Tháng Tự hào - Pride month là gì?
Tháng tự hào là gì? Pháp luật Việt Nam hiện hành quy định như thế nào về LGBT? Có thể kết hôn đồng giới tại Việt Nam không? Hãy cùng tìm hiểu qua bài viết sau đây. (1) Tháng Tự hào - Pride month là gì? Tháng Tự hào hay tiếng Anh là Pride month bắt nguồn từ một sự kiện vào 06/1969, khi những người thuộc cộng đồng LGBT tại New York đứng lên chống lại sự đàn áp của cảnh sát và mở ra phong trào đấu tranh cho quyền LGBT hiện đại. Theo đó, để kỷ niệm cho sự kiện này, đồng thời để phản đối một cách hòa bình và nâng cao nhận thức chính trị về các vấn đề hiện tại mà cộng đồng LGBT trên toàn thế giới phải đối mặt. Tháng 06 hằng năm đã được chọn là thời điểm để mọi người trong cộng đồng LGBT đứng lên, tự hào về con người họ và lan tỏa thông điệp rằng họ xứng đáng được tôn trọng và yêu thương. (2) Pháp luật hiện hành quy định như thế nào về LGBT? Trước tiên, tại Điều 16 Hiến pháp 2013 - Hiến pháp Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam có nêu rõ mọi người đều bình đẳng trước pháp luật và không ai bị phân biệt đối xử trong đời sống chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội. Theo đó, những người thuộc cộng đồng LGBTQ+ tại Việt Nam có quyền được tự hào về bản sắc riêng của mình và không ai bị phân biệt đối xử trong đời sống chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội. Bên cạnh đó, tại Công văn 4132/BYT-PC được Bộ Y tế ban hành ngày 03/8/2022 về chấn chỉnh công tác khám bệnh, chữa bệnh đối với người đồng tính, song tính và chuyển giới Bộ Y tế đã đề nghị Thủ trưởng các Đơn vị chỉ đạo các cơ sở khám bệnh, chữa bệnh thuộc thẩm quyền quản lý của mình quán triệt các cơ sở khám bệnh, chữa bệnh trong toàn quốc thực hiện những nội dung như sau: - Tăng cường tuyên truyền, phổ biến để các bác sĩ, nhân viên y tế và người dân đến cơ sở khám bệnh, chữa bệnh hiểu đúng về người đồng tính, song tính và chuyển giới. - Khi tổ chức khám bệnh, chữa bệnh cho người đồng tính, song tính, chuyển giới phải bình đẳng, tôn trọng về giới tính, không phân biệt đối xử, kỳ thị đối với các đối tượng này. - Không coi đồng tính, song tính, chuyển giới là một bệnh. - Không can thiệp, ép buộc điều trị đối với các đối tượng này, nếu có chỉ là hỗ trợ về tâm lý và do người có hiểu biết về bản dạng giới thực hiện. - Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra các cơ sở khám bệnh, chữa bệnh, người hành nghề trong việc thực hiện, tuân thủ các nguyên tắc trong hành nghề khám bệnh, chữa bệnh theo đúng quy định. Tại Công văn 4132/BYT-PC cũng có nêu ngày 17/5/1990, Tổ Chức Y tế Thế giới cũng đã chính thức loại bỏ đồng tính luyến ái ra khỏi danh sách bệnh Tâm thần. Theo đó, Kể từ năm 1994, đồng tính luyến ái không còn bị coi là bệnh, không có tên trong bảng DSM 5 (Cẩm nang Chẩn đoán và Thống kê Rối loạn Tâm thần). Tổ chức Y tế thế giới (WHO) cũng đã xác định “đồng tính không phải là bệnh”, mà là những người có xu hướng tính dục với người đồng giới. Đồng tính và chuyển giới đã được WHO đưa ra khỏi chương Bệnh rối loạn tâm thần và hành vi, trong Danh mục các bệnh Quốc tế (ICD) lần lượt vào năm 1990 và 2019. (3) Việc kết hôn đồng giới tại Việt Nam Trước đây, tại Điều 10 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2000 (hiện đã hết hiệu lực thi hành) có quy định về các trường hợp cấm kết hôn như sau: - Người đang có vợ hoặc có chồng. - Người mất năng lực hành vi dân sự. - Giữa những người cùng dòng máu về trực hệ; giữa những người có họ trong phạm vi ba đời. - Giữa cha, mẹ nuôi với con nuôi; giữa người đã từng là cha, mẹ nuôi với con nuôi, bố chồng với con dâu, mẹ vợ với con rể, bố dượng với con riêng của vợ, mẹ kế với con riêng của chồng. - Giữa những người cùng giới tính. Theo đó, mức xử phạt cho hành vi kết hôn đồng giới trước kia là phạt tiền từ 100 đến 500 nghìn đồng theo quy định tại Điểm e Khoản 1 Điều 8 Nghị định 87/2001/NĐ-CP (hiện đã hết hiệu lực thi hành). Tuy nhiên, theo quy định tại Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 hiện hành đã quy định lại thành Nhà nước không thừa nhận hôn nhân giữa những người cùng giới tính. Theo đó, có thể thấy, theo quy định trên hiện nay thì pháp luật Việt Nam đã không còn nghiêm cấm hôn nhân đồng tính mà chỉ không thừa nhận.
Dự thảo: Người chuyển đổi giới tính được hưởng những quyền gì?
Căn cứ Khoản 2 Điều 3 Nghị quyết 89/2023/QH15 xác định Dự thảo Luật Chuyển đổi giới tính sẽ được trình Quốc hội cho ý kiến vào vào tháng 10 năm 2024. Đây được xem là bước tiến quan trọng trong thực hiện các cam kết, khuyến cáo của quốc tế về bảo đảm và thực thi quyền con người nói chung, quyền của cộng đồng LGBT nói riêng, đồng thời thể hiện sự quan tâm của nhà nước đối với cộng đồng người chuyển giời tại Việt Nam. Định nghĩa về người chuyển đổi giới tính Theo Khoản 7 Điều 3 Dự thảo Luật Chuyển đổi giới tính quy định “Người chuyển đổi giới tính là người được cơ quan có thẩm quyền công nhận giới tính mới theo quy định tại Luật này” Như vậy, cá nhân được xem là người chuyển đổi giới tính khi và chỉ khi được cơ quan có thẩm quyền công nhận giới tính mới theo quy định, trình tự thủ tục nhất định. Một người đã trải qua quá trình can thiệp y học để chuyển đổi giới tính nhưng chưa được cơ quan có thẩm quyền công nhận thì không được xem là người chuyển đổi giới tính theo quy định của pháp luật. Quyền người chuyển đổi giới tính Điều 7 Dự thảo Luật Chuyển đổi giới tính quy định 15 quyền của người chuyển đổi giới tính, cụ thể như sau: - Được công nhận giới tính mới sau khi đã can thiệp y học để chuyển đổi giới tính khi đáp ứng đủ điều kiện theo quy định của Luật này; - Được lựa chọn phương pháp can thiệp y học để chuyển đổi giới tính phù hợp với sức khỏe, mong muốn và khả năng tài chính của mình; - Được tư vấn, hỗ trợ về tâm lý, y tế và pháp lý trước và trong quá trình thực hiện can thiệp y học để chuyển đổi giới tính; - Có đầy đủ quyền nhân thân phù hợp với giới tính đã được chuyển đổi theo quy định của pháp luật dân sự và pháp luật khác có liên quan; - Được giữ nguyên quan hệ cha, mẹ, con cũng như quyền và nghĩa vụ từ quan hệ hôn nhân gia đình trước khi chuyển đổi giới tính bao gồm cả việc nhận nuôi con nuôi; - Được lưu giữ tinh trùng, trứng để duy trì nòi giống thông qua các dịch vụ sinh sản phù hợp với đạo lý và pháp luật Việt Nam. - Được tham gia các hoạt động hiến máu và các chế phẩm máu, hiến tế bào gốc, hiến mô tạng một cách tự nguyện nếu có đủ sức khỏe và đảm bảo an toàn hiến tặng theo quy định của pháp luật; - Được bảo lưu thông tin trên các văn bằng, chứng chỉ đã được cấp trước khi chuyển đổi giới tính; - Được công nhận quyền tài sản đối với tài sản tạo lập trước khi chuyển đổi giới tính. Trường hợp trên giấy chứng nhận quyền tài sản có thông tin giới tính thì cơ quan cấp giấy chứng nhận quyền tài sản có nghĩa vụ điều chỉnh thông tin giới tính theo giới tính được công nhận của người chuyển đổi giới tính; - Được hưởng các chế độ thai sản theo quy định của pháp luật về lao động, pháp luật về bảo hiểm xã hội và quy định của pháp luật khác có liên quan phù hợp với giới tính đã chuyển đổi. - Được tham gia các hoạt động thể thao, văn hóa, biểu diễn nghệ thuật theo quy định của pháp luật phù hợp với giới tính mới; - Được tôn trọng, bảo vệ danh dự, nhân phẩm, uy tín, đời sống riêng tư, bí mật cá nhân, bí mật gia đình và các quyền riêng tư khác theo quy định của pháp luật; - Được thay đổi thông tin giới tính trên các giấy tờ tùy thân sau khi được công nhận là người chuyển đổi giới tính; - Được bảo đảm quyền học tập, lao động và hòa nhập gia đình, xã hội theo giới tính đã được công nhận; - Được bảo đảm các quyền khác theo quy định của Hiến pháp và pháp luật. Trên đây là nội dung về quyền của người chuyển đổi giới tính theo Dự thảo Luật Chuyển đổi giới tính đang được lấy ý kiến trình Quốc hội trong thời gian tới. Những nội dung trên đây có thể bị sửa đổi, khác biệt khi Dự thảo luật được thông qua.
Đồng tính luyến ái là gì? Xúc phạm người thuộc cộng đồng LGBT có bị phạt không?
