MỚI: Từ A – Z các trường hợp bắt buộc phải viết hoa trong VB QPPL từ 1/1/2021
các trường hợp bắt buộc phải viết hoa Tại Nghị định 154/2020/NĐ-CP sửa đổi Nghị định 34/2016/NĐ-CP hướng dẫn Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật, có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2021 đã bổ sung khoản 7 vào điều 69 NĐ 34 về sử dụng ngôn ngữ trong văn bản. Cụ thể chữ viết hoa trong văn bản được sử dụng đúng quy tắc chính tả tiếng Việt và theo hướng dẫn tại Phụ lục VI kèm theo Nghị định 154/2020/NĐ-CP. Cụ thể hướng dẫn tại phụ lục IV của Nghị định 154 các trường hợp viết hoa trong văn bản QPPL gồm: I. VIẾT HOA VÌ PHÉP ĐẶT CÂU 1. Viết hoa chữ cái đầu âm tiết thứ nhất của một câu hoàn chỉnh: sau dấu chấm câu (.); sau dấu hai chấm trong ngoặc kép (:"..."); khi xuống dòng hoặc bắt đầu đoạn. 2. Viết hoa chữ cái đầu âm tiết thứ nhất của khoản, điểm. II. VIẾT HOA DANH TỪ RIÊNG CHỈ TÊN NGƯỜI 1. Danh từ riêng chỉ tên người Việt Nam: a) Tên thông thường: Viết hoa chữ cái đầu tất cả các âm tiết của danh từ riêng chỉ tên người. Ví dụ: Nguyễn Ái Quốc, Trần Phú, Giàng A Pao, Kơ Pa Kơ Long. b) Tên hiệu, tên gọi nhân vật lịch sử: Viết hoa chữ cái đầu tất cả các âm tiết. Ví dụ: Vua Hùng, Bà Triệu, Ông Gióng, Đinh Tiên Hoàng, Lý Thái Tổ, Bác Hồ, Cụ Hồ. 2. Danh từ riêng chỉ tên người nước ngoài được phiên âm chuyển sang tiếng Việt: a) Trường hợp phiên âm sang âm Hán - Việt: Viết theo quy tắc viết tên người Việt Nam. Ví dụ: Kim Nhật Thành, Mao Trạch Đông, Thành Cát Tư Hãn. b) Trường hợp phiên âm không sang âm Hán - Việt (phiên âm trực tiếp sát cách đọc của nguyên ngữ): Viết hoa chữ cái đầu âm tiết thứ nhất trong mỗi thành phần. Ví dụ: Vla-đi-mia I-lích Lê-nin, Phri-đrích Ăng-ghen, Phi-đen Cat-xtơ-rô. III. VIẾT HOA TÊN ĐỊA LÝ 1. Tên địa lý Việt Nam: a) Tên đơn vị hành chính được cấu tạo giữa danh từ chung (tỉnh, thành phố, quận, huyện, thị xã, xã, phường, thị trấn) với tên riêng của đơn vị hành chính đó: Viết hoa chữ cái đầu của các âm tiết tạo thành tên riêng và không dùng gạch nối. Ví dụ: thành phố Thái Nguyên, tỉnh Nam Định, tỉnh Đắk Lắk; quận Hải Châu, huyện Gia Lâm, huyện Ea H'leo, thị xã Sông Công, thị trấn Cầu Giát: phường Nguyễn Trãi, xã Ia Yeng, phường Điện Biên Phủ. b) Trường hợp tên đơn vị hành chính được cấu tạo giữa danh từ chung kết hợp với chữ số: Viết hoa cả danh từ chung chỉ đơn vị hành chính đó. Ví dụ: Phường 15, Quận 8. c) Trường hợp viết hoa đặc biệt: Thủ đô Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh. d) Tên địa lý được cấu tạo giữa danh từ chung chỉ địa hình (sông, núi, hồ, biển, cửa, bến, cầu, vũng, lạch, vàm v.v...) với danh từ riêng (có một âm tiết) trở thành tên riêng của địa danh đó: Viết hoa tất cả các chữ cái tạo nên địa danh. Ví dụ: Cửa Lò, Vũng Tàu, Lạch Trường, Vàm Cỏ, Cầu Giấy. Trường hợp danh từ chung chỉ địa hình đi liền với danh từ riêng: Không viết hoa danh từ chung mà chỉ viết hoa danh từ riêng. Ví dụ: biển Cửa Lò, chợ Bến Thành, sông Vàm Cỏ, vịnh Hạ Long. đ) Tên địa lý chỉ một vùng, miền, khu vực nhất định được cấu tạo bằng từ chỉ phương hướng kết hợp với từ chỉ phương thức khác: Viết hoa chữ cái đầu của tất cả các âm tiết tạo thành tên gọi. Đối với tên địa lý chỉ vùng, miền riêng được cấu tạo bằng từ chỉ phương hướng kết hợp với danh từ chỉ địa hình thì viết hoa các chữ cái đầu mỗi âm tiết. Ví dụ: Tây Bắc, Đông Bắc, Bắc Bộ, Nam Kỳ, Nam Trung Bộ. 2. Tên địa lý nước ngoài được phiên âm chuyển sang tiếng Việt: a) Tên địa lý đã được phiên âm sang âm Hán - Việt: Viết theo quy tắc viết hoa tên địa lý Việt Nam. Ví dụ: Bắc Kinh, Bình Nhưỡng, Pháp, Anh, Mỹ, Thụy Sĩ, Tây Ban Nha. b) Tên địa lý phiên âm không sang âm Hán - Việt (phiên âm trực tiếp sát cách đọc của nguyên ngữ): Viết hoa theo quy tắc viết hoa tên người nước ngoài quy định tại điểm b khoản 2 Mục II. Ví dụ: Mát-xcơ-va, Men-bơn, Sing-ga-po, Cô-pen-ha-ghen, Béc-lin. IV. VIẾT HOA TÊN CƠ QUAN, TỔ CHỨC 1. Tên cơ quan, tổ chức của Việt Nam: Viết hoa chữ cái đầu của các từ, cụm từ chỉ loại hình cơ quan, tổ chức; chức năng, lĩnh vực hoạt động của cơ quan, tổ chức. Ví dụ: - Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam, Bộ Chính trị, Ban Bí thư Trung ương Đảng, Văn phòng Trung ương Đảng; Ban Nội chính Trung ương; Ban Kinh tế Trung ương,...; - Ủy ban Thường vụ Quốc hội; - Hội đồng Dân tộc; Ủy ban Kinh tế, Ủy ban Tư pháp; Ủy ban Pháp luật... - Ban Công tác đại biểu; Ban Dân nguyện; - Văn phòng Chủ tịch nước, Văn phòng Quốc hội, Văn phòng Chính phủ; - Viện kiểm sát nhân dân, Tòa án nhân dân; Kiểm toán nhà nước; - Bộ Tư pháp; Bộ Tài nguyên và Môi trường; Bộ Giáo dục và Đào tạo; Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch; Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn; Bộ Giao thông vận tải; Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội; Ngân hàng Nhà nước Việt Nam; Thanh tra Chính phủ; Ủy ban Dân tộc...; - Đài Tiếng nói Việt Nam, Đài Truyền hình Việt Nam, Thông tấn xã Việt Nam, Bảo hiểm Xã hội Việt Nam, Ban Quản lý Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh. - Ủy ban trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam; Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh; Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam; Hội Nông dân Việt Nam; Hội Cựu chiến binh Việt Nam...; - Văn phòng Đoàn đại biểu Quốc hội thành phố Hà Nội, Văn phòng Tỉnh ủy Nghệ An, Văn phòng Ủy ban nhân dân tỉnh Nam Định...; - Hội đồng nhân dân tỉnh Sơn La, Ủy ban nhân dân tỉnh Bắc Giang, Ủy ban nhân dân quận Ba Đình, Ủy ban nhân dân huyện Vụ Bản...; - Tổng cục Thuế, Tổng cục Hải quan...; - Sở Giáo dục và Đào tạo, Sở Tài chính, Sở Tài nguyên và Môi trường, Sở Xây dựng, Sở Kế hoạch và Đầu tư...; - Vụ Tổng hợp, Vụ Hợp tác quốc tế, Phòng Nghiên cứu khoa học, Phòng Chính sách xã hội, Hội đồng Thi tuyển viên chức... 2. Tên cơ quan, tổ chức nước ngoài: a) Tên cơ quan, tổ chức nước ngoài đã dịch nghĩa: Viết hoa theo quy tắc viết tên cơ quan, tổ chức của Việt Nam. Ví dụ: Liên hợp quốc (UN), Tổ chức Y tế thế giới (WHO), Hiệp hội các Quốc gia Đông Nam Á (ASEAN). b) Tên cơ quan, tổ chức nước ngoài được sử dụng trong văn bản ở dạng viết tắt: Viết bằng chữ in hoa như nguyên ngữ hoặc chuyển tự La-tinh nếu nguyễn ngữ không thuộc hệ La-tinh. Ví dụ: WTO; UNDP; UNESCO; ASEAN; SNG. V. VIẾT HOA CÁC TRƯỜNG HỢP KHÁC 1. Danh từ thuộc trường hợp đặc biệt: Nhân dân (khi sử dụng như danh từ chỉ tên riêng, thể hiện sự trang trọng), Nhà nước (chỉ tên riêng Ngân hàng Nhà nước, Kho bạc Nhà nước, Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam; khi Nhà nước sử dụng như danh từ riêng). 2. Tên các huân chương, huy chương, các danh hiệu vinh dự: Viết hoa chữ cái đầu của các âm tiết của các thành phần tạo thành tên riêng và các từ chỉ thử, hạng. Ví dụ: Huân chương Sao vàng, Huân chương Hồ Chí Minh, Nghệ sĩ Nhân dân, Nhà giáo Ưu tú, Thầy thuốc Nhân dân, Anh hùng Lao động, Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân, Huân chương Chiến sĩ vẻ vang. 3. Tên chức vụ, học vị, danh hiệu: Viết hoa tên chức vụ, học vị nếu đi liền với tên người cụ thể. Ví dụ: - Chủ tịch Quốc hội, Phó Thủ tướng Chính phủ, Chủ nhiệm Ủy ban Pháp luật của Quốc hội, Chủ nhiệm Văn phòng Quốc hội, Tổng Thư ký Quốc HOT, Phó Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế, Ủy viên Thường trực, Ủy viên Chuyên trách... - Giáo sư Tiến sĩ khoa học Phạm Văn M, Giáo sư Viện sĩ Nguyễn Văn H. 4. Tên các ngày lễ, ngày kỷ niệm: Viết hoa chữ cái đầu của âm tiết tạo thành tên gọi ngày lễ, ngày kỷ niệm. Ví dụ: ngày Quốc khánh 2-9, ngày Tổng tuyển cử đầu tiên, ngày Truyền thống Văn phòng Quốc hội, ngày Quốc tế Lao động 1-5, ngày Phụ nữ Việt Nam 20-10, 5. Tên các loại văn bản: Viết hoa chữ cái đầu của tên loại văn bản và chữ cái đầu của âm tiết thứ nhất tạo thành tên gọi của văn bản trong trường hợp nói đến một văn bản cụ thể. Ví dụ: Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng; Bộ luật Hình sự Luật Tổ chức Quốc hội, Luật An toàn vệ sinh lao động... 6. Trường hợp viện dẫn phần, chương, mục, tiểu mục, điều, khoản, điểm của một văn bản cụ thể thì viết hoa chữ cái đầu của phần, chương, mục, tiểu mục, điều. Ví dụ: - Căn cứ Điều 10 của Luật Tổ chức Quốc hội... - Căn cứ khoản 4 Điều 18 của Luật An toàn vệ sinh lao động... - Căn cứ điểm a khoản 2 Điều 103 Mục 5 Chương XII Phần I của Bộ luật Hình sự... - Theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 24 Tiểu mục 1 Mục 1 Chương III của Nghị quyết số 351/2017/UBTVQH14... 7. Tên các năm âm lịch, ngày tốt, ngày và tháng trong năm: a) Tên các năm âm lịch: Viết hoa chữ cái đầu của tất cả các âm tiết tạo thành tên gọi. Ví dụ: Kỷ Tỵ, Tân Hợi, Mậu Tuất, Mậu Thân. b) Tên các ngày tết: Viết hoa chữ cái đầu của âm tiết thứ nhất tạo thành tên gọi. Ví dụ: tết Nguyên đán, tết Đoan ngọ, tết Trung thu. Viết hoa chữ Tết trong trường hợp dùng để thay cho một tết cụ thể (như Tết thay cho tết Nguyên đán). c) Tên các ngày trong tuần và tháng trong năm: Viết hoa chữ cái đầu của âm tiết chỉ ngày và tháng trong trường hợp không dùng chữ số: Ví dụ: thứ Hai, thứ Tư, tháng Năm, tháng Tám... 8. Tên các sự kiện lịch sử và các triều đại: Viết hoa chữ cái đầu của các âm tiết tạo thành sự kiện và tên sự kiện, trong trường hợp có các con số chỉ mốc thời gian thì ghi bằng chữ và viết hoa chữ đó. Ví dụ: Triều Lý, Triều Trần, Phong trào Xô Viết Nghệ Tĩnh, Cách mạng tháng Tám,... 9. Tên các tác phẩm, sách báo, tạp chí: Viết hoa chữ cái đầu của âm tiết thứ nhất tạo thành tên tác phẩm, sách báo. Ví dụ: từ điển Bách khoa toàn thư, tạp chí Cộng sản,...
Kỹ thuật viện dẫn văn bản QPPL theo quy định mới từ 1/1/2021
Kỹ thuật viện dẫn văn bản QPPL Đây là nội dung tại Nghị định 154/2020/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định 34/2016/NĐ-CP của Chính phủ quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật có hiệu lực từ 1/1/2021. Theo đó, Nghị định sửa đổi, bổ sung khoản 1 Điều 75 về kỹ thuật viện dẫn văn bản của Nghị định 34 như sau: - Khi viện dẫn lần đầu văn bản có liên quan, phải ghi đầy đủ tên loại văn bản, số, ký hiệu văn bản; ngày, tháng, năm thông qua hoặc ký ban hành văn bản; tên cơ quan, người có thẩm quyền ban hành văn bản và tên gọi văn bản. Trong lần viện dẫn tiếp theo, đối với luật, pháp lệnh, ghi đầy đủ tên loại văn bản, tên gọi của văn bản; đối với các văn bản khác, ghi tên loại, số, ký hiệu của văn bản đó.”. Theo quy định trước đây: Khi viện dẫn văn bản có liên quan, phải ghi đầy đủ tên loại văn bản, số, ký hiệu văn bản; ngày, tháng, năm thông qua hoặc ký ban hành văn bản; tên cơ quan, người có thẩm quyền ban hành văn bản và tên gọi văn bản. Một số nội dung khác về kỹ thuật viện dẫn văn bản theo Điều 75 Nghị định 34 gồm: - Trường hợp viện dẫn phần, chương, mục, tiểu mục của một văn bản quy phạm pháp luật thì phải xác định cụ thể phần, chương, mục, tiểu mục của văn bản đó. - Trường hợp viện dẫn đến điều, khoản, điểm thì không phải xác định rõ đơn vị bố cục phần, chương, mục, tiểu mục có chứa điều, khoản, điểm đó. - Trường hợp viện dẫn đến phần, chương, mục, tiểu mục, điều, khoản, điểm của một văn bản thì phải viện dẫn theo thứ tự từ nhỏ đến lớn và tên của văn bản; nếu viện dẫn từ khoản, điểm này đến khoản, điểm khác trong cùng một điều hoặc từ mục, điều này đến mục, điều khác trong cùng một chương của cùng một văn bản thì không phải xác định tên của văn bản nhưng phải viện dẫn cụ thể.
