam. Ngày 26/03/2020, Trạm Kiểm tra Biên phòng xuất nhập cảnh Đông Hưng - Quảng Tây - Trung Quốc bàn giao chị Nguyễn Thị N1 cho Đồn biên phòng cửa khẩu quốc tế Móng Cái, tỉnh Quảng Ninh. Nội dung của Án lệ: “[3] ... Như vậy H và C có động cơ, mục đích là đưa phụ nữ Việt Nam sang Trung Quốc giao cho T để T gả bán cho đàn ông Trung Quốc làm vợ và nhận tiền; H và C không có chức năng môi giới trong việc lấy chồng người nước ngoài, H và C không có ý thức đưa người trốn đi nước ngoài và trong vụ án này thì người bị hại là chị N1 được các bị cáo C, H coi như một vật trao đổi để lấy tiền. … [5] Như vậy, bị cáo H và C bằng thủ đoạn lừa nói với chị N1 rằng kết hôn với đàn ông Trung Quốc được gặp mặt chú rể, làm thủ tục kết hôn tại Việt Nam, được tiền sính lễ, cuộc sống sung sướng, được tiền gửi về gia đình...Chị N1 tưởng là thật nên đã đi theo C sang Trung Quốc và bị H, C bán lấy tiền. Bị cáo C trình bày bị cáo không được H cho biết nội dung cụ thể của việc đưa chị N1 sang Trung Quốc làm gì mà chỉ giúp H đi phiên dịch và cầm tiền về. Tuy nhiên tại các biên bản lấy lời khai, bản tự khai trong giai đoạn điều tra, C thừa nhận C và H bàn nhau đưa phụ nữ sang Trung Quốc lấy chồng để kiếm tiền và có sự phân công nhiệm vụ của từng người, việc đưa người sang Trung Quốc được 04 vạn nhân dân tệ, C và H không nói cho N1 biết; ngày 03/01/2020 ở nhà C, chị N1 bảo bố chị N1 không đồng ý nên không có đủ giấy tờ để lấy chồng Trung Quốc, H bảo chị N1 nếu không có giấy tờ thì dẫn chị N1 “đi chui” và bảo C đưa chị N1 đi thì C đồng ý, C bảo chị N1 nếu có giấy tờ sang đó sẽ tốt hơn; H2 ở Lạng Sơn là người chở chị N đi đường khác sang Trung Quốc. Tại phiên tòa, bị cáo C thừa nhận trong giai đoạn điều tra không bị ép cung, mớm cung, nhục hình, khai báo tự nguyện, đúng sự thật. Do đó, cơ cơ sở xác định giữa H và C có sự bàn bạc về việc đưa phụ nữ sang Trung Quốc bán kiếm lời, C biết chị N1 không có đủ giấy tờ hợp pháp nhưng vẫn đưa chị N1 sang Trung Quốc, giao cho người khác để nhận tiền. C trình bày trước đây làm giúp việc ở Macau nhưng chỉ ở trong nhà, không biết đường đi lối lại ở Trung Quốc nhưng vẫn nói với chị N1 rằng lấy chồng Trung Quốc sung sướng để dụ dỗ, lừa chị N1 đồng ý cho C và H đưa chị N1 đi. [6] Căn cứ vào hành vi các bị cáo đã thực hiện được mô tả như nêu trên, căn cứ vào hậu quả là chị N1 bị các bị cáo Trịnh Thị H và Đặng Thị C đưa sang Trung Quốc giao cho người đàn ông Trung Quốc để được nhận lợi ích vật chất là tiền. Tòa án cấp sơ thẩm xét xử các bị cáo về tội “Mua bán người” theo điểm d khoản 2 Điều 150 Bộ luật Hình sự và áp dụng mức hình phạt đối với các bị cáo theo khung hình phạt là phù hợp.” Như vậy, các bị cáo bằng thủ đoạn lừa dối kết hôn để làm cho người bị hại tin đó là sự thật, rồi sau đó gả bán sang Trung Quốc để lấy tiền sẽ bị xem xét truy cứu trách nhiệm hình sự về tội mua bán người theo quy định tại khoản 1 Điều 150 Bộ luật Hình sự 2015 (được sửa đổi bởi Khoản 27 Điều 1 Luật sửa đổi Bộ luật Hình sự 2017) như sau: “Điều 150. Tội mua bán người 1. Người nào dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực, lừa gạt hoặc thủ đoạn khác thực hiện một trong các hành vi sau đây, thì bị phạt tù từ 05 năm đến 10 năm: a) Chuyển giao hoặc tiếp nhận người để giao, nhận tiền, tài sản hoặc lợi ích vật chất khác; b) Chuyển giao hoặc tiếp nhận người để bóc lột tình dục, cưỡng bức lao động, lấy bộ phận cơ thể của nạn nhân hoặc vì mục đích vô nhân đạo khác; c) Tuyển mộ, vận chuyển, chứa chấp người khác để thực hiện hành vi quy định tại điểm a hoặc điểm b khoản này. ...”.
Nhận biết thủ đoạn thường sử dụng của các đối tượng mua bán người
Tính đến nửa đầu năm 2023, đã phát hiện 88 vụ buôn người, trong đó nhiều đường dây đã bị triệt phá và đưa ra xét xử trước pháp luật. Buôn người là loại hình tội phạm thường hoạt động có tổ chức, xuyên quốc gia với thủ đoạn tinh vi. Vừa qua, trong nửa đầu năm 2023, các lực lượng, trong đó trực tiếp là công an đã tiếp nhận, giải quyết nhiều đơn tố giác, tin báo tội phạm của người dân để tăng cường hiệu quả công tác phòng chống tội phạm mua bán người. Tuyến biên giới Campuchia là nơi phức tạp nhất về tình hình mua bán người trong 2 năm qua. Mới đây nhất, Bộ đội Biên phòng tỉnh Long An đã giải cứu 1 nạn nhân 18 tuổi trên đường bị nhóm đối tượng bán sang Campuchia để làm ở 1 công ty đánh bạc với giá 1.300 USD. Trước đó, 42 người Việt Nam đã bơi qua sông, khu vực tỉnh An Giang giáp Campuchia bỏ trốn về nước vào giữa tháng 8. Theo điều tra, họ đều đi theo các đường dây việc nhẹ lương cao, xuất cảnh trái phép ở khu vực biên giới các tỉnh phía Nam. Sang Campuchia làm việc tại casino do người nước ngoài quản lý. Liên tiếp nhiều đường dây với nhiều đối tượng bị bắt giữ. Theo đó, để nhận dạng những thủ đoạn của các đối tượng mua bán người, trước đó, Bộ Công an đã có hướng dẫn để phổ biến đến người dân như sau: - Những thủ đoạn đối tượng mua bán người thường sử dụng để dụ dỗ và thực hiện hành vi mua bán người: + Các đối tượng mua bán người thường lợi dụng khó khăn về kinh tế, sự nhẹ dạ cả tin, mất cảnh giác để lừa phụ nữ tại các tỉnh miền núi phía Bắc; lợi dụng sự phát triển của công nghệ thông tin (qua các trang mạng xã hội: Zalo, Facebook, Viber...) làm quen, giả vờ yêu đương, kết bạn nhằm môi giới hôn nhân nước ngoài trái phép; lợi dụng quy định về hiến ghép tạng, các đối tượng tìm gặp những nạn nhân khó khăn kinh tế có nhu cầu bán thận, thương lượng mua với giá rẻ, làm giả giấy tờ, con dấu, sau đó, bán cho những người bệnh với giá cao. + Các đối tượng lợi dụng sự quản lý lỏng lẻo của gia đình, nhà trường; thông qua các trang mạng xã hội như: Zalo, Facebook... tiếp cận, rủ rê, lôi kéo đi du lịch, làm thuê thu nhập cao..., lừa nhiều em gái ở các tỉnh đưa về thành phố bán cho nhà hàng, quán karaoke hoặc để tổ chức hoạt động mại dâm, cưỡng bức lao động. + Lợi dụng chính sách mở cửa của Việt Nam và nhu cầu lao động ở nước ngoài, các đối tượng mua bán người đã tổ chức nhiều vụ đưa người trái phép ra nước ngoài lao động, khi ra nước ngoài, chúng thu giữ giấy tờ tùy thân, bán để cưỡng bức lao động, quỵt tiền lương hay báo cơ quan chức năng kiểm tra, bắt giữ và trục xuất về nước hoặc dùng bạo lực khống chế đòi tiền chuộc; xuất hiện các đường dây môi giới lập tài khoản trên mạng với tên giả; dùng “tiền” làm mồi nhử, thông qua mạng lưới cò mồi đến các địa phương, nhất là miền núi, vùng sâu, vùng xa dụ dỗ, lôi kéo những người có nhu cầu xuất khẩu lao động với chi phí thấp, mức lương cao, thủ tục đơn giản, tổ chức xuất cảnh ra nước ngoài, sau đó, bán để cưỡng bức lao động. + Bên cạnh đó, các đối tượng còn sử dụng mạng xã hội như: Zalo, Facebook, sử dụng hình ảnh, tên, địa chỉ giả để kết bạn làm quen với những phụ nữ, trẻ em gái, tán tỉnh yêu đương hoặc những người có nhu cầu tìm việc làm ở nước ngoài với mức lương cao, sau đó hứa hẹn rồi dẫn họ tổ chức vượt biên sang Trung Quốc, Lào, Campuchia rồi chúng đón ép bán làm vợ, bán vào các ổ mại dâm, các sòng bài tại Campuchia, Myanrma. + Ngoài ra, các đối tượng lập các trang mạng trên Facebook, Zalo để tìm kiếm người mang thai, sinh con ngoài ý muốn... sau đó dụ dỗ đưa họ sang nước ngoài sinh con để bán; hoặc cũng bằng thủ đoạn trên để tìm kiếm những người bị bệnh phải ghép tạng, môi giới cho những người muốn bán tạng để thực hiện việc mua bán mô, bộ phận cơ thể. - Những trường hợp có nguy cơ trở thành nạn nhân của tội phạm mua bán người: Nạn nhân của tội phạm mua bán người thường tập trung ở những vùng nông thôn, nhất là vùng sâu, vùng xa, địa bàn biên giới (người dân tộc), đa phần trong số họ có hoàn cảnh kinh tế khó khăn, không có việc làm, gặp những chuyện éo le về tình cảm, thiếu hiểu biết xã hội và kỹ năng sống, nhận thức hạn chế, nhẹ dạ, cả tin hoặc một số cô gái trẻ thích hưởng thụ, ăn chơi, đua đòi, dễ tin theo lời hứa hẹn của đối tượng về việc làm ổn định, thu nhập cao hoặc lấy chồng người nước ngoài khá giả, dẫn đến bị lừa bán. - Nếu không may trở thành nạn nhân của tội phạm mua bán người, nạn nhân cần: Giữ bình tĩnh, giữ thông tin bí mật không để các đối tượng nghi ngờ, tìm cách báo cho gia đình, người thân hoặc cơ quan nhà nước nơi gần nhất hoặc cơ quan nhà nước sở tại về địa điểm, địa danh của mình để được hướng dẫn, giúp đỡ giải cứu an toàn. Có thể gọi điện thoại trực tiếp đến Tổng đài quốc gia 111 để được tư vấn, hỗ trợ. Về việc tiếp nhận, xác minh, bảo vệ nạn nhân và hỗ trợ nạn nhân được quy định tại Chương IV và Chương V của Luật phòng, chống mua bán người.
Nghi ngờ người khác mua bán người, người dân có báo Công an được không?
Người dân nghi ngờ về hành vi mua bán người của người khác thì cần làm những gì và có được báo Công an hay không? Đây là vấn đề người dân thắc mắc và gửi câu hỏi đến Cổng thông tin điện tử Bộ Công an cần giải đáp. Theo đó Bộ Công an có câu trả lời như sau: - Các yếu tố cấu thành tội phạm mua bán người: Theo khoản 1 Điều 150 của Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi năm 2017 quy định về tội mua bán người như sau: “Người nào dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực, lừa gạt hoặc thủ đoạn khác thực hiện một trong các hành vi sau đây, thì bị phạt tù từ 05 năm đến 10 năm: a) Chuyển giao hoặc tiếp nhận người để giao, nhận tiền, tài sản hoặc lợi ích vật chất khác; b) Chuyển giao hoặc tiếp nhận người để bóc lột tình dục, cưỡng bức lao động, lấy bộ phận cơ thể của nạn nhân hoặc vì mục đích vô nhân đạo khác; c) Tuyển mộ, vận chuyển, chứa chấp người khác để thực hiện hành vi quy định tại điểm a hoặc điểm b khoản này.” Như vậy, có thể hiểu các yếu tố cấu thành tội phạm mua bán người, gồm: Về mặt khách quan: + Các dấu hiệu về hành vi bao gồm: Hành vi chuyển giao và tiếp nhận người; các hành vi tuyển mộ, vận chuyển, chứa chấp người khác để thực hiện hành vi chuyển giao và tiếp nhận người. + Về thủ đoạn: Dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực, lừa gạt hay bằng các thủ đoạn khác như lợi dụng quyền lực, lợi dụng tình trạng quẫn bách của nạn nhân, ép nạn nhân sử dụng bia, rượu hoặc chất kích thích.... Hoặc bất kỳ thủ đoạn nào khác để thực hiện hành vi chuyển giao tiếp nhận người. + Người bị hại phải đủ từ 16 tuổi trở lên. Trong trường hợp bị hại dưới 16 tuổi thì cấu thành tội “Mua bán người dưới 16 tuổi” theo Điều 151 Bộ luật Hình sự và không nhất thiết phải chứng minh thủ đoạn. Về mặt chủ quan: + Người phạm tội thực hiện với lỗi cố ý, biết được hành vi mua bán người là vi phạm pháp luật nhưng vẫn mong muốn hậu quả xảy ra. + Mục đích phạm tội: (1) để giao, nhận tiền, tài sản hoặc lợi ích vật chất khác; (2) để bóc lột tình dục, cưỡng bức lao động; (3) để lấy bộ phận cơ thể hoặc vì mục đích vô nhân đạo khác như ép buộc đi ăn xin, ép buộc thực hiện các hành vi phạm tội, làm vật thí nghiệm, ép buộc tham gia chiến tranh... Mặt khách thể: Hành vi mua bán người xâm phạm đến quyền được bảo vệ về thân thể, tính mạng, sức khỏe và danh dự của con người (nạn nhân). Mặt chủ thể: Bất kỳ ai có đủ năng lực trách nhiệm hình sự (từ 14 tuổi trở lên đủ năng lực trách nhiệm về hành vi, nhận thức). - Nghi ngờ về hành vi mua bán người của người khác thì có được báo Công an để ngăn chặn hay không? Bộ Công an trả lời như sau: Pháp luật Việt Nam luôn khuyến khích động viên và tạo điều kiện thuận lợi cho mọi công dân được tham gia tích cực vào công tác phòng chống tội phạm nói chung và tội phạm mua bán người nói riêng. Trường hợp của người dân có ý kiến lên cổng TTĐT Bộ Công an, việc người dân phát hiện một phụ nữ gần nhà anh thường xuyên bị một người ở địa phương khác đến rủ đi lao động ở nước ngoài và anh nghi ngờ người đó đang có hành vi dụ dỗ người hàng xóm đi lao động nước ngoài để bán, anh hoàn toàn có quyền được đến cơ quan Công an hoặc các cơ quan công quyền khác của Nhà nước như Ủy ban nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân,... để trình báo, cung cấp thông tin về những nghi ngờ của mình để các cơ quan này tiến hành các hoạt động điều tra xác minh và làm rõ có hay không có hành vi phạm tội mua bán người hoặc các hành vi vi phạm pháp luật khác để kịp thời xử lý. Mặt khác, nếu có thể anh nên gặp gỡ trực tiếp chị hàng xóm nghi là nạn nhân hoặc người thân của chị để nói lên những băn khoăn nghi ngờ của mình để người hàng xóm cảnh giác, tìm hiểu kỹ trước khi quyết định đi lao động nước ngoài, không để trở thành nạn nhân của mua bán người. - Theo đó, nghi ngờ về hành vi mua bán người của người khác mà không báo Công an để ngăn chặn thì có bị coi là hành vi che giấu tội phạm hoặc không tố giác tội phạm không? Bộ Công an trả lời như sau: Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017 quy định tại: Căn cứ tại Điều 18 quy định về Che giấu tội phạm, như sau: Người nào không hứa hẹn trước, nhưng sau khi biết tội phạm được thực hiện đã che giấu người phạm tội, dấu vết, tang vật của tội phạm hoặc có hành vi khác cản trở việc phát hiện, điều tra, xử lý người phạm tội, thì phải chịu trách nhiệm hình sự về tội Che giấu tội phạm trong những trường hợp mà Bộ luật này quy định. Đồng thời, tại Điều 19 cũng quy định về Không tố giác tội phạm Người nào biết rõ tội phạm đang được chuẩn bị, đang được thực hiện hoặc đã được thực hiện mà không tố giác, thì phải chịu trách nhiệm hình sự về tội Không tố giác tội phạm quy định tại Điều 390 của Bộ luật này. Trường hợp của người dân mới chỉ là nghi ngờ về việc một người có hành vi dụ dỗ người phụ nữ hàng xóm đi lao động nước ngoài để bán, bản thân anh cũng không thể biết chính xác hành vi của người đến rủ chị hàng xóm đi lao động nước ngoài có đúng là để lừa bán hay không nên việc anh không đi trình báo Công an để ngăn chặn không bị coi là hành vi che giấu tội phạm hoặc không tố giác tội phạm. Tuy nhiên, khi phát hiện hành vi dụ dỗ, tuyển mộ người đi lao động nước ngoài nghi ngờ là để bán, anh nên đến cơ quan Công an hoặc các cơ quan chức năng khác để trình báo, cung cấp thông tin về những nghi vấn của mình như đã nêu ở phần trên để các cơ quan này tiến hành điều tra xác minh xử lý. Nguồn: Cổng TTĐT Bộ Công an
Môi giới lấy chồng nước ngoài có phải là mua bán người?