Theo các báo đưa tin ngày 27-3, Hạ viện Thái Lan đã thông qua dự luật bình đẳng hôn nhân. Theo đó, dự luật mới cho phép các cặp đôi đồng tính hưởng đầy đủ quyền lợi được quy định bởi luật dân sự và thương mại Thái Lan cho các cặp đôi đã kết hôn, bao gồm quyền thừa kế và quyền nhận con nuôi. Ở Việt Nam, mối quan hệ này hay được gọi là “Đồng tính luyến ái”. Vậy đồng tính luyến ái là gì? Trên thế giới đã có những quốc gia nào hợp pháp hóa hôn nhân đồng giới? Và kỳ thị người thuộc cộng đồng LGBT ở Việt Nam thì có bị phạt không? 1. Đồng tính luyến ái là gì? Theo Từ điển Bách khoa Việt Nam, Đồng tính luyến ái là quan hệ luyến ái, tình dục giữa những người cùng giới, đều có bộ phận sinh dục phát triển bình thường. Hiệp hội Tâm lý Hoa Kỳ (APA) định nghĩa: “Đồng tính luyến ái, hay đồng tính chỉ việc bị hấp dẫn trên phương diện tình yêu hay tình dục hoặc việc yêu đương hay quan hệ tình dục giữa những người cùng giới tính với nhau, trong hoàn cảnh nào đó hoặc trong một thời gian nào đó. Đồng tính luyến ái cũng chỉ sự tự nhận của cá nhân dựa trên những hấp dẫn đồng giới và sự tham gia vào một cộng đồng cùng giới tính”. Trong tiếng Anh, homosexuality là từ chỉ chung về đồng tính luyến ái; gay chỉ người đồng tính nam; lesbian chỉ người đồng tính nữ, đọc ngắn là les. Như vây, có thể hiểu Đồng tính luyến ái là thuật ngữ dùng để chỉ sự hấp dẫn trong tình yêu, tình dục, yêu đương hay quan hệ tình dục giữa những người cùng giới tính với nhau, kể cả chỉ là tạm thời hoặc lâu dài. 2. Có những quốc gia nào hợp pháp hóa hôn nhân đồng giới? Theo tham khảo, tính đến thời điểm hiện nay có khoảng trên 36 quốc gia và vùng lãnh thổ công nhận và hợp pháp hóa hôn nhân đồng giới bao gồm: Andorra, Argentina, Áo, Bồ Đào Nha, Bỉ, Brasil, Canada, Chile, Colombia, Costa Rica, Cuba, Đan Mạch, Đài Loan, Đức, Ecuador, Estonia, Hà Lan, Hoa Kỳ, Hy Lạp, Iceland, Ireland, Luxembourg, Malta, México, Na Uy, Nam Phi, New Zealand, Pháp, Phần Lan, Slovenia, Tây Ban Nha, Thụy Điển, Thụy Sĩ, Vương quốc Anh, Úc và Uruguay. Ngày 27/3/2024, Hạ viện Thái Lan đã thông qua dự luật bình đẳng hôn nhân trong lần đọc cuối cùng. Nếu thông qua thì Thái Lan trở thành quốc gia Đông Nam Á đầu tiên hợp pháp hóa hôn nhân đồng giới. 3. Xúc phạm người khác bị phạt thế nào? Căn cứ theo quy định tại điểm a Khoản 3, Khoản 14 Điều 7 Nghị định 144/2021/NĐ-CP quy định về việc xử lý vi phạm hành chính đối với hành vi vi phạm quy định về trật tự công cộng như sau: Vi phạm quy định về trật tự công cộng … 3. Phạt tiền từ 2.000.000 đồng đến 3.000.000 đồng đối với một trong những hành vi sau đây: a) Có hành vi khiêu khích, trêu ghẹo, xúc phạm, lăng mạ, bôi nhọ danh dự, nhân phẩm của người khác, trừ trường hợp quy định tại điểm b khoản 2 Điều 21 và Điều 54 Nghị định này; … Theo đó, người có hành vi khiêu khích, trêu ghẹo, xúc phạm, lăng mạ, bôi nhọ danh dự, nhân phẩm của người khác (trừ trường hợp khác theo quy định pháp luật) thì có thể bị phạt tiền từ 2.000.000 đến 3.000.000 đồng tùy vào mức độ nghiêm trọng của vụ việc. Đồng thời, có thể buộc xin lỗi công khai đối với hành vi vi phạm xúc phạm người khác trừ trường hợp nạn nhân có đơn không yêu cầu xin lỗi. (*) Mức phạt tiền đối với các hành vi vi phạm quy định này là mức phạt đối với cá nhân. Mức phạt tiền đối với tổ chức gấp hai lần mức phạt tiền đối với cá nhân. Ngoài ra, người nào xúc phạm nghiêm trọng nhân phẩm, danh dự của người người khác thì có thể bị xử lý về tội làm nhục người khác theo quy định tại Điều 155 Bộ luật hình sự 2015 (được sửa đổi bởi Khoản 2 Điều 2 Luật sửa đổi Bộ luật Hình sự 2017), cụ thể: - Phạt cảnh cáo, phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 30.000.000 đồng hoặc phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm đối với hành vi xúc phạm nghiêm trọng nhân phẩm, danh dự của người khác. - Phạt tù từ 03 tháng đến 02 năm khi phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây: + Phạm tội 02 lần trở lên; + Đối với 02 người trở lên; + Lợi dụng chức vụ, quyền hạn; + Đối với người đang thi hành công vụ; + Đối với người dạy dỗ, nuôi dưỡng, chăm sóc, chữa bệnh cho mình; + Sử dụng mạng máy tính hoặc mạng viễn thông, phương tiện điện tử để phạm tội; + Gây rối loạn tâm thần và hành vi của nạn nhân mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31% đến 60%. - Phạt tù từ 02 năm đến 05 năm khi phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây: + Gây rối loạn tâm thần và hành vi của nạn nhân mà tỷ lệ tổn thương cơ thể 61% trở lên; + Làm nạn nhân tự sát. Như vậy, nếu đủ yếu tố cấu thành tội phạm thì người xúc phạmngười khác có thể bị xử lý về tội xúc phạm người khác với khung hình phạt cao nhất đến 05 năm. Đồng thời, người phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm.
LGBT có mấy loại? Pháp luật cho phép hai người cùng giới cưới nhau không?
LGBT hay cộng đồng LGBT không còn quá xa lạ đối với chúng ta hiện nay. Thế nhưng bạn đã thật sự biết rõ về LGBT là gì hay chưa? Hay LGBT là viết tắt của những từ gì? LGBT có mấy loại? Bài viết sẽ cung cấp một số thông tin liên quan đến vấn đề này. LGBT là viết tắt của từ gì? LGBT là tên viết tắt của 4 chữ cái đầu của cộng đồng những người: - LESBIAN: đồng tính luyến ái nữ - GAY: đồng tính luyến ái nam - BISEXUAL: song tính tuyến ái - TRANSGENDER: chuyển giới. LGBT còn được dùng để mô tả xu hướng tính dục của 1 người có sự hấp dẫn về tình yêu cũng như tình dục khác với người dị tính (hấp dẫn bởi người thuộc giới tính trái ngược với mình) LGBT có mấy loại? LGBT bao gồm: (1) Lesbian - đồng tính nữ Người đồng tính nữ cũng giống hoàn toàn phụ nữ bình thường về cơ quan sinh dục, tâm lý lẫn sinh học. Thế nhưng họ thường bị thu hút tình yêu và tình dục và cảm xúc rung động cả về thể xác lẫn tâm hồn bởi người cùng giới nữ với mình mà không có tình cảm yêu đương với con trai. Nhiều người vẫn hay nghe đến từ ô môi, đây cũng được hiểu là lesbian là đồng tính luyến ái nữ, đây thực tế không phải là một căn bệnh mà đã được xem là 1 giới tính tự nhiên. Và nếu họ rung động với nhau họ cũng sẽ thể hiện tình cảm như những đôi nam nữ yêu nhau. Với những người đồng tính nữ khi yêu cũng có những cung bậc cảm xúc như những người khác, ví dụ như hờn, ghen, yêu thương, chăm sóc… và họ tự tin thể hiện những cử chỉ đó ra ngoài để bày tỏ tình cảm của mình với đối phương. Thực tế có những kiểu lesbian như: - Butch là những lesbian nam tính chiếm quyền chủ động trong 1 mối quan hệ và thể hiện sự “đàn ông” của mình qua phong cách, quần áo, kiểu tóc …. Họ mạnh mẽ và muốn bảo vệ cho người mình yêu. - Femme/ Lipstick Lesbian: những lesbian có xu hướng “phái yếu” trong mối quan hệ giữa les – les. Femme bị động, dịu dàng thì lipstick lại khá cá tính. Họ có đặc điểm quyến rũ của phái đẹp nhưng lại không bị hấp dẫn bởi đàn ông. - Soft Butch/Chapstick Les: để chỉ những người có vẻ ngoài lịch lãm, nam tính nhưng tâm hồn lại mỏng manh, yếu đuối. Xem bài viết liên quan: Người chuyển giới có phải đi nghĩa vụ quân sự không? Trốn NVQS bị xử lý thế nào? (2) Gay - đồng tính nam Đồng tính nam cũng tương tự như đồng tính nữ, là người có xu hướng tình dục, rung động về thể xác, tâm hồn với người cùng giới tính nam. Hầu hết người đồng tính nam đều cảm thấy bị thu hút bởi người cùng giới, không có nhu cầu phẫu thuật chuyển giới. Gay được chia làm nhiều loại như: Secret Gay, Openly Gay, Top, Bottom, Clofas, Graceful Gay và Tough Tại Việt Nam chỉ có Clofas, Graceful Gay, Top, Bot, Secret Gay. Cụ thể như sau: Clofas Người đồng tính nam có phong cách thời trang ăn mặc, dùng trang sức, mỹ phẩm như con gái thật