Sự khác nhau giữa văn bản quy phạm pháp luật và văn bản áp dụng pháp luật
Văn bản quy phạm pháp luật và Văn bản áp dụng pháp luật - Ảnh minh họa Thực tế hiện nay cũng còn mập mờ giữa văn bản quy phạm pháp luật và văn bản áp dụng pháp luật. Do đó, nhiều người nhầm lẫn giữa hai khái niệm văn bản quy phạm pháp luật và văn bản áp dụng pháp luật. Vậy Văn bản quy phạm pháp luật khác văn bản áp dụng pháp luật ở những điểm gì? Tiêu chí Văn bản quy phạm pháp luật Văn bản áp dụng pháp luật 1. Khái niệm Văn bản quy phạm pháp luật là văn bản có chứa quy phạm pháp luật, được ban hành theo đúng thẩm quyền, hình thức, trình tự, thủ tục quy định trong Luật này. Văn bản có chứa quy phạm pháp luật nhưng được ban hành không đúng thẩm quyền, hình thức, trình tự, thủ tục quy định trong Luật này thì không phải là văn bản quy phạm pháp luật. (Điều 2 Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2015) Văn bản áp dụng pháp luật là văn bản chứa đựng các quy tắc xử sự cá biệt, do cơ quan, cá nhân có thẩm quyền ban hành, được áp dụng một lần trong đời sống và bảo đảm thực hiện bằng sự cưỡng chế Nhà nước 2. Thẩm quyền ban hành Cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành (Chương II Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật 2015) Do các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền hoặc các tổ chức, cá nhân được Nhà nước trao quyền ban hành, dựa trên các quy phạm pháp luật cụ thể để giải quyết một vấn đề pháp lý cụ thể. Ví dụ: Chánh án Tòa án căn cứ các quy định của Bộ luật dân sự và Bộ luật tố tụng dân sự để tuyên án đối với cá nhân tổ chức liên quan thông qua bản án. 3. Nội dung ban hành Chứa đựng các quy tắc xử sự chung được Nhà nước bảo đảm thực hiện và được áp dụng nhiều lần trong thực tế cuộc sống, được áp dụng trong tất cả các trường hợp khi có các sự kiện pháp lý tương ứng xảy ra cho đến khi nó hết hiệu lực. Ví dụ: Nếu có tranh chấp hợp đồng mua bán đất thì dựa trên tình huống thực tế áp dụng Luật đất đai 2014 và Bộ luật dân sự 2015. Chứa quy tắc xử sự riêng. Áp dụng một lần đối với một tổ chức cá nhân là đối tượng tác động của văn bản, nội dung của văn bản áp dụng pháp luật chỉ rõ cụ thể cá nhân nào, tổ chức nào phải thực hiện hành vi gì. Đảm bảo tính hợp pháp (tuân thủ đúng các văn bản quy phạm pháp luật), phù hợp với thực tế (đảm bảo việc thi hành). Mang tính cưỡng chế nhà nước cao. Ví dụ: Bản án chỉ rõ cá nhân nào phải thực hiện nghĩa vụ gì: Nguyễn Văn A phải bồi thường cho Lê Văn B 20 triệu đồng. Đối tượng ở đây là cụ thể A và B không áp dụng cho bất kỳ cá nhân tổ chức nào khác. 4. Hình thức tên gọi Các hình thức quy định tại điều 4 Luật ban hành VBQPPL 2015 (Hiến pháp, Bộ luật, Luật,…) Chưa được pháp luật hóa tập trung về tên gọi và hình thức thể hiện. (Thường được thể hiện dưới hình thức: Quyết định, bản án,…) 5. Phạm vi áp dụng Rộng rãi. Áp dụng là đối với tất cả các đối tượng thuộc phạm vi điều chỉnh trong phạm vi cả nước hoặc đơn vị hành chính nhất định. Đối tượng nhất định được nêu trong văn bản 6. Cơ sở ban hành Dựa trên Hiến pháp, Luật, các văn bản quy phạm pháp luật cao hơn với văn bản quy phạm pháp luật là nguồn của luật. Thường dựa vào một văn bản quy phạm pháp luật hoặc dựa vào văn bản áp dụng pháp luật của chủ thể có thẩm quyền. Văn bản áp dụng pháp luật hiện tại không là nguồn của luật 7. Trình tự ban hành Theo quy định Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật 2015 Luật không có quy định trình tự 8. Thời gian có hiệu lực Lâu dài. Ví dụ: Luật sở hữu trí tuệ 2005 vẫn có hiệu lực cho đến nay Thời gian có hiệu luật ngắn theo vụ việc. Giống nhau - Đều là văn bản pháp luật do các cơ Nhà nước, tổ chức hoặc cá nhân có thẩm quyền theo quy định của pháp luật ban hành. - Đều được Nhà nước bảo đảm quyền thực hiện bằng các biện pháp mang tính quyền lực Nhà nước. - Đều có hiệu lực buộc phải thực hiện đối với các tổ chức hoặc cá nhân có liên quan - Đều được thể hiện dưới hình thức văn bản và dùng để điều chỉnh các mối quan hệ xã hội
Hiệu lực pháp lý của văn bản QPPL đăng trên Công báo và Cơ sở dữ liệu quốc gia về pháp luật
Ngày 3/8/2020 Bộ Tư pháp ban hành Công văn 2795/BTP-VĐCXDPL trả lời thắc mắc của công dân về việc một văn bản quy phạm pháp luật được đăng trên Công báo và Cơ sở dữ liệu quốc gia về pháp luật mà có sự khác nhau thì văn bản được đăng trên Công báo hay văn bản được đăng trên Cơ sở dữ liệu quốc gia về pháp luật có hiệu lực pháp lý cao hơn và chính thống hơn. Về vấn đề này Bộ Tư pháp có ý kiến như sau: - Về giá trị pháp lý của văn bản quy phạm pháp luật đăng trên Công báo, khoản 1 Điều 150 của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2015 quy định: “5. Văn bản quy phạm pháp luật đăng trên Công báo in và Công báo điện tử là văn bản chính thức và có giá trị như văn bản gốc”. Để cụ thể hóa quy định của Luật, Điều 87 Nghị định 34/2016/NĐ-CP quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật quy định về giá trị pháp lý của văn bản đăng trên công báo như sau: “Văn bản đăng trên Công báo là văn bản chính thức và có giá trị như bản gốc. Trường hợp có sự khác nhau giữa Công báo in và Công báo điện tử thì sử dụng Công báo in làm căn cứ chính thức”. - Về giá trị pháp lý của văn bản quy phạm pháp luật được đăng trên cơ sở dữ liệu quốc gia về pháp luật, Điều 4 Nghị định 52/2015/NĐ-CP về Cơ sở dữ liệu quốc gia về pháp luật quy định: “Văn bản trên Cơ sở dữ liệu quốc gia về pháp luật được sử dụng chính thức trong việc quản lý nhà nước, phổ biến pháp luật, nghiên cứu, tìm hiểu, áp dụng và thi hành pháp luật của cơ quan, tổ chức, cá nhân”. Theo quy định của pháp luật hiện hành thì văn bản quy phạm pháp luật được đăng trên Công báo và giá trị như bản gốc. Trong trường hợp có sự khác nhau giữa văn bản quy phạm pháp luật được đăng trên Công báo và văn bản quy phạm pháp luật được đăng trên Cơ sở dữ liệu quốc gia về pháp luật thì áp dụng văn bản được đăng trên Công báo. Xem chi tiết công văn tại file đính kèm:
Một số điểm mới của Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Ban hành văn bản QPPL
Ngày 18/6/2020, tại Kỳ họp thứ 9, Quốc hội Khóa XIV đã thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật, Luật này có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2021. Nội dung mới cơ bản của Luật Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật đã sửa đổi, bổ sung 54 điều về nội dung và 14 về kỹ thuật của Luật năm 2015 với những nội dung mới cơ bản sau đây: Thứ nhất, tiếp tục khẳng định và quy định cụ thể hơn cơ chế bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng trong xây dựng, ban hành VBQPPL: Luật năm 2020 đã sửa 06 điều của Luật năm 2015 (Điều 47, 58, 92, 121, 130 và Điều 139), trong đó bổ sung nội dung thẩm định, thẩm tra phải bảo đảm “Sự phù hợp của chính sách trong đề nghị xây dựng văn bản và nội dung dự thảo văn bản với đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách của Nhà nước”. Thứ hai, quy định về phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong quy trình xây dựng, ban hành VBQPPL: Luật năm 2020 sửa đổi, bổ sung Điều 6 của Luật năm 2015 để quy định về phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong quy trình xây dựng, ban hành VBQPPL. Cụ thể, khoản 2 Điều 6 quy định rõ thời điểm thực hiện phản biện xã hội được thực hiện trong giai đoạn tổ chức lấy ý kiến về dự thảo VBQPPL và trường hợp dự thảo VBQPPL đã được phản biện xã hội thì hồ sơ dự án, dự thảo gửi thẩm định, thẩm tra, trình cơ quan có thẩm quyền phải bao gồm văn bản phản biện xã hội. Đồng thời, bổ sung trách nhiệm của cơ quan chủ trì soạn thảo trong việc nghiên cứu, giải trình, tiếp thu ý kiến phản biện xã hội khi chỉnh lý dự thảo văn bản. Các nội dung khác liên quan đến phản biện xã hội được thực hiện theo quy định của Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. Thứ ba, bổ sung một số hình thức VBQPPL: (1) Bổ sung hình thức nghị quyết liên tịch giữa Ủy ban thường vụ Quốc hội, Chính phủ với Đoàn Chủ tịch Ủy ban trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam(Nghị quyết liên tịch 3 bên) để phù hợp với quy định của Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam năm 2015, và Luật Bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân năm 2015. Đồng thời, bổ sung nội dung ban hành nghị quyết liên tịch để “hướng dẫn một số vấn đề cần thiết trong công tác bầu cử đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân” (sửa đổi, bổ sung Điều 18). (2) Bổ sung hình thức thông tư liên tịch giữa Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Tổng Kiểm toán nhà nước, Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ. Cụ thể, Luật năm 2020 đã bổ sung khoản 8a vào Điều 4 và sửa đổi Điều 25 của Luật năm 2015, trong đó, bổ sung Tổng Kiểm toán nhà nước là một chủ thể ban hành thông tư liên tịch với Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ. Đồng thời, bổ sung nội dung ban hành thông tư liên tịch để quy định về việc phối hợp của các cơ quan này trong việc thực hiện “phòng, chống tham nhũng”. Việc sửa đổi, bổ sung này là để bảo đảm sự thống nhất giữa Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật với quy định của Luật Phòng, chống tham nhũng và đáp ứng yêu cầu của thực tiễn. Thứ tư, bổ sung quy định về ban hành VBQPPL của cấp huyện, cấp xã: Để phù hợp với quy định của Luật Tổ chức chính quyền địa phương, Luật năm 2020 đã sửa đổi, bổ sung Điều 30 của Luật năm 2015 để cho phép HĐND cấp huyện ban hành nghị quyết, UBND cấp huyện ban hành quyết định quy phạm pháp luật để thực hiện việc phân cấp cho chính quyền địa phương, cơ quan nhà nước cấp dưới. Bên cạnh đó, ngoài trường hợp “được luật giao”, Luật năm 2020 bổ sung trường hợp “nghị quyết của Quốc hội giao” thì HĐND cấp huyện, cấp xã, UBND cấp huyện, cấp xã cũng được phép ban hành VBQPPL. Thứ năm, các loại VBQPPL phải lập đề nghị xây dựng VBQPPL: Để xác định lại cho hợp lý, sát thực tế hơn các văn bản quy phạm pháp luật cần thiết phải lập đề nghị xây dựng theo quy trình chính sách, Luật năm 2020 bỏ yêu cầu lập đề nghị xây dựng theo quy trình chính sách đối với nghị định quy định tại khoản 2 Điều 19 và nghị quyết của HĐND cấp tỉnh quy định tại khoản 2 và khoản 3 Điều 27 của Luật năm 2015. Bên cạnh đó, để phù hợp với việc thu hẹp phạm vi loại VBQPPL phải lập đề nghị theo quy trình chính sách, Luật năm 2020 đã sửa đổi, bổ sung các Điều 84, 85, 87, 88, 89, 90, 92, 93, 111, 117, 119, 121 và Điều 122 của Luật năm 2015 để quy định cụ thể trình tự, thủ tục đề nghị xây dựng và soạn thảo nghị định tại khoản 2 Điều 19 và nghị quyết tại khoản 2, khoản 3 Điều 27 của Luật năm 2015. Thứ sáu, nâng cao trách nhiệm, hiệu quả phối hợp của các cơ quan trong quá trình thẩm tra, tiếp thu, chỉnh lý dự án luật, nghị quyết của Quốc hội, dự án pháp lệnh, dự thảo nghị quyết của UBTVQH: (1) Tăng cường trách nhiệm của Hội đồng dân tộc (HĐDT) và các Ủy ban của Quốc hội trong hoạt động thẩm tra: Để nâng cao vai trò của HĐDT và các Ủy ban của Quốc hội trong quá trình thẩm tra đề nghị xây dựng và dự án, dự thảo luật, pháp lệnh, nghị quyết, đồng thời, tạo sự chủ động cho các cơ quan này, Luật năm 2020 sửa đổi, bổ sung một số quy định sau đây: (1) bổ sung trách nhiệm của HĐDT, các Ủy ban của Quốc hội phải gửi văn bản thẩm tra đến Ủy ban pháp luật và cử đại diện tham dự phiên họp thẩm tra của Ủy ban pháp luật khi thẩm tra đề nghị xây dựng luật, pháp lệnh, kiến nghị về luật, pháp lệnh (sửa đổi, bổ sung Điều 47); (2) quy định rõ trách nhiệm tham gia thẩm tra dự án, dự thảo do cơ quan khác của Quốc hội chủ trì thẩm tra về những nội dung liên quan đến lĩnh vực do mình phụ trách (sửa đổi, bổ sung Điều 63); (3) bổ sung nội dung thẩm tra về việc bảo đảm chính sách dân tộc nếu dự thảo văn bản có quy định liên quan đến vấn đề dân tộc (bổ sung khoản 6 Điều 65); (4) bổ sung một điều (Điều 68a) để quy định trách nhiệm của HĐDT trong thẩm tra việc bảo đảm chính sách dân tộc trong dự án luật, pháp lệnh, dự thảo nghị quyết. (2) Nâng cao trách nhiệm và tăng cường sự phối hợp của các cơ quan trong quá trình tiếp thu, chỉnh lý dự án luật, pháp lệnh, nghị quyết: Luật năm 2020 sửa đổi, bổ sung 04 điều (Điều 74, 75, 76 và Điều 77) của Luật năm 2015 nhằm phân định rõ, nâng cao hơn trách nhiệm và tăng cường sự phối hợp giữa các cơ quan có liên quan trong quá trình tiếp thu, chỉnh lý dự án luật, pháp lệnh, nghị quyết. Cụ thể như sau: Thứ nhất, bổ sung quy định “Cơ quan, tổ chức, đại biểu Quốc hội trình dự án, dự thảo có ý kiến bằng văn bản về những nội dung giải trình, tiếp thu, chỉnh lý dự thảo, trong đó nêu rõ vấn đề có ý kiến khác với dự thảo báo cáo giải trình, tiếp thu, chỉnh lý và đề xuất phương án để báo cáo Ủy ban thường vụ Quốc hội” (điểm b khoản 7 Điều 74, điểm b khoản 2 Điều 75, điểm e khoản 1 Điều 77). Thứ hai, bổ sung quy định “Đối với những chính sách mới được đại biểu Quốc hội đề nghị bổ sung vào dự thảo luật thì trong trường hợp cần thiết, theo yêu cầu của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, cơ quan trình dự án có trách nhiệm tổ chức đánh giá tác động của chính sách để báo cáo Quốc hội” (điểm a khoản 2 Điều 75, điểm b khoản 2 Điều 76). Thứ ba, bổ sung quy định “Ủy ban Thường vụ Quốc hội quyết định việc tổ chức Hội nghị đại biểu Quốc hội hoạt động chuyên trách trong trường hợp cần thiết để thảo luận, cho ý kiến đối với những dự án, dự thảo có những vấn đề quan trọng, vấn đề lớn còn nhiều ý kiến khác nhau” (điểm d khoản 2 Điều 75). Thứ tư, bổ sung quy định “Tổng thư ký Quốc hội tổ chức tổng hợp ý kiến của đại biểu Quốc hội, kết quả biểu quyết để báo cáo Ủy ban thường vụ Quốc hội và gửi cơ quan chủ trì thẩm tra, cơ quan, tổ chức, đại biểu Quốc hội trình dự án, dự thảo” (khoản 6 Điều 74, điểm c khoản 3 Điều 75). Thứ năm, quy định rõ hơn trách nhiệm phối hợp của Bộ Tư pháp trong suốt quá trình tiếp thu, chỉnh lý dự thảo luật, nghị quyết giữa 2 kỳ họp của Quốc hội. Theo đó, Luật năm 2020 đã bổ sung trách nhiệm của Bộ Tư pháp trong việc phối hợp với Thường trực cơ quan chủ trì thẩm tra, cơ quan, tổ chức, đại biểu Quốc hội trình dự án, dự thảo và Thường trực Ủy ban Pháp luật để nghiên cứu, giải trình, tiếp thu, chỉnh lý dự thảo và hoàn thiện dự thảo báo cáo giải trình, tiếp thu, chỉnh lý theo ý kiến của đại biểu Quốc hội, Đoàn đại biểu Quốc hội, Hội đồng Dân tộc và các Ủy ban của Quốc hội trinh Ủy ban Thường vụ Quốc hội (điểm đ khoản 2 Điều 75). Thứ bảy, tiếp tục hoàn thiện các quy định về việc xây dựng, ban hành VBQPPL theo trình tự, thủ tục rút gọn: (1) Về các trường hợp xây dựng, ban hành VBQPPL theo trình tự, thủ tục rút gọn: Luật năm 2020 bổ sung 03 trường hợp (vào Điều 146 của Luật năm 2015), gồm: (1) Để bãi bỏ một phần hoặc toàn bộ VBQPPL trái pháp luật hoặc không còn phù hợp với tình hình phát triển kinh tế - xã hội; (2) Để kéo dài thời hạn áp dụng toàn bộ hoặc một phần của VBQPPL trong một thời hạn nhất định để giải quyết những vấn đề cấp bách phát sinh trong thực tiễn; (3) Cần ban hành ngay văn bản để thực hiện điều ước quốc tế có liên quan mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên; (2) Về thẩm quyền ban hành VBQPPL theo trình tự, thủ tục rút gọn: Luật năm 2020 bổ sung thẩm quyền của Thủ tướng Chính phủ trong việc quyết định cho phép áp dụng trình tự, thủ tục rút gọn đối với thông tư của Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ ban hành trong trường hợp cấp bách để giải quyết những vấn đề phát sinh trong thực tiễn quy định tại khoản 1 Điều 146 của Luật năm 2015. Để kiểm soát chặt chẽ việc ban hành thông tư theo trình tự, thủ tục rút gọn, Luật năm 2020 quy định: “Văn bản đề nghị Thủ tướng Chính phủ quyết định áp dụng trình tự, thủ tục rút gọn đối với thông tư của Bộ trưởng, thủ trưởng cơ quan ngang bộ phải kèm theo ý kiến bằng văn bản của Bộ trưởng Bộ Tư pháp”. (3) Bổ sung khoản 3a vào sau khoản 3 Điều 147 Luật năm 2015 quy định về thẩm quyền quyết định việc xây dựng, ban hành văn bản theo trình tự, thủ tục rút gọn của Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Tổng Kiểm toán nhà nước. Thứ tám, về quy định thủ tục hành chính trong VBQPPL: Luật năm 2020 đã sửa đổi, bổ sung khoản 4 Điều 14 (Những hành vi bị nghiêm cấm) của Luật năm 2015, theo đó, bổ sung trường hợp ngoại lệ cho phép địa phương được quy định thủ tục hành chính trong trường hợp cần thiết phải quy định thủ tục hành chính trong nghị quyết của HĐND cấp tỉnh quy định tại khoản 4 Điều 27 của Luật. Đồng thời, sửa đổi, bổ sung khoản 4 Điều 172 (Hiệu lực thi hành) cho phép việc sửa đổi, bổ sung các VBQPPL có quy định thủ tục hành chính được ban hành trước ngày 01/7/2016 với điều kiện không được làm phát sinh thủ tục hành chính mới hoặc quy định thêm thành phần hồ sơ, yêu cầu, điều kiện, tăng thời gian giải quyết thủ tục hành chính đang áp dụng. Thứ chín, nâng cao trách nhiệm của cơ quan lập đề nghị, chủ trì soạn thảo, cơ quan có thẩm quyền ban hành VBQPPL trong quá trình xây dựng, ban hành văn bản: (1) Để khắc phục tình trạng xung đột, mâu thuẫn giữa có thể xảy ra giữa các VBQPPL, Luật năm 2020 bổ sung vào khoản 2 Điều 12 quy định: “Trường hợp văn bản, phần, chương, mục, tiểu mục, điều, khoản, điểm của văn bản quy phạm pháp luật do mình đã ban hành có quy định khác với văn bản mới nhưng cần tiếp tục được áp dụng thì phải được chỉ rõ trong văn bản mới đó”. Khoản 2 Điều 12 của Luật năm 2015 cũng đã được sửa đổi để quy định theo hướng linh hoạt hơn đối với việc sửa đổi, bổ sung, bãi bỏ văn bản, phần, chương, mục, tiểu mục, điều, khoản, điểm của văn bản đã ban hành trái với quy định của văn bản mới. Theo đó, “Khi ban hành văn bản quy phạm pháp luật, cơ quan ban hành văn bản phải đồng thời sửa đổi, bổ sung, bãi bỏ văn bản, phần, chương, mục, tiểu mục, điều, khoản, điểm của văn bản quy phạm pháp luật do mình đã ban hành trái với quy định của văn bản mới đó...” thay vì yêu cầu phải sửa đổi, bổ sung, bãi bỏ ngay trong văn bản mới đó như quy định của Luật năm 2015. (2) Bổ sung trách nhiệm của cơ quan chủ trì soạn thảo trong việc xây dựng Báo cáo về rà soát các VBQPPL có liên quan đến dự án, dự thảo; đồng thời, bổ sung Báo cáo này vào hồ sơ gửi thẩm định, thẩm tra, trình cơ quan có thẩm quyền xem xét, thông qua (tại các Điều 58, 59, 62, 64, 92 và Điều 93 của Luật năm 2015). (3) Nhằm nâng cao trách nhiệm của chủ thể có thẩm quyền đề nghị xây dựng luật, pháp lệnh của Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội, nghị định của Chính phủ, nghị quyết của HĐND cấp tỉnh trong việc chuẩn bị hồ sơ đề nghị và giúp cho cơ quan có thẩm quyền có thêm thông tin khi xem xét, thông qua đề nghị, Luật năm 2020 yêu cầu trong hồ sơ đề nghị phải có “Dự kiến đề cương chi tiết” thay cho “Đề cương” như quy định trong Luật năm 2015 (tại các Điều 37, 87 và Điều 114 của Luật năm 2015). Theo Cổng thông tin điện tử Bộ Tư pháp
Nhận định đúng/sai về luật ban hành văn bản
Thủ tướng chính phủ có quyền ban hành văn bản quy phạm pháp luật có tên là Quyết định và Nghị quyết. Nhận định này đúng hay sai?