Ngày nay có thể định cư tại nước ngoài thì hình thức môi giới hôn nhân giữa người Việt Nam và người nước ngoài nở rộ lên như một phương án lách luật hiệu quả nhưng thủ tục dễ dàng và có thể đổi đời nhanh chóng. Để tìm kiếm hôn nhân theo hợp đồng này nhiều người tìm đến dịch vụ môi giới hôn nhân với chi phí cao nhằm mưu cầu. Vậy, hành vi môi giới hôn nhân có phải là mua bán người? 1. Mức phạt hành chính đối với hành vi môi giới hôn nhân nước ngoài Căn cứ Điều 39 Nghị định 82/2020/NĐ-CP hành vi vi phạm quy định về tổ chức, hoạt động của trung tâm tư vấn, hỗ trợ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài như sau: Mức 1: Phạt tiền từ 01 triệu đồng đến 03 triệu đồng đối với hành vi không thông báo cho cơ quan nhà nước có thẩm quyền khi có sự thay đổi về tên gọi, trụ sở, người đứng đầu. Mức 2: Phạt tiền từ 03 triệu đồng đến 05 triệu - Tẩy xoá, sửa chữa làm sai lệch nội dung giấy tờ, văn bản do cơ quan, tổ chức, người có thẩm quyền cấp trong hồ sơ đăng ký hoạt động hoặc thay đổi nội dung đăng ký hoạt động. - Tẩy xoá, sửa chữa làm sai lệch nội dung giấy đăng ký hoạt động. - Không thực hiện chế độ báo cáo; không lập, quản lý hoặc sử dụng không đúng sổ sách, biểu mẫu. - Không tư vấn, hỗ trợ cho người có yêu cầu tư vấn, hỗ trợ về hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài. - Không cấp giấy xác nhận của trung tâm theo yêu cầu của người được tư vấn, hỗ trợ. - Không công bố công khai mức thù lao theo quy định. Mức 3: Phạt tiền từ 05 triệu đồng đến 07 triệu đồng - Khai không đúng sự thật trong tờ khai đăng ký hoạt động. - Cung cấp giấy tờ chứng minh về trụ sở không đúng sự thật. - Thay đổi tên gọi, trụ sở, người đứng đầu hoặc nội dung đăng ký hoạt động mà không có xác nhận của cơ quan có thẩm quyền. Mức 4: Phạt tiền từ 07 triệu đồng đến 10 triệu đồng - Hoạt động trong trường hợp không còn đủ điều kiện hoạt động. - Hoạt động vượt quá phạm vi, nội dung ghi trong giấy đăng ký hoạt động. - Đòi hỏi tiền hoặc lợi ích khác ngoài thù lao theo quy định khi thực hiện tư vấn, hỗ trợ về hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài. - Không giữ bí mật các thông tin, tư liệu về đời sống riêng tư, bí mật cá nhân, bí mật gia đình của các bên theo quy định của pháp luật. Mức 5: Phạt tiền từ 10 triệu đồng đến 20 triệu đồng - Thực hiện các hoạt động tư vấn, hỗ trợ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài khi chưa có giấy đăng ký hoạt động. - Lợi dụng việc tư vấn, hỗ trợ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài nhằm mua bán người, bóc lột sức lao động, xâm phạm tình dục hoặc vì mục đích trục lợi khác. Ngoài ra, cá nhân, tổ chức vi phạm còn bị xử phạt bổ sung: - Đình chỉ hoạt động từ 01 tháng đến 03 tháng đối với hành vi vi phạm quy định tại mức 3 và mức 4. - Đình chỉ hoạt động từ 06 tháng đến 09 tháng đối với hành vi vi phạm quy lợi dụng tư vấn, hỗ trợ hôn nhân để trục lợi ở mức 5. - Tịch thu tang vật là giấy tờ, văn bản bị tẩy xoá, sửa chữa làm sai lệch nội dung đối với hành vi vi phạm quy định tại các điểm a và b khoản 2 Điều này. Đồng thời Kiến nghị cơ quan, tổ chức, người có thẩm quyền xem xét, xử lý đối với giấy tờ, văn bản đã cấp do có hành vi vi phạm; giấy tờ, văn bản bị tẩy xóa, sửa chữa làm sai lệch nội dung và buộc nộp lại số lợi bất hợp pháp có được. Lưu ý: Nếu hành vi vi phạm của cá nhân tương tự như tổ chức thì mức phạt bằng ½ số tiền trên. 2. Truy cứu hình sự tội mua bán người trái phép Trường hợp mà cá nhân có hành vi lợi dụng việc môi giới để mua bán người sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo Điều 150 Bộ luật Hình sự 2015 (sửa đổi bởi Bộ luật Hình sự 2017) với các khung hình phạt sau: Khung 1: Người nào dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực, lừa gạt hoặc thủ đoạn khác thực hiện một trong các hành vi sau đây, thì bị phạt tù từ 05 năm đến 10 năm: - Chuyển giao hoặc tiếp nhận người để giao, nhận tiền, tài sản hoặc lợi ích vật chất khác. - Chuyển giao hoặc tiếp nhận người để bóc lột tình dục, cưỡng bức lao động, lấy bộ phận cơ thể của nạn nhân hoặc vì mục đích vô nhân đạo khác. - Tuyển mộ, vận chuyển, chứa chấp người khác để thực hiện hành vi quy định tại điểm a hoặc điểm b khoản này. Khung 2: Phạt tù từ 08 năm đến 15 năm: - Có tổ chức. - Vì động cơ đê hèn. - Gây thương tích, gây tổn hại cho sức khỏe hoặc gây rối loạn tâm thần và hành vi của nạn nhân mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31% đến 60%, nếu không thuộc trường hợp quy định tại điểm b khoản 3 Điều 150 Bộ luật Hình sự 2015. - Đưa nạn nhân ra khỏi biên giới của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. - Đối với từ 02 người đến 05 người. - Phạm tội 02 lần trở lên. Khung 3: Phạt tù từ 12 năm đến 20 năm: - Có tính chất chuyên nghiệp. - Đã lấy bộ phận cơ thể của nạn nhân. - Gây thương tích, gây tổn hại cho sức khỏe hoặc gây rối loạn tâm thần và hành vi của nạn nhân mà tỷ lệ tổn thương cơ thể 61% trở lên. - Làm nạn nhân chết hoặc tự sát. - Đối với 06 người trở lên. - Tái phạm nguy hiểm. Như vậy, người nào có hành vi môi giới hôn nhân bất hợp pháp nhằm thực hiện mục đích mua bán người thì có thể bị truy tố với khung hình phạt tù cao nhất lên đến 20 năm tù.
Môi giới hôn nhân xử lý như thế nào?
Trước đây tại Điều 28 Nghị định 110/2013/NĐ-CP quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bổ trợ tư pháp, hành chính tư pháp, hôn nhân và gia đình, thi hành án dân sự, phá sản doanh nghiệp, hợp tác xã có xử phạt đối với hành vi môi giới kết hôn trái pháp luật. Tuy nhiên, tại Nghị định 82/2020/NĐ-CP quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bổ trợ tư pháp; hành chính tư pháp; hôn nhân và gia đình; thi hành án dân sự; phá sản doanh nghiệp, hợp tác xã chỉ có xử phạt đối với trung tâm tư vấn, hỗ trợ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài theo Điều 39: "Điều 39. Hành vi vi phạm quy định về tổ chức, hoạt động của trung tâm tư vấn, hỗ trợ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài ... 4. Phạt tiền từ 7.000.000 đồng đến 10.000.000 đồng đối với một trong các hành vi sau: ... c) Đòi hỏi tiền hoặc lợi ích khác ngoài thù lao theo quy định khi thực hiện tư vấn, hỗ trợ về hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài; ... 5. Phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 20.000.000 đồng đối với một trong các hành vi sau: ... b) Lợi dụng việc tư vấn, hỗ trợ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài nhằm mua bán người, bóc lột sức lao động, xâm phạm tình dục hoặc vì mục đích trục lợi khác." Hiện tại pháp luật Việt Nam mới chỉ công nhận và cấp phép cho tổ chức hoạt động trong lĩnh vực giới thiệu và tư vấn hôn nhân có yếu tố nước ngoài đó chính là Trung tâm tư vấn, hỗ trợ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài thôi. Và việc xử phạt chỉ thấy đề cập trường hợp nêu trên. Để xác định có phạm tội hay không thì phải xét có đủ 04 yếu tố cấu thành tội phạm hay không? Tại Khoản 27 Điều 1 Luật sửa đổi Bộ luật Hình sự 2017: "Điều 1. Sửa đổi, bổ sung, bãi bỏ một số điều của Bộ luật Hình sự số 100/2015/QH13 ... 27. Sửa đổi, bổ sung các khoản 1 ... Điều 150 như sau: “1. Người nào dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực, lừa gạt hoặc thủ đoạn khác thực hiện một trong các hành vi sau đây, thì bị phạt tù từ 05 năm đến 10 năm: a) Chuyển giao hoặc tiếp nhận người để giao, nhận tiền, tài sản hoặc lợi ích vật chất khác; b) Chuyển giao hoặc tiếp nhận người để bóc lột tình dục, cưỡng bức lao động, lấy bộ phận cơ thể của nạn nhân hoặc vì mục đích vô nhân đạo khác; c) Tuyển mộ, vận chuyển, chứa chấp người khác để thực hiện hành vi quy định tại điểm a hoặc điểm b khoản này." - Về yếu tố khách thể: Xâm phạm đến quyền được bảo vệ thân thể, nhân phẩm của con người. - Về yếu tố chủ thể: Bất kỳ người nào có năng lực trách nhiệm hình sự - Về yếu tố khách quan: Hành vi phải có một trong các yếu tố: “dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực, lừa gạt hoặc bằng thủ đoạn khác” - Về yếu tố chủ quan: Lỗi cố ý Hành vi môi giới hôn nhân với người nước ngoài sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự với tội mua bán người nếu thuộc một trong những trường hợp tại Điều 4 Nghị quyết 02/2019/NQ-HĐTP hướng dẫn áp dụng Điều 150 về tội mua bán người và Điều 151 về tội mua bán người dưới 16 tuổi của Bộ luật Hình sự do Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao ban hành: "Điều 4. Truy cứu trách nhiệm hình sự trong trường hợp sử dụng thủ đoạn môi giới hôn nhân với người nước ngoài 1. Người sử dụng thủ đoạn môi giới hôn nhân với người nước ngoài bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội mua bán người theo quy định tại Điều 150 của Bộ luật Hình sự nếu hành vi thuộc một trong các trường hợp sau đây: a) Cưỡng bức, đe dọa hoặc lừa gạt để buộc người khác kết hôn với người nước ngoài và chuyển giao người đó cho người nước ngoài để nhận tiền, tài sản, lợi ích vật chất khác; b) Cưỡng bức, đe dọa hoặc lừa gạt để buộc người khác kết hôn với người nước ngoài và chuyển giao người đó cho người nước ngoài bóc lột tình dục, cưỡng bức lao động, lấy bộ phận cơ thể của nạn nhân hoặc vì mục đích vô nhân đạo khác; c) Lợi dụng thủ đoạn môi giới hôn nhân với người nước ngoài để tuyển mộ, vận chuyển, chứa chấp người khác để chuyển giao cho người nước ngoài bóc lột tình dục, cưỡng bức lao động, lấy bộ phận cơ thể của nạn nhân hoặc vì mục đích vô nhân đạo khác. 2. Trường hợp người môi giới biết mục đích của người nước ngoài là thông qua hoạt động xem mặt, chọn vợ (hoặc chồng) hoặc kết hôn để đưa người được chọn ra nước ngoài bóc lột tình dục, cưỡng bức lao động, lấy bộ phận cơ thể của nạn nhân, bán cho người khác hoặc vì mục đích vô nhân đạo khác nhưng vẫn thực hiện hành vi môi giới để nhận tiền hoặc lợi ích vật chất khác của người nước ngoài thì bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội mua bán người theo quy định tại Điều 150 của Bộ luật Hình sự."
Mức xử phạt đối với hành vi mua bán người dưới 16 tuổi
Vừa qua, được biết Bộ đội Biên phòng tỉnh Cao Bằng đã phối hợp với Công an tỉnh Cao Bằng đấu tranh thành công chuyên án về hành vi mua bán người dưới 16 tuổi. Trong những năm gần đây, tình hình tội phạm mua bán người ở nước ta diễn biến rất phức tạp và có chiều hướng gia tăng. Nạn nhân không chỉ là phụ nữ, trẻ em, mà đã xuất hiện tình trạng mua bán nam giới, mua bán trẻ sơ sinh, bào thai, mua bán nội tạng, đẻ thuê.... Trong đó, có nhiều vụ mua bán trẻ sơ sinh, bào thai sang Trung Quốc; mua bán nội tạng; mua bán, đánh tráo, chiếm đoạt trẻ em. Đáng chú ý, gần 85% số vụ mua bán người ra nước ngoài, tập trung chủ yếu qua các tuyến biên giới giữa Việt Nam với Campuchia, Lào và Trung Quốc, trong đó, sang Trung Quốc chiếm 75%. Theo Công ước ASEAN về phòng chống buôn bán người, đặc biệt là phụ nữ và trẻ em năm 2004, “Buôn bán người” là việc tuyển dụng, vận chuyển, chuyển giao, chứa chấp hoặc tiếp nhận người nhằm mục đích bóc lột bằng cách sử dụng hoặc đe dọa sử dụng vũ lực hay bằng các hình thức ép buộc, bắt cóc, gian lận, lừa đảo, lạm dụng quyền lực hoặc vị thế dễ bị tổn thương hay bằng việc đưa hay nhận tiền hoặc lợi ích để đạt được sự đồng ý của người có quyền kiểm soát người khác. Hành vi bóc lột sẽ bao gồm, ở mức tối thiểu, việc bóc lột mại dâm những người khác hay những hình thức bóc lột tình dục khác, các hình thức lao động hay dịch vụ cưỡng bức, nô lệ hay những hình thức tương tự nô lệ, khổ sai hoặc việc lấy các bộ phận cơ thể. Nghiêm cấm hành vi mua bán người Trước đó, Tại Điều 4 Thông tư liên tịch 01/2013/TTLT- TANDTC-VKSNDTC-BCA-BQP-BTP (đã hết hiệu lực) hướng dẫn việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người có hành vi mua bán người; mua bán, đánh tráo hoặc chiếm đoạt trẻ em, có giải thích từ ngữ về hành vi mua bán trẻ em như sau: ““Mua bán trẻ em” là hành vi dùng tiền, tài sản hoặc lợi ích vật chất khác để trao đổi trẻ em (người dưới 16 tuổi) như một loại hàng hóa; cụ thể là một trong các hành vi sau đây: - Mua trẻ em để bán lại cho người khác, không phân biệt bán lại cho ai và mục đích của người mua sau này như thế nào; - Dùng trẻ em làm phương tiện để trao đổi, thanh toán; - Mua trẻ em để bóc lột, cưỡng bức lao động hoặc vì mục đích trái pháp luật khác.” Đồng thời, tại khoản 1 Điều 3 Luật phòng, chống mua bán người 2011 cũng quy định hành vi mua bán người theo quy định là hành vi bị nghiêm cấm. Hình phạt đối với tội mua bán người dưới dưới 16 tuổi Tại Điều 151 Bộ luật hình sự 2015 được sửa đổi bởi Khoản 28 Điều 1 Luật sửa đổi Bộ luật Hình sự 2017 có quy định về tội mua bán người dưới 16 tuổi như sau: Người nào thực hiện một trong các hành vi sau đây, thì bị phạt tù từ 07 năm đến 12 năm: - Chuyển giao hoặc tiếp nhận người dưới 16 tuổi để giao, nhận tiền, tài sản hoặc lợi ích vật chất khác, trừ trường hợp vì mục đích nhân đạo; - Chuyển giao hoặc tiếp nhận người dưới 16 tuổi để bóc lột tình dục, cưỡng bức lao động, lấy bộ phận cơ thể hoặc vì mục đích vô nhân đạo khác; - Tuyển mộ, vận chuyển, chứa chấp người dưới 16 tuổi để thực hiện hành Khung hình phạt cao nhất đối với tội này có thể lên đến 20 năm tù hoặc chung thân. Ngoài ra, người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 50-200 triệu đồng, phạt quản chế, cấm cư trú, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01-05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản. Nạn nhân bị mua bán người được hỗ trợ những gì? Tại Điều 32 Luật phòng, chống mua bán người 2011 có quy định như sau: Nạn nhân là công dân Việt Nam, người không quốc tịch thường trú ở Việt Nam, thì tùy trường hợp quy định tại các điều 33, 34, 35, 36, 37 và 38 của Luật phòng, chống mua bán người 2011 được hưởng các chế độ hỗ trợ sau đây: - Hỗ trợ về nhu cầu thiết yếu và chi phí đi lại; - Hỗ trợ y tế; - Hỗ trợ tâm lý; - Trợ giúp pháp lý; - Hỗ trợ học văn hóa, học nghề; - Trợ cấp khó khăn ban đầu, hỗ trợ vay vốn. Nạn nhân là người nước ngoài bị mua bán tại Việt Nam, thì tùy trường hợp quy định tại các điều 33, 34, 35 và 36 của Luật này được hưởng các chế độ hỗ trợ quy định tại các điểm a, b, c và d khoản 1 Điều 32. Người chưa thành niên đi cùng nạn nhân, thì tùy trường hợp quy định tại các điều 33, 34 và 35 của Luật này được hưởng chế độ hỗ trợ quy định tại các điểm a, b và c khoản 1 Điều 32. Chính phủ quy định chi tiết về các chế độ hỗ trợ; trình tự, thủ tục thực hiện chế độ hỗ trợ đối với nạn nhân. Theo đó, nạn nhân của tội phạm mua bán người sẽ được hưởng các chế độ theo quy định như trên.
CẢNH BÁO: Thủ đoạn lừa bán người qua nước ngoài để làm vợ
Vì một cuộc sống đổi đời, vì một giấc mơ nước ngoài nhiều người không ngần ngại qua nước ngoài lao động hoặc thậm chí là lấy chồng tại các nước này để được cấp visa ở lại làm việc. Hình thức này hiện nay không còn mới khi việc môi giới xuất khẩu lao động đã có từ rất lâu tại VIệt Nam. Tuy nhiên, nhiều người vẫn nhầm lẫn giữa việc môi giới và lừa đảo bán người qua nước ngoài khiến nhiều người, đặc biệt là phụ nữ để làm vợ cho người nước ngoài khiến cuộc sống như bị giam cầm tại đó. 1. Cơ quan có thẩm quyền cấp phép xuất khẩu lao động Xuất khẩu lao động hợp pháp vẫn luôn được Chính phủ khuyến khích nhằm tăng tỷ lệ ngoại hối của Việt Nam cũng như cải thiện đời sống của nhân dân và hợp tác quốc tế đối với các nước có lao động là người Việt Nam. Tuy nhiên, việc xuất khẩu lao động phải được cơ quan có thẩm quyền cấp phép theo Điều 28 Nghị định 38/2020/NĐ-CP quy định Bộ LĐTBXH có trách nhiệm lớn nhất trong xuất khẩu lao động. Ngoài ra, Điều 8 Luật Người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng 2020 có quy định doanh nghiệp hoạt động dịch vụ đưa NLĐ Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng như sau: Hoạt động dịch vụ đưa NLĐ Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng là ngành, nghề đầu tư kinh doanh có điều kiện và chỉ được thực hiện bởi doanh nghiệp Việt Nam có Giấy phép hoạt động dịch vụ đưa người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng do Bộ trưởng Bộ LĐTBXH cấp. Qua đó, cho thấy cho thấy Bộ LĐTBXH là cơ quan có thẩm quyền lớn nhất trong việc thực hiện cấp phép đưa NLĐ Việt Nam sang nước ngoài làm việc. Đối với các cá nhân thực hiện môi giới việc làm như hiện nay sẽ được xem là vi phạm pháp luật. 2. Tại sao nhiều người lại bị lừa bán sang nước ngoài Có thể thấy thực trạng hiện nay vẫn có nhiều lao động mắc bẫy vẫn vì nguyên nhân lớn nhất đến từ suy nghĩ tính chất công việc là “việc nhẹ, lương cao”. Bên cạnh đó, phần nhiều là phụ nữ và có hoàn cảnh khó khăn muốn tìm một công việc trang trải cho cuộc sống. Bên cạnh đó, lao động tại Việt Nam chưa tìm hiểu kỹ các quy định xuất khẩu lao động, trong khi làm thủ tục xuất khẩu lao động tại các doanh nghiệp được Bộ LĐTBXH cấp phép với chi phí rẻ thì việc thông qua môi giới là cá nhân phải bỏ ra một số tiền lớn để chi trả. “Nhẹ dạ, cả tin”, phản ánh lên việc đa phần các đối tượng thực hiện môi giới thực hiện thường có mối quan hệ quen biết với các nạn nhân. Qua đó, độ uy tín của đối tượng lừa đảo cũng được tin cậy hơn. Qua đó có thể tóm lại các ý chính như sau: (1) Đối tượng thực hiện lừa đảo thường là: - Là phụ nữ đang tìm kiếm việc làm. - Công nhân đang thất nghiệp. - Lao động trẻ nhưng ít được tiếp cận tin tức pháp luật. - Người có nhu cầu sang nước ngoài lao động. (2) Cách thức thực hiện - Mời chào việc làm hấp dẫn như: “việc nhẹ lương cao”, giấc mơ nước ngoài, lấy chồng nước ngoài đổi đời,... - Tiếp cận thông qua quảng cáo trên mạng xã hội, nhắn tin, gọi điện và gặp trực tiếp để tư vấn. (3) Hậu quả dẫn đến Các đối tượng lừa đảo mua bán người sang biên giới thường thực hiện với vỏ bọc là công ty xuất khẩu lao động với đường dây tinh vi. Sau khi, lừa sang biên giới sẽ giao người cho bên nước ngoài để nhận tiền hoa hồng. Lao động tại đó sẽ được đưa về nhà chồng người nước ngoài để làm việc và bị giam cầm tại đó. Sự việc này thường diễn ra tại các biên giới có giáp với Việt Nam như Campuchia hay Trung Quốc với việc thiếu phụ nữ do dân số nam cao nên đàn ông Trung Quốc thường liên hệ tìm kiếm vợ tại các nước trong khu vực có trả phí cho người môi giới. 3. Truy cứu trách nhiệm hình sự tội mua bán người Trường hợp người nào lừa đảo môi giới người sang biên giới để nhận tiền thì được xem như vi phạm tội mua bán người theo Điều 150 Bộ luật Hình sự 2015 (sửa đổi bởi Bộ luật Hình sự 2017) như sau: (1) Người nào dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực, lừa gạt hoặc thủ đoạn khác thực hiện một trong các hành vi sau đây, thì bị phạt tù từ 05 năm - 10 năm: - Chuyển giao hoặc tiếp nhận người để giao, nhận tiền, tài sản hoặc lợi ích vật chất khác. - Chuyển giao hoặc tiếp nhận người để bóc lột tình dục, cưỡng bức lao động, lấy bộ phận cơ thể của nạn nhân hoặc vì mục đích vô nhân đạo khác. - Tuyển mộ, vận chuyển, chứa chấp người khác để thực hiện các hành vi nêu trên. (2) Phạt tù từ 08 năm - 15 năm: - Có tổ chức. - Vì động cơ đê hèn. - Gây thương tích, gây tổn hại cho sức khỏe hoặc gây rối loạn tâm thần và hành vi của nạn nhân mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31% đến 60%, nếu không thuộc trường hợp đã lấy bộ phận cơ thể người tại mục (3). - Đưa nạn nhân ra khỏi biên giới của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. - Đối với từ 02 người đến 05 người. - Phạm tội 02 lần trở lên. (3) Phạt tù từ 12 năm - 20 năm: - Có tính chất chuyên nghiệp. - Đã lấy bộ phận cơ thể của nạn nhân. - Gây thương tích, gây tổn hại cho sức khỏe hoặc gây rối loạn tâm thần và hành vi của nạn nhân mà tỷ lệ tổn thương cơ thể 61% trở lên. - Làm nạn nhân chết hoặc tự sát. - Đối với 06 người trở lên. - Tái phạm nguy hiểm. Bên cạnh đó, người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 20 triệu đồng - 100 triệu đồng, phạt quản chế, cấm cư trú từ 01 năm - 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản. Như vậy, người dân cần đặc biệt chú ý các thủ đoạn lừa đảo môi giới việc làm sang biên giới hấp dẫn, đặc biệt là phụ nữ cần cẩn thận hơn trong việc mời gọi xuất khẩu lao động thì phải kiểm tra doanh nghiệp đó phải uy tín và được cấp phép bởi Bộ LĐTBXH hoặc tìm đến cơ quan việc làm tại tỉnh đó để xác nhận thông tin đó có uy tín không. Trường hợp cá nhân môi giới mà không thuộc đại diện công ty được cấp phép thì xem như phạm tội mua bán người và có thể bị truy cứu hình sự hình phạt cao nhất lên đến 20 năm tù.