sự. Họ không thích người cùng giới, chỉ thích thời trang con gái tuy nhiên lại không õng ẹo, lả lướt. Graceful Gay Những người này thường có những cử chỉ ẻo lả như một người con gái. Top Trong mối quan hệ “gay”, người con trai đồng tính nam đóng vai trò là người chồng. Bot Trongmối quan hệ “gay”, người con trai đồng tính nam đóng vai trò là người vợ. Secret Gay Những người này thường hay bộc lộ cử chỉ đàn ông, kể cả gu thời trang, thẩm mỹ, ít ai nghĩ họ là đồng tính nam. Openly Gay Là đồng tính nam lộ liễu, có bộ lộc các cử chỉ mặc dù là đàn ông nhưng thích thể hiện mình sống thoải mái và muốn nhiều người biết mình là gay. Tough Họ có những cử chỉ rắn rỏi như 1 người đàn ông mạnh mẽ. (3) Transgender - chuyển giới Là những người có biểu hiện sinh học trên cơ thể thuộc giới tính này nhưng tự nhận thức mình giống giới tính ngược lại. Ví dụ, một người sinh ra với cơ thể nam nhưng có suy nghĩ mình là nữ hoặc ngược lại. Suy nghĩ này không phụ thuộc vào việc họ có đã chuyển giới hay chưa. Thực tế thì nhiều người chuyển giới chưa hề thực hiện việc chuyển đổi giới tính, chính vì điều này đã khiến nhiều người nhầm lẫn transgender với người đã thực hiện chuyển đổi giới tính, những người đã phẫu thuật chuyển đổi bộ phận sinh dục nữ thành bộ phận sinh dục nam hoặc ngược lại. Nhiều người chuyển giới không phẫu thuật chuyển đổi bộ phận sinh dục, chỉ sử dụng nội tiết tố kết hợp với việc phẫu thuật ngực, thực chất họ vẫn mang giới tính cũ chứ chưa chuyển đổi giới tính vì bộ phận sinh dục, các tuyến nội tiết giới tính vẫn còn nguyên trong cơ thể họ. Nếu ngừng sử dụng nội tiết thì chỉ sau vài tháng, nội tiết nhân tạo sẽ bị đào thải, lúc này các đặc điểm giới tính của họ sẽ quay trở về như ban đầu. Bởi vậy, để rõ ràng về giới tính, hiện nay đa số các nước cho phép thay đổi giới tính trên giấy tờ tùy thân sau khi người chuyển giới đã phẫu thuật chuyển đổi bộ phận sinh dục. Thường sau chuyển giới, người ta thường đổi tên cho hợp với giới tính mới, cũng có thể chọn cho mình 1 tên trung tính. Tuy nhiên, hầu hết chỉ có thể đổi tên thường gọi. Việc hợp pháp hóa tên chính thức trên giấy tờ tùy thân như Căn cước công dân/Chứng minh nhân dân hay bằng lái xe, hộ chiếu vẫn còn gặp nhiều khó khăn. Những người sau khi chuyển giới cũng mong muốn được gọi bằng đại từ nhân xưng phù hợp với giới tính của mình. Ví dụ từ nữ chuyển giới sang nam, có thể gọi bằng anh, anh ấy, cậu ấy; những người đã chuyển đổi giới tính sang nữ có thể gọi bằng cô ấy, chị ấy, chị… Trong trường hợp mới gặp và chưa rõ nên gọi ra sao có thể lịch sự hỏi xem họ muốn được gọi như thế nào. (4) Bisexual - lưỡng tính Theo Hiệp hội Tâm ly học Hoa Kỳ thì các trạng thái lưỡng tính là chỉ tất cả trạng thái dẫn đến sự phát triển không điển hình của các đặc điểm giới tính và sinh lý trên cơ thể. Các trạng thái này có thể liên quan đến đặc điểm bất thường của cơ quan sinh dục bên trong, bên ngoài, của các nhiễm sắc thể giới tính, của các hóc môn giới tính. Có các loại lưỡng tính: - Lưỡng tính giả ở nữ: là nữ, có buồng trứng nhưng tuyến thượng thận sản xuất nhiều hóc môn nam androgen nên bộ phận sinh dục ngoài bị nam hóa. - Lưỡng tính giả ở nam: Bộ nhiễm sắc thể vẫn là 46 XY như mọi đàn ông khác. Tuy nhiên, bộ phận sinh dục lại giống nữ. - Nữ hóa tinh toàn:Người có tinh hoàn và bộ nhiễm sắc thể XY – là đàn ông, nhưng có âm đạo, không có tử cung, có vòi tử cung nhưng kém phát triển. - Lưỡng tính thật: hầu hết có dạng nữ, có cả tinh hoàn và buồng trứng. Những người thuộc nhóm lưỡng tính có thể bị hấp dẫn về tình yêu, tình dục với cả nam lẫn nữ. Họ có thể yêu bất cứ giới tình nào đem đến cảm xúc hơn và thường họ có tình cảm với người có giới tính bình thường. LGBT không phải là bệnh, không cần và không thể chữa Theo Công văn 4132/BYT-PC năm 2022 về chấn chỉnh công tác khám bệnh, chữa bệnh đối với người đồng tính, song tính và chuyển giới - Bộ Y tế nhận được thông tin phản ánh về việc hiện nay một số cơ sở khám bệnh, chữa bệnh và một số bác sĩ tự nhận là chữa khỏi bệnh đồng tính, trong khi Hiệp hội Tâm thần học Hoa Kỳ và Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) đã khẳng định đồng tính hoàn toàn không phải là bệnh, vậy nên đồng tính không thể “chữa”, không cần “chữa” và cũng không thể làm cách nào thay đổi được. Ngày 17/5/1990, Tổ Chức Y tế Thế giới cũng đã chính thức loại bỏ đồng tính luyến ái ra khỏi danh sách bệnh Tâm thần. - Kể từ năm 1994, đồng tính luyến ái không còn bị coi là bệnh, không có tên trong bảng DSM 5 (Cẩm nang Chẩn đoán và Thống kê Rối loạn Tâm thần). Tổ chức Y tế thế giới (WHO) cũng đã xác định "đồng tính không phải là bệnh", mà là những người có xu hướng tính dục với người đồng giới. Đồng tính và chuyển giới đã được WHO đưa ra khỏi chương Bệnh rối loạn tâm thần và hành vi, trong Danh mục các bệnh Quốc tế (ICD) lần lượt vào năm 1990 và 2019. - Do vậy, Bộ Y tế đề nghị Thủ trưởng các Đơn vị chỉ đạo các cơ sở khám bệnh, chữa bệnh thuộc thẩm quyền quản lý của mình quán triệt các cơ sở khám bệnh, chữa bệnh trong toàn quốc: + Tăng cường tuyên truyền, phổ biến để các bác sĩ, nhân viên y tế và người dân đến cơ sở khám bệnh, chữa bệnh hiểu đúng về người đồng tính, song tính và chuyển giới; + Khi tổ chức khám bệnh, chữa bệnh cho người đồng tính, song tính, chuyển giới phải bình đẳng, tôn trọng về giới tính, không phân biệt đối xử, kỳ thị đối với các đối tượng này; + Không coi đồng tính, song tính, chuyển giới là một bệnh. + Không can thiệp, ép buộc điều trị đối với các đối tượng này, nếu có chỉ là hỗ trợ về tâm lý và do người có hiểu biết về bản dạng giới thực hiện. + Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra các cơ sở khám bệnh, chữa bệnh; người hành nghề trong việc thực hiện, tuân thủ các nguyên tắc trong hành nghề khám bệnh, chữa bệnh theo đúng quy định của pháp luật. Trên đây là ý kiến chỉ đạo của Bộ Y tế nhằm chấn chỉnh thực trạng ép buộc khám bệnh, chữa bệnh đối với người đồng tính, song tính và chuyển giới, đề nghị các cơ quan, đơn vị quán triệt, nghiêm túc thực hiện. Pháp luật Việt Nam có công nhận hôn nhân giữa 2 người cùng giới? Căn cứ tại khoản 5 Điều 3 Luật Hôn nhân và gia đình 2014: "Kết hôn là việc nam và nữ xác lập quan hệ vợ chồng với nhau theo quy định của Luật này về điều kiện kết hôn và đăng ký kết hôn." Đồng thời, tại Điều 8 Luật Hôn nhân và gia đình 2014 quy định về điều kiện kết hôn như sau: - Nam, nữ kết hôn với nhau phải tuân theo các điều kiện sau đây: + Nam từ đủ 20 tuổi trở lên, nữ từ đủ 18 tuổi trở lên; + Việc kết hôn do nam và nữ tự nguyện quyết định; + Không bị mất năng lực hành vi dân sự; + Việc kết hôn không thuộc một trong các trường hợp cấm kết hôn theo quy định tại các điểm a, b, c và d khoản 2 Điều 5 của Luật Hôn nhân và gia đình 2014. - Nhà nước không thừa nhận hôn nhân giữa những người cùng giới tính Như vậy, theo Luật Hôn nhân và gia đình hiện hành, Nhà nước không thừa nhận hôn nhân giữa những người cùng giới tính. Tuy nhiên, hiện nay, nhiều cặp đôi cùng giới đã quyết định tổ chức đám cưới như một lời hứa hẹn trăm năm. Điều này không vi phạm pháp luật, thế nhưng những cặp đôi cùng giới này do không được thực hiện việc đăng ký kết hôn tại cơ quan có thẩm quyền nên mối quan hệ giữa những cặp đôi cùng giới tính sẽ không phát sinh các quyền về nhân thân, tài sản như giữa vợ chồng hợp pháp. Trường hợp có phát sinh các tranh chấp giữa các cặp đôi cùng giới trong quá trình sống chung thì sẽ được giải quyết theo pháp luật về dân sự. Xem bài viết liên quan: Người chuyển giới có phải đi nghĩa vụ quân sự không? Trốn NVQS bị xử lý thế nào?