04 điểm mới dự kiến sửa đổi tại Luật ban hành VBQPPL
Theo toàn văn dự thảo do Quốc Hội ban hành thì Luật sửa đổi so với Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật 2015 có 04 điểm mới nổi bật như sau: 1. Luật sửa đổi bổ sung có thay đổi, bổ sung một số từ ngữ trong Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật như sau: - Bổ sung cụm từ “Báo cáo giải trình, tiếp thu ý kiến thẩm định” vào sau cụm từ “Báo cáo thẩm định” tại điểm b khoản 2 Điều 140. - Có 04 cụm từ tại các điều, khoản, điểm được thay thế như sau: + Cụm từ “Báo cáo đánh giá tác động của văn bản” được thay bằng cụm từ “Báo cáo đánh giá tác động của chính sách” tại điểm c khoản 2 Điều 95; + Cụm từ “Báo cáo tổng hợp, giải trình, tiếp thu ý kiến của cơ quan, tổ chức, cá nhân và đối tượng chịu sự tác động trực tiếp của văn bản” được thay bằng cụm từ “Bản tổng hợp, giải trình, tiếp thu ý kiến của cơ quan, tổ chức, cá nhân và đối tượng chịu sự tác động trực tiếp của văn bản” tại điểm c khoản 2 Điều 98; cụm từ “khoản 1 Điều này” bằng cụm từ “khoản 3 Điều này” tại khoản 5 Điều 98; + Cụm từ “đối tượng chịu sự tác động trực tiếp của dự thảo nghị quyết” được thay bằng cụm từ “đối tượng chịu sự tác động trực tiếp của chính sách trong đề nghị xây dựng nghị quyết” tại khoản 2 Điều 113; + Cụm từ “Nội dung đánh giá tác động của từng chính sách trong đề nghị xây dựng nghị quyết” bằng cụm từ “Báo cáo đánh giá tác động của chính sách trong đề nghị xây dựng nghị quyết” tại khoản 2 Điều 114; - Bỏ 02 cụm từ sau: + Cụm từ “Dự thảo văn bản quy định chi tiết và” tại điểm e khoản 1 Điều 64; + Cụm từ “và chuẩn bị văn bản” tại khoản 2 Điều 65. (Căn cứ: Khoản 1, Điều 1 Luật sửa đổi bổ sung Luật ban hành VB QPPL) 2. Thời điểm có hiệu lực của văn bản . Luật BHVBQPPL năm 2015 Luật sửa đổi bổ sung Luật BHVBQPPL Thời điểm có hiệu lực của toàn bộ hoặc một phần văn bản quy phạm pháp luật được quy định tại văn bản đó nhưng không sớm hơn 45 ngày kể từ ngày thông qua hoặc ký ban hành đối với văn bản quy phạm pháp luật của cơ quan nhà nước trung ương; Không sớm hơn 10 ngày kể từ ngày ký ban hành đối với văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân; Ủy ban nhân dân cấp tỉnh; không sớm hơn 07 ngày kể từ ngày ký ban hành đối với văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân cấp huyện và cấp xã. Không sớm hơn 10 ngày kể từ ngày thông qua nghị quyết của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh hoặc ký ban hành quyết định của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh; không sớm hơn 07 ngày kể từ ngày thông qua nghị quyết của Hội đồng nhân dân cấp huyện, cấp xã hoặc ký ban hành quyết định của Ủy ban nhân dân cấp huyện, cấp xã. (Căn cứ: Khoản 45, Điều 1 Luật sửa đổi bổ sung Luật ban hành VB QPPL) 3. Cụ thể hóa các bước xây dựng văn bản pháp luật của Quốc hội. - Đối với Trình tự Ủy ban thường vụ Quốc hội xem xét, cho ý kiến về dự án luật, dự thảo nghị quyết của Quốc hội bổ sung thêm: “Trường hợp Ủy ban Thường vụ Quốc hội quyết định chưa trình Quốc hội dự án luật, dự thảo nghị quyết thì nêu rõ lý do và yêu cầu hoàn thiện hồ sơ.” 4. Bổ sung cơ quan ban hành Thông tư liên tịch Theo quy đinh thì tại Luật sửa đổi thì bổ sung Tổng kiểm toàn nhà nước ban hành thông tư liên tịch với Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ. Cụ thể: "Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ, Tổng Kiểm toán nhà nước ban hành thông tư liên tịch để quy định về việc phối hợp giữa các cơ quan này trong việc thực hiện trình tự, thủ tục tố tụng". (Căn cứ: Khoản 7, Điều 1 Luật sửa đổi bổ sung Luật ban hành VBQPPL) (Còn nữa) Mời bạn xem văn bản chi tiết tại file đính kèm:
Văn bản hành chính có thể bãi bỏ văn bản quy phạm pháp luật?
Văn bản quy phạm pháp luật là văn bản có chứa quy phạm pháp luật, được ban hành theo đúng thẩm quyền, hình thức, trình tự, thủ tục quy định. (Điều 2 Luật Ban hành văn bản quy pháp luật 2015) Quyết định hành chính là văn bản do cơ quan hành chính nhà nước, cơ quan, tổ chức được giao thực hiện quản lý hành chính nhà nước ban hành hoặc người có thẩm quyền trong cơ quan, tổ chức đó ban hành quyết định về vấn đề cụ thể trong hoạt động quản lý hành chính được áp dụng một lần đối với một hoặc một số đối tượng cụ thể. (Căn cứ Khoản 1 Điều 3 Luật tố tụng hành chính 2015) Nghe qua có vẻ vô lý, khi văn bản quy phạm pháp luật (VBQPPL) lại có thể bị bãi bỏ bởi văn bản hành chính. Tuy nhiên, đây lại là sự thật! Cụ thể trong trường hợp này là đối với chỉ thị của UBND các cấp. Trước đây, khoản 2 Điều 1 Luật ban hành VBQPPL của HĐND, UBND 2004 quy định: "Văn bản quy phạm pháp luật của Uỷ ban nhân dân được ban hành dưới hình thức quyết định, chỉ thị". Khi Luật ban hành VBQPPL 2015 được ban hành, chỉ thị của UBND các cấp đã bị loại khỏi hệ thống VBQPPL. Tuy nhiên, khoản 2 Điều 172 của Luật ban hành VBQPPL 2015 quy định: “... chỉ thị của Ủy ban nhân dân các cấp là văn bản quy phạm pháp luật được ban hành trước ngày Luật này có hiệu lực thì tiếp tục có hiệu lực cho đến khi có văn bản bãi bỏ hoặc bị thay thế bằng văn bản quy phạm pháp luật khác”. Vậy nên, những chỉ thị của UBND các cấp ban hành trước ngày 01/7/2016 vẫn có hiệu lực cho đến khi có văn bản bãi bỏ hoặc bị thay thế. Câu hỏi đặt ra là: Văn bản nào sẽ được dùng để bãi bỏ chỉ thị? Về vấn đề này, Bộ Tư pháp đã có Công văn 4218/BTP-VĐCXDPL ngày 28/11/2016 hướng dẫn như sau: "...UBND các cấp có thể ban hành quyết định hành chính để bãi bỏ chỉ thị là văn bản quy phạm pháp luật mà mình đã ban hành." Ảnh minh họa Như vậy, trong trường hợp này, văn bản hành chính (quyết định hành chính) có thể bãi bỏ VBQPPL là không hề vô lý nhé (mình không nói phết đâu).
03 sửa đổi đáng chú ý tại dự án sửa đổi Luật ban hành các VBQPPL
Ngày 08/6/2018, tại Kỳ họp thứ 5, Quốc hội khóa XIV đã thông qua Nghị quyết số 57/2018/QH14 về Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 2019 và điều chỉnh Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 2018, theo đó, dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật sẽ trình Quốc hội cho ý kiến tại Kỳ họp thứ 8 (tháng 10/2019) Trong đó có những nội dung nổi bật sau: 1. Sửa đổi khoản 2 Điều 146 về "Quy định các trường hợp xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật theo trình tự, thủ tục rút gọn": “2. Trường hợp để bãi bỏ toàn bộ hoặc một phần văn bản quy phạm pháp luật đã được thay thế bằng văn bản quy phạm pháp luật khác hoặc không còn được áp dụng trên thực tế; ngưng hiệu lực toàn bộ hoặc một phần của văn bản quy phạm pháp luật để kịp thời bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân; kéo dài thời hạn áp dụng toàn bộ hoặc một phần của văn bản quy phạm pháp luật trong một thời hạn nhất định để giải quyết những vấn đề cấp bách phát sinh trong thực tiễn và trường hợp cần ban hành ngay văn bản để thực hiện điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên.” 2. Sửa đổi khoản 1 Điều 151 về "Thời điểm có hiệu lực của văn bản quy phạm pháp luật" như sau: “1. Thời điểm có hiệu lực của toàn bộ hoặc một phần văn bản quy phạm pháp luật được quy định tại văn bản đó nhưng không sớm hơn 45 ngày kể từ ngày thông qua hoặc ký ban hành đối với văn bản quy phạm pháp luật của cơ quan nhà nước trung ương; không sớm hơn 10 ngày kể từ ngày thông qua nghị quyết của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh hoặc ký ban hành đối với văn bản quy phạm pháp luật (quyết định) của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh; không sớm hơn 07 ngày kể từ ngày thông qua nghị quyết của Hội đồng nhân dân cấp huyện, cấp xã hoặc ký ban hành đối với quyết định của Ủy ban nhân dân cấp huyện và cấp xã.” 3. Sửa đổi, bổ sung khoản 4 Điều 172 về "Hiệu lực thi hành" như sau: “4. Những quy định về thủ tục hành chính trong văn bản quy phạm pháp luật do cơ quan, người có thẩm quyền quy định tại khoản 4 Điều 14 của Luật này được ban hành trước ngày Luật này có hiệu lực thì tiếp tục được áp dụng cho đến khi bị bãi bỏ bằng văn bản khác hoặc bị thay thế bằng thủ tục hành chính mới. Trường hợp sửa đổi, bổ sung thủ tục hành chính được ban hành trước ngày 01 tháng 7 năm 2016 thì không được làm phát sinh thủ tục hành chính mới hoặc quy định thêm thành phần hồ sơ, yêu cầu, điều kiện, tăng thời gian giải quyết thủ tục hành chính đang áp dụng.” Mời bạn xem chi tiết tại file đính kèm:
Thưa các bạn! Theo khoản 1 điều139 của luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật thì hồ sơ thẩm định bao gồm a) Tờ trình của UBND về dự thảo quyết định vậy Tôi muốn hỏi nếu sau khi thẩm định xong của phòng Tư pháp huyện thì Tờ trình dự thảo này ai ký. tôi thấy điều bất cập ở đây là UBND huyện ban hành Quyết định của UBND huyện, trong hồ sơ xin thông qua dụ thảo quyết định có tờ trình của UBND huyện. Nếu Tờ trình do UBND ký, vậy UBND huyện xin UBND huyện xem xét thông qua quyết định là chưa họp lý. Vậy các bạn giải thích cho tôi rõ vấn đề này Cảm ơn!
Lo lắng trước tình trạng ban hành văn bản pháp luật hiện nay
Chắc hẳn các bạn cũng đã biết sự kiện lớn nhất chưa từng có từ trước đến giờ đó là Bộ luật hình sự 2015 chuẩn bị đến ngày có hiệu lực (01/7/2016) thì buộc phải lùi lại thời gian thi hành vì phát hiện ra có quá nhiều sai sót, cần phải chỉnh sửa cả về lỗi kỹ thuật lẫn nội dung. Từ thời điểm phát hiện ra sai sót đến nay, cũng đã hơn 4 tháng, thì đến hạn phải trình Dự thảo Bộ luật hình sự sửa đổi 2016. Lần trình Quốc hội thông qua bản chỉnh sửa này, tôi cũng như bao người khác hy vọng rằng, Bộ luật hình sự này sẽ không bị chỉnh sửa nữa. Những tưởng đã rút kinh nghiệm từ những người khác, hoặc từ những người đi trước thì hôm qua, tôi lại phát hiện thêm những sai sót được nêu ra tại Thông tư 133/2016/TT-BTC về chế độ kế toán cho doanh nghiệp vừa và nhỏ. Nhắc đến kế toán thì chúng ta lại nghĩ ngay đến việc phải hết sức cẩn trọng, chi tiết từng chút một về các con số, phải tuân thủ theo những quy tắc nhất định đã được luật hóa trong các văn bản pháp luật. Nhưng ở đây, ngay cả khâu ban hành cũng như kiểm duyệt văn bản pháp luật trước khi thông qua lại thiếu đi sự cẩn trọng, chi tiết cần phải có, trong khi công việc kế toán luôn đặt ra những nguyên tắc đó để những người thực hiện phải tuân thủ theo. Nếu vi phạm những nguyên tắc đó thì nguy cơ phải đi tù là rất cao. Kế đến, câu chuyện liên quan đến Luật sửa đổi Luật liên quan đến đầu tư, kinh doanh, mới đầu tôi thật sự rất choáng khi hay tin, Luật này sửa đổi đến những 12 Luật có liên quan đến đầu tư, kinh doanh. Cứ hy vọng rằng mình nghe nhầm tin này, nhưng quả thật không phải nhầm mà là sự thật. Trong lịch sử lập pháp nước nhà, cũng chưa từng thấy có Luật nào sửa đổi nhiều Luật đến như vậy, mãi đến hôm qua tại phiên họp Ủy ban Thường vụ Quốc hội, sau khi có ý kiến của chủ tịch Quốc hội và những người có mặt tại phiên họp đó thì mới quyết định rút việc sửa đổi các Luật này xuống chỉ còn 03 Luật, đồng thời cần phải có thời gian chuẩn bị thêm. Trên đây chỉ là vài vụ thực tế cho thấy, thời gian gần đây, có quá nhiều vấn đề liên quan công tác ban hành văn bản pháp luật, đặc biệt là vấn đề liên quan đến sự cẩn trọng chi tiết, điều mà theo tôi đó là nguyên tắc nền tảng mà những người làm công tác ban hành văn bản pháp luật cần phải có – bởi lẽ khi một văn bản pháp luật được ban hành, có khi nó ảnh hưởng đến đời sống của người dân, trong đó có tôi và các bạn, tính sống còn của một doanh nghiệp hay một chiến lược kinh doanh trong ngắn hạn hoặc trung hạn... Vậy thì phải làm gì để khắc phục những sai sót đó, để nâng cao tính cẩn trọng chi tiết trong việc ban hành văn bản quy phạm pháp luật hiện nay?
Thông tư liên tịch giữa các Bộ có còn được áp dụng từ ngày 01/7/2016 nữa không?
Chào mọi người, trong topic thảo luận trước đây của mình về “Lúng túng khi chọn văn bản pháp luật để áp dụng từ 01/7/2016” có nói đến vấn đề chồng chéo hiệu lực áp dụng giữa các văn bản pháp luật thì nay mình lại thêm một thắc mắc không biết bày tỏ cùng ai, nên mong mọi người ở cộng đồng giải đáp giúp: Tại Điều 4 Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật 2015 quy định về hệ thống văn bản quy phạm pháp luật, mà cụ thể là Khoản 8: Điều 4. Hệ thống văn bản quy phạm pháp luật 1. Hiến pháp. 2. Bộ luật, luật (sau đây gọi chung là luật), nghị quyết của Quốc hội. 3. Pháp lệnh, nghị quyết của Ủy ban thường vụ Quốc hội; nghị quyết liên tịch giữa Ủy ban thường vụ Quốc hội với Đoàn Chủ tịch Ủy ban trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. 4. Lệnh, quyết định của Chủ tịch nước. 5. Nghị định của Chính phủ; nghị quyết liên tịch giữa Chính phủ với Đoàn Chủ tịch Ủy ban trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. 6. Quyết định của Thủ tướng Chính phủ. 7. Nghị quyết của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao. 8. Thông tư của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao; thông tư của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao; thông tư của Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ; thông tư liên tịch giữa Chánh án Tòa án nhân dân tối cao với Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao; thông tư liên tịch giữa Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ với Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao; quyết định của Tổng Kiểm toán nhà nước. 9. Nghị quyết của Hội đồng nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương (sau đây gọi chung là cấp tỉnh). 10. Quyết định của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh. 11. Văn bản quy phạm pháp luật của chính quyền địa phương ở đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt. 12. Nghị quyết của Hội đồng nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh, thành phố thuộc thành phố trực thuộc trung ương (sau đây gọi chung là cấp huyện). 13. Quyết định của Ủy ban nhân dân cấp huyện. 14. Nghị quyết của Hội đồng nhân dân xã, phường, thị trấn (sau đây gọi chung là cấp xã). 15. Quyết định của Ủy ban nhân dân cấp xã. Tại Khoản này chỉ thừa nhận Thông tư liên tịch giữa Chánh án TANDTC với Viện trưởng VKSNDTC, giữa Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ với Chánh án TANDTC, Viện trưởng VKSNDTC và không đề cập đến Thông tư liên tịch giữa các Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ như Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật 2008 đã nêu. Điều này đồng nghĩa với việc không thừa nhận Thông tư liên tịch giữa các Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ là một văn bản quy phạm pháp luật. Mà mới đây, có hàng loạt Thông tư liên tịch mới được ban hành giữa các Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ thì liệu đến ngày 01/7/2016 các Thông tư liên tịch này có đựơc áp dụng không? Liệu các Thông tư liên tịch này có giá trị pháp lý không hay nó chỉ mang bản chất như một Công văn – vốn lại văn bản dùng để trao đổi giữa các cơ quan nhà nước với nhau và với cơ quan, tổ chức, cá nhân khác? Mọi người nghĩ sao về vấn đề này?
văn bản hướng dẫn thi hành có thể sẽ được ban hành nhanh hơn
Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật 2015 có hiệu lực liệu có làm cho cơ quan ban hành ra văn bản hướng dẫn nhanh hơn? Theo quy định trước đây của Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật 2008 thì văn bản quy phạm pháp luật chỉ hết hiệu lực trong 03 trường hợp: 1. Hết thời hạn có hiệu lực đã được quy định trong văn bản; 2. Được sửa đổi, bổ sung hoặc thay thế bằng văn bản mới của chính cơ quan nhà nước đã ban hành văn bản đó; 3. Bị hủy bỏ hoặc bãi bỏ bằng một văn bản của cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Điều đó có nghĩa là luật hết hiệu lực thì nghị định hay thông tư hướng dẫn vẫn còn hiệu lực nếu các văn bản này không rơi vào 1 trong 3 trường hợp hết hiệu lực như trên, như vậy các cơ quan ban hành có xu hướng ban hành chậm các văn bản hướng dẫn của luật mới vì văn bản cũ vẫn còn áp dụng, vẫn có thể hướng dẫn được những nội dung không trái với quy định của luật mới. Tuy nhiên sắp tới ngày 01/07/2016 Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật 2015 bắt đầu có hiệu lực đã quy định những văn bản hướng dẫn chi tiết sẽ hết hiệu lực khi văn bản được hướng dẫn hết hiệu lực như vậy khi ban hành luật các cơ quan cần phải nhanh chóng có những nội dung ban hành để hướng dẫn thực hiện những nội dung của luật, nghị định để áp dụng luật hiệu quả. Hi vọng quy định này sẽ là dấu hiệu tốt cho việc ban hành nhanh chóng những nội dung hướng dẫn áp dụng luật để cho người dân, các doanh nghiệp và các đối tượng khác làm về luật có thể nắm bắt và áp dụng pháp luật đầy đủ theo quy định.
Lúng túng khi chọn văn bản pháp luật để áp dụng từ 01/7/2016
Từ ngày 01/7/2016, Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật 2015 bắt đầu có hiệu lực, dẫn đến việc hàng loạt văn bản sẽ hết hiệu lực do có quy định tại Khoản 4 Điều 154 “Văn bản quy phạm pháp luật hết hiệu lực thì văn bản quy phạm pháp luật quy định chi tiết thi hành, văn bản đó cũng đồng thời hết hiệu lực.” Ban đầu đọc quy định này, tôi rất mừng vì sẽ bỏ đi sự chồng chéo quy định giữa các văn bản pháp luật cũ và văn bản pháp luật mới, tạo sự thuận lợi hơn cho người thực thi, áp dụng văn bản pháp luật. Nhưng ngày 01/7/2016 càng đến gần tôi thấy lo nhiều hơn là mừng, bởi: - Quy định này giúp cho cơ quan ban hành đỡ được khâu “rà soát lại” văn bản cũ, nhưng lại làm khó người thực thi như tôi đây, bởi việc xác định văn bản hướng dẫn chỉ mang tính chất tương đối, ngoại trừ nhiều văn bản ghi rõ “Nghị định…quy định chi tiết thi hành Luật…” - Rồi nếu Luật đã có hiệu lực mà chưa có văn bản hướng dẫn thì dựa vào đâu để áp dụng? Thêm cái nữa, hồi tháng 4/2016 vừa rồi, Chính phủ có tổ chức phiên họp thường kỳ trong đó có bàn về chuyện nếu như chưa có văn bản hướng dẫn Luật mới thì Chính phủ sẽ thống nhất tiếp tục áp dụng nếu không trái với tinh thần của Luật, pháp lệnh. Vậy nghĩa là việc thực thi vẫn chưa sát sao, thống nhất như Luật đã định? - Còn khoảng hơn 10 ngày nữa thôi là đến 01/7, các cơ quan, ban ngành đang “gấp rút” ban hành văn bản hướng dẫn, bỏ qua cả khâu đưa ra dự thảo, lấy ý kiến, đánh giá tác động…Điều này làm tôi lo sợ rằng, ban hành “vội” rồi người thực thi như chúng tôi sẽ ra sao đây? Trên đây là vài dòng tâm tư của tôi trước khi hàng loạt các văn bản “bị khai tử”, còn bạn, bạn nghĩ sao về vấn đề này?
Về việc áp dụng các văn bản QPPL dưới luật khi văn bản QPPL làm cơ sở hết hiệu lực hoặc bị bãi bỏ.