Khung hình phạt tội phạm mua bán người là bao nhiêu?
Căn cứ Điều 150 Bộ luật Hình sự 2015 được sửa đổi bởi Khoản 27 Điều 1 Luật sửa đổi Bộ luật Hình sự 2017 quy định: “Điều 150. Tội mua bán người 1. Người nào dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực, lừa gạt hoặc thủ đoạn khác thực hiện một trong các hành vi sau đây, thì bị phạt tù từ 05 năm đến 10 năm: a) Chuyển giao hoặc tiếp nhận người để giao, nhận tiền, tài sản hoặc lợi ích vật chất khác; b) Chuyển giao hoặc tiếp nhận người để bóc lột tình dục, cưỡng bức lao động, lấy bộ phận cơ thể của nạn nhân hoặc vì mục đích vô nhân đạo khác; c) Tuyển mộ, vận chuyển, chứa chấp người khác để thực hiện hành vi quy định tại điểm a hoặc điểm b khoản này. 2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 08 năm đến 15 năm: a) Có tổ chức; b) Vì động cơ đê hèn; c) Gây thương tích, gây tổn hại cho sức khỏe hoặc gây rối loạn tâm thần và hành vi của nạn nhân mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31% đến 60%, nếu không thuộc trường hợp quy định tại điểm b khoản 3 Điều này; d) Đưa nạn nhân ra khỏi biên giới của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam; đ) Đối với từ 02 người đến 05 người; e) Phạm tội 02 lần trở lên. 3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 12 năm đến 20 năm: a) Có tính chất chuyên nghiệp; b) Đã lấy bộ phận cơ thể của nạn nhân; c) Gây thương tích, gây tổn hại cho sức khỏe hoặc gây rối loạn tâm thần và hành vi của nạn nhân mà tỷ lệ tổn thương cơ thể 61% trở lên; d) Làm nạn nhân chết hoặc tự sát; đ) Đối với 06 người trở lên; e) Tái phạm nguy hiểm.” => Theo đó tùy mức độ phạm tội mà có khung phạt tù từ 05 năm đến 20 năm anh nhé. Trường hợp mua bán người dưới 16 tuổi được quy định tại Điều 151 Bộ luật Hình sự 2015 được sửa đổi bởi Khoản 28 Điều 1 Luật sửa đổi Bộ luật Hình sự 2017 như sau: “Điều 151. Tội mua bán người dưới 16 tuổi 1. Người nào thực hiện một trong các hành vi sau đây, thì bị phạt tù từ 07 năm đến 12 năm: a) Chuyển giao hoặc tiếp nhận người dưới 16 tuổi để giao, nhận tiền, tài sản hoặc lợi ích vật chất khác, trừ trường hợp vì mục đích nhân đạo; b) Chuyển giao hoặc tiếp nhận người dưới 16 tuổi để bóc lột tình dục, cưỡng bức lao động, lấy bộ phận cơ thể hoặc vì mục đích vô nhân đạo khác; c) Tuyển mộ, vận chuyển, chứa chấp người dưới 16 tuổi để thực hiện hành vi quy định tại điểm a hoặc điểm b khoản này. 2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 12 năm đến 20 năm: a) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn; b) Lợi dụng hoạt động cho, nhận con nuôi để phạm tội; c) Đối với từ 02 người đến 05 người; d) Đối với người mà mình có trách nhiệm chăm sóc, nuôi dưỡng; đ) Đưa nạn nhân ra khỏi biên giới của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam; e) Phạm tội 02 lần trở lên; g) Vì động cơ đê hèn; h) Gây thương tích, gây tổn hại cho sức khỏe hoặc gây rối loạn tâm thần và hành vi của nạn nhân mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31% đến 60%, nếu không thuộc trường hợp quy định tại điểm d khoản 3 Điều này. 3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 18 năm đến 20 năm hoặc tù chung thân: a) Có tổ chức; b) Có tính chất chuyên nghiệp; c) Gây thương tích, gây tổn hại cho sức khỏe hoặc gây rối loạn tâm thần và hành vi của nạn nhân mà tỷ lệ tổn thương cơ thể 61% trở lên; d) Đã lấy bộ phận cơ thể của nạn nhân; đ) Làm nạn nhân chết hoặc tự sát; e) Đối với 06 người trở lên; g) Tái phạm nguy hiểm. 4. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 50.000.000 đồng đến 200.000.000 đồng, phạt quản chế, cấm cư trú, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản.” => Theo đó đối với trường hợp mua bán người dưới 16 tuổi thì mức khung từ 07 năm đến 20 năm tùy mức độ phạm tội.
Tội mua bán người, áp dụng theo khung hình phạt nào?
Chào mọi người, em có trường hợp này mong mọi người giúp em với. Em đang làm luận văn về chủ đề “Phạm tội có tính chất chuyên nghiệp”, trong quá trình nghiên cứu em tìm thấy một trường hợp nhưng em không biết phải áp dụng như thế nào? Mong anh chị giúp em với. Tại tội mua bán người (Điều 150 Bộ luật hình sự 2015) có quy định tại điểm e khoản 2 có quy định: “ 2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 08 năm đến 15 năm...e) Đối với từ 02 đến 05 người;” và điểm a khoản 3 quy định: “3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 12 năm đến 20 năm:...a) Có tính chất chuyên nghiệp;” Để áp dụng tình tiết phạm tội có tính chất chuyên nghiệp bắt buộc phải đáp ứng các điều kiện theo mục 5.1 Điều 5 Nghị quyết 01/2006/NQ-HĐTP “5.1. Chỉ áp dụng tình tiết "phạm tội có tính chất chuyên nghiệp" khi có đầy đủ các điều kiện sau đây: a. Cố ý phạm tội từ năm lần trở lên về cùng một tội phạm không phân biệt đã bị truy cứu trách nhiệm hình sự hay chưa bị truy cứu trách nhiệm hình sự, nếu chưa hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự hoặc chưa được xóa án tích; b. Người phạm tội đều lấy các lần phạm tội làm nghề sinh sống và lấy kết quả của việc phạm tội làm nguồn sống chính.” Quy định về tình tiết phạm tội có tính chất chuyên nghiệp có quy định về tần suất phạm tội là từ 05 lần trở lên (có thể là 05) và quy định tại điểm e khoản 2 điều 150 Bộ luật hình sự 2015 là “ từ 02 đến 05 người” (có thể là 05) và tại tội này đều đáp ứng đủ các điều kiện của phạm tội có tính chất chuyên nghiệp . Như vậy, trong trường hợp một người phạm tội mua bán người mà mua bán đúng 05 người thì sẽ áp dụng khung hình phạt nào?
Xin hỏi những văn bản pháp luật liên quan đến mua bán người?
Chào luật sư, em đang nghiên cứu về vấn đề mua bán người và mua bán người dưới 16 tuổi theo quy định tại Điều 150 và Điều 151 BLHS. Luật sư có thể hỗ trợ em tất cả những văn bản pháp luật liên quan đến vấn đề này được không ạ? Em cảm ơn luật sự
Tôi mua bán người là loại tội nghiệm trọng hay đặc biệt nghiêm trọng?
Căn cứ Điều 9 Bộ luật hình sự 2015 (Khoản 2 Điều 1 Luật sửa đổi Bộ luật Hình sự 2017) việc phân loại tội phạm phụ thuộc vào "mức cao nhất của khung hình phạt do Bộ luật này quy định đối với tội ấy". - Đối với tội mua bán người: Theo quy định tại Khoản 27 Điều 1 Luật sửa đổi Bộ luật Hình sự 2017, tội mua bán người có ba khung hình phạt. Theo đó, chị cần phải xác định lại hành vi mua bán người này bị xử lý theo khoản nào (căn cứ theo quyết định của toà án) để phân loại tội phạm. Nếu hành vi bị xử lý theo khoản 1 thì mức cao nhất của khung hình phạt là 10 năm tương ứng với loại tội phạm rất nghiêm trọng. Nếu hành vi bị xử lý theo khoản 2 thì mức cao nhất của khung hình phạt là 15 năm tương ứng với loại tội phạm rất nghiêm trọng. Nếu hành vi bị xử lý theo khoản 3 thì mức cao nhất của khung hình phạt là 20 năm tương ứng với loại tội phạm đặc biệt nghiêm trọng. - Đối với tội mua bán người dưới 16 tuổi. Cách làm tương tự như trên: Nếu hành vi bị xử lý theo khoản 1 thì tương ứng với loại tội phạm rất nghiêm trọng. Nếu hành vibị xử lý theo khoản 2, khoản 3 thì tương ứng với loại tội phạm đặc biệt nghiêm trọng.
Báo động gia tăng tội phạm mua bán người qua mạng xã hội
Vừa qua, ngày 23/8 Ủy ban Tư pháp của Quốc hội đã tổ chức Phiên giải trình về tình hình thực hiện pháp luật về phòng, chống mua bán người. Trước tình hình gia tăng của loại tội phạm này thì việc tổ chức phiên giải trình là để nắm bắt và có định hướng phòng chống tội phạm này. Một vài số liệu được đưa ra tại phiên giải trình về con số của tội phạm mua bán người diễn ra tại 63 tỉnh thành trên cả nước. Loại tội phạm này chủ yếu là mua bán người ra nước ngoài (chiếm 85% số vụ mua bán người), tập trung qua các tuyến biên giới trên đất liền giữa Việt Nam và Trung Quốc, Campuchia, Lào. Trong đó, sang Trung Quốc chiếm 75%, sang Lào và Campuchia chiếm khoảng 11%, còn lại là mua bán người sang một số nước khác như Thái Lan, Malaysia, Nga bằng đường bộ, đường không và đường biển. Trong giai đoạn 2012-2017, cơ quan điều tra đã khởi tố 1.021 vụ án, 2.035 bị can (chiếm trên 97% số tin báo, tố giác đã tiếp nhận, xử lý). Đã kết luận điều tra, chuyển VKSND các cấp đề nghị truy tố 812 vụ, 1.821 bị can. Số nạn nhân bị mua bán và nghi vấn bị mua bán là 3.090 người, trong đó chủ yếu là phụ nữ, trẻ em (chiếm trên 90%), đa số thuộc các dân tộc thiểu số (chiếm trên 80%), thường tập trung ở những vùng nông thôn, miền núi, nhất là vùng sâu, vùng xa, phần lớn có hoàn cảnh kinh tế khó khăn... Như vậy, với những con số ghi nhận cụ thể thì có thể thấy tình hình tội phạm này diễn ra hết sức phức tạp, cụ thể là tập trung tại các khu vực biên giới giữa VN với Trung Quốc, Lào và một số quốc gia khác. Đối tượng vẫn là phụ nữ và trẻ em, thuộc nhóm nạn nhân ở phái yếu nên dễ bị lợi dụng và trục lợi. Đặc điểm chung hơn thì nó vẫn diễn ra tại khu vực những nơi nông thôn, vùng sâu, vùng xa… nơi ít được tiếp cận với pháp luật và còn nhiều hạn chế. Có thể thấy, giái đoạn trước và gần đây đều vẫn khoanh vùng được các nhóm hành vi, đối tượng. Thực tế hiện nay thì nó còn mở rộng diện hành vi thông qua các kênh xã hội như facebook, zalo… nhưng kênh thông tin mà đa phần người dân tiếp cận sử dụng. Thủ đoạn gạ gẫm, làm quen và gặp mặt được diễn ra và từ đó chúng có cơ hội thực hiện hành vi của mình. Chính vì sự xâm lấn và ngày càng tinh vi, nhiều thủ đoạn nên cơ quan quản lý phải bao quát tất cả, từ thực tế tại địa phương đến các trang mạng xã hội thông tin để kịp thời phát hiện và triệt phá các đường dây có tính quy mô lớn, hoạt động núp bóng để mua bán người. Theo quy định của Bộ luật hình sự 2015 (sửa đổi 2017): Điều 1. Sửa đổi, bổ sung, bãi bỏ một số điều của Bộ luật Hình sự số 100/2015/QH13 ... 27. Sửa đổi, bổ sung các khoản 1 ... Điều 150 như sau: “1. Người nào dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực, lừa gạt hoặc thủ đoạn khác thực hiện một trong các hành vi sau đây, thì bị phạt tù từ 05 năm đến 10 năm: a) Chuyển giao hoặc tiếp nhận người để giao, nhận tiền, tài sản hoặc lợi ích vật chất khác; b) Chuyển giao hoặc tiếp nhận người để bóc lột tình dục, cưỡng bức lao động, lấy bộ phận cơ thể của nạn nhân hoặc vì mục đích vô nhân đạo khác; c) Tuyển mộ, vận chuyển, chứa chấp người khác để thực hiện hành vi quy định tại điểm a hoặc điểm b khoản này. Do đó, chế tài hành vi mua bán người đã có nhưng chưa đủ để răn đe đến loại tội phạm này, phía cơ quan chức năng cần tăng cương và đẩy mạnh công tác trấn áp loại tội phạm này. (Nguồn: tiengchuong.vn)
Đừng để vật chất làm ta trở thành nạn nhân của đường dây buôn bán người
Nắm bắt được tâm lý của nhiều cô gái Việt ở vùng dân tộc, ở quê muốn đi tìm việc làm, muốn có chồng nước ngoài để có tiền phụ giúp gia đình, muốn đổi đời. Mà một số người đã lợi dụng điều đó mà thực hiện hành vi phạm tội của mình, trá hình với hình thức muốn giúp đỡ muốn giới thiệu chỗ làm tốt, muốn mai mối với mục đích giúp đỡ. Hành vi này tưởng cũ mà vẫn mới vì vẫn còn nhiều đối tượng vẫn sụp vào cái bẫy này, mà dẫn đến những hậu quả khôn lường. Điển hình là câu chuyện: “H’N.B (trú huyện Đắk G’Long) trở về từ Trung Quốc để tố cáo những kẻ đã lừa bán mình vào “động quỷ”. Theo lời B, cuộc sống của cô và T. tại nhà chứa ở Trung Quốc chẳng khác gì địa ngục trần gian. Tại đây mỗi ngày, B. phải tiếp khách từ 17 giờ đến 2 giờ sáng hôm sau và phải phục vụ nhiều khách làng chơi, đủ mọi loại người. Toàn bộ số tiền đều bị chủ chứa lấy hết, kể cả phần khách cho riêng. “Bị vắt kiệt sức từ ngày này sang ngày khác, nên chẳng mấy chốc, chính chúng em còn không nhận ra mình trong gương nữa. Nhiều hôm bị chủ ép liên tục phục vụ khách, chúng em không lết nổi người ra khỏi giường, những lúc ấy chúng em chỉ muốn chết đi cho khỏi nhục nhã”, giọng B. nghẹn ngào. Tuy nhiên, không chỉ có cô và T. mà B. còn chứng kiến rất nhiều cô gái là người Việt cũng bị lừa bán vào đây. Bất cứ người nào khi vào đây thì đều phải chịu sự dày vò từ thể xác đến tâm hồn. Họ lúc nào cũng bị giam cầm, không được tự do đi lại. Xung quanh chỗ luôn có nhiều người đàn ông hung hãn canh giữ ngày đêm. May mắn hơn những cô gái sa chân vào động mại dâm, một số nạn nhân nữ khác bị bán cho những người đàn ông Trung Quốc để làm vợ. Những người này thường có hoàn cảnh khó khăn, khó lấy vợ trong nước nên tìm đến các mối lái để xem mặt, mua bán vợ. Chính vì thế, phần lớn những cô gái khi về nhà chồng sẽ bị giam cầm, sinh sống trong điều kiện lam lũ, khổ cực. “Người đàn ông ấy bỏ ra một số tiền không nhỏ để mua em về làm vợ, nên người ta yêu cầu em phải làm mọi công việc để “trả nợ”, bù lại số tiền đó. Thời gian đầu, em luôn có người theo dõi giám sát vì họ sợ em bỏ trốn, đến ngủ cũng phải có người bên cạnh nên cuộc sống chả khác nào bị giam lỏng”, V.T.H. (trú Đắk G’Long) nhớ lại quãng thời gian làm dâu một gia đình người Trung Quốc.” (Theo trang tin tức của ngân hàng pháp luật ngày 13/01/2018). Đó chỉ là một trong số vô vàn những trường hợp bị lừa bán sang Trung Quốc và may mắn là trốn về được nơi chôn nhau cắt rốn. Hãy cẩn thận với những chiêu thức lừa đảo của những kẻ xấu, và đừng vì đồng tiến mà bán cả cuộc đời mình, có lao động đúng đắn thì đồng tiền mới có giá trị, loại bỏ ngay suy nghĩ muốn nhàn mà có nhiều tiền. Theo như Bộ luật hình sự 2015 có quy định về tội mua bán người như sau: “ 1. Người nào dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực, lừa gạt hoặc bằng thủ tục khác thực hiện một trong các hành vi sau thì bị phạt tù từ 05 năm đến 10 năm: a) Chuyển giao hoặc tiếp nhận người để giao, nhận tiền, tài sản hoặc lợi ích vật chất khác; b) Chuyển giao hoặc tiếp nhận người để bóc lột tình dục, cưỡng bức lao động, lấy bộ phận cơ thể của nạn nhân hoặc vì mục đích vô nhân đạo khác; c) Tuyển mộ, vận chuyển, chứa chấp người khác để thực hiện hành vi quy định tại điểm a hoặc điểm b khoản này. 2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 08 năm đến 15 năm: a) Có tổ chức; b) Vì động cơ đê hèn; c) Gây rối loạn tâm thần và hành vi của nạn nhân từ 11% đến 45%; d) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của nạn nhân mà tỷ lệ tổn thương cơ thể 31% trở lên, trừ trường hợp quy định tại điểm b khoản 3 Điều này; đ) Đưa nạn nhân ra khỏi biên giới của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam; e) Đối với từ 02 đến 05 người; g) Phạm tội 02 lần trở lên. 3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau, thì bị phạt tù từ 12 năm đến 20 năm: a) Có tính chất chuyên nghiệp; b) Đã lấy bộ phận cơ thể của nạn nhân; c) Gây rối loạn tâm thần và hành vi của nạn nhân 46% trở lên; d) Làm nạn nhân chết hoặc tự sát; đ) Đối với 06 người trở lên; e) Tái phạm nguy hiểm. 4. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 20.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, phạt quản chế, cấm cư trú từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản.”