Lấy ý kiến về dự án luật chuyển đổi giới tính
Bộ y tế đang mở lấy ý kiến đóng góp về dự án Luật chuyển đổi giới tính từ 18/10/2017 - 17/11/2017 Ai có nhu cầu và có khả năng thì nên đóng góp để bộ Luật được hoàn chỉnh và sớm được thông qua. http://www.moh.gov.vn/LegalDoc/Pages/OpinionPollInfo.aspx?CateID=372
Những quy định pháp luật dành cho người chuyển đổi giới tính
Đến nay, vấn đề Người chuyển đổi giới tính, xác định lại giới tính, kết hôn đồng tính... đã được pháp luật nước ta thừa nhận và luật hóa. Đây là điều vui mừng cho công đồng LGBT cũng như toàn xã hội. Bởi quyền được sống thật với giới tính của mình, được xã hội công nhận, đối xử công bằng, văn minh cũng là quyền con người, quyền công dân được pháp luật bảo vệ. Từ nền tảng mà Hiến pháp 2013 quy định: - Điều 14: "các quyền con người, quyền công dân về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội được công nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm theo Hiến pháp và pháp luật" - Điều 16: "Mọi người đều bình đẳng trước pháp luật; Không ai bị phân biệt đối xử trong đời sống chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội." Tiếp đến, lần đầu tiên Bộ luật Dân Sự 2015 có hiệu lực từ ngày 1/1/2017 đã chính thức thừa nhận quyền nhân thân của người chuyển đổi giới tính, người xác định lại giới tính tại: Điều 36: "Cá nhân đã thực hiện việc xác định lại giới tính có quyền, nghĩa vụ đăng ký thay đổi hộ tịch theo quy định của pháp luật về hộ tịch; có quyền nhân thân phù hợp với giới tính đã được xác định lại theo quy định của Bộ luật này và luật khác có liên quan" Điều 37: "Việc chuyển đổi giới tính được thực hiện theo quy định của luật. Cá nhân đã chuyển đổi giới tính có quyền, nghĩa vụ đăng ký thay đổi hộ tịch theo quy định của pháp luật về hộ tịch; có quyền nhân thân phù hợp với giới tính đã được chuyển đổi theo quy định của Bộ luật này và luật khác có liên quan" Có thể thấy Bộ luật Dân sự 2015 dừng lại ở quyền nhân thân để xác định tư cách của cá nhân khi tham gia các quan hệ dân sự, tạo sự minh bạch về quyền nhân thân, tài sản, giao dịch,... trong các quan hệ dân sự. Tuy nhiên, điều này cũng là bước đi lớn của pháp luât nhằm tạo rào pháp lý ngăn chặn hành vi phân biệt đối xử với người chuyển giới, bảo đảm cho họ có địa vị pháp lý bình đẳng như cá nhân khác. Nghị định 88/2008/NĐ-CP quy định về Xác định lại giới tính. Trong đó, nổi bật nhất là việc xác định rõ những hành vi bị nghiêm cấm quy định tại Điều 4. Điển hình: Cấm "Phân biệt đối xử đối với người đã xác định lại giới tính". Luật Hộ tịch 2014: Điểm c Khoản 2 Điều 3: Xác định lại giới tính được ghi vào Sổ Hộ tịch theo quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Khoản 3 điều 36 quy định: Cá nhân đã thực hiện việc xác định lại giới tính có quyền, nghĩa vụ thay đổi hộ tịch theo quy định của pháp luật về hộ tịch. Luật Hôn nhân và Gia đình 2014: Đã bỏ quy định "Cấm kết hôn giữa những người cùng giới tính" ở Luật năm 2000. Thay vào đó là quy định “Không thừa nhận hôn nhân giữa những người cùng giới tính" tại Khoản 2 Điều 8. Như vậy, Luật không cấm nhưng cũng không công nhận kết hôn đồng giới. Những người đồng giới tính vẫn có thể kết hôn, nhưng sẽ không được pháp luật bảo vệ khi phát sinh tranh chấp. Luật thi hành tạm giữ, tạm giam 2015 có thêm quy định: Khoản 4 Điều 18: "Người bị tạm giữ, người bị tạm giam sau đây có thể được bố trí giam giữ ở buồng riêng: a) Người đồng tính, người chuyển giới." Tuy còn nhiều vấn đề bỏ ngỏ chưa giải quyết, nhưng thực tế Pháp luật đã và đang dần hoàn thiện để đảm bảo quyền lợi và nghĩa vụ của Người chuyển đổi giới tính, xác định lại giới tính, đồng giới. Đặc biệt, trong tương lai gần, nước ta sẽ có Luật chuyển đổi giới tính nhằm bảo vệ toàn diện cho người chuyển đổi giới tính.
Chuyển đổi giới tính – nhiều hệ lụy khó lường
Chuyển đổi giới tính – nhiều hệ lụy khó lường (phần I) Ngày 24/11/2015, Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam chính thức thông qua quy định tại điều 37 Dự thảo Bộ luật Dân sự về vấn để chuyển đổi giới tính. Đây là một tin vui đối với cộng đồng LGBT nói chung là cộng đồng người chuyển giới (transgender) nói riêng. Tuy nhiên kể từ sau “tin mừng” trên được công bố cũng hệ lụy khôn lường. Chuyển giới là quá trình chuyển đổi từ giới tính này sang giới tính, việc chuyển giới sẽ được thực hiện thông qua các ca phẫu thuật. Tuy nhiên cần nhìn nhận rằng người chuyển giới không hẵn là người đồng tính, bởi vì họ nhận thấy bản thân mình vốn không phù hợp với giới tính đang có nên chuyển đổi sang giới tính khác, chứ không đồng nghĩa họ có ham muốn tình dục với người cùng giới. Quốc hội thông qua quyết định Với 282/366 số phiếu tán thành, ngày 24/11 Quốc hội đã thông qua Điều 37 Dự thảo Bộ luật Dân sự 2015 về việc cho phép chuyển đổi giới tính, bên cạnh đó cá nhân chuyển đổi giới tính có quyền và nghĩa vụ phải thay đổi hộ tịch, nhân thân. Bên cạnh đó Điều 36 của Bộ luật trên cũng quy định cá nhận có quyền xác định lại giới tính, việc xác định được thực hiện trong trường hợp giới tính người đó bị khuyết tật bẩm sinh hoặc chưa được hình thành chính xác mà cần có sự can thiệp của y học nhằm xác định rõ giới tính, cá nhân đã thực hiện việc xác định lại giới tính có quyền và nghĩa vụ đăng ký thay đổi hộ tịch theo quy định của pháp luật. Khi nào được chuyển giới? Quy định tại điều 36 Dự thảo Bộ luật Dân sự chỉ xác định cá nhân có quyền xác định lại giới tính trong trường hợp giới tính người đó bị khuyết tật bẩm sinh hoặc chưa được hình thành chính xác mà cần có sự can thiệp của y học để xác định rõ giới tính. Như vậy tiêu chuẩn để đánh giá một giới tính bị khuyết tật là gì? Tiêu chí để đánh giá khuyết tật do bẩm sinh chứ không phải cố ý là gì? Quy định trên có thiểu hiểu theo gốc độ sinh học cơ thể như sau: + Nếu một cá nhân mang trong mình một cơ quan sinh dục thứ hai thì cá nhân đó được quyền xác định lại giới tính. Việc chuyển giới trong trường hợp này xuất phát từ đặc điểm sinh học bản thân. Như vậy đối với trường hợp cố tình tác động nhằm tạo ra một cơ quan sinh dục thứ hai trên bản thân thì có được chuyển đổi giới tính không? Trong khi phần lớn người chuyển giới hiện nay là tự ý phẫu thuật gắn thêm cơ quan sinh dục. + Tuy nhiên nếu bản thân không bị “khuyết tật bẩm sinh”, chưa hình thành một cách trọn vẹn cơ quan sinh dục thứ hai mà chỉ hình thành sơ bộ thì sẽ dựa vào kết quả xét nghiệm y tế làm cơ sở cho việc chuyển đổi giới tính. Nhưng liệu câu hỏi đặt ra cơ quan nào sẽ đảm nhiệm vai trò trên ? Cũng như nếu xét theo quá trình phát triển thì một bộ phận sinh dục thứ 2 chưa được hình thành khi và chỉ khi cá nhân đó còn quá nhỏ, như vậy việc xét nghiệm và chuyển đổi giới tính chỉ thuộc về một khái niệm, chưa đủ khả thi bởi lẽ cha mẹ nào nỡ để con thơ phải chịu nhiều sự thay đổi lớn đến thế khi mới là một đứa trẻ. Như vậy, thế thì 1 cá nhân sẽ thỏa mãn những điều kiện nào thì mới được chuyển đổi giới tính, họ có bắt buộc phải phẫu thuật chuyển giới thì mới được chuyển đổi giới tính hay không hay họ có thể chuyển đổi giới tính dù không cần phẫu thuật chuyển giới ? Nhiều thủ tục pháp lý thay đổi Tuy Dự thảo Luật quy định cá nhân chuyển giới phải có nghĩa vụ thay đổi nhưng hộ tịch nhưng bên cạnh hộ tịch vẫn còn nhiều giấy tờ thủ tục liên quan, kéo theo đó là thủ tục hành chính dài ngoằng: + Chứng minh nhân dân phải làm lại: Đây là thủ tục hoàn toàn có thể làm lại nhanh chóng nên vẫn tương đối ổn định. + Giấy tờ chứng nhận sở hữu đất đai: Theo nghị định 43/2014/NĐ-CP thì quy trình cấp lại giấy chứng nhận quyền sở hữu đất đại khá phức tạp, nhiều thủ tục và đặc biệt chỉ quy định cấp lại đối với trường hợp do mất, nhưng nếu cá nhân thay đổi giới tính, thay đổi họ tên thì vẫn chưa có quy định nào hướng dẫn thay đổi các giấy tờ liên quan. Không chỉ sở hữu đất mà các giấy tờ liên quan khác như học bạ, khai sinh, giấy chứng nhận liên quan… như thế kéo theo việc Quốc hội thông qua quy định chuyển đổi giới tính là những thủ tục pháp lý liên quan đòi hỏi cần thay đổi theo, và liệu các chủ thể tiến hành và cơ quan, tổ chức sẽ có trách nhiệm thế nào, thủ tục ra sao thì vẫn còn nhiều vướng mắc. Việc thông qua quy định chuyển đổi giới tính vừa là tin vui nhưng cũng là tin buồn. Tin vui đối với cộng đồng LGBT và những người chuyển giới, nhưng lại là tin buồn đối với các nhà làm luật bởi họ phải thay đổi sau đó là cả hàng tá thủ tục hành chính liên quan.