Trên thực tế, đến nay, xã hội ghi nhận việc các Bộ ngành TW và địa phương đang nợ một khối lượng lớn văn bản hướng dẫn, điều chỉnh phù hợp với các Luật mới, quy định mới. Việc xây dựng không kịp thời, không đầy đủ các văn bản dưới luật gây khó khăn rất lớn trong việc áp dụng luật. Tuy nhiên, trong các Văn bản QPPL mới ban hành luôn có điểm thòng "Luật này, Nghị định này, Thông tư này, Quyết định này,... bãi bỏ Luật, Nghị định, Thông tư, Quyết định kia và các quy định có liên quan trái với các quy định tại Luật này,..." Xin được hướng dẫn làm rõ cách quy định nêu trên. Ví dụ: Thông tư A, xây dựng để hướng dẫn Nghị định B, Nghị định B hướng dẫn thi hành Luật C. Khi Luật D thay thế, bãi bỏ Luật C, nhưng chưa có Nghị định, Thông tư hướng dẫn thi hành Luật D, mà những điều khoản của Nghị định B và Thông tư A có nhiều điều không trái với Luật D thì có còn hiệu lực áp dụng hay không? Mong được tư vấn, làm rõ. Xin cảm ơn và chúc sức khỏe Diễn dàn.
Re:Tất cả điểm mới Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật 2015
100. Lấy ý kiến về dự thảo quyết định của UBND cấp tỉnh Việc lấy ý kiến dự thảo quyết định của UBND cấp tỉnh được thực hiện như với việc lấy ý kiến dự thảo Nghị quyết của HĐND cấp tỉnh. (Căn cứ Điều 129 Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật 2015) 101. Thẩm định dự thảo quyết định của UBND cấp tỉnh Việc thẩm định dự thảo quyết định của UBND cấp tỉnh được thực hiện như với việc thẩm định dự thảo Nghị quyết của HĐND cấp tỉnh. Sở Tư pháp có trách nhiệm thẩm định dự thảo quyết định trước khi trình UBND cấp tỉnh. (Căn cứ Điều 130 Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật 2015) 102. Hồ sơ dự thảo quyết định trình UBND cấp tỉnh Hồ sơ dự thảo quyết định trình UBND cấp tỉnh tương tự như với hồ sơ dự thảo nghị quyết trình HĐND cấp tỉnh. Cơ quan chủ trì soạn thảo gửi hồ sơ dự thảo quyết định đến UBND cấp tỉnh chậm nhất là 03 ngày làm việc trước ngày UBND họp để chuyển đến các thành viên UBND. (Căn cứ Điều 131 Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật 2015) 103. Quy định lại trình tự xem xét, thông qua dự thảo quyết định của UBND cấp tỉnh - Tùy theo tính chất và nội dung của dự thảo quyết định, Chủ tịch UBND cấp tỉnh quyết định phương thức xem xét, thông qua dự thảo quyết định. Trong trường hợp dự thảo quyết định được xem xét, thông qua tại phiên họp của UBND cấp tỉnh thì theo trình tự sau: + Đại diện cơ quan chủ trì soạn thảo thuyết trình dự thảo quyết định. + Đại diện Sở Tư pháp phát biểu về việc giải trình, tiếp thu ý kiến thẩm định. + Đại diện Văn phòng UBND cấp tỉnh trình bày ý kiến. + UBND cấp tỉnh thảo luận và biểu quyết thông qua dự thảo quyết định. - Dự thảo quyết định được thông qua khi có quá nửa tổng số thành viên UBND cấp tỉnh biểu quyết tán thành. - Chủ tịch UBND cấp tỉnh ký quyết định. (Căn cứ Điều 132 Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật 2015) 104. Sửa đổi một số quy định về soạn thảo nghị quyết của HĐND cấp huyện Cơ quan, tổ chức có liên quan được lấy ý kiến có trách nhiệm trả lời bằng văn bản trong thời hạn 07 ngày kể từ ngày nhận được dự thảo nghị quyết. (hiện nay là 03 ngày) Trong trường hợp lấy ý kiến của đối tượng chịu sự tác động trực tiếp của nghị quyết thì cơ quan, tổ chức lấy ý kiến có trách nhiệm xác định những vấn đề cần lấy ý kiến, địa chỉ tiếp nhận ý kiến và bảo đảm ít nhất là 07 ngày kể từ ngày tổ chức lấy ý kiến để các đối tượng được lấy ý kiến góp ý vào dự thảo nghị quyết. (hiện nay ít nhất là 05 ngày) Đồng thời, bỏ quy định sau: “UBND có trách nhiệm xem xét, thảo luận tập thể và biểu quyết theo đa số để quyết định việc trình dự thảo nghị quyết ra HĐND. UBND có trách nhiệm gửi tờ trình, dự thảo nghị quyết và các tài liệu có liên quan đến Thường trực HĐND để chuyển đến các đại biểu HĐND chậm nhất là 05 ngày trước ngày khai mạc kỳ họp HĐND. (Căn cứ Điều 133 Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật 2015) 105. Thẩm định dự thảo nghị quyết của HĐND cấp huyện - Phòng Tư pháp có trách nhiệm thẩm định dự thảo nghị quyết của HĐND cấp huyện trước khi trình UBND cấp huyện. Chậm nhất là 10 ngày trước ngày UBND họp, cơ quan chủ trì soạn thảo phải gửi hồ sơ dự thảo nghị quyết của HĐND cấp huyện đến Phòng Tư pháp để thẩm định. - Thời hạn, hồ sơ, nội dung thẩm định và báo cáo thẩm định thực hiện theo quy định tại các khoản 2, 3, 4 và 5 Điều 121 của Luật này. (Căn cứ Điều 134 Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật 2015) 106. Trách nhiệm của UBND cấp huyện đối với dự thảo nghị quyết của HĐND cùng cấp - UBND cấp huyện có trách nhiệm xem xét, thảo luận và biểu quyết về việc trình dự thảo nghị quyết ra HĐND cùng cấp. - UBND cấp huyện có trách nhiệm gửi tờ trình, dự thảo nghị quyết và các tài liệu có liên quan đến Thường trực HĐND để chuyển đến các đại biểu HĐND cùng cấp chậm nhất là 07 ngày trước ngày khai mạc kỳ họp. (Căn cứ Điều 135 Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật 2015) 107. Sửa đổi thời hạn gửi báo cáo thẩm tra dự thảo nghị quyết của HĐND cấp huyện Ban của HĐND được phân công thẩm tra có trách nhiệm gửi báo cáo thẩm tra đến Thường trực HĐND để chuyển đến các đại biểu HĐND chậm nhất là 07 ngày trước ngày khai mạc kỳ họp. (Căn cứ Điều 136 Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật 2015) 108. Sửa đổi thời hạn trả lời bằng văn bản khi nhận dự thảo quyết định của UBND cấp huyện Cơ quan, tổ chức có liên quan được lấy ý kiến có trách nhiệm trả lời bằng văn bản trong thời hạn 07 ngày kể từ ngày nhận được dự thảo quyết định. Trong trường hợp lấy ý kiến của đối tượng chịu sự tác động trực tiếp của quyết định thì cơ quan lấy ý kiến có trách nhiệm xác định những vấn đề cần lấy ý kiến và bảo đảm ít nhất là 07 ngày kể từ ngày tổ chức lấy ý kiến để các đối tượng được lấy ý kiến góp ý vào dự thảo quyết định. (Căn cứ Điều 138 Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật 2015) 109. Bổ sung nội dung hồ sơ thẩm định dự thảo quyết định của UBND cấp huyện Hồ sơ gửi thẩm định bao gồm: - Tờ trình UBND về dự thảo quyết định. - Dự thảo quyết, định. - Bản tổng hợp ý kiến về dự thảo quyết định. - Tài liệu khác (nếu có). Nội dung và báo cáo thẩm định thực hiện theo quy định tại các khoản 3, 4 và 5 Điều 121 của Luật này. Chậm nhất là 05 ngày trước ngày UBND họp, Phòng Tư pháp gửi báo cáo thẩm định đến cơ quan soạn thảo. (hiện nay là 03 ngày) (Căn cứ Điều 139 Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật 2015) (Còn nữa)
Tất cả điểm mới Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật 2015
Trong hệ thống pháp luật Việt Nam, Hiến pháp có giá trị cao nhất, kế đến là các Luật và Pháp lệnh. Thế nhưng, trong các Luật và Pháp lệnh này, thì Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật quan trọng nhất, bởi lẽ việc Luật này quy định hệ thống các văn bản pháp luật, hiệu lực về thời gian, hiệu lực về không gian của các văn bản luật… Nắm bắt được những thiếu sót cần phải hoàn thiện, Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật 2015 ra đời thay thế Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật 2008, với khá nhiều điểm mới đáng chú ý. Bài viết sau đây sẽ giúp bạn tìm ra các điểm mới của Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật 2015. Chú thích: Bài viết có sử dụng một số từ ngữ viết tắt như sau: VBQPPL: Văn bản quy phạm pháp luật. VKSND: Viện kiểm sát nhân dân. UBTVQH: Ủy ban Thường vụ Quốc hội. HĐND: Hội đồng nhân dân. TAND: Tòa án nhân dân. UBND: Ủy ban nhân dân. 1. Quy định rõ phạm vi điều chỉnh của Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật Nội dung được đề cập tại Luật này sẽ bao gồm: nguyên tắc, thẩm quyền, hình thức, trình tự, thủ tục xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật; trách nhiệm của các cơ quan nhà nước, tổ chức, cá nhân trong việc xây dựng văn bản quy phạm pháp luật. Lưu ý: Luật này không quy định việc làm Hiến pháp, sửa đổi Hiến pháp. (Căn cứ Điều 1 Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật 2015) 2. Giải thích rõ các ngữ nghĩa được dùng trong Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật - Quy phạm pháp luật là quy tắc xử sự chung, có hiệu lực bắt buộc chung, được áp dụng lặp đi lặp lại nhiều lần đối với cơ quan, tổ chức, cá nhân trong phạm vi cả nước hoặc đơn vị hành chính nhất định, do cơ quan nhà nước, người có thẩm quyền quy định trong Luật này ban hành và được Nhà nước bảo đảm thực hiện. - Đối tượng chịu sự tác động trực tiếp của văn bản quy phạm pháp luật là cơ quan, tổ chức, cá nhân có quyền, nghĩa vụ, trách nhiệm chịu ảnh hưởng trực tiếp từ việc áp dụng văn bản đó sau khi được ban hành. - Giải thích Hiến pháp, luật, pháp lệnh là việc Ủy ban thường vụ Quốc hội làm rõ tinh thần, nội dung của điều, khoản, điểm trong Hiến pháp, luật, pháp lệnh để có nhận thức, thực hiện, áp dụng đúng, thống nhất pháp luật. (Căn cứ Điều 3 Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật 2015) 3. Bộ luật có chỗ đứng rõ ràng trong hệ thống văn bản quy phạm pháp luật Theo đó, hệ thống VBQPPL được sắp xếp lại theo thứ tự giá trị cao nhất đến giá trị thấp nhất. Cụ thể: - Hiến pháp. - Bộ luật, luật (sau đây gọi chung là luật), nghị quyết của Quốc hội. - Pháp lệnh, nghị quyết của UBTVQH; nghị quyết liên tịch giữa UBTVQH với Đoàn Chủ tịch Ủy ban trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. - Lệnh, quyết định của Chủ tịch nước. - Nghị định của Chính phủ; nghị quyết liên tịch giữa Chính phủ với Đoàn Chủ tịch Ủy ban trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. - Quyết định của Thủ tướng Chính phủ. - Nghị quyết của Hội đồng Thẩm phán TAND tối cao. - Thông tư của Chánh án TAND tối cao; thông tư của Viện trưởng VKSND tối cao; thông tư của Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ; thông tư liên tịch giữa Chánh án TAND tối cao với Viện trưởng VKSND tối cao; thông tư liên tịch giữa Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ với Chánh án TAND tối cao, Viện trưởng VKSND tối cao; quyết định của Tổng Kiểm toán nhà nước. - Nghị quyết của HĐND cấp tỉnh. - Quyết định của UBND cấp tỉnh. - VBQPPL của chính quyền địa phương ở đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt. - Nghị quyết của HĐND cấp huyện. - Quyết định của UBND cấp huyện. - Nghị quyết của HĐND cấp xã. - Quyết định của UBND cấp xã. (Căn cứ Điều 4 Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật 2015) 4. Cụ thể hóa một số nguyên tắc xây dựng và ban hành văn bản quy phạm pháp luật - Bảo đảm tiết kiệm, hiệu quả, kịp thời, dễ tiếp cận, dễ thực hiện của VBQPPL; bảo đảm lồng ghép vấn đề bình đẳng giới trong VBQPPL; bảo đảm yêu cầu cải cách thủ tục hành chính. - Bảo đảm yêu cầu về quốc phòng, an ninh, bảo vệ môi trường, không làm cản trở việc thực hiện các điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên. - Bảo đảm công khai, dân chủ trong việc tiếp nhận, phản hồi ý kiến, kiến nghị của cá nhân, cơ quan, tổ chức trong quá trình xây dựng, ban hành VBQPPL. (Căn cứ Điều 5 Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật 2015) 5. Bổ sung đối tượng được tham gia đóng góp ý kiến Ngoài các đối tượng quy định tại Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật 2008, bổ sung thêm các đối tượng sau: - Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam. - Các tổ chức thành viên khác của Mặt trận. (Căn cứ Điều 6 Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật 2015) 6. Bổ sung tiểu mục vào bố cục của văn bản quy phạm pháp luật - Tùy theo nội dung, VBQPPL có thể được bố cục theo phần, chương, mục, tiểu mục, điều, khoản, điểm. - UBTVQH quy định về thể thức và kỹ thuật trình bày VBQPPL của Quốc hội, UBTVQH, Chủ tịch nước. Chính phủ quy định về thể thức và kỹ thuật trình bày VBQPPL của các cơ quan, người có thẩm quyền khác được quy định trong Luật này. (Căn cứ Điều 7 Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật 2015) 7. Việc dịch văn bản quy phạm pháp luật có giá trị tham khảo Ngoài việc quy định VBQPPL có thể được dịch ra tiếng dân tộc thiểu số, tiếng nước ngoài như trước đây. Luật này bổ sung nội dung sau: bản dịch có giá trị tham khảo. (Căn cứ Điều 9 Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật 2015) 8. Bổ sung nội dung văn bản quy định chi tiết Với mục đích đảm bảo các luật, pháp lệnh có thể được thi hành từ khi có hiệu lực, Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật 2015 quy định thêm nội dung: Dự thảo văn bản quy định chi tiết phải được chuẩn bị và trình đồng thời với dự án luật, pháp lệnh và phải được ban hành để có hiệu lực cùng thời điểm có hiệu lực của văn bản hoặc điều, khoản, điểm được quy định chi tiết. (Căn cứ Điều 11 Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật 2015) 9. Cụ thể hóa việc sửa đổi, bổ sung, thay thế, bãi bỏ hay đình chỉ thi hành văn bản quy phạm pháp luật - Văn bản sửa đổi, bổ sung, thay thế, bãi bỏ hoặc đình chỉ việc thi hành văn bản khác phải xác định rõ tên văn bản, phần, chương, mục, tiểu mục, điều, khoản, điểm của văn bản bị sửa đổi, bổ sung, thay thế, bãi bỏ hoặc đình chỉ việc thi hành. Văn bản bãi bỏ VBQPPL phải được đăng Công báo, niêm yết theo quy định. - Khi ban hành VBQPPL, cơ quan ban hành văn bản phải sửa đổi, bổ sung, bãi bỏ văn bản, phần, chương, mục, tiểu mục, điều, khoản, điểm của văn bản quy phạm pháp luật do mình đã ban hành trái với quy định của văn bản mới ngay trong văn bản mới đó. Trường hợp chưa thể sửa đổi, bổ sung ngay thì phải xác định rõ trong văn bản mới danh mục văn bản, phần, chương, mục, tiểu mục, điều, khoản, điểm của VBQPPL mà mình đã ban hành trái với quy định của VBQPPL mới và có trách nhiệm sửa đổi, bổ sung trước khi VBQPPL mới có hiệu lực. (Căn cứ Điều 12 Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật 2015) (Còn nữa)
Luật, Bộ luật và Đạo luật cái nào có giá trị cao hơn?
Học Luật chắc hẳn các bạn thường nghe nhắc đến nhiều các từ Luật, Bộ luật và Đạo luật trong các bài giảng, nhưng có bao giờ bạn thăc mắc Luật, Bộ luật và Đạo luật khác nhau ở chỗ nào chưa, tại sao có lúc giảng viên dùng từ đạo luật, khi khác lại dùng bộ luật… Mình thử tìm các văn bản pháp luật xem có quy định về vấn đề này không? Hiến pháp – văn bản có giá trị pháp lý cao nhất – không có quy định. Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật 2008 – văn bản Luật – không có khái niệm về Luật, Bộ luật, Đạo luật. Chỉ quy định khái niệm của văn bản quy phạm pháp luật là văn bản do cơ quan nhà nước ban hành hoặc phối hợp ban hành theo thẩm quyền, hình thức, trình tự, thủ tục được quy định hoặc trong Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật của HĐND, UBND… Hệ thống văn bản quy phạm pháp luật thì chỉ có nhắc đến Luật, không hề nhắc đến Bộ luật hay Đạo luật. Vậy Bộ luật và Đạo luật không thuộc hệ thống văn bản quy phạm pháp luật Việt Nam sao? Thực tế, nếu các bạn có lần tham khảo qua, hiện nay, chúng ta có các Bộ luật lao động 2012, Bộ luật dân sự 2005, Bộ luật hình sự 1999…Vậy những bộ luật này không thuộc hệ thống văn bản quy phạm pháp luật Việt Nam? Vì rõ ràng theo Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật chỉ nêu hệ thống bao gồm…trong đó có luật, nhưng không có Bộ luật, Đạo luật? Thử tìm trên Gu-Gồ, thì thấy có một bạn trong Dân Luật giải thích 3 từ này, nhưng mình chưa tìm ra căn cứ bạn này nói, có thể do cách hiểu của bạn ấy: - Luật là văn bản do Quốc hội ban hành để quy định các vấn đề cơ bản thuộc lĩnh vực kinh tế, xã hội, quốc phòng, an ninh, tài chính, tiền tệ, ngân sách, thuế, dân tộc, tôn giáo, văn hóa, giáo dục, y tế, khoa học, công nghệ, môi trường, đối ngoại, tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước, chế độ công vụ, cán bộ, công chức, quyền và nghĩa vụ của công dân. - Bộ luật là Văn bản luật, văn bản quy phạm pháp luật do Quốc hội thông qua có giá trị pháp lí cao (chỉ sau Hiến pháp). Tổng hợp có hệ thống theo chương, mục những quy phạm pháp luật điều chỉnh quan hệ xã hội quan trọng của từng lĩnh vực trong đời sống xã hội. Vd. Bộ luật dân sự, Bộ luật lao động, Bộ luật hình sự, Bộ luật tố tụng hình sự, Bộ luật hàng hải của Việt Nam. - Đạo luật là văn bản quy phạm pháp luật có giá trị pháp lý cao, trong đó đạo luật quy định những chế tài nghiêm khắc nhất đối với tội phạm, và đạo luật chỉ có trong lĩnh vực hình sự. Nếu là cách hiểu thì có thể đúng hoặc sai, tùy quan điểm của mỗi người. Chuyện này không phải chỉ xảy ra ở nước ta, các nước bạn trên thế giới cũng từng nhầm lẫn giữa 3 khái niệm này. Việc giải thích nghĩa của từng từ này dường như rất mơ hồ: Đạo luật: luật được thông qua bởi Quốc hội. Bộ luật: hệ thống các luật hay các quy định bằng văn bản quy định cách ứng xử của mọi người trong một tổ chức hay một quốc gia. Luật: là hệ thống các nguyên tắc mà mọi người trong quốc gia hay trong xã hội bắt buộc phải tuân thủ. Dẫn chứng sự nhập nhằng đó là tại Pháp, trong bài báo của họ cũng đề cập ban đầu dự thảo luật, sau đó nâng thành dự thảo đạo luật… (Nguồn: http://vtv.vn/tin-tuc/nguoi-dan-phap-co-the-bi-co-quan-an-ninh-theo-doi-toan-dien-20150625194131083.htm) Nếu được hỏi đến 3 khái niệm này nhiều người cho rằng nó là một, nhưng có thật sự là một không khi vấn đề giá trị pháp lý của chúng chưa rõ ràng? Các bạn thành viên Dân Luật có thể giúp mình vụ này hông?