Đề xuất hỗ trợ tâm lý 3 tháng đối với nạn nhân của mua bán người
Mua bán người là những tội ác vi phạm pháp luật nghiêm trọng và luôn được nhà nước đặc biệt quan tâm. Tại Dự thảo Luật Phòng chống mua bán người, có đề xuất hỗ trợ tâm lý 3 tháng đối với nạn nhân. Cụ thể thế nào, hãy cùng tìm hiểu. 1. Đề xuất, sửa đổi nguyên tắc phòng, chống mua bán người Căn cứ Điều 4 Dự thảo Luật Phòng chống mua bán người đề xuất, sửa đổi nguyên tắc phòng, chống mua bán người như sau: - Thực hiện đồng bộ các biện pháp phòng ngừa, phát hiện, xử lý hành vi quy định tại Điều 3 của Luật này. - Giải cứu, bảo vệ, tiếp nhận, xác minh, hỗ trợ nạn nhân, người đang trong quá trình xác định là nạn nhân kịp thời, chính xác. Tôn trọng quyền, lợi ích hợp pháp và không kỳ thị, phân biệt đối xử đối với nạn nhân, người đang trong quá trình xác định là nạn nhân. - Phát huy vai trò, trách nhiệm của cá nhân, gia đình, cộng đồng, cơ quan, tổ chức trong phòng, chống mua bán người. - Ngăn chặn, phát hiện và xử lý nghiêm minh, kịp thời, chính xác hành vi quy định tại Điều 3 của Luật này. - Tuân thủ Hiến pháp, pháp luật Việt Nam, pháp luật, tập quán quốc tế; thực hiện đúng các cam kết của Việt Nam đối với các tổ chức quốc tế, thỏa thuận, điều ước quốc tế về phòng, chống mua bán người mà Việt Nam là thành viên ký kết, tham gia. - Tăng cường hợp tác quốc tế trong phòng, chống mua bán người; chủ động, tích cực tham gia các tổ chức quốc tế, thỏa thuận, điều ước quốc tế về phòng, chống mua bán người. Những nguyên tắc phòng, chống mua bán người như trên không đơn thuần chỉ là quy định pháp luật, mà còn là kim chỉ nam cho hoạt động đấu tranh bảo vệ quyền lợi con người. Là định hướng để xây dựng xã hội công bằng và an toàn hơn. 2. Đề xuất hỗ trợ tâm lý 3 tháng đối với nạn nhân của mua bán người Hiện hành, Điều 35 Luật Phòng chống mua bán người 2011 chỉ quy định chung chung rằng nạn nhân của mua bán người được hỗ trợ để ổn định tâm lý trong thời gian lưu trú tại cơ sở bảo trợ xã hội hoặc cơ sở hỗ trợ nạn nhân. Nhưng tại Điều 38 Dự thảo Luật Phòng chống mua bán người đề xuất hỗ trợ tâm lý như sau: - Người đang trong quá trình xác định là nạn nhân được hỗ trợ để ổn định tâm lý trong thời gian chờ xác định là nạn nhân. - Nạn nhân được hỗ trợ để ổn định tâm lý trong thời gian 03 tháng. - Nạn nhân được hỗ trợ để ổn định tâm lý trong thời gian lưu trú tại cơ sở bảo trợ xã hội hoặc cơ sở hỗ trợ nạn nhân. Như vậy, khoảng thời gian hỗ trợ tâm lý đối với nạn nhân của mua bán người được đề xuất 3 tháng. Ngoài ra, tại Điều 43 Dự thảo Luật còn đề xuất các cơ quan, tổ chức thực hiện việc hỗ trợ nạn nhân mua bán người quy định sau: - Cơ quan đại diện Việt Nam ở nước ngoài, Ủy ban nhân dân cấp xã đã tiếp nhận người đang trong quá trình xác định là nạn nhân, nạn nhân, cơ quan Công an, Bộ đội biên phòng, Cảnh sát biển đã giải cứu nạn nhân thực hiện hỗ trợ nhu cầu thiết yếu cho người đang trong quá trình xác định là nạn nhân, nạn nhân. - Phòng Lao động - Thương binh và Xã hội thực hiện hỗ trợ chi phí đi lại cho người đang trong quá trình xác định là nạn nhân, nạn nhân trong trường hợp họ tự trở về nơi cư trú. - Cơ sở bảo trợ xã hội, cơ sở hỗ trợ nạn nhân thực hiện hỗ trợ nhu cầu thiết yếu, hỗ trợ tâm lý, hỗ trợ y tế cho người đang trong quá trình xác định là nạn nhân, nạn nhân. - Trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước và các tổ chức tham gia trợ giúp pháp lý thực hiện trợ giúp pháp lý cho người đang trong quá trình xác định là nạn nhân, nạn nhân. - Sở Lao động - Thương binh và Xã hội thực hiện trợ cấp khó khăn ban đầu cho nạn nhân; phối hợp với Sở Y tế, Sở Giáo dục và Đào tạo thực hiện hỗ trợ y tế cho người đang trong quá trình xác định là nạn nhân, nạn nhân và hỗ trợ học văn hóa, học nghề cho nạn nhân. Chung quy lại, việc đề xuất thời gian hỗ trợ tâm lý đối với nạn nhân của mua bán người có ý nghĩa rất quan trọng trong quá trình phục hồi và tái hòa nhập xã hội của họ. Đây là một yếu tố thiết yếu để đảm bảo rằng các nạn nhân không chỉ được cứu giúp về mặt thể chất mà còn được hỗ trợ đầy đủ về mặt tinh thần, ngoài ra còn thể hiện được tính nhân đạo của pháp luật nhà nước.
Cá nhân tham gia phòng ngừa mua bán người sẽ được nhà nước bảo vệ
Vấn nạn “mua bán người” có thể xem một trong những tội ác nặng nhất của loài người. Do đó những chính sách, pháp luật về vấn đề này là cần thiết. Thật vui mừng khi tại Dự thảo mới đã đề xuất cá nhân tham gia phòng ngừa mua bán người sẽ được nhà nước bảo vệ. Cụ thể thế nào, hãy cùng tìm hiểu. 1. Chính sách của Nhà nước về phòng chống mua bán người Căn cứ Điều 5 Dự thảo Luật Phòng chống mua bán người quy định chính sách của Nhà nước về phòng, chống mua bán người như sau: - Phòng, chống mua bán người là nội dung của chiến lược quốc gia phòng, chống tội phạm và được kết hợp với việc thực hiện các chương trình khác về phát triển kinh tế - xã hội. - Khuyến khích cơ quan, tổ chức, cá nhân trong nước và ngoài nước tham gia, hợp tác, tài trợ cho hoạt động phòng, chống mua bán người và hỗ trợ nạn nhân, người đang trong quá trình xác định là nạn nhân; khuyến khích cá nhân, tổ chức trong nước thành lập cơ sở hỗ trợ nạn nhân theo quy định của pháp luật. - Khen thưởng cơ quan, tổ chức, cá nhân có thành tích trong công tác phòng, chống mua bán người; bảo đảm chế độ, chính sách đối với người tham gia phòng, chống mua bán người bị thiệt hại về tính mạng, sức khỏe hoặc tài sản theo quy định của pháp luật. - Hằng năm, Nhà nước bố trí ngân sách cho công tác phòng, chống mua bán người. Cần nói, chính sách của Nhà nước về phòng, chống mua bán người nói chung mang ý nghĩa rất quan trọng đối với sự phát triển bền vững và nhân đạo của xã hội. 2. Đề xuất bảo vệ cá nhân tham gia phòng ngừa mua bán người Hiện hành, Điều 12 Luật Phòng chống mua bán người 2011 chỉ quy định cá nhân tham gia phòng ngừa mua bán người phải thực hiện những điều: - Tham gia các hoạt động phòng ngừa mua bán người. - Kịp thời báo tin, tố giác, tố cáo hành vi quy định tại Điều 3 của Luật Phòng chống mua bán người 2011. Dựa vào tính cấp thiết của thực tiễn, khuyến khích, ủng hộ cá nhân đứng lên, bảo vệ, tham phòng ngừa mua bán người, tại Điều 12 Dự thảo Luật có bổ sung quy định cá nhân tham gia phòng ngừa mua bán người như sau: - Tham gia các hoạt động phòng ngừa mua bán người. - Kịp thời báo tin, tố giác, tố cáo hành vi quy định tại Điều 3 của Dự thảo Luật. - Được bảo vệ khi tham gia phòng, chống mua bán người theo quy định của pháp luật. - Được khen thưởng, bảo đảm chế độ, chính sách khi bị thiệt hại về tính mạng, sức khỏe và tài sản theo quy định của pháp luật. Bên cạnh đó, căn cứ Điều 9 Dự thảo Luật có quy định về quản lý về an ninh, trật tự như sau: - Quản lý thông tin cư trú thông qua công tác, đăng ký quản lý cư trú, quản lý nhân khẩu thường trú, tạm trú, lưu trú, tạm vắng trên địa bàn, nắm rõ biến động dân cư có liên quan đến hoạt động mua bán người. - Quản lý, giám sát các đối tượng có tiền án, tiền sự về mua bán người và các đối tượng khác có dấu hiệu thực hiện hành vi mua bán người. - Quản lý và sử dụng có hiệu quả cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư, cơ sở dữ liệu về căn cước, cơ sở dữ liệu chuyên ngành, định danh điện tử, các thông tin về tàng thư, căn cước, cư trú, lý lịch tư pháp phục vụ công tác phòng, chống mua bán người. - Tăng cường tuần tra, kiểm soát tại các cửa khẩu, khu vực biên giới, hải đảo và trên biển nhằm kịp thời phát hiện, ngăn chặn hành vi mua bán người; tăng cường đấu tranh phòng, chống tội phạm mua bán người trên không gian mạng. - Trang bị các phương tiện kỹ thuật tại các cửa khẩu quốc tế phục vụ cho việc nhận dạng người và phát hiện nhanh chóng, chính xác các loại giấy tờ, tài liệu giả mạo; nâng cấp các trang thiết bị kiểm soát, kiểm tra tại các chốt kiểm soát, cửa khẩu. - Quản lý công tác cấp giấy tờ tùy thân, giấy tờ có giá trị xuất cảnh, nhập cảnh; ứng dụng công nghệ tiên tiến trong việc làm, cấp phát, quản lý và kiểm soát các loại giấy tờ tùy thân và giấy tờ có giá trị xuất cảnh, nhập cảnh. - Phối hợp với các cơ quan chức năng của nước có chung đường biên giới trong việc tuần tra, kiểm soát biên giới nhằm phòng ngừa, phát hiện, ngăn chặn hành vi mua bán người. Chung quy lại, đề xuất bảo vệ cá nhân tham gia phòng ngừa mua bán người là việc làm đúng đắn. Điều này khuyến khích sự tham gia tích cực của người dân, tăng cường sự đồng lòng xã hội và đảm bảo sự an toàn cho những người dám đứng lên đấu tranh vì chính nghĩa.
03 điểm đáng chú ý trong dự thảo Luật phòng, chống mua bán người sửa đổi
Dự thảo Luật Phòng, chống mua bán người (sửa đổi) trình Kỳ họp thứ 7 Quốc hội khóa XV. So với Luật hiện hành, dự thảo Luật Phòng, chống mua bán người (sửa đổi) có nhiều thay đổi. Bài viết này sẽ giới thiệu 03 điểm đáng chú ý trong dự thảo. Dự thảo Luật Phòng, chống mua bán người sửa đổi đang thu hút sự chú ý của dư luận bởi những điểm mới nhằm tăng cường hiệu quả công tác phòng, chống mua bán người. Việc sửa đổi này nhằm khắc phục những hạn chế trong luật hiện hành và đáp ứng yêu cầu thực tiễn trong bối cảnh tình hình tội phạm mua bán người diễn biến phức tạp. Dự thảo Luật Phòng, chống mua bán người (sửa đổi) trình Kỳ họp thứ 7 gồm 8 chương, 66 điều tăng 8 điều so với Luật Phòng, chống mua bán người năm 2011. (1) Đề xuất nâng cao chế độ hỗ trợ cho nạn nhân Về việc đối tượng và chế độ hỗ trợ, căn cứ theo Điều 35 dự thảo Luật Phòng, chống mua bán người sửa đổi quy định như sau: Người đang trong quá trình xác định là nạn nhân, nạn nhân là công dân Việt Nam, người không quốc tịch thường trú ở Việt Nam thì tùy trường hợp quy định tại các Điều 36, 37, 38, 39, 40, 41 và 42 của dự thảo được hưởng các chế độ hỗ trợ sau đây: - Hỗ trợ về nhu cầu thiết yếu và chi phí đi lại. - Hỗ trợ y tế. -Hỗ trợ tâm lý. -Trợ giúp pháp lý. - Hỗ trợ học văn hóa, học nghề. - Trợ cấp khó khăn ban đầu, hỗ trợ vay vốn. - Hỗ trợ chi phí phiên dịch. So với Luật Phòng, chống mua bán người năm 2011, dự thảo đã bổ sung hỗ trợ chi phí phiên dịch. Bên cạnh đó, thay đối tượng hỗ trợ là “nạn nhân” thành “người đang trong quá trình xác định là nạn nhân” Theo khoản 2 Điều 35 của dự thảo định nghĩa người đang trong quá trình xác định là nạn nhân được quy định như sau: - Người đang trong quá trình xác định là nạn nhân, nạn nhân là người nước ngoài bị mua bán tại Việt Nam, thì tùy trường hợp quy định tại các điều 36, 37, 38, 39 và 42 của dự thảo được hưởng các chế độ hỗ trợ quy định tại các điểm a, b, c và d, g khoản 1 Điều 35 của dự thảo -Người dưới 18 tuổi đi cùng người đang trong quá trình xác định là nạn nhân, nạn nhân, thì tùy trường hợp quy định tại các điều 36, 37, 38, 39, 40 và 42 của Luật này được hưởng chế độ hỗ trợ quy định tại các điểm a, b và c, d, đ, g khoản 1 Điều 35 dự thảo Xem cập nhật mới nhất Dự thảo Luật Phòng, chống mua bán Bài được viết theo Dự thảo Luật Phòng, chống mua bán (Dự thảo lần 02):https://cdn.thuvienphapluat.vn/uploads/danluatfile/2024/06/11/du-thao-luat-chong-mua-ban-nguoi.doc (2) Sửa đổi, bổ sung các hành vi bị nghiêm cấm Theo Điều 3 Dự thảo Luật Phòng, chống mua bán người sửa đổi quy định 08 hành vi bị nghiêm cấm như sau: - Mua bán người theo quy định của Bộ luật Hình sự. - Đe dọa, trả thù nạn nhân, người đang trong quá trình xác định là nạn nhân, người làm chứng, người tố giác, người tố cáo, người thân thích của họ hoặc người ngăn chặn hành vi quy định tại Điều 3 dự thảo. - Lợi dụng hoạt động phòng, chống mua bán người để trục lợi, thực hiện các hành vi trái pháp luật. - Cản trở việc phát hiện, báo tin, tố giác, tố cáo, ngăn chặn và xử lý hành vi mua bán người; cản trở việc tiếp nhận, bảo vệ, xác minh, hỗ trợ nạn nhân, người đang trong quá trình xác định là nạn nhân. - Kỳ thị, phân biệt đối xử với nạn nhân, người đang trong quá trình xác định là nạn nhân. - Tiết lộ thông tin về nạn nhân, người đang trong quá trình xác định là nạn nhân khi chưa có sự đồng ý của họ hoặc người đại diện hợp pháp của nạn nhân, người đang trong quá trình xác định là nạn nhân. - Giả mạo là nạn nhân. - Hành vi khác vi phạm các quy định của Luật Phòng, chống mua bán người So với Luật Phòng, chống mua bán người năm 2011, dự thảo đã sửa đổi, bổ sung từ 12 hành vi còn 8 hành vi bị nghiêm cấm. Trong đó, bổ sung hành vi cản trở việc tiếp nhận, bảo vệ, xác minh, hỗ trợ nạn nhân, người đang trong quá trình xác định là nạn nhân cũng như cấm tiết lộ thông tin của người đang trong quá trình xác định là nạn nhân (3) Tăng cường triển khai tiếp nhận, xác định nạn nhân đang ở nước ngoài So với Luật Phòng, chống mua bán người năm 2011, dự thảo đã sửa đổi, bổ sung mục tiếp nhận người trong quá trình xác định là nạn nhân, nạn nhân, xác định nạn nhân. Trong đó bổ sung quy định về việc tiếp nhận, xác định nạn nhân đang ở nước ngoài. Cụ thể tại Điều 26 dự thảo đề cập như sau: Cơ quan đại diện ngoại giao, cơ quan đại diện lãnh sự hoặc cơ quan khác được ủy quyền thực hiện chức năng lãnh sự của Việt Nam ở nước ngoài (gọi chung là cơ quan đại diện Việt Nam ở nước ngoài), khi tiếp nhận thông tin, tài liệu về người có dấu hiệu bị xâm hại bởi hành vi mua bán người, nạn nhân do cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài, tổ chức quốc tế, cơ quan chức năng của Việt Nam ở trong nước trao đổi hoặc do chính họ, người biết việc đến trình báo, thực hiện các công việc sau: - Trường hợp có thông tin cho biết người đó chưa được giải cứu thì thông báo ngay cho cơ quan có thẩm quyền của nước sở tại để phối hợp kiểm tra, xác minh và tổ chức giải cứu nếu xác định nguồn thông tin có căn cứ. - Trường hợp người đó đã được giải cứu hoặc người tự khai là nạn nhân đến trình báo tại cơ quan đại diện Việt Nam ở nước ngoài thì tiến hành kiểm tra, xác minh thông tin, thu thập tài liệu liên quan, phối hợp với cơ quan chức năng nước sở tại thực hiện hỗ trợ nhu cầu thiết yếu cho nạn nhân và cấp giấy tờ xuất nhập theo quy định. Ngay sau khi nhận được đề nghị xác minh của cơ quan đại diện Việt Nam ở nước ngoài quy định tại điểm b khoản 1 Điều 26, các cơ quan chức năng ở trong nước có trách nhiệm tổ chức xác minh, trả lời cơ quan đại diện Việt Nam ở nước ngoài và phối hợp tổ chức cấp giấy tờ cần thiết, làm thủ tục đưa những người này về nước. Như vậy, đây được xem là một điều luật mới nhằm đáp ứng công tác tiếp nhận và xác minh thông tin,danh tính nạn nhân, nâng cao hiệu quả công tác phòng, chống mà còn bảo vệ tốt hơn quyền lợi của nạn nhân. Tóm lại, so với Luật Phòng, chống mua bán người năm 2011, dự thảo mới đã có nhiều sự thay đổi, trong đó 03 điểm đáng chú ý là về việc đề xuất nâng cao chế độ hỗ trợ cho nạn nhân, sửa đổi các hành vi bị nghiêm cấm và bổ sung việc tiếp nhận, xác định nạn nhân đang ở nước ngoài. Xem cập nhật mới nhất Dự thảo Luật Phòng, chống mua bán Bài được viết theo Dự thảo Luật Phòng, chống mua bán (Dự thảo lần 02):https://cdn.thuvienphapluat.vn/uploads/danluatfile/2024/06/11/du-thao-luat-chong-mua-ban-nguoi.doc
Hồ sơ đề nghị cấp giấy phép thành lập cơ sở hỗ trợ nạn nhân mua bán người