Tháng Tự hào - Pride month là gì?
Tháng tự hào là gì? Pháp luật Việt Nam hiện hành quy định như thế nào về LGBT? Có thể kết hôn đồng giới tại Việt Nam không? Hãy cùng tìm hiểu qua bài viết sau đây. (1) Tháng Tự hào - Pride month là gì? Tháng Tự hào hay tiếng Anh là Pride month bắt nguồn từ một sự kiện vào 06/1969, khi những người thuộc cộng đồng LGBT tại New York đứng lên chống lại sự đàn áp của cảnh sát và mở ra phong trào đấu tranh cho quyền LGBT hiện đại. Theo đó, để kỷ niệm cho sự kiện này, đồng thời để phản đối một cách hòa bình và nâng cao nhận thức chính trị về các vấn đề hiện tại mà cộng đồng LGBT trên toàn thế giới phải đối mặt. Tháng 06 hằng năm đã được chọn là thời điểm để mọi người trong cộng đồng LGBT đứng lên, tự hào về con người họ và lan tỏa thông điệp rằng họ xứng đáng được tôn trọng và yêu thương. (2) Pháp luật hiện hành quy định như thế nào về LGBT? Trước tiên, tại Điều 16 Hiến pháp 2013 - Hiến pháp Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam có nêu rõ mọi người đều bình đẳng trước pháp luật và không ai bị phân biệt đối xử trong đời sống chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội. Theo đó, những người thuộc cộng đồng LGBTQ+ tại Việt Nam có quyền được tự hào về bản sắc riêng của mình và không ai bị phân biệt đối xử trong đời sống chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội. Bên cạnh đó, tại Công văn 4132/BYT-PC được Bộ Y tế ban hành ngày 03/8/2022 về chấn chỉnh công tác khám bệnh, chữa bệnh đối với người đồng tính, song tính và chuyển giới Bộ Y tế đã đề nghị Thủ trưởng các Đơn vị chỉ đạo các cơ sở khám bệnh, chữa bệnh thuộc thẩm quyền quản lý của mình quán triệt các cơ sở khám bệnh, chữa bệnh trong toàn quốc thực hiện những nội dung như sau: - Tăng cường tuyên truyền, phổ biến để các bác sĩ, nhân viên y tế và người dân đến cơ sở khám bệnh, chữa bệnh hiểu đúng về người đồng tính, song tính và chuyển giới. - Khi tổ chức khám bệnh, chữa bệnh cho người đồng tính, song tính, chuyển giới phải bình đẳng, tôn trọng về giới tính, không phân biệt đối xử, kỳ thị đối với các đối tượng này. - Không coi đồng tính, song tính, chuyển giới là một bệnh. - Không can thiệp, ép buộc điều trị đối với các đối tượng này, nếu có chỉ là hỗ trợ về tâm lý và do người có hiểu biết về bản dạng giới thực hiện. - Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra các cơ sở khám bệnh, chữa bệnh, người hành nghề trong việc thực hiện, tuân thủ các nguyên tắc trong hành nghề khám bệnh, chữa bệnh theo đúng quy định. Tại Công văn 4132/BYT-PC cũng có nêu ngày 17/5/1990, Tổ Chức Y tế Thế giới cũng đã chính thức loại bỏ đồng tính luyến ái ra khỏi danh sách bệnh Tâm thần. Theo đó, Kể từ năm 1994, đồng tính luyến ái không còn bị coi là bệnh, không có tên trong bảng DSM 5 (Cẩm nang Chẩn đoán và Thống kê Rối loạn Tâm thần). Tổ chức Y tế thế giới (WHO) cũng đã xác định “đồng tính không phải là bệnh”, mà là những người có xu hướng tính dục với người đồng giới. Đồng tính và chuyển giới đã được WHO đưa ra khỏi chương Bệnh rối loạn tâm thần và hành vi, trong Danh mục các bệnh Quốc tế (ICD) lần lượt vào năm 1990 và 2019. (3) Việc kết hôn đồng giới tại Việt Nam Trước đây, tại Điều 10 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2000 (hiện đã hết hiệu lực thi hành) có quy định về các trường hợp cấm kết hôn như sau: - Người đang có vợ hoặc có chồng. - Người mất năng lực hành vi dân sự. - Giữa những người cùng dòng máu về trực hệ; giữa những người có họ trong phạm vi ba đời. - Giữa cha, mẹ nuôi với con nuôi; giữa người đã từng là cha, mẹ nuôi với con nuôi, bố chồng với con dâu, mẹ vợ với con rể, bố dượng với con riêng của vợ, mẹ kế với con riêng của chồng. - Giữa những người cùng giới tính. Theo đó, mức xử phạt cho hành vi kết hôn đồng giới trước kia là phạt tiền từ 100 đến 500 nghìn đồng theo quy định tại Điểm e Khoản 1 Điều 8 Nghị định 87/2001/NĐ-CP (hiện đã hết hiệu lực thi hành). Tuy nhiên, theo quy định tại Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 hiện hành đã quy định lại thành Nhà nước không thừa nhận hôn nhân giữa những người cùng giới tính. Theo đó, có thể thấy, theo quy định trên hiện nay thì pháp luật Việt Nam đã không còn nghiêm cấm hôn nhân đồng tính mà chỉ không thừa nhận.
Dự thảo: Người chuyển đổi giới tính được hưởng những quyền gì?
Căn cứ Khoản 2 Điều 3 Nghị quyết 89/2023/QH15 xác định Dự thảo Luật Chuyển đổi giới tính sẽ được trình Quốc hội cho ý kiến vào vào tháng 10 năm 2024. Đây được xem là bước tiến quan trọng trong thực hiện các cam kết, khuyến cáo của quốc tế về bảo đảm và thực thi quyền con người nói chung, quyền của cộng đồng LGBT nói riêng, đồng thời thể hiện sự quan tâm của nhà nước đối với cộng đồng người chuyển giời tại Việt Nam. Định nghĩa về người chuyển đổi giới tính Theo Khoản 7 Điều 3 Dự thảo Luật Chuyển đổi giới tính quy định “Người chuyển đổi giới tính là người được cơ quan có thẩm quyền công nhận giới tính mới theo quy định tại Luật này” Như vậy, cá nhân được xem là người chuyển đổi giới tính khi và chỉ khi được cơ quan có thẩm quyền công nhận giới tính mới theo quy định, trình tự thủ tục nhất định. Một người đã trải qua quá trình can thiệp y học để chuyển đổi giới tính nhưng chưa được cơ quan có thẩm quyền công nhận thì không được xem là người chuyển đổi giới tính theo quy định của pháp luật. Quyền người chuyển đổi giới tính Điều 7 Dự thảo Luật Chuyển đổi giới tính quy định 15 quyền của người chuyển đổi giới tính, cụ thể như sau: - Được công nhận giới tính mới sau khi đã can thiệp y học để chuyển đổi giới tính khi đáp ứng đủ điều kiện theo quy định của Luật này; - Được lựa chọn phương pháp can thiệp y học để chuyển đổi giới tính phù hợp với sức khỏe, mong muốn và khả năng tài chính của mình; - Được tư vấn, hỗ trợ về tâm lý, y tế và pháp lý trước và trong quá trình thực hiện can thiệp y học để chuyển đổi giới tính; - Có đầy đủ quyền nhân thân phù hợp với giới tính đã được chuyển đổi theo quy định của pháp luật dân sự và pháp luật khác có liên quan; - Được giữ nguyên quan hệ cha, mẹ, con cũng như quyền và nghĩa vụ từ quan hệ hôn nhân gia đình trước khi chuyển đổi giới tính bao gồm cả việc nhận nuôi con nuôi; - Được lưu giữ tinh trùng, trứng để duy trì nòi giống thông qua các dịch vụ sinh sản phù hợp với đạo lý và pháp luật Việt Nam. - Được tham gia các hoạt động hiến máu và các chế phẩm máu, hiến tế bào gốc, hiến mô tạng một cách tự nguyện nếu có đủ sức khỏe và đảm bảo an toàn hiến tặng theo quy định của pháp luật; - Được bảo lưu thông tin trên các văn bằng, chứng chỉ đã được cấp trước khi chuyển đổi giới tính; - Được công nhận quyền tài sản đối với tài sản tạo lập trước khi chuyển đổi giới tính. Trường hợp trên giấy chứng nhận quyền tài sản có thông tin giới tính thì cơ quan cấp giấy chứng nhận quyền tài sản có nghĩa vụ điều chỉnh thông tin giới tính theo giới tính được công nhận của người chuyển đổi giới tính; - Được hưởng các chế độ thai sản theo quy định của pháp luật về lao động, pháp luật về bảo hiểm xã hội và quy định của pháp luật khác có liên quan phù hợp với giới tính đã chuyển đổi. - Được tham gia các hoạt động thể thao, văn hóa, biểu diễn nghệ thuật theo quy định của pháp luật phù hợp với giới tính mới; - Được tôn trọng, bảo vệ danh dự, nhân phẩm, uy tín, đời sống riêng tư, bí mật cá nhân, bí mật gia đình và các quyền riêng tư khác theo quy định của pháp luật; - Được thay đổi thông tin giới tính trên các giấy tờ tùy thân sau khi được công nhận là người chuyển đổi giới tính; - Được bảo đảm quyền học tập, lao động và hòa nhập gia đình, xã hội theo giới tính đã được công nhận; - Được bảo đảm các quyền khác theo quy định của Hiến pháp và pháp luật. Trên đây là nội dung về quyền của người chuyển đổi giới tính theo Dự thảo Luật Chuyển đổi giới tính đang được lấy ý kiến trình Quốc hội trong thời gian tới. Những nội dung trên đây có thể bị sửa đổi, khác biệt khi Dự thảo luật được thông qua.