MỚI: Từ A – Z các trường hợp bắt buộc phải viết hoa trong VB QPPL từ 1/1/2021
các trường hợp bắt buộc phải viết hoa Tại Nghị định 154/2020/NĐ-CP sửa đổi Nghị định 34/2016/NĐ-CP hướng dẫn Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật, có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2021 đã bổ sung khoản 7 vào điều 69 NĐ 34 về sử dụng ngôn ngữ trong văn bản. Cụ thể chữ viết hoa trong văn bản được sử dụng đúng quy tắc chính tả tiếng Việt và theo hướng dẫn tại Phụ lục VI kèm theo Nghị định 154/2020/NĐ-CP. Cụ thể hướng dẫn tại phụ lục IV của Nghị định 154 các trường hợp viết hoa trong văn bản QPPL gồm: I. VIẾT HOA VÌ PHÉP ĐẶT CÂU 1. Viết hoa chữ cái đầu âm tiết thứ nhất của một câu hoàn chỉnh: sau dấu chấm câu (.); sau dấu hai chấm trong ngoặc kép (:"..."); khi xuống dòng hoặc bắt đầu đoạn. 2. Viết hoa chữ cái đầu âm tiết thứ nhất của khoản, điểm. II. VIẾT HOA DANH TỪ RIÊNG CHỈ TÊN NGƯỜI 1. Danh từ riêng chỉ tên người Việt Nam: a) Tên thông thường: Viết hoa chữ cái đầu tất cả các âm tiết của danh từ riêng chỉ tên người. Ví dụ: Nguyễn Ái Quốc, Trần Phú, Giàng A Pao, Kơ Pa Kơ Long. b) Tên hiệu, tên gọi nhân vật lịch sử: Viết hoa chữ cái đầu tất cả các âm tiết. Ví dụ: Vua Hùng, Bà Triệu, Ông Gióng, Đinh Tiên Hoàng, Lý Thái Tổ, Bác Hồ, Cụ Hồ. 2. Danh từ riêng chỉ tên người nước ngoài được phiên âm chuyển sang tiếng Việt: a) Trường hợp phiên âm sang âm Hán - Việt: Viết theo quy tắc viết tên người Việt Nam. Ví dụ: Kim Nhật Thành, Mao Trạch Đông, Thành Cát Tư Hãn. b) Trường hợp phiên âm không sang âm Hán - Việt (phiên âm trực tiếp sát cách đọc của nguyên ngữ): Viết hoa chữ cái đầu âm tiết thứ nhất trong mỗi thành phần. Ví dụ: Vla-đi-mia I-lích Lê-nin, Phri-đrích Ăng-ghen, Phi-đen Cat-xtơ-rô. III. VIẾT HOA TÊN ĐỊA LÝ 1. Tên địa lý Việt Nam: a) Tên đơn vị hành chính được cấu tạo giữa danh từ chung (tỉnh, thành phố, quận, huyện, thị xã, xã, phường, thị trấn) với tên riêng của đơn vị hành chính đó: Viết hoa chữ cái đầu của các âm tiết tạo thành tên riêng và không dùng gạch nối. Ví dụ: thành phố Thái Nguyên, tỉnh Nam Định, tỉnh Đắk Lắk; quận Hải Châu, huyện Gia Lâm, huyện Ea H'leo, thị xã Sông Công, thị trấn Cầu Giát: phường Nguyễn Trãi, xã Ia Yeng, phường Điện Biên Phủ. b) Trường hợp tên đơn vị hành chính được cấu tạo giữa danh từ chung kết hợp với chữ số: Viết hoa cả danh từ chung chỉ đơn vị hành chính đó. Ví dụ: Phường 15, Quận 8. c) Trường hợp viết hoa đặc biệt: Thủ đô Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh. d) Tên địa lý được cấu tạo giữa danh từ chung chỉ địa hình (sông, núi, hồ, biển, cửa, bến, cầu, vũng, lạch, vàm v.v...) với danh từ riêng (có một âm tiết) trở thành tên riêng của địa danh đó: Viết hoa tất cả các chữ cái tạo nên địa danh. Ví dụ: Cửa Lò, Vũng Tàu, Lạch Trường, Vàm Cỏ, Cầu Giấy. Trường hợp danh từ chung chỉ địa hình đi liền với danh từ riêng: Không viết hoa danh từ chung mà chỉ viết hoa danh từ riêng. Ví dụ: biển Cửa Lò, chợ Bến Thành, sông Vàm Cỏ, vịnh Hạ Long. đ) Tên địa lý chỉ một vùng, miền, khu vực nhất định được cấu tạo bằng từ chỉ phương hướng kết hợp với từ chỉ phương thức khác: Viết hoa chữ cái đầu của tất cả các âm tiết tạo thành tên gọi. Đối với tên địa lý chỉ vùng, miền riêng được cấu tạo bằng từ chỉ phương hướng kết hợp với danh từ chỉ địa hình thì viết hoa các chữ cái đầu mỗi âm tiết. Ví dụ: Tây Bắc, Đông Bắc, Bắc Bộ, Nam Kỳ, Nam Trung Bộ. 2. Tên địa lý nước ngoài được phiên âm chuyển sang tiếng Việt: a) Tên địa lý đã được phiên âm sang âm Hán - Việt: Viết theo quy tắc viết hoa tên địa lý Việt Nam. Ví dụ: Bắc Kinh, Bình Nhưỡng, Pháp, Anh, Mỹ, Thụy Sĩ, Tây Ban Nha. b) Tên địa lý phiên âm không sang âm Hán - Việt (phiên âm trực tiếp sát cách đọc của nguyên ngữ): Viết hoa theo quy tắc viết hoa tên người nước ngoài quy định tại điểm b khoản 2 Mục II. Ví dụ: Mát-xcơ-va, Men-bơn, Sing-ga-po, Cô-pen-ha-ghen, Béc-lin. IV. VIẾT HOA TÊN CƠ QUAN, TỔ CHỨC 1. Tên cơ quan, tổ chức của Việt Nam: Viết hoa chữ cái đầu của các từ, cụm từ chỉ loại hình cơ quan, tổ chức; chức năng, lĩnh vực hoạt động của cơ quan, tổ chức. Ví dụ: - Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam, Bộ Chính trị, Ban Bí thư Trung ương Đảng, Văn phòng Trung ương Đảng; Ban Nội chính Trung ương; Ban Kinh tế Trung ương,...; - Ủy ban Thường vụ Quốc hội; - Hội đồng Dân tộc; Ủy ban Kinh tế, Ủy ban Tư pháp; Ủy ban Pháp luật... - Ban Công tác đại biểu; Ban Dân nguyện; - Văn phòng Chủ tịch nước, Văn phòng Quốc hội, Văn phòng Chính phủ; - Viện kiểm sát nhân dân, Tòa án nhân dân; Kiểm toán nhà nước; - Bộ Tư pháp; Bộ Tài nguyên và Môi trường; Bộ Giáo dục và Đào tạo; Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch; Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn; Bộ Giao thông vận tải; Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội; Ngân hàng Nhà nước Việt Nam; Thanh tra Chính phủ; Ủy ban Dân tộc...; - Đài Tiếng nói Việt Nam, Đài Truyền hình Việt Nam, Thông tấn xã Việt Nam, Bảo hiểm Xã hội Việt Nam, Ban Quản lý Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh. - Ủy ban trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam; Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh; Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam; Hội Nông dân Việt Nam; Hội Cựu chiến binh Việt Nam...; - Văn phòng Đoàn đại biểu Quốc hội thành phố Hà Nội, Văn phòng Tỉnh ủy Nghệ An, Văn phòng Ủy ban nhân dân tỉnh Nam Định...; - Hội đồng nhân dân tỉnh Sơn La, Ủy ban nhân dân tỉnh Bắc Giang, Ủy ban nhân dân quận Ba Đình, Ủy ban nhân dân huyện Vụ Bản...; - Tổng cục Thuế, Tổng cục Hải quan...; - Sở Giáo dục và Đào tạo, Sở Tài chính, Sở Tài nguyên và Môi trường, Sở Xây dựng, Sở Kế hoạch và Đầu tư...; - Vụ Tổng hợp, Vụ Hợp tác quốc tế, Phòng Nghiên cứu khoa học, Phòng Chính sách xã hội, Hội đồng Thi tuyển viên chức... 2. Tên cơ quan, tổ chức nước ngoài: a) Tên cơ quan, tổ chức nước ngoài đã dịch nghĩa: Viết hoa theo quy tắc viết tên cơ quan, tổ chức của Việt Nam. Ví dụ: Liên hợp quốc (UN), Tổ chức Y tế thế giới (WHO), Hiệp hội các Quốc gia Đông Nam Á (ASEAN). b) Tên cơ quan, tổ chức nước ngoài được sử dụng trong văn bản ở dạng viết tắt: Viết bằng chữ in hoa như nguyên ngữ hoặc chuyển tự La-tinh nếu nguyễn ngữ không thuộc hệ La-tinh. Ví dụ: WTO; UNDP; UNESCO; ASEAN; SNG. V. VIẾT HOA CÁC TRƯỜNG HỢP KHÁC 1. Danh từ thuộc trường hợp đặc biệt: Nhân dân (khi sử dụng như danh từ chỉ tên riêng, thể hiện sự trang trọng), Nhà nước (chỉ tên riêng Ngân hàng Nhà nước, Kho bạc Nhà nước, Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam; khi Nhà nước sử dụng như danh từ riêng). 2. Tên các huân chương, huy chương, các danh hiệu vinh dự: Viết hoa chữ cái đầu của các âm tiết của các thành phần tạo thành tên riêng và các từ chỉ thử, hạng. Ví dụ: Huân chương Sao vàng, Huân chương Hồ Chí Minh, Nghệ sĩ Nhân dân, Nhà giáo Ưu tú, Thầy thuốc Nhân dân, Anh hùng Lao động, Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân, Huân chương Chiến sĩ vẻ vang. 3. Tên chức vụ, học vị, danh hiệu: Viết hoa tên chức vụ, học vị nếu đi liền với tên người cụ thể. Ví dụ: - Chủ tịch Quốc hội, Phó Thủ tướng Chính phủ, Chủ nhiệm Ủy ban Pháp luật của Quốc hội, Chủ nhiệm Văn phòng Quốc hội, Tổng Thư ký Quốc HOT, Phó Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế, Ủy viên Thường trực, Ủy viên Chuyên trách... - Giáo sư Tiến sĩ khoa học Phạm Văn M, Giáo sư Viện sĩ Nguyễn Văn H. 4. Tên các ngày lễ, ngày kỷ niệm: Viết hoa chữ cái đầu của âm tiết tạo thành tên gọi ngày lễ, ngày kỷ niệm. Ví dụ: ngày Quốc khánh 2-9, ngày Tổng tuyển cử đầu tiên, ngày Truyền thống Văn phòng Quốc hội, ngày Quốc tế Lao động 1-5, ngày Phụ nữ Việt Nam 20-10, 5. Tên các loại văn bản: Viết hoa chữ cái đầu của tên loại văn bản và chữ cái đầu của âm tiết thứ nhất tạo thành tên gọi của văn bản trong trường hợp nói đến một văn bản cụ thể. Ví dụ: Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng; Bộ luật Hình sự Luật Tổ chức Quốc hội, Luật An toàn vệ sinh lao động... 6. Trường hợp viện dẫn phần, chương, mục, tiểu mục, điều, khoản, điểm của một văn bản cụ thể thì viết hoa chữ cái đầu của phần, chương, mục, tiểu mục, điều. Ví dụ: - Căn cứ Điều 10 của Luật Tổ chức Quốc hội... - Căn cứ khoản 4 Điều 18 của Luật An toàn vệ sinh lao động... - Căn cứ điểm a khoản 2 Điều 103 Mục 5 Chương XII Phần I của Bộ luật Hình sự... - Theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 24 Tiểu mục 1 Mục 1 Chương III của Nghị quyết số 351/2017/UBTVQH14... 7. Tên các năm âm lịch, ngày tốt, ngày và tháng trong năm: a) Tên các năm âm lịch: Viết hoa chữ cái đầu của tất cả các âm tiết tạo thành tên gọi. Ví dụ: Kỷ Tỵ, Tân Hợi, Mậu Tuất, Mậu Thân. b) Tên các ngày tết: Viết hoa chữ cái đầu của âm tiết thứ nhất tạo thành tên gọi. Ví dụ: tết Nguyên đán, tết Đoan ngọ, tết Trung thu. Viết hoa chữ Tết trong trường hợp dùng để thay cho một tết cụ thể (như Tết thay cho tết Nguyên đán). c) Tên các ngày trong tuần và tháng trong năm: Viết hoa chữ cái đầu của âm tiết chỉ ngày và tháng trong trường hợp không dùng chữ số: Ví dụ: thứ Hai, thứ Tư, tháng Năm, tháng Tám... 8. Tên các sự kiện lịch sử và các triều đại: Viết hoa chữ cái đầu của các âm tiết tạo thành sự kiện và tên sự kiện, trong trường hợp có các con số chỉ mốc thời gian thì ghi bằng chữ và viết hoa chữ đó. Ví dụ: Triều Lý, Triều Trần, Phong trào Xô Viết Nghệ Tĩnh, Cách mạng tháng Tám,... 9. Tên các tác phẩm, sách báo, tạp chí: Viết hoa chữ cái đầu của âm tiết thứ nhất tạo thành tên tác phẩm, sách báo. Ví dụ: từ điển Bách khoa toàn thư, tạp chí Cộng sản,...
Kỹ thuật viện dẫn văn bản QPPL theo quy định mới từ 1/1/2021
Kỹ thuật viện dẫn văn bản QPPL Đây là nội dung tại Nghị định 154/2020/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định 34/2016/NĐ-CP của Chính phủ quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật có hiệu lực từ 1/1/2021. Theo đó, Nghị định sửa đổi, bổ sung khoản 1 Điều 75 về kỹ thuật viện dẫn văn bản của Nghị định 34 như sau: - Khi viện dẫn lần đầu văn bản có liên quan, phải ghi đầy đủ tên loại văn bản, số, ký hiệu văn bản; ngày, tháng, năm thông qua hoặc ký ban hành văn bản; tên cơ quan, người có thẩm quyền ban hành văn bản và tên gọi văn bản. Trong lần viện dẫn tiếp theo, đối với luật, pháp lệnh, ghi đầy đủ tên loại văn bản, tên gọi của văn bản; đối với các văn bản khác, ghi tên loại, số, ký hiệu của văn bản đó.”. Theo quy định trước đây: Khi viện dẫn văn bản có liên quan, phải ghi đầy đủ tên loại văn bản, số, ký hiệu văn bản; ngày, tháng, năm thông qua hoặc ký ban hành văn bản; tên cơ quan, người có thẩm quyền ban hành văn bản và tên gọi văn bản. Một số nội dung khác về kỹ thuật viện dẫn văn bản theo Điều 75 Nghị định 34 gồm: - Trường hợp viện dẫn phần, chương, mục, tiểu mục của một văn bản quy phạm pháp luật thì phải xác định cụ thể phần, chương, mục, tiểu mục của văn bản đó. - Trường hợp viện dẫn đến điều, khoản, điểm thì không phải xác định rõ đơn vị bố cục phần, chương, mục, tiểu mục có chứa điều, khoản, điểm đó. - Trường hợp viện dẫn đến phần, chương, mục, tiểu mục, điều, khoản, điểm của một văn bản thì phải viện dẫn theo thứ tự từ nhỏ đến lớn và tên của văn bản; nếu viện dẫn từ khoản, điểm này đến khoản, điểm khác trong cùng một điều hoặc từ mục, điều này đến mục, điều khác trong cùng một chương của cùng một văn bản thì không phải xác định tên của văn bản nhưng phải viện dẫn cụ thể.