Hồ sơ thành lập cơ sở hỗ trợ nạn nhân mua bán người bao gồm những gì? Cá nhân nước ngoài được cấp giấy phép thành lập cơ sở hỗ trợ nạn nhân mua bán người không? 1. Hồ sơ đề nghị cấp giấy phép thành lập cơ sở hỗ trợ nạn nhân mua bán người Căn cứ Điều 4 Thông tư 35/2013/TT-BLĐTBXH hướng dẫn Hồ sơ đề nghị cấp giấy phép thành lập cơ sở hỗ trợ nạn nhân theo quy định tại Điều 7 Nghị định số 09/2013/NĐ-CP 1. Đơn đề nghị cấp giấy phép thành lập cơ sở hỗ trợ nạn nhân theo mẫu quy định tại Phụ lục 1 ban hành kèm theo Thông tư này. 2. Đề án thành lập cơ sở hỗ trợ nạn nhân theo mẫu quy định tại Phụ lục 2 ban hành kèm theo Thông tư này. 3. Sơ yếu lý lịch của người dự kiến làm Giám đốc cơ sở hỗ trợ nạn nhân, có xác nhận của Ủy ban nhân dân cấp xã nơi cư trú hoặc tổ chức thành lập cơ sở theo mẫu quy định tại Phụ lục 3 kèm theo Thông tư này; danh sách nhân sự dự kiến làm việc tại cơ sở hỗ trợ nạn nhân theo mẫu quy định tại Phụ lục 4 kèm theo Thông tư này. 4. Các giấy tờ và văn bản có liên quan: - Giấy tờ hợp pháp về quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở hoặc tài sản gắn liền với đất phục vụ cho hoạt động của cơ sở hỗ trợ nạn nhân; - Ý kiến bằng văn bản của Ủy ban nhân dân cấp xã nơi cơ sở hỗ trợ nạn nhân đặt trụ sở hoạt động, trong đó nêu rõ đồng ý hay không đồng ý về việc đặt trụ sở của cơ sở hỗ trợ nạn nhân; - Các văn bằng, chứng chỉ chứng minh trình độ chuyên môn của nhân sự làm việc dự kiến tại cơ sở hỗ trợ nạn nhân. Theo đó Hồ sơ đề nghị cấp giấy phép thành lập cơ sở hỗ trợ nạn nhân mua bán người sẽ bao gồm các hồ sơ như trên. 2. Các trường hợp không cấp Giấy phép thành lập cơ sở hỗ trợ nạn nhân mua bán người Căn cứ Điều 10 Nghị định 09/2013/NĐ-CP quy định các trường hợp không cấp Giấy phép thành lập 1. Tổ chức, cá nhân nước ngoài. 2. Tổ chức cá nhân Việt Nam thuộc một trong các trường hợp sau: - Không đáp ứng đủ các điều kiện quy định tại Điều 4 Nghị định này; -) Việc thành lập cơ sở hỗ trợ nạn nhân gây phương hại đến quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội hoặc lợi dụng việc thành lập cơ sở hỗ trợ nạn nhân để thực hiện hành vi vi phạm pháp luật; - Hồ sơ không hợp lệ. Theo đó, nếu là cá nhân nước ngoài thì sẽ không được cấp giấy phép thành lập cơ sở hỗ trợ cho nạn nhân trong vụ việc mua bán người. 3. Các hành vi bị nghiêm cấm trong pháp luật phòng chống mua bán người. Căn cứ Điều 3 Luật phòng, chống mua bán người năm 2011 quy định các hành vi bị nghiêm cấm như sau: 1. Mua bán người theo quy định tại Điều 119 và Điều 120 của Bộ luật hình sự. 2. Chuyển giao hoặc tiếp nhận người để bóc lột tình dục, cưỡng bức lao động, lấy các bộ phận cơ thể hoặc vì mục đích vô nhân đạo khác. 3. Tuyển mộ, vận chuyển, chứa chấp người để bóc lột tình dục, cưỡng bức lao động, lấy các bộ phận cơ thể hoặc vì mục đích vô nhân đạo khác hoặc để thực hiện hành vi quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều này. 4. Cưỡng bức người khác thực hiện một trong các hành vi quy định tại các khoản 1, 2 và 3 Điều này. 5. Môi giới để người khác thực hiện một trong các hành vi quy định tại các khoản 1, 2 và 3 Điều này. 6. Trả thù, đe dọa trả thù nạn nhân, người làm chứng, người tố giác, người tố cáo, người thân thích của họ hoặc người ngăn chặn hành vi quy định tại Điều này. 7. Lợi dụng hoạt động phòng, chống mua bán người để trục lợi, thực hiện các hành vi trái pháp luật. 8. Cản trở việc tố giác, tố cáo, khai báo và xử lý hành vi quy định tại Điều này. 9. Kỳ thị, phân biệt đối xử với nạn nhân. 10. Tiết lộ thông tin về nạn nhân khi chưa có sự đồng ý của họ hoặc người đại diện hợp pháp của nạn nhân. 11. Giả mạo là nạn nhân. 12. Hành vi khác vi phạm các quy định của Luật này. Theo đó các hành vi như trên được xem là hành vi cấm theo Luật phòng, chống mua bán người
Bộ Công an: Kể tên những thủ đoạn buôn bán người cần cảnh giác
Theo Bộ Công an, trong quý III/2023, lực lượng Công an đã tiếp nhận, giải quyết 92 tố giác, tin báo về tội phạm và kiện nghị khởi tố liên quan đến tội phạm mua bán người; phát hiện, điều tra 85 vụ/230 đối tượng phạm tội mua bán người xác định 224 nạn nhân bị mua bán. Cụ thể, theo Trung tướng Tô Ân Xô cho biết - người phát ngôn Bộ Công an: Tội phạm mua bán người là loại tội phạm có độ ẩn cao và có khả năng xảy ra trên các địa bàn như khu vực nông thôn, miền núi, vùng sâu, vùng xa, biên giới, vùng đồng bào dân tộc ít người; trên các lĩnh vực như cho nhận con nuôi, kết hôn có yếu tố nước ngoài; đẻ thuê; cho, hiến tạng; xuất khẩu lao động, di cư (hợp pháp hoặc bất hợp pháp) ra nước ngoài lao động làm thuê, du lịch, chữa bệnh, thăm thân… Trong Quý III/2023, tình hình tội phạm mua bán người tại Việt Nam tiếp tục có nhiều diễn biến phức tạp. Để chủ động phòng tránh với tội phạm mua bán người, Bộ Công an khuyến cáo, người dân cần nâng cao cảnh giác, nhất là đối với các hành vi thủ đoạn sau: -Tội phạm mua, bán người thường dùng tên, tuổi, địa chỉ giả; thường xuyên không cung cấp hình ảnh, số điện thoại; liên lạc chủ yếu qua mạng xã hội như Zalo, Facebook… - Đối tượng không hẹn gặp trực tiếp, chủ yếu hướng dẫn, liên lạc qua điện thoại, đặc biệt là các đối tượng dùng nhiều số điện thoại khác nhau, hoặc liên lạc qua mạng xã hội. - Dụ dỗ, hứa hẹn tìm những công việc nhẹ, lương cao, lấy chồng nước ngoài để có cuộc sống giàu sang. Các đối tượng yêu cầu nạn nhân cung cấp hình ảnh thông tin, địa chỉ để tổ chức xem mặt chọn vợ. Giả danh lực lượng chức năng để đe dọa nạn nhân, không hẹn làm việc tại các cơ quan nhà nước mà hướng dẫn gặp riêng bên ngoài. - Công việc, địa điểm làm việc mà các đối tượng dụ dỗ, hứa hẹn đưa nạn nhân đến làm việc thường không có địa chỉ cụ thể… Theo đó, Bộ Công an khuyến cáo người dân cần nâng cao cảnh giác khi phát hiện các dấu hiệu tội phạm mua, bán người cần chủ động tố giác tội phạm, phối hợp đấu tranh ngăn chặn với loại tội phạm này. Cảnh giác thủ đoạn của các đối tượng mua bán người Nhằm dụ dỗ và thực hiện hành vi mua bán người, các đối tượng xấu thường sử dụng một số thủ đoạn sau đây: - Các đối tượng mua bán người thường lợi dụng khó khăn về kinh tế, sự nhẹ dạ cả tin, mất cảnh giác để lừa phụ nữ tại các tỉnh miền núi phía Bắc; lợi dụng sự phát triển của công nghệ thông tin (qua các trang mạng xã hội: Zalo, Facebook, Viber...) làm quen, giả vờ yêu đương, kết bạn nhằm môi giới hôn nhân nước ngoài trái phép; lợi dụng quy định về hiến ghép tạng, các đối tượng tìm gặp những nạn nhân khó khăn kinh tế có nhu cầu bán thận, thương lượng mua với giá rẻ, làm giả giấy tờ, con dấu, sau đó, bán cho những người bệnh với giá cao. - Các đối tượng lợi dụng sự quản lý lỏng lẻo của gia đình, nhà trường; thông qua các trang mạng xã hội như: Zalo, Facebook... tiếp cận, rủ rê, lôi kéo đi du lịch, làm thuê thu nhập cao..., lừa nhiều em gái ở các tỉnh đưa về thành phố bán cho nhà hàng, quán karaoke hoặc để tổ chức hoạt động mại dâm, cưỡng bức lao động. - Lợi dụng chính sách mở cửa của Việt Nam và nhu cầu lao động ở nước ngoài, các đối tượng mua bán người đã tổ chức nhiều vụ đưa người trái phép ra nước ngoài lao động, khi ra nước ngoài, chúng thu giữ giấy tờ tùy thân, bán để cưỡng bức lao động, quỵt tiền lương hay báo cơ quan chức năng kiểm tra, bắt giữ và trục xuất về nước hoặc dùng bạo lực khống chế đòi tiền chuộc; xuất hiện các đường dây môi giới lập tài khoản trên mạng với tên giả; dùng “tiền” làm mồi nhử, thông qua mạng lưới cò mồi đến các địa phương, nhất là miền núi, vùng sâu, vùng xa dụ dỗ, lôi kéo những người có nhu cầu xuất khẩu lao động với chi phí thấp, mức lương cao, thủ tục đơn giản, tổ chức xuất cảnh ra nước ngoài, sau đó, bán để cưỡng bức lao động. Bên cạnh đó, các đối tượng còn sử dụng mạng xã hội như: Zalo, Facebook, sử dụng hình ảnh, tên, địa chỉ giả để kết bạn làm quen với những phụ nữ, trẻ em gái, tán tỉnh yêu đương hoặc những người có nhu cầu tìm việc làm ở nước ngoài với mức lương cao, sau đó hứa hẹn rồi dẫn họ tổ chức vượt biên sang Trung Quốc, Lào, Campuchia rồi chúng đón ép bán làm vợ, bán vào các ổ mại dâm, các sòng bài tại Campuchia, Myanrma. Ngoài ra, các đối tượng lập các trang mạng trên Facebook, Zalo để tìm kiếm người mang thai, sinh con ngoài ý muốn... sau đó dụ dỗ đưa họ sang nước ngoài sinh con để bán; hoặc cũng bằng thủ đoạn trên để tìm kiếm những người bị bệnh phải ghép tạng, môi giới cho những người muốn bán tạng để thực hiện việc mua bán mô, bộ phận cơ thể. Những trường hợp có nguy cơ trở thành nạn nhân của tội phạm mua bán người Nạn nhân của tội phạm mua bán người thường tập trung ở những vùng nông thôn, nhất là vùng sâu, vùng xa, địa bàn biên giới (người dân tộc), đa phần trong số họ có hoàn cảnh kinh tế khó khăn, không có việc làm, gặp những chuyện éo le về tình cảm, thiếu hiểu biết xã hội và kỹ năng sống, nhận thức hạn chế, nhẹ dạ, cả tin hoặc một số cô gái trẻ thích hưởng thụ, ăn chơi, đua đòi, dễ tin theo lời hứa hẹn của đối tượng về việc làm ổn định, thu nhập cao hoặc lấy chồng người nước ngoài khá giả, dẫn đến bị lừa bán. Nếu không may trở thành nạn nhân của tội phạm mua bán người, nạn nhân cần làm gì? Giữ bình tĩnh, giữ thông tin bí mật không để các đối tượng nghi ngờ, tìm cách báo cho gia đình, người thân hoặc cơ quan nhà nước nơi gần nhất hoặc cơ quan nhà nước sở tại về địa điểm, địa danh của mình để được hướng dẫn, giúp đỡ giải cứu an toàn. Có thể gọi điện thoại trực tiếp đến Tổng đài quốc gia 111 để được tư vấn, hỗ trợ. Về việc tiếp nhận, xác minh, bảo vệ nạn nhân và hỗ trợ nạn nhân được quy định tại Chương IV và Chương V của Luật phòng, chống mua bán người. Xem bài viết liên quan: Mức xử phạt đối với hành vi mua bán người dưới 16 tuổi Nhận biết thủ đoạn thường sử dụng của các đối tượng mua bán người Nghi ngờ người khác mua bán người, người dân có báo Công an được không?
Đưa ra thông tin không đúng nhằm lừa dối sang Trung Quốc để kết hôn trái ý muốn thì phạm tội gì?
Cố tình đưa ra các thông tin không đúng sự thật nhằm lợi dụng lòng tin người bị hại để lừa dối đưa họ sang Trung Quốc kết hôn trái với ý muốn của họ thì phạm tội gì? Tìm hiểu nội dung của Án lệ số 66/2023/AL về việc xác định tội danh "mua bán người" (được ban hành kèm theo Quyết định 364/QĐ-CA năm 2023 công bố án lệ do Chánh án Tòa án nhân dân tối cao ban hành). Tóm tắt nội dung vụ việc: Khoảng tháng 08/2019, qua mạng xã hội Facebook, Trịnh Thị H quen người phụ nữ tên T (khoảng 30 tuổi) người ở tỉnh Bạc Liêu, hiện đang sinh sống ở Trung Quốc. T cho H biết ở tỉnh Hà Nam - Trung Quốc có nhiều người đàn ông Trung Quốc muốn lấy vợ Việt Nam, nếu ai có nhu cầu lấy chồng Trung Quốc thì giới thiệu, mỗi trường hợp đưa được người sang Trung Quốc, T sẽ trả cho H 04 vạn nhân dân tệ (khoảng 120.000.000đ). Sau khi biết được thông tin, H đăng bài vào hội nhóm “Môi giới kết hôn Trung - Hàn - Việt” trên mạng xã hội Facebook với nội dung “Hiện có rể người Trung Quốc muốn lấy vợ Việt Nam có cô dâu nào thật lòng muốn lấy chồng, tìm kiếm hạnh phúc thì liên hệ” thì H được chị Bùi Thị N sinh năm 1991, ở xã Y, huyện G, tỉnh Hải Dương cũng là thành viên trong hội nhóm “Môi giới kết hôn Trung - Hàn - Việt” nhắn tin với nội dung “N có đứa em muốn lấy chồng Trung Quốc thì giúp đỡ”, đồng thời cho số điện thoại của chị N1 để trực tiếp liên lạc, hướng dẫn N1 kết hôn với người Trung Quốc. Ngày 03/01/2020, H cùng Đặng Thị C (là mẹ nuôi H) đến nhà chị Nguyễn Thị N1, sinh năm 1991, ở xã T, huyện H, tỉnh Hải Dương trao đổi thông tin về việc kết hôn với người Trung Quốc, hướng dẫn N1 chuẩn bị các giấy tờ như: Hộ chiếu, sổ hộ khẩu, chứng minh thư nhân dân, giấy xác nhận tình trạng độc thân để làm thủ tục cấp visa nhập cảnh vào Trung Quốc. Nếu chị N1 và gia đình đồng ý sẽ nhận được tiền sính lễ 60.000.000 đồng từ nhà rể bên Trung Quốc. Tuy nhiên, ông Nguyễn Văn T1 (bố đẻ chị N1) không đồng ý nên giữ lại các giấy tờ của chị N1. Chị N1 vì vẫn muốn sang Trung Quốc kết hôn nên liên lạc với H và được H hướng dẫn đến Đặng Thị C để nói chuyện trực tiếp. Chiều ngày 03/01/2020, khi chị N1 đến nhà C, chị N1 gặp H và C, nhờ H tìm cách cho chị N1 đi sang Trung Quốc. H đã hướng dẫn chị N1 chuẩn bị căn cước công dân để H làm hộ chiếu cho N1 đi “chui” sang Trung Quốc, chị N1 đồng ý. Ngày 06/01/2020, Trịnh Thị H nhờ anh Trần Văn H1 (chồng H) đón chị N1 ở khu vực cầu vượt 789, địa phận phường A, thành phố H, tỉnh Hải Dương lên thành phố Hà Nội làm hộ chiếu cho chị N1. Đến sáng ngày 07/01/2020 H tiếp tục nhờ anh H1 thuê xe taxi đưa chị N1 lên nhà nghỉ “NN” ở thành phố LS, tỉnh Lạng Sơn. H không nói cho H1 biết mục đích việc làm hộ chiếu, thuê xe cho chị N1 đi Lạng Sơn để làm gì. Ngày 07/01/2020, H đưa cho C 4.500.000đ qua lái xe taxi (không nhớ tên, địa chỉ) để thanh toán tiền xe từ Hải Dương lên Lạng Sơn và thanh toán tiền nhà nghỉ, ăn uống của C và N1 ở nhà nghỉ “NN”, còn thừa C đổi được 300 nhân dân tệ để C và N1 chi phí trên đường đi đến tỉnh Hà Nam - Trung Quốc. Đồng thời, H liên lạc qua Zalo với anh Vi Văn N sinh năm 1987, ở phường Đ, thành phố LS là chủ nhà nghỉ “NN” nhờ xếp phòng nghỉ, thuê xe chở C, N1 đi đến tỉnh Hà Nam - Trung Quốc. Ngày 08/01/2020, Trịnh Thị H đã tổ chức cho Nguyễn Thị N1 trốn sang Trung Quốc qua đường mòn biên giới thuộc huyện L, tỉnh Lạng Sơn, C nhập cảnh vào Trung Quốc bằng hộ chiếu qua cửa khẩu Chi Ma - Lạng Sơn. Đến điểm hẹn ở Trung Quốc, C và N1 tiếp tục đi xe ô tô đến tỉnh Hà Nam - Trung Quốc gặp mặt 01 người đàn ông Trung Quốc (không rõ tên) dự kiến lấy làm chồng. Tuy nhiên khi gặp mặt chị N1 không đồng ý H bảo N1 ở lại nhà người đàn ông này chờ xem mặt rể khác, nếu không đồng ý N1 phải trả toàn bộ chi phí H đã bỏ ra để đưa N1 đi Trung Quốc. N1 đồng ý ở lại, nhưng do chờ lâu không xem mặt được người khác N1 đã đến nhà người quen ở tỉnh Quảng Tây - Trung Quốc đồng thời ra trình báo công an Trung Quốc để được về Việt Nam. Ngày 26/03/2020, Trạm Kiểm tra Biên phòng xuất nhập cảnh Đông Hưng - Quảng Tây - Trung Quốc bàn giao chị Nguyễn Thị N1 cho Đồn biên phòng cửa khẩu quốc tế Móng Cái, tỉnh Quảng Ninh. Nội dung của Án lệ: “[3] ... Như vậy H và C có động cơ, mục đích là đưa phụ nữ Việt Nam sang Trung Quốc giao cho T để T gả bán cho đàn ông Trung Quốc làm vợ và nhận tiền; H và C không có chức năng môi giới trong việc lấy chồng người nước ngoài, H và C không có ý thức đưa người trốn đi nước ngoài và trong vụ án này thì người bị hại là chị N1 được các bị cáo C, H coi như một vật trao đổi để lấy tiền. … [5] Như vậy, bị cáo H và C bằng thủ đoạn lừa nói với chị N1 rằng kết hôn với đàn ông Trung Quốc được gặp mặt chú rể, làm thủ tục kết hôn tại Việt Nam, được tiền sính lễ, cuộc sống sung sướng, được tiền gửi về gia đình...Chị N1 tưởng là thật nên đã đi theo C sang Trung Quốc và bị H, C bán lấy tiền. Bị cáo C trình bày bị cáo không được H cho biết nội dung cụ thể của việc đưa chị N1 sang Trung Quốc làm gì mà chỉ giúp H đi phiên dịch và cầm tiền về. Tuy nhiên tại các biên bản lấy lời khai, bản tự khai trong giai đoạn điều tra, C thừa nhận C và H bàn nhau đưa phụ nữ sang Trung Quốc lấy chồng để kiếm tiền và có sự phân công nhiệm vụ của từng người, việc đưa người sang Trung Quốc được 04 vạn nhân dân tệ, C và H không nói cho N1 biết; ngày 03/01/2020 ở nhà C, chị N1 bảo bố chị N1 không đồng ý nên không có đủ giấy tờ để lấy chồng Trung Quốc, H bảo chị N1 nếu không có giấy tờ thì dẫn chị N1 “đi chui” và bảo C đưa chị N1 đi thì C đồng ý, C bảo chị N1 nếu có giấy tờ sang đó sẽ tốt hơn; H2 ở Lạng Sơn là người chở chị N đi đường khác sang Trung Quốc. Tại phiên tòa, bị cáo C thừa nhận trong giai đoạn điều tra không bị ép cung, mớm cung, nhục hình, khai báo tự nguyện, đúng sự thật. Do đó, cơ cơ sở xác định giữa H và C có sự bàn bạc về việc đưa phụ nữ sang Trung Quốc bán kiếm lời, C biết chị N1 không có đủ giấy tờ hợp pháp nhưng vẫn đưa chị N1 sang Trung Quốc, giao cho người khác để nhận tiền. C trình bày trước đây làm giúp việc ở Macau nhưng chỉ ở trong nhà, không biết đường đi lối lại ở Trung Quốc nhưng vẫn nói với chị N1 rằng lấy chồng Trung Quốc sung sướng để dụ dỗ, lừa chị N1 đồng ý cho C và H đưa chị N1 đi. [6] Căn cứ vào hành vi các bị cáo đã thực hiện được mô tả như nêu trên, căn cứ vào hậu quả là chị N1 bị các bị cáo Trịnh Thị H và Đặng Thị C đưa sang Trung Quốc giao cho người đàn ông Trung Quốc để được nhận lợi ích vật chất là tiền. Tòa án cấp sơ thẩm xét xử các bị cáo về tội “Mua bán người” theo điểm d khoản 2 Điều 150 Bộ luật Hình sự và áp dụng mức hình phạt đối với các bị cáo theo khung hình phạt là phù hợp.” Như vậy, các bị cáo bằng thủ đoạn lừa dối kết hôn để làm cho người bị hại tin đó là sự thật, rồi sau đó gả bán sang Trung Quốc để lấy tiền sẽ bị xem xét truy cứu trách nhiệm hình sự về tội mua bán người theo quy định tại khoản 1 Điều 150 Bộ luật Hình sự 2015 (được sửa đổi bởi Khoản 27 Điều 1 Luật sửa đổi Bộ luật Hình sự 2017) như sau: “Điều 150. Tội mua bán người 1. Người nào dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực, lừa gạt hoặc thủ đoạn khác thực hiện một trong các hành vi sau đây, thì bị phạt tù từ 05 năm đến 10 năm: a) Chuyển giao hoặc tiếp nhận người để giao, nhận tiền, tài sản hoặc lợi ích vật chất khác; b) Chuyển giao hoặc tiếp nhận người để bóc lột tình dục, cưỡng bức lao động, lấy bộ phận cơ thể của nạn nhân hoặc vì mục đích vô nhân đạo khác; c) Tuyển mộ, vận chuyển, chứa chấp người khác để thực hiện hành vi quy định tại điểm a hoặc điểm b khoản này. ...”.