Đồng tính luyến ái là gì? Xúc phạm người thuộc cộng đồng LGBT có bị phạt không?
Theo các báo đưa tin ngày 27-3, Hạ viện Thái Lan đã thông qua dự luật bình đẳng hôn nhân. Theo đó, dự luật mới cho phép các cặp đôi đồng tính hưởng đầy đủ quyền lợi được quy định bởi luật dân sự và thương mại Thái Lan cho các cặp đôi đã kết hôn, bao gồm quyền thừa kế và quyền nhận con nuôi. Ở Việt Nam, mối quan hệ này hay được gọi là “Đồng tính luyến ái”. Vậy đồng tính luyến ái là gì? Trên thế giới đã có những quốc gia nào hợp pháp hóa hôn nhân đồng giới? Và kỳ thị người thuộc cộng đồng LGBT ở Việt Nam thì có bị phạt không? 1. Đồng tính luyến ái là gì? Theo Từ điển Bách khoa Việt Nam, Đồng tính luyến ái là quan hệ luyến ái, tình dục giữa những người cùng giới, đều có bộ phận sinh dục phát triển bình thường. Hiệp hội Tâm lý Hoa Kỳ (APA) định nghĩa: “Đồng tính luyến ái, hay đồng tính chỉ việc bị hấp dẫn trên phương diện tình yêu hay tình dục hoặc việc yêu đương hay quan hệ tình dục giữa những người cùng giới tính với nhau, trong hoàn cảnh nào đó hoặc trong một thời gian nào đó. Đồng tính luyến ái cũng chỉ sự tự nhận của cá nhân dựa trên những hấp dẫn đồng giới và sự tham gia vào một cộng đồng cùng giới tính”. Trong tiếng Anh, homosexuality là từ chỉ chung về đồng tính luyến ái; gay chỉ người đồng tính nam; lesbian chỉ người đồng tính nữ, đọc ngắn là les. Như vây, có thể hiểu Đồng tính luyến ái là thuật ngữ dùng để chỉ sự hấp dẫn trong tình yêu, tình dục, yêu đương hay quan hệ tình dục giữa những người cùng giới tính với nhau, kể cả chỉ là tạm thời hoặc lâu dài. 2. Có những quốc gia nào hợp pháp hóa hôn nhân đồng giới? Theo tham khảo, tính đến thời điểm hiện nay có khoảng trên 36 quốc gia và vùng lãnh thổ công nhận và hợp pháp hóa hôn nhân đồng giới bao gồm: Andorra, Argentina, Áo, Bồ Đào Nha, Bỉ, Brasil, Canada, Chile, Colombia, Costa Rica, Cuba, Đan Mạch, Đài Loan, Đức, Ecuador, Estonia, Hà Lan, Hoa Kỳ, Hy Lạp, Iceland, Ireland, Luxembourg, Malta, México, Na Uy, Nam Phi, New Zealand, Pháp, Phần Lan, Slovenia, Tây Ban Nha, Thụy Điển, Thụy Sĩ, Vương quốc Anh, Úc và Uruguay. Ngày 27/3/2024, Hạ viện Thái Lan đã thông qua dự luật bình đẳng hôn nhân trong lần đọc cuối cùng. Nếu thông qua thì Thái Lan trở thành quốc gia Đông Nam Á đầu tiên hợp pháp hóa hôn nhân đồng giới. 3. Xúc phạm người khác bị phạt thế nào? Căn cứ theo quy định tại điểm a Khoản 3, Khoản 14 Điều 7 Nghị định 144/2021/NĐ-CP quy định về việc xử lý vi phạm hành chính đối với hành vi vi phạm quy định về trật tự công cộng như sau: Vi phạm quy định về trật tự công cộng … 3. Phạt tiền từ 2.000.000 đồng đến 3.000.000 đồng đối với một trong những hành vi sau đây: a) Có hành vi khiêu khích, trêu ghẹo, xúc phạm, lăng mạ, bôi nhọ danh dự, nhân phẩm của người khác, trừ trường hợp quy định tại điểm b khoản 2 Điều 21 và Điều 54 Nghị định này; … Theo đó, người có hành vi khiêu khích, trêu ghẹo, xúc phạm, lăng mạ, bôi nhọ danh dự, nhân phẩm của người khác (trừ trường hợp khác theo quy định pháp luật) thì có thể bị phạt tiền từ 2.000.000 đến 3.000.000 đồng tùy vào mức độ nghiêm trọng của vụ việc. Đồng thời, có thể buộc xin lỗi công khai đối với hành vi vi phạm xúc phạm người khác trừ trường hợp nạn nhân có đơn không yêu cầu xin lỗi. (*) Mức phạt tiền đối với các hành vi vi phạm quy định này là mức phạt đối với cá nhân. Mức phạt tiền đối với tổ chức gấp hai lần mức phạt tiền đối với cá nhân. Ngoài ra, người nào xúc phạm nghiêm trọng nhân phẩm, danh dự của người người khác thì có thể bị xử lý về tội làm nhục người khác theo quy định tại Điều 155 Bộ luật hình sự 2015 (được sửa đổi bởi Khoản 2 Điều 2 Luật sửa đổi Bộ luật Hình sự 2017), cụ thể: - Phạt cảnh cáo, phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 30.000.000 đồng hoặc phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm đối với hành vi xúc phạm nghiêm trọng nhân phẩm, danh dự của người khác. - Phạt tù từ 03 tháng đến 02 năm khi phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây: + Phạm tội 02 lần trở lên; + Đối với 02 người trở lên; + Lợi dụng chức vụ, quyền hạn; + Đối với người đang thi hành công vụ; + Đối với người dạy dỗ, nuôi dưỡng, chăm sóc, chữa bệnh cho mình; + Sử dụng mạng máy tính hoặc mạng viễn thông, phương tiện điện tử để phạm tội; + Gây rối loạn tâm thần và hành vi của nạn nhân mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31% đến 60%. - Phạt tù từ 02 năm đến 05 năm khi phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây: + Gây rối loạn tâm thần và hành vi của nạn nhân mà tỷ lệ tổn thương cơ thể 61% trở lên; + Làm nạn nhân tự sát. Như vậy, nếu đủ yếu tố cấu thành tội phạm thì người xúc phạmngười khác có thể bị xử lý về tội xúc phạm người khác với khung hình phạt cao nhất đến 05 năm. Đồng thời, người phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm.
LGBT có mấy loại? Pháp luật cho phép hai người cùng giới cưới nhau không?