Sự khác nhau giữa văn bản quy phạm pháp luật và văn bản áp dụng pháp luật
Văn bản quy phạm pháp luật và Văn bản áp dụng pháp luật - Ảnh minh họa Thực tế hiện nay cũng còn mập mờ giữa văn bản quy phạm pháp luật và văn bản áp dụng pháp luật. Do đó, nhiều người nhầm lẫn giữa hai khái niệm văn bản quy phạm pháp luật và văn bản áp dụng pháp luật. Vậy Văn bản quy phạm pháp luật khác văn bản áp dụng pháp luật ở những điểm gì? Tiêu chí Văn bản quy phạm pháp luật Văn bản áp dụng pháp luật 1. Khái niệm Văn bản quy phạm pháp luật là văn bản có chứa quy phạm pháp luật, được ban hành theo đúng thẩm quyền, hình thức, trình tự, thủ tục quy định trong Luật này. Văn bản có chứa quy phạm pháp luật nhưng được ban hành không đúng thẩm quyền, hình thức, trình tự, thủ tục quy định trong Luật này thì không phải là văn bản quy phạm pháp luật. (Điều 2 Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2015) Văn bản áp dụng pháp luật là văn bản chứa đựng các quy tắc xử sự cá biệt, do cơ quan, cá nhân có thẩm quyền ban hành, được áp dụng một lần trong đời sống và bảo đảm thực hiện bằng sự cưỡng chế Nhà nước 2. Thẩm quyền ban hành Cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành (Chương II Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật 2015) Do các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền hoặc các tổ chức, cá nhân được Nhà nước trao quyền ban hành, dựa trên các quy phạm pháp luật cụ thể để giải quyết một vấn đề pháp lý cụ thể. Ví dụ: Chánh án Tòa án căn cứ các quy định của Bộ luật dân sự và Bộ luật tố tụng dân sự để tuyên án đối với cá nhân tổ chức liên quan thông qua bản án. 3. Nội dung ban hành Chứa đựng các quy tắc xử sự chung được Nhà nước bảo đảm thực hiện và được áp dụng nhiều lần trong thực tế cuộc sống, được áp dụng trong tất cả các trường hợp khi có các sự kiện pháp lý tương ứng xảy ra cho đến khi nó hết hiệu lực. Ví dụ: Nếu có tranh chấp hợp đồng mua bán đất thì dựa trên tình huống thực tế áp dụng Luật đất đai 2014 và Bộ luật dân sự 2015. Chứa quy tắc xử sự riêng. Áp dụng một lần đối với một tổ chức cá nhân là đối tượng tác động của văn bản, nội dung của văn bản áp dụng pháp luật chỉ rõ cụ thể cá nhân nào, tổ chức nào phải thực hiện hành vi gì. Đảm bảo tính hợp pháp (tuân thủ đúng các văn bản quy phạm pháp luật), phù hợp với thực tế (đảm bảo việc thi hành). Mang tính cưỡng chế nhà nước cao. Ví dụ: Bản án chỉ rõ cá nhân nào phải thực hiện nghĩa vụ gì: Nguyễn Văn A phải bồi thường cho Lê Văn B 20 triệu đồng. Đối tượng ở đây là cụ thể A và B không áp dụng cho bất kỳ cá nhân tổ chức nào khác. 4. Hình thức tên gọi Các hình thức quy định tại điều 4 Luật ban hành VBQPPL 2015 (Hiến pháp, Bộ luật, Luật,…) Chưa được pháp luật hóa tập trung về tên gọi và hình thức thể hiện. (Thường được thể hiện dưới hình thức: Quyết định, bản án,…) 5. Phạm vi áp dụng Rộng rãi. Áp dụng là đối với tất cả các đối tượng thuộc phạm vi điều chỉnh trong phạm vi cả nước hoặc đơn vị hành chính nhất định. Đối tượng nhất định được nêu trong văn bản 6. Cơ sở ban hành Dựa trên Hiến pháp, Luật, các văn bản quy phạm pháp luật cao hơn với văn bản quy phạm pháp luật là nguồn của luật. Thường dựa vào một văn bản quy phạm pháp luật hoặc dựa vào văn bản áp dụng pháp luật của chủ thể có thẩm quyền. Văn bản áp dụng pháp luật hiện tại không là nguồn của luật 7. Trình tự ban hành Theo quy định Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật 2015 Luật không có quy định trình tự 8. Thời gian có hiệu lực Lâu dài. Ví dụ: Luật sở hữu trí tuệ 2005 vẫn có hiệu lực cho đến nay Thời gian có hiệu luật ngắn theo vụ việc. Giống nhau - Đều là văn bản pháp luật do các cơ Nhà nước, tổ chức hoặc cá nhân có thẩm quyền theo quy định của pháp luật ban hành. - Đều được Nhà nước bảo đảm quyền thực hiện bằng các biện pháp mang tính quyền lực Nhà nước. - Đều có hiệu lực buộc phải thực hiện đối với các tổ chức hoặc cá nhân có liên quan - Đều được thể hiện dưới hình thức văn bản và dùng để điều chỉnh các mối quan hệ xã hội
Hiệu lực pháp lý của văn bản QPPL đăng trên Công báo và Cơ sở dữ liệu quốc gia về pháp luật
Ngày 3/8/2020 Bộ Tư pháp ban hành Công văn 2795/BTP-VĐCXDPL trả lời thắc mắc của công dân về việc một văn bản quy phạm pháp luật được đăng trên Công báo và Cơ sở dữ liệu quốc gia về pháp luật mà có sự khác nhau thì văn bản được đăng trên Công báo hay văn bản được đăng trên Cơ sở dữ liệu quốc gia về pháp luật có hiệu lực pháp lý cao hơn và chính thống hơn. Về vấn đề này Bộ Tư pháp có ý kiến như sau: - Về giá trị pháp lý của văn bản quy phạm pháp luật đăng trên Công báo, khoản 1 Điều 150 của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2015 quy định: “5. Văn bản quy phạm pháp luật đăng trên Công báo in và Công báo điện tử là văn bản chính thức và có giá trị như văn bản gốc”. Để cụ thể hóa quy định của Luật, Điều 87 Nghị định 34/2016/NĐ-CP quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật quy định về giá trị pháp lý của văn bản đăng trên công báo như sau: “Văn bản đăng trên Công báo là văn bản chính thức và có giá trị như bản gốc. Trường hợp có sự khác nhau giữa Công báo in và Công báo điện tử thì sử dụng Công báo in làm căn cứ chính thức”. - Về giá trị pháp lý của văn bản quy phạm pháp luật được đăng trên cơ sở dữ liệu quốc gia về pháp luật, Điều 4 Nghị định 52/2015/NĐ-CP về Cơ sở dữ liệu quốc gia về pháp luật quy định: “Văn bản trên Cơ sở dữ liệu quốc gia về pháp luật được sử dụng chính thức trong việc quản lý nhà nước, phổ biến pháp luật, nghiên cứu, tìm hiểu, áp dụng và thi hành pháp luật của cơ quan, tổ chức, cá nhân”. Theo quy định của pháp luật hiện hành thì văn bản quy phạm pháp luật được đăng trên Công báo và giá trị như bản gốc. Trong trường hợp có sự khác nhau giữa văn bản quy phạm pháp luật được đăng trên Công báo và văn bản quy phạm pháp luật được đăng trên Cơ sở dữ liệu quốc gia về pháp luật thì áp dụng văn bản được đăng trên Công báo. Xem chi tiết công văn tại file đính kèm:
Một số điểm mới của Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Ban hành văn bản QPPL
Ngày 18/6/2020, tại Kỳ họp thứ 9, Quốc hội Khóa XIV đã thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật, Luật này có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2021. Nội dung mới cơ bản của Luật Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật đã sửa đổi, bổ sung 54 điều về nội dung và 14 về kỹ thuật của Luật năm 2015 với những nội dung mới cơ bản sau đây: Thứ nhất, tiếp tục khẳng định và quy định cụ thể hơn cơ chế bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng trong xây dựng, ban hành VBQPPL: Luật năm 2020 đã sửa 06 điều của Luật năm 2015 (Điều 47, 58, 92, 121, 130 và Điều 139), trong đó bổ sung nội dung thẩm định, thẩm tra phải bảo đảm “Sự phù hợp của chính sách trong đề nghị xây dựng văn bản và nội dung dự thảo văn bản với đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách của Nhà nước”. Thứ hai, quy định về phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong quy trình xây dựng, ban hành VBQPPL: Luật năm 2020 sửa đổi, bổ sung Điều 6 của Luật năm 2015 để quy định về phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong quy trình xây dựng, ban hành VBQPPL. Cụ thể, khoản 2 Điều 6 quy định rõ thời điểm thực hiện phản biện xã hội được thực hiện trong giai đoạn tổ chức lấy ý kiến về dự thảo VBQPPL và trường hợp dự thảo VBQPPL đã được phản biện xã hội thì hồ sơ dự án, dự thảo gửi thẩm định, thẩm tra, trình cơ quan có thẩm quyền phải bao gồm văn bản phản biện xã hội. Đồng thời, bổ sung trách nhiệm của cơ quan chủ trì soạn thảo trong việc nghiên cứu, giải trình, tiếp thu ý kiến phản biện xã hội khi chỉnh lý dự thảo văn bản. Các nội dung khác liên quan đến phản biện xã hội được thực hiện theo quy định của Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. Thứ ba, bổ sung một số hình thức VBQPPL: (1) Bổ sung hình thức nghị quyết liên tịch giữa Ủy ban thường vụ Quốc hội, Chính phủ với Đoàn Chủ tịch Ủy ban trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam(Nghị quyết liên tịch 3 bên) để phù hợp với quy định của Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam năm 2015, và Luật Bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân năm 2015. Đồng thời, bổ sung nội dung ban hành nghị quyết liên tịch để “hướng dẫn một số vấn đề cần thiết trong công tác bầu cử đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân” (sửa đổi, bổ sung Điều 18). (2) Bổ sung hình thức thông tư liên tịch giữa Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Tổng Kiểm toán nhà nước, Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ. Cụ thể, Luật năm 2020 đã bổ sung khoản 8a vào Điều 4 và sửa đổi Điều 25 của Luật năm 2015, trong đó, bổ sung Tổng Kiểm toán nhà nước là một chủ thể ban hành thông tư liên tịch với Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ. Đồng thời, bổ sung nội dung ban hành thông tư liên tịch để quy định về việc phối hợp của các cơ quan này trong việc thực hiện “phòng, chống tham nhũng”. Việc sửa đổi, bổ sung này là để bảo đảm sự thống nhất giữa Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật với quy định của Luật Phòng, chống tham nhũng và đáp ứng yêu cầu của thực tiễn. Thứ tư, bổ sung quy định về ban hành VBQPPL của cấp huyện, cấp xã: Để phù hợp với quy định của Luật Tổ chức chính quyền địa phương, Luật năm 2020 đã sửa đổi, bổ sung Điều 30 của Luật năm 2015 để cho phép HĐND cấp huyện ban hành nghị quyết, UBND cấp huyện ban hành quyết định quy phạm pháp luật để thực hiện việc phân cấp cho chính quyền địa phương, cơ quan nhà nước cấp dưới. Bên cạnh đó, ngoài trường hợp “được luật giao”, Luật năm 2020 bổ sung trường hợp “nghị quyết của Quốc hội giao” thì HĐND cấp huyện, cấp xã, UBND cấp huyện, cấp xã cũng được phép ban hành VBQPPL. Thứ năm, các loại VBQPPL phải lập đề nghị xây dựng VBQPPL: Để xác định lại cho hợp lý, sát thực tế hơn các văn bản quy phạm pháp luật cần thiết phải lập đề nghị xây dựng theo quy trình chính sách, Luật năm 2020 bỏ yêu cầu lập đề nghị xây dựng theo quy trình chính sách đối với nghị định quy định tại khoản 2 Điều 19 và nghị quyết của HĐND cấp tỉnh quy định tại khoản 2 và khoản 3 Điều 27 của Luật năm 2015. Bên cạnh đó, để phù hợp với việc thu hẹp phạm vi loại VBQPPL phải lập đề nghị theo quy trình chính sách, Luật năm 2020 đã sửa đổi, bổ sung các Điều 84, 85, 87, 88, 89, 90, 92, 93, 111, 117, 119, 121 và Điều 122 của Luật năm 2015 để quy định cụ thể trình tự, thủ tục đề nghị xây dựng và soạn thảo nghị định tại khoản 2 Điều 19 và nghị quyết tại khoản 2, khoản 3 Điều 27 của Luật năm 2015. Thứ sáu, nâng cao trách nhiệm, hiệu quả phối hợp của các cơ quan trong quá trình thẩm tra, tiếp thu, chỉnh lý dự án luật, nghị quyết của Quốc hội, dự án pháp lệnh, dự thảo nghị quyết của UBTVQH: (1) Tăng cường trách nhiệm của Hội đồng dân tộc (HĐDT) và các Ủy ban của Quốc hội trong hoạt động thẩm tra: Để nâng cao vai trò của HĐDT và các Ủy ban của Quốc hội trong quá trình thẩm tra đề nghị xây dựng và dự án, dự thảo luật, pháp lệnh, nghị quyết, đồng thời, tạo sự chủ động cho các cơ quan này, Luật năm 2020 sửa đổi, bổ sung một số quy định sau đây: (1) bổ sung trách nhiệm của HĐDT, các Ủy ban của Quốc hội phải gửi văn bản thẩm tra đến Ủy ban pháp luật và cử đại diện tham dự phiên họp thẩm tra của Ủy ban pháp luật khi thẩm tra đề nghị xây dựng luật, pháp lệnh, kiến nghị về luật, pháp lệnh (sửa đổi, bổ sung Điều 47); (2) quy định rõ trách nhiệm tham gia thẩm tra dự án, dự thảo do cơ quan khác của Quốc hội chủ trì thẩm tra về những nội dung liên quan đến lĩnh vực do mình phụ trách (sửa đổi, bổ sung Điều 63); (3) bổ sung nội dung thẩm tra về việc bảo đảm chính sách dân tộc nếu dự thảo văn bản có quy định liên quan đến vấn đề dân tộc (bổ sung khoản 6 Điều 65); (4) bổ sung một điều (Điều 68a) để quy định trách nhiệm của HĐDT trong thẩm tra việc bảo đảm chính sách dân tộc trong dự án luật, pháp lệnh, dự thảo nghị quyết. (2) Nâng cao trách nhiệm và tăng cường sự phối hợp của các cơ quan trong quá trình tiếp thu, chỉnh lý dự án luật, pháp lệnh, nghị quyết: Luật năm 2020 sửa đổi, bổ sung 04 điều (Điều 74, 75, 76 và Điều 77) của Luật năm 2015 nhằm phân định rõ, nâng cao hơn trách nhiệm và tăng cường sự phối hợp giữa các cơ quan có liên quan trong quá trình tiếp thu, chỉnh lý dự án luật, pháp lệnh, nghị quyết. Cụ thể như sau: Thứ nhất, bổ sung quy định “Cơ quan, tổ chức, đại biểu Quốc hội trình dự án, dự thảo có ý kiến bằng văn bản về những nội dung giải trình, tiếp thu, chỉnh lý dự thảo, trong đó nêu rõ vấn đề có ý kiến khác với dự thảo báo cáo giải trình, tiếp thu, chỉnh lý và đề xuất phương án để báo cáo Ủy ban thường vụ Quốc hội” (điểm b khoản 7 Điều 74, điểm b khoản 2 Điều 75, điểm e khoản 1 Điều 77). Thứ hai, bổ sung quy định “Đối với những chính sách mới được đại biểu Quốc hội đề nghị bổ sung vào dự thảo luật thì trong trường hợp cần thiết, theo yêu cầu của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, cơ quan trình dự án có trách nhiệm tổ chức đánh giá tác động của chính sách để báo cáo Quốc hội” (điểm a khoản 2 Điều 75, điểm b khoản 2 Điều 76). Thứ ba, bổ sung quy định “Ủy ban Thường vụ Quốc hội quyết định việc tổ chức Hội nghị đại biểu Quốc hội hoạt động chuyên trách trong trường hợp cần thiết để thảo luận, cho ý kiến đối với những dự án, dự thảo có những vấn đề quan trọng, vấn đề lớn còn nhiều ý kiến khác nhau” (điểm d khoản 2 Điều 75). Thứ tư, bổ sung quy định “Tổng thư ký Quốc hội tổ chức tổng hợp ý kiến của đại biểu Quốc hội, kết quả biểu quyết để báo cáo Ủy ban thường vụ Quốc hội và gửi cơ quan chủ trì thẩm tra, cơ quan, tổ chức, đại biểu Quốc hội trình dự án, dự thảo” (khoản 6 Điều 74, điểm c khoản 3 Điều 75). Thứ năm, quy định rõ hơn trách nhiệm phối hợp của Bộ Tư pháp trong suốt quá trình tiếp thu, chỉnh lý dự thảo luật, nghị quyết giữa 2 kỳ họp của Quốc hội. Theo đó, Luật năm 2020 đã bổ sung trách nhiệm của Bộ Tư pháp trong việc phối hợp với Thường trực cơ quan chủ trì thẩm tra, cơ quan, tổ chức, đại biểu Quốc hội trình dự án, dự thảo và Thường trực Ủy ban Pháp luật để nghiên cứu, giải trình, tiếp thu, chỉnh lý dự thảo và hoàn thiện dự thảo báo cáo giải trình, tiếp thu, chỉnh lý theo ý kiến của đại biểu Quốc hội, Đoàn đại biểu Quốc hội, Hội đồng Dân tộc và các Ủy ban của Quốc hội trinh Ủy ban Thường vụ Quốc hội (điểm đ khoản 2 Điều 75). Thứ bảy, tiếp tục hoàn thiện các quy định về việc xây dựng, ban hành VBQPPL theo trình tự, thủ tục rút gọn: (1) Về các trường hợp xây dựng, ban hành VBQPPL theo trình tự, thủ tục rút gọn: Luật năm 2020 bổ sung 03 trường hợp (vào Điều 146 của Luật năm 2015), gồm: (1) Để bãi bỏ một phần hoặc toàn bộ VBQPPL trái pháp luật hoặc không còn phù hợp với tình hình phát triển kinh tế - xã hội; (2) Để kéo dài thời hạn áp dụng toàn bộ hoặc một phần của VBQPPL trong một thời hạn nhất định để giải quyết những vấn đề cấp bách phát sinh trong thực tiễn; (3) Cần ban hành ngay văn bản để thực hiện điều ước quốc tế có liên quan mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên; (2) Về thẩm quyền ban hành VBQPPL theo trình tự, thủ tục rút gọn: Luật năm 2020 bổ sung thẩm quyền của Thủ tướng Chính phủ trong việc quyết định cho phép áp dụng trình tự, thủ tục rút gọn đối với thông tư của Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ ban hành trong trường hợp cấp bách để giải quyết những vấn đề phát sinh trong thực tiễn quy định tại khoản 1 Điều 146 của Luật năm 2015. Để kiểm soát chặt chẽ việc ban hành thông tư theo trình tự, thủ tục rút gọn, Luật năm 2020 quy định: “Văn bản đề nghị Thủ tướng Chính phủ quyết định áp dụng trình tự, thủ tục rút gọn đối với thông tư của Bộ trưởng, thủ trưởng cơ quan ngang bộ phải kèm theo ý kiến bằng văn bản của Bộ trưởng Bộ Tư pháp”. (3) Bổ sung khoản 3a vào sau khoản 3 Điều 147 Luật năm 2015 quy định về thẩm quyền quyết định việc xây dựng, ban hành văn bản theo trình tự, thủ tục rút gọn của Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Tổng Kiểm toán nhà nước. Thứ tám, về quy định thủ tục hành chính trong VBQPPL: Luật năm 2020 đã sửa đổi, bổ sung khoản 4 Điều 14 (Những hành vi bị nghiêm cấm) của Luật năm 2015, theo đó, bổ sung trường hợp ngoại lệ cho phép địa phương được quy định thủ tục hành chính trong trường hợp cần thiết phải quy định thủ tục hành chính trong nghị quyết của HĐND cấp tỉnh quy định tại khoản 4 Điều 27 của Luật. Đồng thời, sửa đổi, bổ sung khoản 4 Điều 172 (Hiệu lực thi hành) cho phép việc sửa đổi, bổ sung các VBQPPL có quy định thủ tục hành chính được ban hành trước ngày 01/7/2016 với điều kiện không được làm phát sinh thủ tục hành chính mới hoặc quy định thêm thành phần hồ sơ, yêu cầu, điều kiện, tăng thời gian giải quyết thủ tục hành chính đang áp dụng. Thứ chín, nâng cao trách nhiệm của cơ quan lập đề nghị, chủ trì soạn thảo, cơ quan có thẩm quyền ban hành VBQPPL trong quá trình xây dựng, ban hành văn bản: (1) Để khắc phục tình trạng xung đột, mâu thuẫn giữa có thể xảy ra giữa các VBQPPL, Luật năm 2020 bổ sung vào khoản 2 Điều 12 quy định: “Trường hợp văn bản, phần, chương, mục, tiểu mục, điều, khoản, điểm của văn bản quy phạm pháp luật do mình đã ban hành có quy định khác với văn bản mới nhưng cần tiếp tục được áp dụng thì phải được chỉ rõ trong văn bản mới đó”. Khoản 2 Điều 12 của Luật năm 2015 cũng đã được sửa đổi để quy định theo hướng linh hoạt hơn đối với việc sửa đổi, bổ sung, bãi bỏ văn bản, phần, chương, mục, tiểu mục, điều, khoản, điểm của văn bản đã ban hành trái với quy định của văn bản mới. Theo đó, “Khi ban hành văn bản quy phạm pháp luật, cơ quan ban hành văn bản phải đồng thời sửa đổi, bổ sung, bãi bỏ văn bản, phần, chương, mục, tiểu mục, điều, khoản, điểm của văn bản quy phạm pháp luật do mình đã ban hành trái với quy định của văn bản mới đó...” thay vì yêu cầu phải sửa đổi, bổ sung, bãi bỏ ngay trong văn bản mới đó như quy định của Luật năm 2015. (2) Bổ sung trách nhiệm của cơ quan chủ trì soạn thảo trong việc xây dựng Báo cáo về rà soát các VBQPPL có liên quan đến dự án, dự thảo; đồng thời, bổ sung Báo cáo này vào hồ sơ gửi thẩm định, thẩm tra, trình cơ quan có thẩm quyền xem xét, thông qua (tại các Điều 58, 59, 62, 64, 92 và Điều 93 của Luật năm 2015). (3) Nhằm nâng cao trách nhiệm của chủ thể có thẩm quyền đề nghị xây dựng luật, pháp lệnh của Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội, nghị định của Chính phủ, nghị quyết của HĐND cấp tỉnh trong việc chuẩn bị hồ sơ đề nghị và giúp cho cơ quan có thẩm quyền có thêm thông tin khi xem xét, thông qua đề nghị, Luật năm 2020 yêu cầu trong hồ sơ đề nghị phải có “Dự kiến đề cương chi tiết” thay cho “Đề cương” như quy định trong Luật năm 2015 (tại các Điều 37, 87 và Điều 114 của Luật năm 2015). Theo Cổng thông tin điện tử Bộ Tư pháp
Nhận định đúng/sai về luật ban hành văn bản
Thủ tướng chính phủ có quyền ban hành văn bản quy phạm pháp luật có tên là Quyết định và Nghị quyết. Nhận định này đúng hay sai?