Nhận biết thủ đoạn thường sử dụng của các đối tượng mua bán người
Tính đến nửa đầu năm 2023, đã phát hiện 88 vụ buôn người, trong đó nhiều đường dây đã bị triệt phá và đưa ra xét xử trước pháp luật. Buôn người là loại hình tội phạm thường hoạt động có tổ chức, xuyên quốc gia với thủ đoạn tinh vi. Vừa qua, trong nửa đầu năm 2023, các lực lượng, trong đó trực tiếp là công an đã tiếp nhận, giải quyết nhiều đơn tố giác, tin báo tội phạm của người dân để tăng cường hiệu quả công tác phòng chống tội phạm mua bán người. Tuyến biên giới Campuchia là nơi phức tạp nhất về tình hình mua bán người trong 2 năm qua. Mới đây nhất, Bộ đội Biên phòng tỉnh Long An đã giải cứu 1 nạn nhân 18 tuổi trên đường bị nhóm đối tượng bán sang Campuchia để làm ở 1 công ty đánh bạc với giá 1.300 USD. Trước đó, 42 người Việt Nam đã bơi qua sông, khu vực tỉnh An Giang giáp Campuchia bỏ trốn về nước vào giữa tháng 8. Theo điều tra, họ đều đi theo các đường dây việc nhẹ lương cao, xuất cảnh trái phép ở khu vực biên giới các tỉnh phía Nam. Sang Campuchia làm việc tại casino do người nước ngoài quản lý. Liên tiếp nhiều đường dây với nhiều đối tượng bị bắt giữ. Theo đó, để nhận dạng những thủ đoạn của các đối tượng mua bán người, trước đó, Bộ Công an đã có hướng dẫn để phổ biến đến người dân như sau: - Những thủ đoạn đối tượng mua bán người thường sử dụng để dụ dỗ và thực hiện hành vi mua bán người: + Các đối tượng mua bán người thường lợi dụng khó khăn về kinh tế, sự nhẹ dạ cả tin, mất cảnh giác để lừa phụ nữ tại các tỉnh miền núi phía Bắc; lợi dụng sự phát triển của công nghệ thông tin (qua các trang mạng xã hội: Zalo, Facebook, Viber...) làm quen, giả vờ yêu đương, kết bạn nhằm môi giới hôn nhân nước ngoài trái phép; lợi dụng quy định về hiến ghép tạng, các đối tượng tìm gặp những nạn nhân khó khăn kinh tế có nhu cầu bán thận, thương lượng mua với giá rẻ, làm giả giấy tờ, con dấu, sau đó, bán cho những người bệnh với giá cao. + Các đối tượng lợi dụng sự quản lý lỏng lẻo của gia đình, nhà trường; thông qua các trang mạng xã hội như: Zalo, Facebook... tiếp cận, rủ rê, lôi kéo đi du lịch, làm thuê thu nhập cao..., lừa nhiều em gái ở các tỉnh đưa về thành phố bán cho nhà hàng, quán karaoke hoặc để tổ chức hoạt động mại dâm, cưỡng bức lao động. + Lợi dụng chính sách mở cửa của Việt Nam và nhu cầu lao động ở nước ngoài, các đối tượng mua bán người đã tổ chức nhiều vụ đưa người trái phép ra nước ngoài lao động, khi ra nước ngoài, chúng thu giữ giấy tờ tùy thân, bán để cưỡng bức lao động, quỵt tiền lương hay báo cơ quan chức năng kiểm tra, bắt giữ và trục xuất về nước hoặc dùng bạo lực khống chế đòi tiền chuộc; xuất hiện các đường dây môi giới lập tài khoản trên mạng với tên giả; dùng “tiền” làm mồi nhử, thông qua mạng lưới cò mồi đến các địa phương, nhất là miền núi, vùng sâu, vùng xa dụ dỗ, lôi kéo những người có nhu cầu xuất khẩu lao động với chi phí thấp, mức lương cao, thủ tục đơn giản, tổ chức xuất cảnh ra nước ngoài, sau đó, bán để cưỡng bức lao động. + Bên cạnh đó, các đối tượng còn sử dụng mạng xã hội như: Zalo, Facebook, sử dụng hình ảnh, tên, địa chỉ giả để kết bạn làm quen với những phụ nữ, trẻ em gái, tán tỉnh yêu đương hoặc những người có nhu cầu tìm việc làm ở nước ngoài với mức lương cao, sau đó hứa hẹn rồi dẫn họ tổ chức vượt biên sang Trung Quốc, Lào, Campuchia rồi chúng đón ép bán làm vợ, bán vào các ổ mại dâm, các sòng bài tại Campuchia, Myanrma. + Ngoài ra, các đối tượng lập các trang mạng trên Facebook, Zalo để tìm kiếm người mang thai, sinh con ngoài ý muốn... sau đó dụ dỗ đưa họ sang nước ngoài sinh con để bán; hoặc cũng bằng thủ đoạn trên để tìm kiếm những người bị bệnh phải ghép tạng, môi giới cho những người muốn bán tạng để thực hiện việc mua bán mô, bộ phận cơ thể. - Những trường hợp có nguy cơ trở thành nạn nhân của tội phạm mua bán người: Nạn nhân của tội phạm mua bán người thường tập trung ở những vùng nông thôn, nhất là vùng sâu, vùng xa, địa bàn biên giới (người dân tộc), đa phần trong số họ có hoàn cảnh kinh tế khó khăn, không có việc làm, gặp những chuyện éo le về tình cảm, thiếu hiểu biết xã hội và kỹ năng sống, nhận thức hạn chế, nhẹ dạ, cả tin hoặc một số cô gái trẻ thích hưởng thụ, ăn chơi, đua đòi, dễ tin theo lời hứa hẹn của đối tượng về việc làm ổn định, thu nhập cao hoặc lấy chồng người nước ngoài khá giả, dẫn đến bị lừa bán. - Nếu không may trở thành nạn nhân của tội phạm mua bán người, nạn nhân cần: Giữ bình tĩnh, giữ thông tin bí mật không để các đối tượng nghi ngờ, tìm cách báo cho gia đình, người thân hoặc cơ quan nhà nước nơi gần nhất hoặc cơ quan nhà nước sở tại về địa điểm, địa danh của mình để được hướng dẫn, giúp đỡ giải cứu an toàn. Có thể gọi điện thoại trực tiếp đến Tổng đài quốc gia 111 để được tư vấn, hỗ trợ. Về việc tiếp nhận, xác minh, bảo vệ nạn nhân và hỗ trợ nạn nhân được quy định tại Chương IV và Chương V của Luật phòng, chống mua bán người.
Nghi ngờ người khác mua bán người, người dân có báo Công an được không?
Người dân nghi ngờ về hành vi mua bán người của người khác thì cần làm những gì và có được báo Công an hay không? Đây là vấn đề người dân thắc mắc và gửi câu hỏi đến Cổng thông tin điện tử Bộ Công an cần giải đáp. Theo đó Bộ Công an có câu trả lời như sau: - Các yếu tố cấu thành tội phạm mua bán người: Theo khoản 1 Điều 150 của Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi năm 2017 quy định về tội mua bán người như sau: “Người nào dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực, lừa gạt hoặc thủ đoạn khác thực hiện một trong các hành vi sau đây, thì bị phạt tù từ 05 năm đến 10 năm: a) Chuyển giao hoặc tiếp nhận người để giao, nhận tiền, tài sản hoặc lợi ích vật chất khác; b) Chuyển giao hoặc tiếp nhận người để bóc lột tình dục, cưỡng bức lao động, lấy bộ phận cơ thể của nạn nhân hoặc vì mục đích vô nhân đạo khác; c) Tuyển mộ, vận chuyển, chứa chấp người khác để thực hiện hành vi quy định tại điểm a hoặc điểm b khoản này.” Như vậy, có thể hiểu các yếu tố cấu thành tội phạm mua bán người, gồm: Về mặt khách quan: + Các dấu hiệu về hành vi bao gồm: Hành vi chuyển giao và tiếp nhận người; các hành vi tuyển mộ, vận chuyển, chứa chấp người khác để thực hiện hành vi chuyển giao và tiếp nhận người. + Về thủ đoạn: Dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực, lừa gạt hay bằng các thủ đoạn khác như lợi dụng quyền lực, lợi dụng tình trạng quẫn bách của nạn nhân, ép nạn nhân sử dụng bia, rượu hoặc chất kích thích.... Hoặc bất kỳ thủ đoạn nào khác để thực hiện hành vi chuyển giao tiếp nhận người. + Người bị hại phải đủ từ 16 tuổi trở lên. Trong trường hợp bị hại dưới 16 tuổi thì cấu thành tội “Mua bán người dưới 16 tuổi” theo Điều 151 Bộ luật Hình sự và không nhất thiết phải chứng minh thủ đoạn. Về mặt chủ quan: + Người phạm tội thực hiện với lỗi cố ý, biết được hành vi mua bán người là vi phạm pháp luật nhưng vẫn mong muốn hậu quả xảy ra. + Mục đích phạm tội: (1) để giao, nhận tiền, tài sản hoặc lợi ích vật chất khác; (2) để bóc lột tình dục, cưỡng bức lao động; (3) để lấy bộ phận cơ thể hoặc vì mục đích vô nhân đạo khác như ép buộc đi ăn xin, ép buộc thực hiện các hành vi phạm tội, làm vật thí nghiệm, ép buộc tham gia chiến tranh... Mặt khách thể: Hành vi mua bán người xâm phạm đến quyền được bảo vệ về thân thể, tính mạng, sức khỏe và danh dự của con người (nạn nhân). Mặt chủ thể: Bất kỳ ai có đủ năng lực trách nhiệm hình sự (từ 14 tuổi trở lên đủ năng lực trách nhiệm về hành vi, nhận thức). - Nghi ngờ về hành vi mua bán người của người khác thì có được báo Công an để ngăn chặn hay không? Bộ Công an trả lời như sau: Pháp luật Việt Nam luôn khuyến khích động viên và tạo điều kiện thuận lợi cho mọi công dân được tham gia tích cực vào công tác phòng chống tội phạm nói chung và tội phạm mua bán người nói riêng. Trường hợp của người dân có ý kiến lên cổng TTĐT Bộ Công an, việc người dân phát hiện một phụ nữ gần nhà anh thường xuyên bị một người ở địa phương khác đến rủ đi lao động ở nước ngoài và anh nghi ngờ người đó đang có hành vi dụ dỗ người hàng xóm đi lao động nước ngoài để bán, anh hoàn toàn có quyền được đến cơ quan Công an hoặc các cơ quan công quyền khác của Nhà nước như Ủy ban nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân,... để trình báo, cung cấp thông tin về những nghi ngờ của mình để các cơ quan này tiến hành các hoạt động điều tra xác minh và làm rõ có hay không có hành vi phạm tội mua bán người hoặc các hành vi vi phạm pháp luật khác để kịp thời xử lý. Mặt khác, nếu có thể anh nên gặp gỡ trực tiếp chị hàng xóm nghi là nạn nhân hoặc người thân của chị để nói lên những băn khoăn nghi ngờ của mình để người hàng xóm cảnh giác, tìm hiểu kỹ trước khi quyết định đi lao động nước ngoài, không để trở thành nạn nhân của mua bán người. - Theo đó, nghi ngờ về hành vi mua bán người của người khác mà không báo Công an để ngăn chặn thì có bị coi là hành vi che giấu tội phạm hoặc không tố giác tội phạm không? Bộ Công an trả lời như sau: Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017 quy định tại: Căn cứ tại Điều 18 quy định về Che giấu tội phạm, như sau: Người nào không hứa hẹn trước, nhưng sau khi biết tội phạm được thực hiện đã che giấu người phạm tội, dấu vết, tang vật của tội phạm hoặc có hành vi khác cản trở việc phát hiện, điều tra, xử lý người phạm tội, thì phải chịu trách nhiệm hình sự về tội Che giấu tội phạm trong những trường hợp mà Bộ luật này quy định. Đồng thời, tại Điều 19 cũng quy định về Không tố giác tội phạm Người nào biết rõ tội phạm đang được chuẩn bị, đang được thực hiện hoặc đã được thực hiện mà không tố giác, thì phải chịu trách nhiệm hình sự về tội Không tố giác tội phạm quy định tại Điều 390 của Bộ luật này. Trường hợp của người dân mới chỉ là nghi ngờ về việc một người có hành vi dụ dỗ người phụ nữ hàng xóm đi lao động nước ngoài để bán, bản thân anh cũng không thể biết chính xác hành vi của người đến rủ chị hàng xóm đi lao động nước ngoài có đúng là để lừa bán hay không nên việc anh không đi trình báo Công an để ngăn chặn không bị coi là hành vi che giấu tội phạm hoặc không tố giác tội phạm. Tuy nhiên, khi phát hiện hành vi dụ dỗ, tuyển mộ người đi lao động nước ngoài nghi ngờ là để bán, anh nên đến cơ quan Công an hoặc các cơ quan chức năng khác để trình báo, cung cấp thông tin về những nghi vấn của mình như đã nêu ở phần trên để các cơ quan này tiến hành điều tra xác minh xử lý. Nguồn: Cổng TTĐT Bộ Công an
Môi giới lấy chồng nước ngoài có phải là mua bán người?