LGBT hay cộng đồng LGBT không còn quá xa lạ đối với chúng ta hiện nay. Thế nhưng bạn đã thật sự biết rõ về LGBT là gì hay chưa? Hay LGBT là viết tắt của những từ gì? LGBT có mấy loại? Bài viết sẽ cung cấp một số thông tin liên quan đến vấn đề này. LGBT là viết tắt của từ gì? LGBT là tên viết tắt của 4 chữ cái đầu của cộng đồng những người: - LESBIAN: đồng tính luyến ái nữ - GAY: đồng tính luyến ái nam - BISEXUAL: song tính tuyến ái - TRANSGENDER: chuyển giới. LGBT còn được dùng để mô tả xu hướng tính dục của 1 người có sự hấp dẫn về tình yêu cũng như tình dục khác với người dị tính (hấp dẫn bởi người thuộc giới tính trái ngược với mình) LGBT có mấy loại? LGBT bao gồm: (1) Lesbian - đồng tính nữ Người đồng tính nữ cũng giống hoàn toàn phụ nữ bình thường về cơ quan sinh dục, tâm lý lẫn sinh học. Thế nhưng họ thường bị thu hút tình yêu và tình dục và cảm xúc rung động cả về thể xác lẫn tâm hồn bởi người cùng giới nữ với mình mà không có tình cảm yêu đương với con trai. Nhiều người vẫn hay nghe đến từ ô môi, đây cũng được hiểu là lesbian là đồng tính luyến ái nữ, đây thực tế không phải là một căn bệnh mà đã được xem là 1 giới tính tự nhiên. Và nếu họ rung động với nhau họ cũng sẽ thể hiện tình cảm như những đôi nam nữ yêu nhau. Với những người đồng tính nữ khi yêu cũng có những cung bậc cảm xúc như những người khác, ví dụ như hờn, ghen, yêu thương, chăm sóc… và họ tự tin thể hiện những cử chỉ đó ra ngoài để bày tỏ tình cảm của mình với đối phương. Thực tế có những kiểu lesbian như: - Butch là những lesbian nam tính chiếm quyền chủ động trong 1 mối quan hệ và thể hiện sự “đàn ông” của mình qua phong cách, quần áo, kiểu tóc …. Họ mạnh mẽ và muốn bảo vệ cho người mình yêu. - Femme/ Lipstick Lesbian: những lesbian có xu hướng “phái yếu” trong mối quan hệ giữa les – les. Femme bị động, dịu dàng thì lipstick lại khá cá tính. Họ có đặc điểm quyến rũ của phái đẹp nhưng lại không bị hấp dẫn bởi đàn ông. - Soft Butch/Chapstick Les: để chỉ những người có vẻ ngoài lịch lãm, nam tính nhưng tâm hồn lại mỏng manh, yếu đuối. Xem bài viết liên quan: Người chuyển giới có phải đi nghĩa vụ quân sự không? Trốn NVQS bị xử lý thế nào? (2) Gay - đồng tính nam Đồng tính nam cũng tương tự như đồng tính nữ, là người có xu hướng tình dục, rung động về thể xác, tâm hồn với người cùng giới tính nam. Hầu hết người đồng tính nam đều cảm thấy bị thu hút bởi người cùng giới, không có nhu cầu phẫu thuật chuyển giới. Gay được chia làm nhiều loại như: Secret Gay, Openly Gay, Top, Bottom, Clofas, Graceful Gay và Tough Tại Việt Nam chỉ có Clofas, Graceful Gay, Top, Bot, Secret Gay. Cụ thể như sau: Clofas Người đồng tính nam có phong cách thời trang ăn mặc, dùng trang sức, mỹ phẩm như con gái thật sự. Họ không thích người cùng giới, chỉ thích thời trang con gái tuy nhiên lại không õng ẹo, lả lướt. Graceful Gay Những người này thường có những cử chỉ ẻo lả như một người con gái. Top Trong mối quan hệ “gay”, người con trai đồng tính nam đóng vai trò là người chồng. Bot Trongmối quan hệ “gay”, người con trai đồng tính nam đóng vai trò là người vợ. Secret Gay Những người này thường hay bộc lộ cử chỉ đàn ông, kể cả gu thời trang, thẩm mỹ, ít ai nghĩ họ là đồng tính nam. Openly Gay Là đồng tính nam lộ liễu, có bộ lộc các cử chỉ mặc dù là đàn ông nhưng thích thể hiện mình sống thoải mái và muốn nhiều người biết mình là gay. Tough Họ có những cử chỉ rắn rỏi như 1 người đàn ông mạnh mẽ. (3) Transgender - chuyển giới Là những người có biểu hiện sinh học trên cơ thể thuộc giới tính này nhưng tự nhận thức mình giống giới tính ngược lại. Ví dụ, một người sinh ra với cơ thể nam nhưng có suy nghĩ mình là nữ hoặc ngược lại. Suy nghĩ này không phụ thuộc vào việc họ có đã chuyển giới hay chưa. Thực tế thì nhiều người chuyển giới chưa hề thực hiện việc chuyển đổi giới tính, chính vì điều này đã khiến nhiều người nhầm lẫn transgender với người đã thực hiện chuyển đổi giới tính, những người đã phẫu thuật chuyển đổi bộ phận sinh dục nữ thành bộ phận sinh dục nam hoặc ngược lại. Nhiều người chuyển giới không phẫu thuật chuyển đổi bộ phận sinh dục, chỉ sử dụng nội tiết tố kết hợp với việc phẫu thuật ngực, thực chất họ vẫn mang giới tính cũ chứ chưa chuyển đổi giới tính vì bộ phận sinh dục, các tuyến nội tiết giới tính vẫn còn nguyên trong cơ thể họ. Nếu ngừng sử dụng nội tiết thì chỉ sau vài tháng, nội tiết nhân tạo sẽ bị đào thải, lúc này các đặc điểm giới tính của họ sẽ quay trở về như ban đầu. Bởi vậy, để rõ ràng về giới tính, hiện nay đa số các nước cho phép thay đổi giới tính trên giấy tờ tùy thân sau khi người chuyển giới đã phẫu thuật chuyển đổi bộ phận sinh dục. Thường sau chuyển giới, người ta thường đổi tên cho hợp với giới tính mới, cũng có thể chọn cho mình 1 tên trung tính. Tuy nhiên, hầu hết chỉ có thể đổi tên thường gọi. Việc hợp pháp hóa tên chính thức trên giấy tờ tùy thân như Căn cước công dân/Chứng minh nhân dân hay bằng lái xe, hộ chiếu vẫn còn gặp nhiều khó khăn. Những người sau khi chuyển giới cũng mong muốn được gọi bằng đại từ nhân xưng phù hợp với giới tính của mình. Ví dụ từ nữ chuyển giới sang nam, có thể gọi bằng anh, anh ấy, cậu ấy; những người đã chuyển đổi giới tính sang nữ có thể gọi bằng cô ấy, chị ấy, chị… Trong trường hợp mới gặp và chưa rõ nên gọi ra sao có thể lịch sự hỏi xem họ muốn được gọi như thế nào. (4) Bisexual - lưỡng tính Theo Hiệp hội Tâm ly học Hoa Kỳ thì các trạng thái lưỡng tính là chỉ tất cả trạng thái dẫn đến sự phát triển không điển hình của các đặc điểm giới tính và sinh lý trên cơ thể. Các trạng thái này có thể liên quan đến đặc điểm bất thường của cơ quan sinh dục bên trong, bên ngoài, của các nhiễm sắc thể giới tính, của các hóc môn giới tính. Có các loại lưỡng tính: - Lưỡng tính giả ở nữ: là nữ, có buồng trứng nhưng tuyến thượng thận sản xuất nhiều hóc môn nam androgen nên bộ phận sinh dục ngoài bị nam hóa. - Lưỡng tính giả ở nam: Bộ nhiễm sắc thể vẫn là 46 XY như mọi đàn ông khác. Tuy nhiên, bộ phận sinh dục lại giống nữ. - Nữ hóa tinh toàn:Người có tinh hoàn và bộ nhiễm sắc thể XY – là đàn ông, nhưng có âm đạo, không có tử cung, có vòi tử cung nhưng kém phát triển. - Lưỡng tính thật: hầu hết có dạng nữ, có cả tinh hoàn và buồng trứng. Những người thuộc nhóm lưỡng tính có thể bị hấp dẫn về tình yêu, tình dục với cả nam lẫn nữ. Họ có thể yêu bất cứ giới tình nào đem đến cảm xúc hơn và thường họ có tình cảm với người có giới tính bình thường. LGBT không phải là bệnh, không cần và không thể chữa Theo Công văn 4132/BYT-PC năm 2022 về chấn chỉnh công tác khám bệnh, chữa bệnh đối với người đồng tính, song tính và chuyển giới - Bộ Y tế nhận được thông tin phản ánh về việc hiện nay một số cơ sở khám bệnh, chữa bệnh và một số bác sĩ tự nhận là chữa khỏi bệnh đồng tính, trong khi Hiệp hội Tâm thần học Hoa Kỳ và Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) đã khẳng định đồng tính hoàn toàn không phải là bệnh, vậy nên đồng tính không thể “chữa”, không cần “chữa” và cũng không thể làm cách nào thay đổi được. Ngày 17/5/1990, Tổ Chức Y tế Thế giới cũng đã chính thức loại bỏ đồng tính luyến ái ra khỏi danh sách bệnh Tâm thần. - Kể từ năm 1994, đồng tính luyến ái không còn bị coi là bệnh, không có tên trong bảng DSM 5 (Cẩm nang Chẩn đoán và Thống kê Rối loạn Tâm thần). Tổ chức Y tế thế giới (WHO) cũng đã xác định "đồng tính không phải là bệnh", mà là những người có xu hướng tính dục với người đồng giới. Đồng tính và chuyển giới đã được WHO đưa ra khỏi chương Bệnh rối loạn tâm thần và hành vi, trong Danh mục các bệnh Quốc tế (ICD) lần lượt vào năm 1990 và 2019. - Do vậy, Bộ Y tế đề nghị Thủ trưởng các Đơn vị chỉ đạo các cơ sở khám bệnh, chữa bệnh thuộc thẩm quyền quản lý của mình quán triệt các cơ sở khám bệnh, chữa bệnh trong toàn quốc: + Tăng cường tuyên truyền, phổ biến để các bác sĩ, nhân viên y tế và người dân đến cơ sở khám bệnh, chữa bệnh hiểu đúng về người đồng tính, song tính và chuyển giới; + Khi tổ chức khám bệnh, chữa bệnh cho người đồng tính, song tính, chuyển giới phải bình đẳng, tôn trọng về giới tính, không phân biệt đối xử, kỳ thị đối với các đối tượng này; + Không coi đồng tính, song tính, chuyển giới là một bệnh. + Không can thiệp, ép buộc điều trị đối với các đối tượng này, nếu có chỉ là hỗ trợ về tâm lý và do người có hiểu biết về bản dạng giới thực hiện. + Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra các cơ sở khám bệnh, chữa bệnh; người hành nghề trong việc thực hiện, tuân thủ các nguyên tắc trong hành nghề khám bệnh, chữa bệnh theo đúng quy định của pháp luật. Trên đây là ý kiến chỉ đạo của Bộ Y tế nhằm chấn chỉnh thực trạng ép buộc khám bệnh, chữa bệnh đối với người đồng tính, song tính và chuyển giới, đề nghị các cơ quan, đơn vị quán triệt, nghiêm túc thực hiện. Pháp luật Việt Nam có công nhận hôn nhân giữa 2 người cùng giới? Căn cứ tại khoản 5 Điều 3 Luật Hôn nhân và gia đình 2014: "Kết hôn là việc nam và nữ xác lập quan hệ vợ chồng với nhau theo quy định của Luật này về điều kiện kết hôn và đăng ký kết hôn." Đồng thời, tại Điều 8 Luật Hôn nhân và gia đình 2014 quy định về điều kiện kết hôn như sau: - Nam, nữ kết hôn với nhau phải tuân theo các điều kiện sau đây: + Nam từ đủ 20 tuổi trở lên, nữ từ đủ 18 tuổi trở lên; + Việc kết hôn do nam và nữ tự nguyện quyết định; + Không bị mất năng lực hành vi dân sự; + Việc kết hôn không thuộc một trong các trường hợp cấm kết hôn theo quy định tại các điểm a, b, c và d khoản 2 Điều 5 của Luật Hôn nhân và gia đình 2014. - Nhà nước không thừa nhận hôn nhân giữa những người cùng giới tính Như vậy, theo Luật Hôn nhân và gia đình hiện hành, Nhà nước không thừa nhận hôn nhân giữa những người cùng giới tính. Tuy nhiên, hiện nay, nhiều cặp đôi cùng giới đã quyết định tổ chức đám cưới như một lời hứa hẹn trăm năm. Điều này không vi phạm pháp luật, thế nhưng những cặp đôi cùng giới này do không được thực hiện việc đăng ký kết hôn tại cơ quan có thẩm quyền nên mối quan hệ giữa những cặp đôi cùng giới tính sẽ không phát sinh các quyền về nhân thân, tài sản như giữa vợ chồng hợp pháp. Trường hợp có phát sinh các tranh chấp giữa các cặp đôi cùng giới trong quá trình sống chung thì sẽ được giải quyết theo pháp luật về dân sự. Xem bài viết liên quan: Người chuyển giới có phải đi nghĩa vụ quân sự không? Trốn NVQS bị xử lý thế nào?