04 điểm mới dự kiến sửa đổi tại Luật ban hành VBQPPL
Theo toàn văn dự thảo do Quốc Hội ban hành thì Luật sửa đổi so với Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật 2015 có 04 điểm mới nổi bật như sau: 1. Luật sửa đổi bổ sung có thay đổi, bổ sung một số từ ngữ trong Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật như sau: - Bổ sung cụm từ “Báo cáo giải trình, tiếp thu ý kiến thẩm định” vào sau cụm từ “Báo cáo thẩm định” tại điểm b khoản 2 Điều 140. - Có 04 cụm từ tại các điều, khoản, điểm được thay thế như sau: + Cụm từ “Báo cáo đánh giá tác động của văn bản” được thay bằng cụm từ “Báo cáo đánh giá tác động của chính sách” tại điểm c khoản 2 Điều 95; + Cụm từ “Báo cáo tổng hợp, giải trình, tiếp thu ý kiến của cơ quan, tổ chức, cá nhân và đối tượng chịu sự tác động trực tiếp của văn bản” được thay bằng cụm từ “Bản tổng hợp, giải trình, tiếp thu ý kiến của cơ quan, tổ chức, cá nhân và đối tượng chịu sự tác động trực tiếp của văn bản” tại điểm c khoản 2 Điều 98; cụm từ “khoản 1 Điều này” bằng cụm từ “khoản 3 Điều này” tại khoản 5 Điều 98; + Cụm từ “đối tượng chịu sự tác động trực tiếp của dự thảo nghị quyết” được thay bằng cụm từ “đối tượng chịu sự tác động trực tiếp của chính sách trong đề nghị xây dựng nghị quyết” tại khoản 2 Điều 113; + Cụm từ “Nội dung đánh giá tác động của từng chính sách trong đề nghị xây dựng nghị quyết” bằng cụm từ “Báo cáo đánh giá tác động của chính sách trong đề nghị xây dựng nghị quyết” tại khoản 2 Điều 114; - Bỏ 02 cụm từ sau: + Cụm từ “Dự thảo văn bản quy định chi tiết và” tại điểm e khoản 1 Điều 64; + Cụm từ “và chuẩn bị văn bản” tại khoản 2 Điều 65. (Căn cứ: Khoản 1, Điều 1 Luật sửa đổi bổ sung Luật ban hành VB QPPL) 2. Thời điểm có hiệu lực của văn bản . Luật BHVBQPPL năm 2015 Luật sửa đổi bổ sung Luật BHVBQPPL Thời điểm có hiệu lực của toàn bộ hoặc một phần văn bản quy phạm pháp luật được quy định tại văn bản đó nhưng không sớm hơn 45 ngày kể từ ngày thông qua hoặc ký ban hành đối với văn bản quy phạm pháp luật của cơ quan nhà nước trung ương; Không sớm hơn 10 ngày kể từ ngày ký ban hành đối với văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân; Ủy ban nhân dân cấp tỉnh; không sớm hơn 07 ngày kể từ ngày ký ban hành đối với văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân cấp huyện và cấp xã. Không sớm hơn 10 ngày kể từ ngày thông qua nghị quyết của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh hoặc ký ban hành quyết định của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh; không sớm hơn 07 ngày kể từ ngày thông qua nghị quyết của Hội đồng nhân dân cấp huyện, cấp xã hoặc ký ban hành quyết định của Ủy ban nhân dân cấp huyện, cấp xã. (Căn cứ: Khoản 45, Điều 1 Luật sửa đổi bổ sung Luật ban hành VB QPPL) 3. Cụ thể hóa các bước xây dựng văn bản pháp luật của Quốc hội. - Đối với Trình tự Ủy ban thường vụ Quốc hội xem xét, cho ý kiến về dự án luật, dự thảo nghị quyết của Quốc hội bổ sung thêm: “Trường hợp Ủy ban Thường vụ Quốc hội quyết định chưa trình Quốc hội dự án luật, dự thảo nghị quyết thì nêu rõ lý do và yêu cầu hoàn thiện hồ sơ.” 4. Bổ sung cơ quan ban hành Thông tư liên tịch Theo quy đinh thì tại Luật sửa đổi thì bổ sung Tổng kiểm toàn nhà nước ban hành thông tư liên tịch với Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ. Cụ thể: "Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ, Tổng Kiểm toán nhà nước ban hành thông tư liên tịch để quy định về việc phối hợp giữa các cơ quan này trong việc thực hiện trình tự, thủ tục tố tụng". (Căn cứ: Khoản 7, Điều 1 Luật sửa đổi bổ sung Luật ban hành VBQPPL) (Còn nữa) Mời bạn xem văn bản chi tiết tại file đính kèm:
Văn bản hành chính có thể bãi bỏ văn bản quy phạm pháp luật?
Văn bản quy phạm pháp luật là văn bản có chứa quy phạm pháp luật, được ban hành theo đúng thẩm quyền, hình thức, trình tự, thủ tục quy định. (Điều 2 Luật Ban hành văn bản quy pháp luật 2015) Quyết định hành chính là văn bản do cơ quan hành chính nhà nước, cơ quan, tổ chức được giao thực hiện quản lý hành chính nhà nước ban hành hoặc người có thẩm quyền trong cơ quan, tổ chức đó ban hành quyết định về vấn đề cụ thể trong hoạt động quản lý hành chính được áp dụng một lần đối với một hoặc một số đối tượng cụ thể. (Căn cứ Khoản 1 Điều 3 Luật tố tụng hành chính 2015) Nghe qua có vẻ vô lý, khi văn bản quy phạm pháp luật (VBQPPL) lại có thể bị bãi bỏ bởi văn bản hành chính. Tuy nhiên, đây lại là sự thật! Cụ thể trong trường hợp này là đối với chỉ thị của UBND các cấp. Trước đây, khoản 2 Điều 1 Luật ban hành VBQPPL của HĐND, UBND 2004 quy định: "Văn bản quy phạm pháp luật của Uỷ ban nhân dân được ban hành dưới hình thức quyết định, chỉ thị". Khi Luật ban hành VBQPPL 2015 được ban hành, chỉ thị của UBND các cấp đã bị loại khỏi hệ thống VBQPPL. Tuy nhiên, khoản 2 Điều 172 của Luật ban hành VBQPPL 2015 quy định: “... chỉ thị của Ủy ban nhân dân các cấp là văn bản quy phạm pháp luật được ban hành trước ngày Luật này có hiệu lực thì tiếp tục có hiệu lực cho đến khi có văn bản bãi bỏ hoặc bị thay thế bằng văn bản quy phạm pháp luật khác”. Vậy nên, những chỉ thị của UBND các cấp ban hành trước ngày 01/7/2016 vẫn có hiệu lực cho đến khi có văn bản bãi bỏ hoặc bị thay thế. Câu hỏi đặt ra là: Văn bản nào sẽ được dùng để bãi bỏ chỉ thị? Về vấn đề này, Bộ Tư pháp đã có Công văn 4218/BTP-VĐCXDPL ngày 28/11/2016 hướng dẫn như sau: "...UBND các cấp có thể ban hành quyết định hành chính để bãi bỏ chỉ thị là văn bản quy phạm pháp luật mà mình đã ban hành." Ảnh minh họa Như vậy, trong trường hợp này, văn bản hành chính (quyết định hành chính) có thể bãi bỏ VBQPPL là không hề vô lý nhé (mình không nói phết đâu).
03 sửa đổi đáng chú ý tại dự án sửa đổi Luật ban hành các VBQPPL
Ngày 08/6/2018, tại Kỳ họp thứ 5, Quốc hội khóa XIV đã thông qua Nghị quyết số 57/2018/QH14 về Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 2019 và điều chỉnh Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 2018, theo đó, dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật sẽ trình Quốc hội cho ý kiến tại Kỳ họp thứ 8 (tháng 10/2019) Trong đó có những nội dung nổi bật sau: 1. Sửa đổi khoản 2 Điều 146 về "Quy định các trường hợp xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật theo trình tự, thủ tục rút gọn": “2. Trường hợp để bãi bỏ toàn bộ hoặc một phần văn bản quy phạm pháp luật đã được thay thế bằng văn bản quy phạm pháp luật khác hoặc không còn được áp dụng trên thực tế; ngưng hiệu lực toàn bộ hoặc một phần của văn bản quy phạm pháp luật để kịp thời bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân; kéo dài thời hạn áp dụng toàn bộ hoặc một phần của văn bản quy phạm pháp luật trong một thời hạn nhất định để giải quyết những vấn đề cấp bách phát sinh trong thực tiễn và trường hợp cần ban hành ngay văn bản để thực hiện điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên.” 2. Sửa đổi khoản 1 Điều 151 về "Thời điểm có hiệu lực của văn bản quy phạm pháp luật" như sau: “1. Thời điểm có hiệu lực của toàn bộ hoặc một phần văn bản quy phạm pháp luật được quy định tại văn bản đó nhưng không sớm hơn 45 ngày kể từ ngày thông qua hoặc ký ban hành đối với văn bản quy phạm pháp luật của cơ quan nhà nước trung ương; không sớm hơn 10 ngày kể từ ngày thông qua nghị quyết của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh hoặc ký ban hành đối với văn bản quy phạm pháp luật (quyết định) của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh; không sớm hơn 07 ngày kể từ ngày thông qua nghị quyết của Hội đồng nhân dân cấp huyện, cấp xã hoặc ký ban hành đối với quyết định của Ủy ban nhân dân cấp huyện và cấp xã.” 3. Sửa đổi, bổ sung khoản 4 Điều 172 về "Hiệu lực thi hành" như sau: “4. Những quy định về thủ tục hành chính trong văn bản quy phạm pháp luật do cơ quan, người có thẩm quyền quy định tại khoản 4 Điều 14 của Luật này được ban hành trước ngày Luật này có hiệu lực thì tiếp tục được áp dụng cho đến khi bị bãi bỏ bằng văn bản khác hoặc bị thay thế bằng thủ tục hành chính mới. Trường hợp sửa đổi, bổ sung thủ tục hành chính được ban hành trước ngày 01 tháng 7 năm 2016 thì không được làm phát sinh thủ tục hành chính mới hoặc quy định thêm thành phần hồ sơ, yêu cầu, điều kiện, tăng thời gian giải quyết thủ tục hành chính đang áp dụng.” Mời bạn xem chi tiết tại file đính kèm:
Thưa các bạn! Theo khoản 1 điều139 của luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật thì hồ sơ thẩm định bao gồm a) Tờ trình của UBND về dự thảo quyết định vậy Tôi muốn hỏi nếu sau khi thẩm định xong của phòng Tư pháp huyện thì Tờ trình dự thảo này ai ký. tôi thấy điều bất cập ở đây là UBND huyện ban hành Quyết định của UBND huyện, trong hồ sơ xin thông qua dụ thảo quyết định có tờ trình của UBND huyện. Nếu Tờ trình do UBND ký, vậy UBND huyện xin UBND huyện xem xét thông qua quyết định là chưa họp lý. Vậy các bạn giải thích cho tôi rõ vấn đề này Cảm ơn!
Lo lắng trước tình trạng ban hành văn bản pháp luật hiện nay
Chắc hẳn các bạn cũng đã biết sự kiện lớn nhất chưa từng có từ trước đến giờ đó là Bộ luật hình sự 2015 chuẩn bị đến ngày có hiệu lực (01/7/2016) thì buộc phải lùi lại thời gian thi hành vì phát hiện ra có quá nhiều sai sót, cần phải chỉnh sửa cả về lỗi kỹ thuật lẫn nội dung. Từ thời điểm phát hiện ra sai sót đến nay, cũng đã hơn 4 tháng, thì đến hạn phải trình Dự thảo Bộ luật hình sự sửa đổi 2016. Lần trình Quốc hội thông qua bản chỉnh sửa này, tôi cũng như bao người khác hy vọng rằng, Bộ luật hình sự này sẽ không bị chỉnh sửa nữa. Những tưởng đã rút kinh nghiệm từ những người khác, hoặc từ những người đi trước thì hôm qua, tôi lại phát hiện thêm những sai sót được nêu ra tại Thông tư 133/2016/TT-BTC về chế độ kế toán cho doanh nghiệp vừa và nhỏ. Nhắc đến kế toán thì chúng ta lại nghĩ ngay đến việc phải hết sức cẩn trọng, chi tiết từng chút một về các con số, phải tuân thủ theo những quy tắc nhất định đã được luật hóa trong các văn bản pháp luật. Nhưng ở đây, ngay cả khâu ban hành cũng như kiểm duyệt văn bản pháp luật trước khi thông qua lại thiếu đi sự cẩn trọng, chi tiết cần phải có, trong khi công việc kế toán luôn đặt ra những nguyên tắc đó để những người thực hiện phải tuân thủ theo. Nếu vi phạm những nguyên tắc đó thì nguy cơ phải đi tù là rất cao. Kế đến, câu chuyện liên quan đến Luật sửa đổi Luật liên quan đến đầu tư, kinh doanh, mới đầu tôi thật sự rất choáng khi hay tin, Luật này sửa đổi đến những 12 Luật có liên quan đến đầu tư, kinh doanh. Cứ hy vọng rằng mình nghe nhầm tin này, nhưng quả thật không phải nhầm mà là sự thật. Trong lịch sử lập pháp nước nhà, cũng chưa từng thấy có Luật nào sửa đổi nhiều Luật đến như vậy, mãi đến hôm qua tại phiên họp Ủy ban Thường vụ Quốc hội, sau khi có ý kiến của chủ tịch Quốc hội và những người có mặt tại phiên họp đó thì mới quyết định rút việc sửa đổi các Luật này xuống chỉ còn 03 Luật, đồng thời cần phải có thời gian chuẩn bị thêm. Trên đây chỉ là vài vụ thực tế cho thấy, thời gian gần đây, có quá nhiều vấn đề liên quan công tác ban hành văn bản pháp luật, đặc biệt là vấn đề liên quan đến sự cẩn trọng chi tiết, điều mà theo tôi đó là nguyên tắc nền tảng mà những người làm công tác ban hành văn bản pháp luật cần phải có – bởi lẽ khi một văn bản pháp luật được ban hành, có khi nó ảnh hưởng đến đời sống của người dân, trong đó có tôi và các bạn, tính sống còn của một doanh nghiệp hay một chiến lược kinh doanh trong ngắn hạn hoặc trung hạn... Vậy thì phải làm gì để khắc phục những sai sót đó, để nâng cao tính cẩn trọng chi tiết trong việc ban hành văn bản quy phạm pháp luật hiện nay?
Thông tư liên tịch giữa các Bộ có còn được áp dụng từ ngày 01/7/2016 nữa không?
Chào mọi người, trong topic thảo luận trước đây của mình về “Lúng túng khi chọn văn bản pháp luật để áp dụng từ 01/7/2016” có nói đến vấn đề chồng chéo hiệu lực áp dụng giữa các văn bản pháp luật thì nay mình lại thêm một thắc mắc không biết bày tỏ cùng ai, nên mong mọi người ở cộng đồng giải đáp giúp: Tại Điều 4 Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật 2015 quy định về hệ thống văn bản quy phạm pháp luật, mà cụ thể là Khoản 8: Điều 4. Hệ thống văn bản quy phạm pháp luật 1. Hiến pháp. 2. Bộ luật, luật (sau đây gọi chung là luật), nghị quyết của Quốc hội. 3. Pháp lệnh, nghị quyết của Ủy ban thường vụ Quốc hội; nghị quyết liên tịch giữa Ủy ban thường vụ Quốc hội với Đoàn Chủ tịch Ủy ban trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. 4. Lệnh, quyết định của Chủ tịch nước. 5. Nghị định của Chính phủ; nghị quyết liên tịch giữa Chính phủ với Đoàn Chủ tịch Ủy ban trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. 6. Quyết định của Thủ tướng Chính phủ. 7. Nghị quyết của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao. 8. Thông tư của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao; thông tư của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao; thông tư của Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ; thông tư liên tịch giữa Chánh án Tòa án nhân dân tối cao với Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao; thông tư liên tịch giữa Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ với Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao; quyết định của Tổng Kiểm toán nhà nước. 9. Nghị quyết của Hội đồng nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương (sau đây gọi chung là cấp tỉnh). 10. Quyết định của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh. 11. Văn bản quy phạm pháp luật của chính quyền địa phương ở đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt. 12. Nghị quyết của Hội đồng nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh, thành phố thuộc thành phố trực thuộc trung ương (sau đây gọi chung là cấp huyện). 13. Quyết định của Ủy ban nhân dân cấp huyện. 14. Nghị quyết của Hội đồng nhân dân xã, phường, thị trấn (sau đây gọi chung là cấp xã). 15. Quyết định của Ủy ban nhân dân cấp xã. Tại Khoản này chỉ thừa nhận Thông tư liên tịch giữa Chánh án TANDTC với Viện trưởng VKSNDTC, giữa Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ với Chánh án TANDTC, Viện trưởng VKSNDTC và không đề cập đến Thông tư liên tịch giữa các Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ như Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật 2008 đã nêu. Điều này đồng nghĩa với việc không thừa nhận Thông tư liên tịch giữa các Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ là một văn bản quy phạm pháp luật. Mà mới đây, có hàng loạt Thông tư liên tịch mới được ban hành giữa các Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ thì liệu đến ngày 01/7/2016 các Thông tư liên tịch này có đựơc áp dụng không? Liệu các Thông tư liên tịch này có giá trị pháp lý không hay nó chỉ mang bản chất như một Công văn – vốn lại văn bản dùng để trao đổi giữa các cơ quan nhà nước với nhau và với cơ quan, tổ chức, cá nhân khác? Mọi người nghĩ sao về vấn đề này?
văn bản hướng dẫn thi hành có thể sẽ được ban hành nhanh hơn
Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật 2015 có hiệu lực liệu có làm cho cơ quan ban hành ra văn bản hướng dẫn nhanh hơn? Theo quy định trước đây của Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật 2008 thì văn bản quy phạm pháp luật chỉ hết hiệu lực trong 03 trường hợp: 1. Hết thời hạn có hiệu lực đã được quy định trong văn bản; 2. Được sửa đổi, bổ sung hoặc thay thế bằng văn bản mới của chính cơ quan nhà nước đã ban hành văn bản đó; 3. Bị hủy bỏ hoặc bãi bỏ bằng một văn bản của cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Điều đó có nghĩa là luật hết hiệu lực thì nghị định hay thông tư hướng dẫn vẫn còn hiệu lực nếu các văn bản này không rơi vào 1 trong 3 trường hợp hết hiệu lực như trên, như vậy các cơ quan ban hành có xu hướng ban hành chậm các văn bản hướng dẫn của luật mới vì văn bản cũ vẫn còn áp dụng, vẫn có thể hướng dẫn được những nội dung không trái với quy định của luật mới. Tuy nhiên sắp tới ngày 01/07/2016 Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật 2015 bắt đầu có hiệu lực đã quy định những văn bản hướng dẫn chi tiết sẽ hết hiệu lực khi văn bản được hướng dẫn hết hiệu lực như vậy khi ban hành luật các cơ quan cần phải nhanh chóng có những nội dung ban hành để hướng dẫn thực hiện những nội dung của luật, nghị định để áp dụng luật hiệu quả. Hi vọng quy định này sẽ là dấu hiệu tốt cho việc ban hành nhanh chóng những nội dung hướng dẫn áp dụng luật để cho người dân, các doanh nghiệp và các đối tượng khác làm về luật có thể nắm bắt và áp dụng pháp luật đầy đủ theo quy định.
Lúng túng khi chọn văn bản pháp luật để áp dụng từ 01/7/2016
Từ ngày 01/7/2016, Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật 2015 bắt đầu có hiệu lực, dẫn đến việc hàng loạt văn bản sẽ hết hiệu lực do có quy định tại Khoản 4 Điều 154 “Văn bản quy phạm pháp luật hết hiệu lực thì văn bản quy phạm pháp luật quy định chi tiết thi hành, văn bản đó cũng đồng thời hết hiệu lực.” Ban đầu đọc quy định này, tôi rất mừng vì sẽ bỏ đi sự chồng chéo quy định giữa các văn bản pháp luật cũ và văn bản pháp luật mới, tạo sự thuận lợi hơn cho người thực thi, áp dụng văn bản pháp luật. Nhưng ngày 01/7/2016 càng đến gần tôi thấy lo nhiều hơn là mừng, bởi: - Quy định này giúp cho cơ quan ban hành đỡ được khâu “rà soát lại” văn bản cũ, nhưng lại làm khó người thực thi như tôi đây, bởi việc xác định văn bản hướng dẫn chỉ mang tính chất tương đối, ngoại trừ nhiều văn bản ghi rõ “Nghị định…quy định chi tiết thi hành Luật…” - Rồi nếu Luật đã có hiệu lực mà chưa có văn bản hướng dẫn thì dựa vào đâu để áp dụng? Thêm cái nữa, hồi tháng 4/2016 vừa rồi, Chính phủ có tổ chức phiên họp thường kỳ trong đó có bàn về chuyện nếu như chưa có văn bản hướng dẫn Luật mới thì Chính phủ sẽ thống nhất tiếp tục áp dụng nếu không trái với tinh thần của Luật, pháp lệnh. Vậy nghĩa là việc thực thi vẫn chưa sát sao, thống nhất như Luật đã định? - Còn khoảng hơn 10 ngày nữa thôi là đến 01/7, các cơ quan, ban ngành đang “gấp rút” ban hành văn bản hướng dẫn, bỏ qua cả khâu đưa ra dự thảo, lấy ý kiến, đánh giá tác động…Điều này làm tôi lo sợ rằng, ban hành “vội” rồi người thực thi như chúng tôi sẽ ra sao đây? Trên đây là vài dòng tâm tư của tôi trước khi hàng loạt các văn bản “bị khai tử”, còn bạn, bạn nghĩ sao về vấn đề này?
Về việc áp dụng các văn bản QPPL dưới luật khi văn bản QPPL làm cơ sở hết hiệu lực hoặc bị bãi bỏ.