Ngày nay có thể định cư tại nước ngoài thì hình thức môi giới hôn nhân giữa người Việt Nam và người nước ngoài nở rộ lên như một phương án lách luật hiệu quả nhưng thủ tục dễ dàng và có thể đổi đời nhanh chóng. Để tìm kiếm hôn nhân theo hợp đồng này nhiều người tìm đến dịch vụ môi giới hôn nhân với chi phí cao nhằm mưu cầu. Vậy, hành vi môi giới hôn nhân có phải là mua bán người? 1. Mức phạt hành chính đối với hành vi môi giới hôn nhân nước ngoài Căn cứ Điều 39 Nghị định 82/2020/NĐ-CP hành vi vi phạm quy định về tổ chức, hoạt động của trung tâm tư vấn, hỗ trợ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài như sau: Mức 1: Phạt tiền từ 01 triệu đồng đến 03 triệu đồng đối với hành vi không thông báo cho cơ quan nhà nước có thẩm quyền khi có sự thay đổi về tên gọi, trụ sở, người đứng đầu. Mức 2: Phạt tiền từ 03 triệu đồng đến 05 triệu - Tẩy xoá, sửa chữa làm sai lệch nội dung giấy tờ, văn bản do cơ quan, tổ chức, người có thẩm quyền cấp trong hồ sơ đăng ký hoạt động hoặc thay đổi nội dung đăng ký hoạt động. - Tẩy xoá, sửa chữa làm sai lệch nội dung giấy đăng ký hoạt động. - Không thực hiện chế độ báo cáo; không lập, quản lý hoặc sử dụng không đúng sổ sách, biểu mẫu. - Không tư vấn, hỗ trợ cho người có yêu cầu tư vấn, hỗ trợ về hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài. - Không cấp giấy xác nhận của trung tâm theo yêu cầu của người được tư vấn, hỗ trợ. - Không công bố công khai mức thù lao theo quy định. Mức 3: Phạt tiền từ 05 triệu đồng đến 07 triệu đồng - Khai không đúng sự thật trong tờ khai đăng ký hoạt động. - Cung cấp giấy tờ chứng minh về trụ sở không đúng sự thật. - Thay đổi tên gọi, trụ sở, người đứng đầu hoặc nội dung đăng ký hoạt động mà không có xác nhận của cơ quan có thẩm quyền. Mức 4: Phạt tiền từ 07 triệu đồng đến 10 triệu đồng - Hoạt động trong trường hợp không còn đủ điều kiện hoạt động. - Hoạt động vượt quá phạm vi, nội dung ghi trong giấy đăng ký hoạt động. - Đòi hỏi tiền hoặc lợi ích khác ngoài thù lao theo quy định khi thực hiện tư vấn, hỗ trợ về hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài. - Không giữ bí mật các thông tin, tư liệu về đời sống riêng tư, bí mật cá nhân, bí mật gia đình của các bên theo quy định của pháp luật. Mức 5: Phạt tiền từ 10 triệu đồng đến 20 triệu đồng - Thực hiện các hoạt động tư vấn, hỗ trợ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài khi chưa có giấy đăng ký hoạt động. - Lợi dụng việc tư vấn, hỗ trợ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài nhằm mua bán người, bóc lột sức lao động, xâm phạm tình dục hoặc vì mục đích trục lợi khác. Ngoài ra, cá nhân, tổ chức vi phạm còn bị xử phạt bổ sung: - Đình chỉ hoạt động từ 01 tháng đến 03 tháng đối với hành vi vi phạm quy định tại mức 3 và mức 4. - Đình chỉ hoạt động từ 06 tháng đến 09 tháng đối với hành vi vi phạm quy lợi dụng tư vấn, hỗ trợ hôn nhân để trục lợi ở mức 5. - Tịch thu tang vật là giấy tờ, văn bản bị tẩy xoá, sửa chữa làm sai lệch nội dung đối với hành vi vi phạm quy định tại các điểm a và b khoản 2 Điều này. Đồng thời Kiến nghị cơ quan, tổ chức, người có thẩm quyền xem xét, xử lý đối với giấy tờ, văn bản đã cấp do có hành vi vi phạm; giấy tờ, văn bản bị tẩy xóa, sửa chữa làm sai lệch nội dung và buộc nộp lại số lợi bất hợp pháp có được. Lưu ý: Nếu hành vi vi phạm của cá nhân tương tự như tổ chức thì mức phạt bằng ½ số tiền trên. 2. Truy cứu hình sự tội mua bán người trái phép Trường hợp mà cá nhân có hành vi lợi dụng việc môi giới để mua bán người sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo Điều 150 Bộ luật Hình sự 2015 (sửa đổi bởi Bộ luật Hình sự 2017) với các khung hình phạt sau: Khung 1: Người nào dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực, lừa gạt hoặc thủ đoạn khác thực hiện một trong các hành vi sau đây, thì bị phạt tù từ 05 năm đến 10 năm: - Chuyển giao hoặc tiếp nhận người để giao, nhận tiền, tài sản hoặc lợi ích vật chất khác. - Chuyển giao hoặc tiếp nhận người để bóc lột tình dục, cưỡng bức lao động, lấy bộ phận cơ thể của nạn nhân hoặc vì mục đích vô nhân đạo khác. - Tuyển mộ, vận chuyển, chứa chấp người khác để thực hiện hành vi quy định tại điểm a hoặc điểm b khoản này. Khung 2: Phạt tù từ 08 năm đến 15 năm: - Có tổ chức. - Vì động cơ đê hèn. - Gây thương tích, gây tổn hại cho sức khỏe hoặc gây rối loạn tâm thần và hành vi của nạn nhân mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31% đến 60%, nếu không thuộc trường hợp quy định tại điểm b khoản 3 Điều 150 Bộ luật Hình sự 2015. - Đưa nạn nhân ra khỏi biên giới của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. - Đối với từ 02 người đến 05 người. - Phạm tội 02 lần trở lên. Khung 3: Phạt tù từ 12 năm đến 20 năm: - Có tính chất chuyên nghiệp. - Đã lấy bộ phận cơ thể của nạn nhân. - Gây thương tích, gây tổn hại cho sức khỏe hoặc gây rối loạn tâm thần và hành vi của nạn nhân mà tỷ lệ tổn thương cơ thể 61% trở lên. - Làm nạn nhân chết hoặc tự sát. - Đối với 06 người trở lên. - Tái phạm nguy hiểm. Như vậy, người nào có hành vi môi giới hôn nhân bất hợp pháp nhằm thực hiện mục đích mua bán người thì có thể bị truy tố với khung hình phạt tù cao nhất lên đến 20 năm tù.
Môi giới hôn nhân xử lý như thế nào?
Trước đây tại Điều 28 Nghị định 110/2013/NĐ-CP quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bổ trợ tư pháp, hành chính tư pháp, hôn nhân và gia đình, thi hành án dân sự, phá sản doanh nghiệp, hợp tác xã có xử phạt đối với hành vi môi giới kết hôn trái pháp luật. Tuy nhiên, tại Nghị định 82/2020/NĐ-CP quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bổ trợ tư pháp; hành chính tư pháp; hôn nhân và gia đình; thi hành án dân sự; phá sản doanh nghiệp, hợp tác xã chỉ có xử phạt đối với trung tâm tư vấn, hỗ trợ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài theo Điều 39: "Điều 39. Hành vi vi phạm quy định về tổ chức, hoạt động của trung tâm tư vấn, hỗ trợ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài ... 4. Phạt tiền từ 7.000.000 đồng đến 10.000.000 đồng đối với một trong các hành vi sau: ... c) Đòi hỏi tiền hoặc lợi ích khác ngoài thù lao theo quy định khi thực hiện tư vấn, hỗ trợ về hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài; ... 5. Phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 20.000.000 đồng đối với một trong các hành vi sau: ... b) Lợi dụng việc tư vấn, hỗ trợ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài nhằm mua bán người, bóc lột sức lao động, xâm phạm tình dục hoặc vì mục đích trục lợi khác." Hiện tại pháp luật Việt Nam mới chỉ công nhận và cấp phép cho tổ chức hoạt động trong lĩnh vực giới thiệu và tư vấn hôn nhân có yếu tố nước ngoài đó chính là Trung tâm tư vấn, hỗ trợ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài thôi. Và việc xử phạt chỉ thấy đề cập trường hợp nêu trên. Để xác định có phạm tội hay không thì phải xét có đủ 04 yếu tố cấu thành tội phạm hay không? Tại Khoản 27 Điều 1 Luật sửa đổi Bộ luật Hình sự 2017: "Điều 1. Sửa đổi, bổ sung, bãi bỏ một số điều của Bộ luật Hình sự số 100/2015/QH13 ... 27. Sửa đổi, bổ sung các khoản 1 ... Điều 150 như sau: “1. Người nào dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực, lừa gạt hoặc thủ đoạn khác thực hiện một trong các hành vi sau đây, thì bị phạt tù từ 05 năm đến 10 năm: a) Chuyển giao hoặc tiếp nhận người để giao, nhận tiền, tài sản hoặc lợi ích vật chất khác; b) Chuyển giao hoặc tiếp nhận người để bóc lột tình dục, cưỡng bức lao động, lấy bộ phận cơ thể của nạn nhân hoặc vì mục đích vô nhân đạo khác; c) Tuyển mộ, vận chuyển, chứa chấp người khác để thực hiện hành vi quy định tại điểm a hoặc điểm b khoản này." - Về yếu tố khách thể: Xâm phạm đến quyền được bảo vệ thân thể, nhân phẩm của con người. - Về yếu tố chủ thể: Bất kỳ người nào có năng lực trách nhiệm hình sự - Về yếu tố khách quan: Hành vi phải có một trong các yếu tố: “dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực, lừa gạt hoặc bằng thủ đoạn khác” - Về yếu tố chủ quan: Lỗi cố ý Hành vi môi giới hôn nhân với người nước ngoài sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự với tội mua bán người nếu thuộc một trong những trường hợp tại Điều 4 Nghị quyết 02/2019/NQ-HĐTP hướng dẫn áp dụng Điều 150 về tội mua bán người và Điều 151 về tội mua bán người dưới 16 tuổi của Bộ luật Hình sự do Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao ban hành: "Điều 4. Truy cứu trách nhiệm hình sự trong trường hợp sử dụng thủ đoạn môi giới hôn nhân với người nước ngoài 1. Người sử dụng thủ đoạn môi giới hôn nhân với người nước ngoài bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội mua bán người theo quy định tại Điều 150 của Bộ luật Hình sự nếu hành vi thuộc một trong các trường hợp sau đây: a) Cưỡng bức, đe dọa hoặc lừa gạt để buộc người khác kết hôn với người nước ngoài và chuyển giao người đó cho người nước ngoài để nhận tiền, tài sản, lợi ích vật chất khác; b) Cưỡng bức, đe dọa hoặc lừa gạt để buộc người khác kết hôn với người nước ngoài và chuyển giao người đó cho người nước ngoài bóc lột tình dục, cưỡng bức lao động, lấy bộ phận cơ thể của nạn nhân hoặc vì mục đích vô nhân đạo khác; c) Lợi dụng thủ đoạn môi giới hôn nhân với người nước ngoài để tuyển mộ, vận chuyển, chứa chấp người khác để chuyển giao cho người nước ngoài bóc lột tình dục, cưỡng bức lao động, lấy bộ phận cơ thể của nạn nhân hoặc vì mục đích vô nhân đạo khác. 2. Trường hợp người môi giới biết mục đích của người nước ngoài là thông qua hoạt động xem mặt, chọn vợ (hoặc chồng) hoặc kết hôn để đưa người được chọn ra nước ngoài bóc lột tình dục, cưỡng bức lao động, lấy bộ phận cơ thể của nạn nhân, bán cho người khác hoặc vì mục đích vô nhân đạo khác nhưng vẫn thực hiện hành vi môi giới để nhận tiền hoặc lợi ích vật chất khác của người nước ngoài thì bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội mua bán người theo quy định tại Điều 150 của Bộ luật Hình sự."
Mức xử phạt đối với hành vi mua bán người dưới 16 tuổi
Vừa qua, được biết Bộ đội Biên phòng tỉnh Cao Bằng đã phối hợp với Công an tỉnh Cao Bằng đấu tranh thành công chuyên án về hành vi mua bán người dưới 16 tuổi. Trong những năm gần đây, tình hình tội phạm mua bán người ở nước ta diễn biến rất phức tạp và có chiều hướng gia tăng. Nạn nhân không chỉ là phụ nữ, trẻ em, mà đã xuất hiện tình trạng mua bán nam giới, mua bán trẻ sơ sinh, bào thai, mua bán nội tạng, đẻ thuê.... Trong đó, có nhiều vụ mua bán trẻ sơ sinh, bào thai sang Trung Quốc; mua bán nội tạng; mua bán, đánh tráo, chiếm đoạt trẻ em. Đáng chú ý, gần 85% số vụ mua bán người ra nước ngoài, tập trung chủ yếu qua các tuyến biên giới giữa Việt Nam với Campuchia, Lào và Trung Quốc, trong đó, sang Trung Quốc chiếm 75%. Theo Công ước ASEAN về phòng chống buôn bán người, đặc biệt là phụ nữ và trẻ em năm 2004, “Buôn bán người” là việc tuyển dụng, vận chuyển, chuyển giao, chứa chấp hoặc tiếp nhận người nhằm mục đích bóc lột bằng cách sử dụng hoặc đe dọa sử dụng vũ lực hay bằng các hình thức ép buộc, bắt cóc, gian lận, lừa đảo, lạm dụng quyền lực hoặc vị thế dễ bị tổn thương hay bằng việc đưa hay nhận tiền hoặc lợi ích để đạt được sự đồng ý của người có quyền kiểm soát người khác. Hành vi bóc lột sẽ bao gồm, ở mức tối thiểu, việc bóc lột mại dâm những người khác hay những hình thức bóc lột tình dục khác, các hình thức lao động hay dịch vụ cưỡng bức, nô lệ hay những hình thức tương tự nô lệ, khổ sai hoặc việc lấy các bộ phận cơ thể. Nghiêm cấm hành vi mua bán người Trước đó, Tại Điều 4 Thông tư liên tịch 01/2013/TTLT- TANDTC-VKSNDTC-BCA-BQP-BTP (đã hết hiệu lực) hướng dẫn việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người có hành vi mua bán người; mua bán, đánh tráo hoặc chiếm đoạt trẻ em, có giải thích từ ngữ về hành vi mua bán trẻ em như sau: ““Mua bán trẻ em” là hành vi dùng tiền, tài sản hoặc lợi ích vật chất khác để trao đổi trẻ em (người dưới 16 tuổi) như một loại hàng hóa; cụ thể là một trong các hành vi sau đây: - Mua trẻ em để bán lại cho người khác, không phân biệt bán lại cho ai và mục đích của người mua sau này như thế nào; - Dùng trẻ em làm phương tiện để trao đổi, thanh toán; - Mua trẻ em để bóc lột, cưỡng bức lao động hoặc vì mục đích trái pháp luật khác.” Đồng thời, tại khoản 1 Điều 3 Luật phòng, chống mua bán người 2011 cũng quy định hành vi mua bán người theo quy định là hành vi bị nghiêm cấm. Hình phạt đối với tội mua bán người dưới dưới 16 tuổi Tại Điều 151 Bộ luật hình sự 2015 được sửa đổi bởi Khoản 28 Điều 1 Luật sửa đổi Bộ luật Hình sự 2017 có quy định về tội mua bán người dưới 16 tuổi như sau: Người nào thực hiện một trong các hành vi sau đây, thì bị phạt tù từ 07 năm đến 12 năm: - Chuyển giao hoặc tiếp nhận người dưới 16 tuổi để giao, nhận tiền, tài sản hoặc lợi ích vật chất khác, trừ trường hợp vì mục đích nhân đạo; - Chuyển giao hoặc tiếp nhận người dưới 16 tuổi để bóc lột tình dục, cưỡng bức lao động, lấy bộ phận cơ thể hoặc vì mục đích vô nhân đạo khác; - Tuyển mộ, vận chuyển, chứa chấp người dưới 16 tuổi để thực hiện hành Khung hình phạt cao nhất đối với tội này có thể lên đến 20 năm tù hoặc chung thân. Ngoài ra, người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 50-200 triệu đồng, phạt quản chế, cấm cư trú, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01-05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản. Nạn nhân bị mua bán người được hỗ trợ những gì? Tại Điều 32 Luật phòng, chống mua bán người 2011 có quy định như sau: Nạn nhân là công dân Việt Nam, người không quốc tịch thường trú ở Việt Nam, thì tùy trường hợp quy định tại các điều 33, 34, 35, 36, 37 và 38 của Luật phòng, chống mua bán người 2011 được hưởng các chế độ hỗ trợ sau đây: - Hỗ trợ về nhu cầu thiết yếu và chi phí đi lại; - Hỗ trợ y tế; - Hỗ trợ tâm lý; - Trợ giúp pháp lý; - Hỗ trợ học văn hóa, học nghề; - Trợ cấp khó khăn ban đầu, hỗ trợ vay vốn. Nạn nhân là người nước ngoài bị mua bán tại Việt Nam, thì tùy trường hợp quy định tại các điều 33, 34, 35 và 36 của Luật này được hưởng các chế độ hỗ trợ quy định tại các điểm a, b, c và d khoản 1 Điều 32. Người chưa thành niên đi cùng nạn nhân, thì tùy trường hợp quy định tại các điều 33, 34 và 35 của Luật này được hưởng chế độ hỗ trợ quy định tại các điểm a, b và c khoản 1 Điều 32. Chính phủ quy định chi tiết về các chế độ hỗ trợ; trình tự, thủ tục thực hiện chế độ hỗ trợ đối với nạn nhân. Theo đó, nạn nhân của tội phạm mua bán người sẽ được hưởng các chế độ theo quy định như trên.
CẢNH BÁO: Thủ đoạn lừa bán người qua nước ngoài để làm vợ
Vì một cuộc sống đổi đời, vì một giấc mơ nước ngoài nhiều người không ngần ngại qua nước ngoài lao động hoặc thậm chí là lấy chồng tại các nước này để được cấp visa ở lại làm việc. Hình thức này hiện nay không còn mới khi việc môi giới xuất khẩu lao động đã có từ rất lâu tại VIệt Nam. Tuy nhiên, nhiều người vẫn nhầm lẫn giữa việc môi giới và lừa đảo bán người qua nước ngoài khiến nhiều người, đặc biệt là phụ nữ để làm vợ cho người nước ngoài khiến cuộc sống như bị giam cầm tại đó. 1. Cơ quan có thẩm quyền cấp phép xuất khẩu lao động Xuất khẩu lao động hợp pháp vẫn luôn được Chính phủ khuyến khích nhằm tăng tỷ lệ ngoại hối của Việt Nam cũng như cải thiện đời sống của nhân dân và hợp tác quốc tế đối với các nước có lao động là người Việt Nam. Tuy nhiên, việc xuất khẩu lao động phải được cơ quan có thẩm quyền cấp phép theo Điều 28 Nghị định 38/2020/NĐ-CP quy định Bộ LĐTBXH có trách nhiệm lớn nhất trong xuất khẩu lao động. Ngoài ra, Điều 8 Luật Người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng 2020 có quy định doanh nghiệp hoạt động dịch vụ đưa NLĐ Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng như sau: Hoạt động dịch vụ đưa NLĐ Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng là ngành, nghề đầu tư kinh doanh có điều kiện và chỉ được thực hiện bởi doanh nghiệp Việt Nam có Giấy phép hoạt động dịch vụ đưa người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng do Bộ trưởng Bộ LĐTBXH cấp. Qua đó, cho thấy cho thấy Bộ LĐTBXH là cơ quan có thẩm quyền lớn nhất trong việc thực hiện cấp phép đưa NLĐ Việt Nam sang nước ngoài làm việc. Đối với các cá nhân thực hiện môi giới việc làm như hiện nay sẽ được xem là vi phạm pháp luật. 2. Tại sao nhiều người lại bị lừa bán sang nước ngoài Có thể thấy thực trạng hiện nay vẫn có nhiều lao động mắc bẫy vẫn vì nguyên nhân lớn nhất đến từ suy nghĩ tính chất công việc là “việc nhẹ, lương cao”. Bên cạnh đó, phần nhiều là phụ nữ và có hoàn cảnh khó khăn muốn tìm một công việc trang trải cho cuộc sống. Bên cạnh đó, lao động tại Việt Nam chưa tìm hiểu kỹ các quy định xuất khẩu lao động, trong khi làm thủ tục xuất khẩu lao động tại các doanh nghiệp được Bộ LĐTBXH cấp phép với chi phí rẻ thì việc thông qua môi giới là cá nhân phải bỏ ra một số tiền lớn để chi trả. “Nhẹ dạ, cả tin”, phản ánh lên việc đa phần các đối tượng thực hiện môi giới thực hiện thường có mối quan hệ quen biết với các nạn nhân. Qua đó, độ uy tín của đối tượng lừa đảo cũng được tin cậy hơn. Qua đó có thể tóm lại các ý chính như sau: (1) Đối tượng thực hiện lừa đảo thường là: - Là phụ nữ đang tìm kiếm việc làm. - Công nhân đang thất nghiệp. - Lao động trẻ nhưng ít được tiếp cận tin tức pháp luật. - Người có nhu cầu sang nước ngoài lao động. (2) Cách thức thực hiện - Mời chào việc làm hấp dẫn như: “việc nhẹ lương cao”, giấc mơ nước ngoài, lấy chồng nước ngoài đổi đời,... - Tiếp cận thông qua quảng cáo trên mạng xã hội, nhắn tin, gọi điện và gặp trực tiếp để tư vấn. (3) Hậu quả dẫn đến Các đối tượng lừa đảo mua bán người sang biên giới thường thực hiện với vỏ bọc là công ty xuất khẩu lao động với đường dây tinh vi. Sau khi, lừa sang biên giới sẽ giao người cho bên nước ngoài để nhận tiền hoa hồng. Lao động tại đó sẽ được đưa về nhà chồng người nước ngoài để làm việc và bị giam cầm tại đó. Sự việc này thường diễn ra tại các biên giới có giáp với Việt Nam như Campuchia hay Trung Quốc với việc thiếu phụ nữ do dân số nam cao nên đàn ông Trung Quốc thường liên hệ tìm kiếm vợ tại các nước trong khu vực có trả phí cho người môi giới. 3. Truy cứu trách nhiệm hình sự tội mua bán người Trường hợp người nào lừa đảo môi giới người sang biên giới để nhận tiền thì được xem như vi phạm tội mua bán người theo Điều 150 Bộ luật Hình sự 2015 (sửa đổi bởi Bộ luật Hình sự 2017) như sau: (1) Người nào dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực, lừa gạt hoặc thủ đoạn khác thực hiện một trong các hành vi sau đây, thì bị phạt tù từ 05 năm - 10 năm: - Chuyển giao hoặc tiếp nhận người để giao, nhận tiền, tài sản hoặc lợi ích vật chất khác. - Chuyển giao hoặc tiếp nhận người để bóc lột tình dục, cưỡng bức lao động, lấy bộ phận cơ thể của nạn nhân hoặc vì mục đích vô nhân đạo khác. - Tuyển mộ, vận chuyển, chứa chấp người khác để thực hiện các hành vi nêu trên. (2) Phạt tù từ 08 năm - 15 năm: - Có tổ chức. - Vì động cơ đê hèn. - Gây thương tích, gây tổn hại cho sức khỏe hoặc gây rối loạn tâm thần và hành vi của nạn nhân mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31% đến 60%, nếu không thuộc trường hợp đã lấy bộ phận cơ thể người tại mục (3). - Đưa nạn nhân ra khỏi biên giới của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. - Đối với từ 02 người đến 05 người. - Phạm tội 02 lần trở lên. (3) Phạt tù từ 12 năm - 20 năm: - Có tính chất chuyên nghiệp. - Đã lấy bộ phận cơ thể của nạn nhân. - Gây thương tích, gây tổn hại cho sức khỏe hoặc gây rối loạn tâm thần và hành vi của nạn nhân mà tỷ lệ tổn thương cơ thể 61% trở lên. - Làm nạn nhân chết hoặc tự sát. - Đối với 06 người trở lên. - Tái phạm nguy hiểm. Bên cạnh đó, người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 20 triệu đồng - 100 triệu đồng, phạt quản chế, cấm cư trú từ 01 năm - 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản. Như vậy, người dân cần đặc biệt chú ý các thủ đoạn lừa đảo môi giới việc làm sang biên giới hấp dẫn, đặc biệt là phụ nữ cần cẩn thận hơn trong việc mời gọi xuất khẩu lao động thì phải kiểm tra doanh nghiệp đó phải uy tín và được cấp phép bởi Bộ LĐTBXH hoặc tìm đến cơ quan việc làm tại tỉnh đó để xác nhận thông tin đó có uy tín không. Trường hợp cá nhân môi giới mà không thuộc đại diện công ty được cấp phép thì xem như phạm tội mua bán người và có thể bị truy cứu hình sự hình phạt cao nhất lên đến 20 năm tù.