Trên thực tế, đến nay, xã hội ghi nhận việc các Bộ ngành TW và địa phương đang nợ một khối lượng lớn văn bản hướng dẫn, điều chỉnh phù hợp với các Luật mới, quy định mới. Việc xây dựng không kịp thời, không đầy đủ các văn bản dưới luật gây khó khăn rất lớn trong việc áp dụng luật. Tuy nhiên, trong các Văn bản QPPL mới ban hành luôn có điểm thòng "Luật này, Nghị định này, Thông tư này, Quyết định này,... bãi bỏ Luật, Nghị định, Thông tư, Quyết định kia và các quy định có liên quan trái với các quy định tại Luật này,..." Xin được hướng dẫn làm rõ cách quy định nêu trên. Ví dụ: Thông tư A, xây dựng để hướng dẫn Nghị định B, Nghị định B hướng dẫn thi hành Luật C. Khi Luật D thay thế, bãi bỏ Luật C, nhưng chưa có Nghị định, Thông tư hướng dẫn thi hành Luật D, mà những điều khoản của Nghị định B và Thông tư A có nhiều điều không trái với Luật D thì có còn hiệu lực áp dụng hay không? Mong được tư vấn, làm rõ. Xin cảm ơn và chúc sức khỏe Diễn dàn.
Re:Tất cả điểm mới Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật 2015
100. Lấy ý kiến về dự thảo quyết định của UBND cấp tỉnh Việc lấy ý kiến dự thảo quyết định của UBND cấp tỉnh được thực hiện như với việc lấy ý kiến dự thảo Nghị quyết của HĐND cấp tỉnh. (Căn cứ Điều 129 Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật 2015) 101. Thẩm định dự thảo quyết định của UBND cấp tỉnh Việc thẩm định dự thảo quyết định của UBND cấp tỉnh được thực hiện như với việc thẩm định dự thảo Nghị quyết của HĐND cấp tỉnh. Sở Tư pháp có trách nhiệm thẩm định dự thảo quyết định trước khi trình UBND cấp tỉnh. (Căn cứ Điều 130 Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật 2015) 102. Hồ sơ dự thảo quyết định trình UBND cấp tỉnh Hồ sơ dự thảo quyết định trình UBND cấp tỉnh tương tự như với hồ sơ dự thảo nghị quyết trình HĐND cấp tỉnh. Cơ quan chủ trì soạn thảo gửi hồ sơ dự thảo quyết định đến UBND cấp tỉnh chậm nhất là 03 ngày làm việc trước ngày UBND họp để chuyển đến các thành viên UBND. (Căn cứ Điều 131 Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật 2015) 103. Quy định lại trình tự xem xét, thông qua dự thảo quyết định của UBND cấp tỉnh - Tùy theo tính chất và nội dung của dự thảo quyết định, Chủ tịch UBND cấp tỉnh quyết định phương thức xem xét, thông qua dự thảo quyết định. Trong trường hợp dự thảo quyết định được xem xét, thông qua tại phiên họp của UBND cấp tỉnh thì theo trình tự sau: + Đại diện cơ quan chủ trì soạn thảo thuyết trình dự thảo quyết định. + Đại diện Sở Tư pháp phát biểu về việc giải trình, tiếp thu ý kiến thẩm định. + Đại diện Văn phòng UBND cấp tỉnh trình bày ý kiến. + UBND cấp tỉnh thảo luận và biểu quyết thông qua dự thảo quyết định. - Dự thảo quyết định được thông qua khi có quá nửa tổng số thành viên UBND cấp tỉnh biểu quyết tán thành. - Chủ tịch UBND cấp tỉnh ký quyết định. (Căn cứ Điều 132 Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật 2015) 104. Sửa đổi một số quy định về soạn thảo nghị quyết của HĐND cấp huyện Cơ quan, tổ chức có liên quan được lấy ý kiến có trách nhiệm trả lời bằng văn bản trong thời hạn 07 ngày kể từ ngày nhận được dự thảo nghị quyết. (hiện nay là 03 ngày) Trong trường hợp lấy ý kiến của đối tượng chịu sự tác động trực tiếp của nghị quyết thì cơ quan, tổ chức lấy ý kiến có trách nhiệm xác định những vấn đề cần lấy ý kiến, địa chỉ tiếp nhận ý kiến và bảo đảm ít nhất là 07 ngày kể từ ngày tổ chức lấy ý kiến để các đối tượng được lấy ý kiến góp ý vào dự thảo nghị quyết. (hiện nay ít nhất là 05 ngày) Đồng thời, bỏ quy định sau: “UBND có trách nhiệm xem xét, thảo luận tập thể và biểu quyết theo đa số để quyết định việc trình dự thảo nghị quyết ra HĐND. UBND có trách nhiệm gửi tờ trình, dự thảo nghị quyết và các tài liệu có liên quan đến Thường trực HĐND để chuyển đến các đại biểu HĐND chậm nhất là 05 ngày trước ngày khai mạc kỳ họp HĐND. (Căn cứ Điều 133 Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật 2015) 105. Thẩm định dự thảo nghị quyết của HĐND cấp huyện - Phòng Tư pháp có trách nhiệm thẩm định dự thảo nghị quyết của HĐND cấp huyện trước khi trình UBND cấp huyện. Chậm nhất là 10 ngày trước ngày UBND họp, cơ quan chủ trì soạn thảo phải gửi hồ sơ dự thảo nghị quyết của HĐND cấp huyện đến Phòng Tư pháp để thẩm định. - Thời hạn, hồ sơ, nội dung thẩm định và báo cáo thẩm định thực hiện theo quy định tại các khoản 2, 3, 4 và 5 Điều 121 của Luật này. (Căn cứ Điều 134 Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật 2015) 106. Trách nhiệm của UBND cấp huyện đối với dự thảo nghị quyết của HĐND cùng cấp - UBND cấp huyện có trách nhiệm xem xét, thảo luận và biểu quyết về việc trình dự thảo nghị quyết ra HĐND cùng cấp. - UBND cấp huyện có trách nhiệm gửi tờ trình, dự thảo nghị quyết và các tài liệu có liên quan đến Thường trực HĐND để chuyển đến các đại biểu HĐND cùng cấp chậm nhất là 07 ngày trước ngày khai mạc kỳ họp. (Căn cứ Điều 135 Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật 2015) 107. Sửa đổi thời hạn gửi báo cáo thẩm tra dự thảo nghị quyết của HĐND cấp huyện Ban của HĐND được phân công thẩm tra có trách nhiệm gửi báo cáo thẩm tra đến Thường trực HĐND để chuyển đến các đại biểu HĐND chậm nhất là 07 ngày trước ngày khai mạc kỳ họp. (Căn cứ Điều 136 Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật 2015) 108. Sửa đổi thời hạn trả lời bằng văn bản khi nhận dự thảo quyết định của UBND cấp huyện Cơ quan, tổ chức có liên quan được lấy ý kiến có trách nhiệm trả lời bằng văn bản trong thời hạn 07 ngày kể từ ngày nhận được dự thảo quyết định. Trong trường hợp lấy ý kiến của đối tượng chịu sự tác động trực tiếp của quyết định thì cơ quan lấy ý kiến có trách nhiệm xác định những vấn đề cần lấy ý kiến và bảo đảm ít nhất là 07 ngày kể từ ngày tổ chức lấy ý kiến để các đối tượng được lấy ý kiến góp ý vào dự thảo quyết định. (Căn cứ Điều 138 Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật 2015) 109. Bổ sung nội dung hồ sơ thẩm định dự thảo quyết định của UBND cấp huyện Hồ sơ gửi thẩm định bao gồm: - Tờ trình UBND về dự thảo quyết định. - Dự thảo quyết, định. - Bản tổng hợp ý kiến về dự thảo quyết định. - Tài liệu khác (nếu có). Nội dung và báo cáo thẩm định thực hiện theo quy định tại các khoản 3, 4 và 5 Điều 121 của Luật này. Chậm nhất là 05 ngày trước ngày UBND họp, Phòng Tư pháp gửi báo cáo thẩm định đến cơ quan soạn thảo. (hiện nay là 03 ngày) (Căn cứ Điều 139 Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật 2015) (Còn nữa)
Tất cả điểm mới Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật 2015
Trong hệ thống pháp luật Việt Nam, Hiến pháp có giá trị cao nhất, kế đến là các Luật và Pháp lệnh. Thế nhưng, trong các Luật và Pháp lệnh này, thì Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật quan trọng nhất, bởi lẽ việc Luật này quy định hệ thống các văn bản pháp luật, hiệu lực về thời gian, hiệu lực về không gian của các văn bản luật… Nắm bắt được những thiếu sót cần phải hoàn thiện, Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật 2015 ra đời thay thế Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật 2008, với khá nhiều điểm mới đáng chú ý. Bài viết sau đây sẽ giúp bạn tìm ra các điểm mới của Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật 2015. Chú thích: Bài viết có sử dụng một số từ ngữ viết tắt như sau: VBQPPL: Văn bản quy phạm pháp luật. VKSND: Viện kiểm sát nhân dân. UBTVQH: Ủy ban Thường vụ Quốc hội. HĐND: Hội đồng nhân dân. TAND: Tòa án nhân dân. UBND: Ủy ban nhân dân. 1. Quy định rõ phạm vi điều chỉnh của Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật Nội dung được đề cập tại Luật này sẽ bao gồm: nguyên tắc, thẩm quyền, hình thức, trình tự, thủ tục xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật; trách nhiệm của các cơ quan nhà nước, tổ chức, cá nhân trong việc xây dựng văn bản quy phạm pháp luật. Lưu ý: Luật này không quy định việc làm Hiến pháp, sửa đổi Hiến pháp. (Căn cứ Điều 1 Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật 2015) 2. Giải thích rõ các ngữ nghĩa được dùng trong Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật - Quy phạm pháp luật là quy tắc xử sự chung, có hiệu lực bắt buộc chung, được áp dụng lặp đi lặp lại nhiều lần đối với cơ quan, tổ chức, cá nhân trong phạm vi cả nước hoặc đơn vị hành chính nhất định, do cơ quan nhà nước, người có thẩm quyền quy định trong Luật này ban hành và được Nhà nước bảo đảm thực hiện. - Đối tượng chịu sự tác động trực tiếp của văn bản quy phạm pháp luật là cơ quan, tổ chức, cá nhân có quyền, nghĩa vụ, trách nhiệm chịu ảnh hưởng trực tiếp từ việc áp dụng văn bản đó sau khi được ban hành. - Giải thích Hiến pháp, luật, pháp lệnh là việc Ủy ban thường vụ Quốc hội làm rõ tinh thần, nội dung của điều, khoản, điểm trong Hiến pháp, luật, pháp lệnh để có nhận thức, thực hiện, áp dụng đúng, thống nhất pháp luật. (Căn cứ Điều 3 Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật 2015) 3. Bộ luật có chỗ đứng rõ ràng trong hệ thống văn bản quy phạm pháp luật Theo đó, hệ thống VBQPPL được sắp xếp lại theo thứ tự giá trị cao nhất đến giá trị thấp nhất. Cụ thể: - Hiến pháp. - Bộ luật, luật (sau đây gọi chung là luật), nghị quyết của Quốc hội. - Pháp lệnh, nghị quyết của UBTVQH; nghị quyết liên tịch giữa UBTVQH với Đoàn Chủ tịch Ủy ban trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. - Lệnh, quyết định của Chủ tịch nước. - Nghị định của Chính phủ; nghị quyết liên tịch giữa Chính phủ với Đoàn Chủ tịch Ủy ban trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. - Quyết định của Thủ tướng Chính phủ. - Nghị quyết của Hội đồng Thẩm phán TAND tối cao. - Thông tư của Chánh án TAND tối cao; thông tư của Viện trưởng VKSND tối cao; thông tư của Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ; thông tư liên tịch giữa Chánh án TAND tối cao với Viện trưởng VKSND tối cao; thông tư liên tịch giữa Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ với Chánh án TAND tối cao, Viện trưởng VKSND tối cao; quyết định của Tổng Kiểm toán nhà nước. - Nghị quyết của HĐND cấp tỉnh. - Quyết định của UBND cấp tỉnh. - VBQPPL của chính quyền địa phương ở đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt. - Nghị quyết của HĐND cấp huyện. - Quyết định của UBND cấp huyện. - Nghị quyết của HĐND cấp xã. - Quyết định của UBND cấp xã. (Căn cứ Điều 4 Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật 2015) 4. Cụ thể hóa một số nguyên tắc xây dựng và ban hành văn bản quy phạm pháp luật - Bảo đảm tiết kiệm, hiệu quả, kịp thời, dễ tiếp cận, dễ thực hiện của VBQPPL; bảo đảm lồng ghép vấn đề bình đẳng giới trong VBQPPL; bảo đảm yêu cầu cải cách thủ tục hành chính. - Bảo đảm yêu cầu về quốc phòng, an ninh, bảo vệ môi trường, không làm cản trở việc thực hiện các điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên. - Bảo đảm công khai, dân chủ trong việc tiếp nhận, phản hồi ý kiến, kiến nghị của cá nhân, cơ quan, tổ chức trong quá trình xây dựng, ban hành VBQPPL. (Căn cứ Điều 5 Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật 2015) 5. Bổ sung đối tượng được tham gia đóng góp ý kiến Ngoài các đối tượng quy định tại Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật 2008, bổ sung thêm các đối tượng sau: - Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam. - Các tổ chức thành viên khác của Mặt trận. (Căn cứ Điều 6 Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật 2015) 6. Bổ sung tiểu mục vào bố cục của văn bản quy phạm pháp luật - Tùy theo nội dung, VBQPPL có thể được bố cục theo phần, chương, mục, tiểu mục, điều, khoản, điểm. - UBTVQH quy định về thể thức và kỹ thuật trình bày VBQPPL của Quốc hội, UBTVQH, Chủ tịch nước. Chính phủ quy định về thể thức và kỹ thuật trình bày VBQPPL của các cơ quan, người có thẩm quyền khác được quy định trong Luật này. (Căn cứ Điều 7 Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật 2015) 7. Việc dịch văn bản quy phạm pháp luật có giá trị tham khảo Ngoài việc quy định VBQPPL có thể được dịch ra tiếng dân tộc thiểu số, tiếng nước ngoài như trước đây. Luật này bổ sung nội dung sau: bản dịch có giá trị tham khảo. (Căn cứ Điều 9 Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật 2015) 8. Bổ sung nội dung văn bản quy định chi tiết Với mục đích đảm bảo các luật, pháp lệnh có thể được thi hành từ khi có hiệu lực, Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật 2015 quy định thêm nội dung: Dự thảo văn bản quy định chi tiết phải được chuẩn bị và trình đồng thời với dự án luật, pháp lệnh và phải được ban hành để có hiệu lực cùng thời điểm có hiệu lực của văn bản hoặc điều, khoản, điểm được quy định chi tiết. (Căn cứ Điều 11 Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật 2015) 9. Cụ thể hóa việc sửa đổi, bổ sung, thay thế, bãi bỏ hay đình chỉ thi hành văn bản quy phạm pháp luật - Văn bản sửa đổi, bổ sung, thay thế, bãi bỏ hoặc đình chỉ việc thi hành văn bản khác phải xác định rõ tên văn bản, phần, chương, mục, tiểu mục, điều, khoản, điểm của văn bản bị sửa đổi, bổ sung, thay thế, bãi bỏ hoặc đình chỉ việc thi hành. Văn bản bãi bỏ VBQPPL phải được đăng Công báo, niêm yết theo quy định. - Khi ban hành VBQPPL, cơ quan ban hành văn bản phải sửa đổi, bổ sung, bãi bỏ văn bản, phần, chương, mục, tiểu mục, điều, khoản, điểm của văn bản quy phạm pháp luật do mình đã ban hành trái với quy định của văn bản mới ngay trong văn bản mới đó. Trường hợp chưa thể sửa đổi, bổ sung ngay thì phải xác định rõ trong văn bản mới danh mục văn bản, phần, chương, mục, tiểu mục, điều, khoản, điểm của VBQPPL mà mình đã ban hành trái với quy định của VBQPPL mới và có trách nhiệm sửa đổi, bổ sung trước khi VBQPPL mới có hiệu lực. (Căn cứ Điều 12 Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật 2015) (Còn nữa)
Luật, Bộ luật và Đạo luật cái nào có giá trị cao hơn?
Học Luật chắc hẳn các bạn thường nghe nhắc đến nhiều các từ Luật, Bộ luật và Đạo luật trong các bài giảng, nhưng có bao giờ bạn thăc mắc Luật, Bộ luật và Đạo luật khác nhau ở chỗ nào chưa, tại sao có lúc giảng viên dùng từ đạo luật, khi khác lại dùng bộ luật… Mình thử tìm các văn bản pháp luật xem có quy định về vấn đề này không? Hiến pháp – văn bản có giá trị pháp lý cao nhất – không có quy định. Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật 2008 – văn bản Luật – không có khái niệm về Luật, Bộ luật, Đạo luật. Chỉ quy định khái niệm của văn bản quy phạm pháp luật là văn bản do cơ quan nhà nước ban hành hoặc phối hợp ban hành theo thẩm quyền, hình thức, trình tự, thủ tục được quy định hoặc trong Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật của HĐND, UBND… Hệ thống văn bản quy phạm pháp luật thì chỉ có nhắc đến Luật, không hề nhắc đến Bộ luật hay Đạo luật. Vậy Bộ luật và Đạo luật không thuộc hệ thống văn bản quy phạm pháp luật Việt Nam sao? Thực tế, nếu các bạn có lần tham khảo qua, hiện nay, chúng ta có các Bộ luật lao động 2012, Bộ luật dân sự 2005, Bộ luật hình sự 1999…Vậy những bộ luật này không thuộc hệ thống văn bản quy phạm pháp luật Việt Nam? Vì rõ ràng theo Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật chỉ nêu hệ thống bao gồm…trong đó có luật, nhưng không có Bộ luật, Đạo luật? Thử tìm trên Gu-Gồ, thì thấy có một bạn trong Dân Luật giải thích 3 từ này, nhưng mình chưa tìm ra căn cứ bạn này nói, có thể do cách hiểu của bạn ấy: - Luật là văn bản do Quốc hội ban hành để quy định các vấn đề cơ bản thuộc lĩnh vực kinh tế, xã hội, quốc phòng, an ninh, tài chính, tiền tệ, ngân sách, thuế, dân tộc, tôn giáo, văn hóa, giáo dục, y tế, khoa học, công nghệ, môi trường, đối ngoại, tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước, chế độ công vụ, cán bộ, công chức, quyền và nghĩa vụ của công dân. - Bộ luật là Văn bản luật, văn bản quy phạm pháp luật do Quốc hội thông qua có giá trị pháp lí cao (chỉ sau Hiến pháp). Tổng hợp có hệ thống theo chương, mục những quy phạm pháp luật điều chỉnh quan hệ xã hội quan trọng của từng lĩnh vực trong đời sống xã hội. Vd. Bộ luật dân sự, Bộ luật lao động, Bộ luật hình sự, Bộ luật tố tụng hình sự, Bộ luật hàng hải của Việt Nam. - Đạo luật là văn bản quy phạm pháp luật có giá trị pháp lý cao, trong đó đạo luật quy định những chế tài nghiêm khắc nhất đối với tội phạm, và đạo luật chỉ có trong lĩnh vực hình sự. Nếu là cách hiểu thì có thể đúng hoặc sai, tùy quan điểm của mỗi người. Chuyện này không phải chỉ xảy ra ở nước ta, các nước bạn trên thế giới cũng từng nhầm lẫn giữa 3 khái niệm này. Việc giải thích nghĩa của từng từ này dường như rất mơ hồ: Đạo luật: luật được thông qua bởi Quốc hội. Bộ luật: hệ thống các luật hay các quy định bằng văn bản quy định cách ứng xử của mọi người trong một tổ chức hay một quốc gia. Luật: là hệ thống các nguyên tắc mà mọi người trong quốc gia hay trong xã hội bắt buộc phải tuân thủ. Dẫn chứng sự nhập nhằng đó là tại Pháp, trong bài báo của họ cũng đề cập ban đầu dự thảo luật, sau đó nâng thành dự thảo đạo luật… (Nguồn: http://vtv.vn/tin-tuc/nguoi-dan-phap-co-the-bi-co-quan-an-ninh-theo-doi-toan-dien-20150625194131083.htm) Nếu được hỏi đến 3 khái niệm này nhiều người cho rằng nó là một, nhưng có thật sự là một không khi vấn đề giá trị pháp lý của chúng chưa rõ ràng? Các bạn thành viên Dân Luật có thể giúp mình vụ này hông?