Khung hình phạt tội phạm mua bán người là bao nhiêu?
Căn cứ Điều 150 Bộ luật Hình sự 2015 được sửa đổi bởi Khoản 27 Điều 1 Luật sửa đổi Bộ luật Hình sự 2017 quy định: “Điều 150. Tội mua bán người 1. Người nào dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực, lừa gạt hoặc thủ đoạn khác thực hiện một trong các hành vi sau đây, thì bị phạt tù từ 05 năm đến 10 năm: a) Chuyển giao hoặc tiếp nhận người để giao, nhận tiền, tài sản hoặc lợi ích vật chất khác; b) Chuyển giao hoặc tiếp nhận người để bóc lột tình dục, cưỡng bức lao động, lấy bộ phận cơ thể của nạn nhân hoặc vì mục đích vô nhân đạo khác; c) Tuyển mộ, vận chuyển, chứa chấp người khác để thực hiện hành vi quy định tại điểm a hoặc điểm b khoản này. 2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 08 năm đến 15 năm: a) Có tổ chức; b) Vì động cơ đê hèn; c) Gây thương tích, gây tổn hại cho sức khỏe hoặc gây rối loạn tâm thần và hành vi của nạn nhân mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31% đến 60%, nếu không thuộc trường hợp quy định tại điểm b khoản 3 Điều này; d) Đưa nạn nhân ra khỏi biên giới của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam; đ) Đối với từ 02 người đến 05 người; e) Phạm tội 02 lần trở lên. 3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 12 năm đến 20 năm: a) Có tính chất chuyên nghiệp; b) Đã lấy bộ phận cơ thể của nạn nhân; c) Gây thương tích, gây tổn hại cho sức khỏe hoặc gây rối loạn tâm thần và hành vi của nạn nhân mà tỷ lệ tổn thương cơ thể 61% trở lên; d) Làm nạn nhân chết hoặc tự sát; đ) Đối với 06 người trở lên; e) Tái phạm nguy hiểm.” => Theo đó tùy mức độ phạm tội mà có khung phạt tù từ 05 năm đến 20 năm anh nhé. Trường hợp mua bán người dưới 16 tuổi được quy định tại Điều 151 Bộ luật Hình sự 2015 được sửa đổi bởi Khoản 28 Điều 1 Luật sửa đổi Bộ luật Hình sự 2017 như sau: “Điều 151. Tội mua bán người dưới 16 tuổi 1. Người nào thực hiện một trong các hành vi sau đây, thì bị phạt tù từ 07 năm đến 12 năm: a) Chuyển giao hoặc tiếp nhận người dưới 16 tuổi để giao, nhận tiền, tài sản hoặc lợi ích vật chất khác, trừ trường hợp vì mục đích nhân đạo; b) Chuyển giao hoặc tiếp nhận người dưới 16 tuổi để bóc lột tình dục, cưỡng bức lao động, lấy bộ phận cơ thể hoặc vì mục đích vô nhân đạo khác; c) Tuyển mộ, vận chuyển, chứa chấp người dưới 16 tuổi để thực hiện hành vi quy định tại điểm a hoặc điểm b khoản này. 2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 12 năm đến 20 năm: a) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn; b) Lợi dụng hoạt động cho, nhận con nuôi để phạm tội; c) Đối với từ 02 người đến 05 người; d) Đối với người mà mình có trách nhiệm chăm sóc, nuôi dưỡng; đ) Đưa nạn nhân ra khỏi biên giới của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam; e) Phạm tội 02 lần trở lên; g) Vì động cơ đê hèn; h) Gây thương tích, gây tổn hại cho sức khỏe hoặc gây rối loạn tâm thần và hành vi của nạn nhân mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31% đến 60%, nếu không thuộc trường hợp quy định tại điểm d khoản 3 Điều này. 3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 18 năm đến 20 năm hoặc tù chung thân: a) Có tổ chức; b) Có tính chất chuyên nghiệp; c) Gây thương tích, gây tổn hại cho sức khỏe hoặc gây rối loạn tâm thần và hành vi của nạn nhân mà tỷ lệ tổn thương cơ thể 61% trở lên; d) Đã lấy bộ phận cơ thể của nạn nhân; đ) Làm nạn nhân chết hoặc tự sát; e) Đối với 06 người trở lên; g) Tái phạm nguy hiểm. 4. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 50.000.000 đồng đến 200.000.000 đồng, phạt quản chế, cấm cư trú, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản.” => Theo đó đối với trường hợp mua bán người dưới 16 tuổi thì mức khung từ 07 năm đến 20 năm tùy mức độ phạm tội.
Tội mua bán người, áp dụng theo khung hình phạt nào?
Chào mọi người, em có trường hợp này mong mọi người giúp em với. Em đang làm luận văn về chủ đề “Phạm tội có tính chất chuyên nghiệp”, trong quá trình nghiên cứu em tìm thấy một trường hợp nhưng em không biết phải áp dụng như thế nào? Mong anh chị giúp em với. Tại tội mua bán người (Điều 150 Bộ luật hình sự 2015) có quy định tại điểm e khoản 2 có quy định: “ 2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 08 năm đến 15 năm...e) Đối với từ 02 đến 05 người;” và điểm a khoản 3 quy định: “3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 12 năm đến 20 năm:...a) Có tính chất chuyên nghiệp;” Để áp dụng tình tiết phạm tội có tính chất chuyên nghiệp bắt buộc phải đáp ứng các điều kiện theo mục 5.1 Điều 5 Nghị quyết 01/2006/NQ-HĐTP “5.1. Chỉ áp dụng tình tiết "phạm tội có tính chất chuyên nghiệp" khi có đầy đủ các điều kiện sau đây: a. Cố ý phạm tội từ năm lần trở lên về cùng một tội phạm không phân biệt đã bị truy cứu trách nhiệm hình sự hay chưa bị truy cứu trách nhiệm hình sự, nếu chưa hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự hoặc chưa được xóa án tích; b. Người phạm tội đều lấy các lần phạm tội làm nghề sinh sống và lấy kết quả của việc phạm tội làm nguồn sống chính.” Quy định về tình tiết phạm tội có tính chất chuyên nghiệp có quy định về tần suất phạm tội là từ 05 lần trở lên (có thể là 05) và quy định tại điểm e khoản 2 điều 150 Bộ luật hình sự 2015 là “ từ 02 đến 05 người” (có thể là 05) và tại tội này đều đáp ứng đủ các điều kiện của phạm tội có tính chất chuyên nghiệp . Như vậy, trong trường hợp một người phạm tội mua bán người mà mua bán đúng 05 người thì sẽ áp dụng khung hình phạt nào?
Xin hỏi những văn bản pháp luật liên quan đến mua bán người?
Chào luật sư, em đang nghiên cứu về vấn đề mua bán người và mua bán người dưới 16 tuổi theo quy định tại Điều 150 và Điều 151 BLHS. Luật sư có thể hỗ trợ em tất cả những văn bản pháp luật liên quan đến vấn đề này được không ạ? Em cảm ơn luật sự
Tôi mua bán người là loại tội nghiệm trọng hay đặc biệt nghiêm trọng?
Căn cứ Điều 9 Bộ luật hình sự 2015 (Khoản 2 Điều 1 Luật sửa đổi Bộ luật Hình sự 2017) việc phân loại tội phạm phụ thuộc vào "mức cao nhất của khung hình phạt do Bộ luật này quy định đối với tội ấy". - Đối với tội mua bán người: Theo quy định tại Khoản 27 Điều 1 Luật sửa đổi Bộ luật Hình sự 2017, tội mua bán người có ba khung hình phạt. Theo đó, chị cần phải xác định lại hành vi mua bán người này bị xử lý theo khoản nào (căn cứ theo quyết định của toà án) để phân loại tội phạm. Nếu hành vi bị xử lý theo khoản 1 thì mức cao nhất của khung hình phạt là 10 năm tương ứng với loại tội phạm rất nghiêm trọng. Nếu hành vi bị xử lý theo khoản 2 thì mức cao nhất của khung hình phạt là 15 năm tương ứng với loại tội phạm rất nghiêm trọng. Nếu hành vi bị xử lý theo khoản 3 thì mức cao nhất của khung hình phạt là 20 năm tương ứng với loại tội phạm đặc biệt nghiêm trọng. - Đối với tội mua bán người dưới 16 tuổi. Cách làm tương tự như trên: Nếu hành vi bị xử lý theo khoản 1 thì tương ứng với loại tội phạm rất nghiêm trọng. Nếu hành vibị xử lý theo khoản 2, khoản 3 thì tương ứng với loại tội phạm đặc biệt nghiêm trọng.
Báo động gia tăng tội phạm mua bán người qua mạng xã hội
Vừa qua, ngày 23/8 Ủy ban Tư pháp của Quốc hội đã tổ chức Phiên giải trình về tình hình thực hiện pháp luật về phòng, chống mua bán người. Trước tình hình gia tăng của loại tội phạm này thì việc tổ chức phiên giải trình là để nắm bắt và có định hướng phòng chống tội phạm này. Một vài số liệu được đưa ra tại phiên giải trình về con số của tội phạm mua bán người diễn ra tại 63 tỉnh thành trên cả nước. Loại tội phạm này chủ yếu là mua bán người ra nước ngoài (chiếm 85% số vụ mua bán người), tập trung qua các tuyến biên giới trên đất liền giữa Việt Nam và Trung Quốc, Campuchia, Lào. Trong đó, sang Trung Quốc chiếm 75%, sang Lào và Campuchia chiếm khoảng 11%, còn lại là mua bán người sang một số nước khác như Thái Lan, Malaysia, Nga bằng đường bộ, đường không và đường biển. Trong giai đoạn 2012-2017, cơ quan điều tra đã khởi tố 1.021 vụ án, 2.035 bị can (chiếm trên 97% số tin báo, tố giác đã tiếp nhận, xử lý). Đã kết luận điều tra, chuyển VKSND các cấp đề nghị truy tố 812 vụ, 1.821 bị can. Số nạn nhân bị mua bán và nghi vấn bị mua bán là 3.090 người, trong đó chủ yếu là phụ nữ, trẻ em (chiếm trên 90%), đa số thuộc các dân tộc thiểu số (chiếm trên 80%), thường tập trung ở những vùng nông thôn, miền núi, nhất là vùng sâu, vùng xa, phần lớn có hoàn cảnh kinh tế khó khăn... Như vậy, với những con số ghi nhận cụ thể thì có thể thấy tình hình tội phạm này diễn ra hết sức phức tạp, cụ thể là tập trung tại các khu vực biên giới giữa VN với Trung Quốc, Lào và một số quốc gia khác. Đối tượng vẫn là phụ nữ và trẻ em, thuộc nhóm nạn nhân ở phái yếu nên dễ bị lợi dụng và trục lợi. Đặc điểm chung hơn thì nó vẫn diễn ra tại khu vực những nơi nông thôn, vùng sâu, vùng xa… nơi ít được tiếp cận với pháp luật và còn nhiều hạn chế. Có thể thấy, giái đoạn trước và gần đây đều vẫn khoanh vùng được các nhóm hành vi, đối tượng. Thực tế hiện nay thì nó còn mở rộng diện hành vi thông qua các kênh xã hội như facebook, zalo… nhưng kênh thông tin mà đa phần người dân tiếp cận sử dụng. Thủ đoạn gạ gẫm, làm quen và gặp mặt được diễn ra và từ đó chúng có cơ hội thực hiện hành vi của mình. Chính vì sự xâm lấn và ngày càng tinh vi, nhiều thủ đoạn nên cơ quan quản lý phải bao quát tất cả, từ thực tế tại địa phương đến các trang mạng xã hội thông tin để kịp thời phát hiện và triệt phá các đường dây có tính quy mô lớn, hoạt động núp bóng để mua bán người. Theo quy định của Bộ luật hình sự 2015 (sửa đổi 2017): Điều 1. Sửa đổi, bổ sung, bãi bỏ một số điều của Bộ luật Hình sự số 100/2015/QH13 ... 27. Sửa đổi, bổ sung các khoản 1 ... Điều 150 như sau: “1. Người nào dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực, lừa gạt hoặc thủ đoạn khác thực hiện một trong các hành vi sau đây, thì bị phạt tù từ 05 năm đến 10 năm: a) Chuyển giao hoặc tiếp nhận người để giao, nhận tiền, tài sản hoặc lợi ích vật chất khác; b) Chuyển giao hoặc tiếp nhận người để bóc lột tình dục, cưỡng bức lao động, lấy bộ phận cơ thể của nạn nhân hoặc vì mục đích vô nhân đạo khác; c) Tuyển mộ, vận chuyển, chứa chấp người khác để thực hiện hành vi quy định tại điểm a hoặc điểm b khoản này. Do đó, chế tài hành vi mua bán người đã có nhưng chưa đủ để răn đe đến loại tội phạm này, phía cơ quan chức năng cần tăng cương và đẩy mạnh công tác trấn áp loại tội phạm này. (Nguồn: tiengchuong.vn)
Đừng để vật chất làm ta trở thành nạn nhân của đường dây buôn bán người
Nắm bắt được tâm lý của nhiều cô gái Việt ở vùng dân tộc, ở quê muốn đi tìm việc làm, muốn có chồng nước ngoài để có tiền phụ giúp gia đình, muốn đổi đời. Mà một số người đã lợi dụng điều đó mà thực hiện hành vi phạm tội của mình, trá hình với hình thức muốn giúp đỡ muốn giới thiệu chỗ làm tốt, muốn mai mối với mục đích giúp đỡ. Hành vi này tưởng cũ mà vẫn mới vì vẫn còn nhiều đối tượng vẫn sụp vào cái bẫy này, mà dẫn đến những hậu quả khôn lường. Điển hình là câu chuyện: “H’N.B (trú huyện Đắk G’Long) trở về từ Trung Quốc để tố cáo những kẻ đã lừa bán mình vào “động quỷ”. Theo lời B, cuộc sống của cô và T. tại nhà chứa ở Trung Quốc chẳng khác gì địa ngục trần gian. Tại đây mỗi ngày, B. phải tiếp khách từ 17 giờ đến 2 giờ sáng hôm sau và phải phục vụ nhiều khách làng chơi, đủ mọi loại người. Toàn bộ số tiền đều bị chủ chứa lấy hết, kể cả phần khách cho riêng. “Bị vắt kiệt sức từ ngày này sang ngày khác, nên chẳng mấy chốc, chính chúng em còn không nhận ra mình trong gương nữa. Nhiều hôm bị chủ ép liên tục phục vụ khách, chúng em không lết nổi người ra khỏi giường, những lúc ấy chúng em chỉ muốn chết đi cho khỏi nhục nhã”, giọng B. nghẹn ngào. Tuy nhiên, không chỉ có cô và T. mà B. còn chứng kiến rất nhiều cô gái là người Việt cũng bị lừa bán vào đây. Bất cứ người nào khi vào đây thì đều phải chịu sự dày vò từ thể xác đến tâm hồn. Họ lúc nào cũng bị giam cầm, không được tự do đi lại. Xung quanh chỗ luôn có nhiều người đàn ông hung hãn canh giữ ngày đêm. May mắn hơn những cô gái sa chân vào động mại dâm, một số nạn nhân nữ khác bị bán cho những người đàn ông Trung Quốc để làm vợ. Những người này thường có hoàn cảnh khó khăn, khó lấy vợ trong nước nên tìm đến các mối lái để xem mặt, mua bán vợ. Chính vì thế, phần lớn những cô gái khi về nhà chồng sẽ bị giam cầm, sinh sống trong điều kiện lam lũ, khổ cực. “Người đàn ông ấy bỏ ra một số tiền không nhỏ để mua em về làm vợ, nên người ta yêu cầu em phải làm mọi công việc để “trả nợ”, bù lại số tiền đó. Thời gian đầu, em luôn có người theo dõi giám sát vì họ sợ em bỏ trốn, đến ngủ cũng phải có người bên cạnh nên cuộc sống chả khác nào bị giam lỏng”, V.T.H. (trú Đắk G’Long) nhớ lại quãng thời gian làm dâu một gia đình người Trung Quốc.” (Theo trang tin tức của ngân hàng pháp luật ngày 13/01/2018). Đó chỉ là một trong số vô vàn những trường hợp bị lừa bán sang Trung Quốc và may mắn là trốn về được nơi chôn nhau cắt rốn. Hãy cẩn thận với những chiêu thức lừa đảo của những kẻ xấu, và đừng vì đồng tiến mà bán cả cuộc đời mình, có lao động đúng đắn thì đồng tiền mới có giá trị, loại bỏ ngay suy nghĩ muốn nhàn mà có nhiều tiền. Theo như Bộ luật hình sự 2015 có quy định về tội mua bán người như sau: “ 1. Người nào dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực, lừa gạt hoặc bằng thủ tục khác thực hiện một trong các hành vi sau thì bị phạt tù từ 05 năm đến 10 năm: a) Chuyển giao hoặc tiếp nhận người để giao, nhận tiền, tài sản hoặc lợi ích vật chất khác; b) Chuyển giao hoặc tiếp nhận người để bóc lột tình dục, cưỡng bức lao động, lấy bộ phận cơ thể của nạn nhân hoặc vì mục đích vô nhân đạo khác; c) Tuyển mộ, vận chuyển, chứa chấp người khác để thực hiện hành vi quy định tại điểm a hoặc điểm b khoản này. 2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 08 năm đến 15 năm: a) Có tổ chức; b) Vì động cơ đê hèn; c) Gây rối loạn tâm thần và hành vi của nạn nhân từ 11% đến 45%; d) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của nạn nhân mà tỷ lệ tổn thương cơ thể 31% trở lên, trừ trường hợp quy định tại điểm b khoản 3 Điều này; đ) Đưa nạn nhân ra khỏi biên giới của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam; e) Đối với từ 02 đến 05 người; g) Phạm tội 02 lần trở lên. 3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau, thì bị phạt tù từ 12 năm đến 20 năm: a) Có tính chất chuyên nghiệp; b) Đã lấy bộ phận cơ thể của nạn nhân; c) Gây rối loạn tâm thần và hành vi của nạn nhân 46% trở lên; d) Làm nạn nhân chết hoặc tự sát; đ) Đối với 06 người trở lên; e) Tái phạm nguy hiểm. 4. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 20.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, phạt quản chế, cấm cư trú từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản.”