Lấy ý kiến về dự án luật chuyển đổi giới tính
Bộ y tế đang mở lấy ý kiến đóng góp về dự án Luật chuyển đổi giới tính từ 18/10/2017 - 17/11/2017 Ai có nhu cầu và có khả năng thì nên đóng góp để bộ Luật được hoàn chỉnh và sớm được thông qua. http://www.moh.gov.vn/LegalDoc/Pages/OpinionPollInfo.aspx?CateID=372
Những quy định pháp luật dành cho người chuyển đổi giới tính
Đến nay, vấn đề Người chuyển đổi giới tính, xác định lại giới tính, kết hôn đồng tính... đã được pháp luật nước ta thừa nhận và luật hóa. Đây là điều vui mừng cho công đồng LGBT cũng như toàn xã hội. Bởi quyền được sống thật với giới tính của mình, được xã hội công nhận, đối xử công bằng, văn minh cũng là quyền con người, quyền công dân được pháp luật bảo vệ. Từ nền tảng mà Hiến pháp 2013 quy định: - Điều 14: "các quyền con người, quyền công dân về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội được công nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm theo Hiến pháp và pháp luật" - Điều 16: "Mọi người đều bình đẳng trước pháp luật; Không ai bị phân biệt đối xử trong đời sống chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội." Tiếp đến, lần đầu tiên Bộ luật Dân Sự 2015 có hiệu lực từ ngày 1/1/2017 đã chính thức thừa nhận quyền nhân thân của người chuyển đổi giới tính, người xác định lại giới tính tại: Điều 36: "Cá nhân đã thực hiện việc xác định lại giới tính có quyền, nghĩa vụ đăng ký thay đổi hộ tịch theo quy định của pháp luật về hộ tịch; có quyền nhân thân phù hợp với giới tính đã được xác định lại theo quy định của Bộ luật này và luật khác có liên quan" Điều 37: "Việc chuyển đổi giới tính được thực hiện theo quy định của luật. Cá nhân đã chuyển đổi giới tính có quyền, nghĩa vụ đăng ký thay đổi hộ tịch theo quy định của pháp luật về hộ tịch; có quyền nhân thân phù hợp với giới tính đã được chuyển đổi theo quy định của Bộ luật này và luật khác có liên quan" Có thể thấy Bộ luật Dân sự 2015 dừng lại ở quyền nhân thân để xác định tư cách của cá nhân khi tham gia các quan hệ dân sự, tạo sự minh bạch về quyền nhân thân, tài sản, giao dịch,... trong các quan hệ dân sự. Tuy nhiên, điều này cũng là bước đi lớn của pháp luât nhằm tạo rào pháp lý ngăn chặn hành vi phân biệt đối xử với người chuyển giới, bảo đảm cho họ có địa vị pháp lý bình đẳng như cá nhân khác. Nghị định 88/2008/NĐ-CP quy định về Xác định lại giới tính. Trong đó, nổi bật nhất là việc xác định rõ những hành vi bị nghiêm cấm quy định tại Điều 4. Điển hình: Cấm "Phân biệt đối xử đối với người đã xác định lại giới tính". Luật Hộ tịch 2014: Điểm c Khoản 2 Điều 3: Xác định lại giới tính được ghi vào Sổ Hộ tịch theo quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Khoản 3 điều 36 quy định: Cá nhân đã thực hiện việc xác định lại giới tính có quyền, nghĩa vụ thay đổi hộ tịch theo quy định của pháp luật về hộ tịch. Luật Hôn nhân và Gia đình 2014: Đã bỏ quy định "Cấm kết hôn giữa những người cùng giới tính" ở Luật năm 2000. Thay vào đó là quy định “Không thừa nhận hôn nhân giữa những người cùng giới tính" tại Khoản 2 Điều 8. Như vậy, Luật không cấm nhưng cũng không công nhận kết hôn đồng giới. Những người đồng giới tính vẫn có thể kết hôn, nhưng sẽ không được pháp luật bảo vệ khi phát sinh tranh chấp. Luật thi hành tạm giữ, tạm giam 2015 có thêm quy định: Khoản 4 Điều 18: "Người bị tạm giữ, người bị tạm giam sau đây có thể được bố trí giam giữ ở buồng riêng: a) Người đồng tính, người chuyển giới." Tuy còn nhiều vấn đề bỏ ngỏ chưa giải quyết, nhưng thực tế Pháp luật đã và đang dần hoàn thiện để đảm bảo quyền lợi và nghĩa vụ của Người chuyển đổi giới tính, xác định lại giới tính, đồng giới. Đặc biệt, trong tương lai gần, nước ta sẽ có Luật chuyển đổi giới tính nhằm bảo vệ toàn diện cho người chuyển đổi giới tính.
Chuyển đổi giới tính – nhiều hệ lụy khó lường
Chuyển đổi giới tính – nhiều hệ lụy khó lường (phần I) Ngày 24/11/2015, Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam chính thức thông qua quy định tại điều 37 Dự thảo Bộ luật Dân sự về vấn để chuyển đổi giới tính. Đây là một tin vui đối với cộng đồng LGBT nói chung là cộng đồng người chuyển giới (transgender) nói riêng. Tuy nhiên kể từ sau “tin mừng” trên được công bố cũng hệ lụy khôn lường. Chuyển giới là quá trình chuyển đổi từ giới tính này sang giới tính, việc chuyển giới sẽ được thực hiện thông qua các ca phẫu thuật. Tuy nhiên cần nhìn nhận rằng người chuyển giới không hẵn là người đồng tính, bởi vì họ nhận thấy bản thân mình vốn không phù hợp với giới tính đang có nên chuyển đổi sang giới tính khác, chứ không đồng nghĩa họ có ham muốn tình dục với người cùng giới. Quốc hội thông qua quyết định Với 282/366 số phiếu tán thành, ngày 24/11 Quốc hội đã thông qua Điều 37 Dự thảo Bộ luật Dân sự 2015 về việc cho phép chuyển đổi giới tính, bên cạnh đó cá nhân chuyển đổi giới tính có quyền và nghĩa vụ phải thay đổi hộ tịch, nhân thân. Bên cạnh đó Điều 36 của Bộ luật trên cũng quy định cá nhận có quyền xác định lại giới tính, việc xác định được thực hiện trong trường hợp giới tính người đó bị khuyết tật bẩm sinh hoặc chưa được hình thành chính xác mà cần có sự can thiệp của y học nhằm xác định rõ giới tính, cá nhân đã thực hiện việc xác định lại giới tính có quyền và nghĩa vụ đăng ký thay đổi hộ tịch theo quy định của pháp luật. Khi nào được chuyển giới? Quy định tại điều 36 Dự thảo Bộ luật Dân sự chỉ xác định cá nhân có quyền xác định lại giới tính trong trường hợp giới tính người đó bị khuyết tật bẩm sinh hoặc chưa được hình thành chính xác mà cần có sự can thiệp của y học để xác định rõ giới tính. Như vậy tiêu chuẩn để đánh giá một giới tính bị khuyết tật là gì? Tiêu chí để đánh giá khuyết tật do bẩm sinh chứ không phải cố ý là gì? Quy định trên có thiểu hiểu theo gốc độ sinh học cơ thể như sau: + Nếu một cá nhân mang trong mình một cơ quan sinh dục thứ hai thì cá nhân đó được quyền xác định lại giới tính. Việc chuyển giới trong trường hợp này xuất phát từ đặc điểm sinh học bản thân. Như vậy đối với trường hợp cố tình tác động nhằm tạo ra một cơ quan sinh dục thứ hai trên bản thân thì có được chuyển đổi giới tính không? Trong khi phần lớn người chuyển giới hiện nay là tự ý phẫu thuật gắn thêm cơ quan sinh dục. + Tuy nhiên nếu bản thân không bị “khuyết tật bẩm sinh”, chưa hình thành một cách trọn vẹn cơ quan sinh dục thứ hai mà chỉ hình thành sơ bộ thì sẽ dựa vào kết quả xét nghiệm y tế làm cơ sở cho việc chuyển đổi giới tính. Nhưng liệu câu hỏi đặt ra cơ quan nào sẽ đảm nhiệm vai trò trên ? Cũng như nếu xét theo quá trình phát triển thì một bộ phận sinh dục thứ 2 chưa được hình thành khi và chỉ khi cá nhân đó còn quá nhỏ, như vậy việc xét nghiệm và chuyển đổi giới tính chỉ thuộc về một khái niệm, chưa đủ khả thi bởi lẽ cha mẹ nào nỡ để con thơ phải chịu nhiều sự thay đổi lớn đến thế khi mới là một đứa trẻ. Như vậy, thế thì 1 cá nhân sẽ thỏa mãn những điều kiện nào thì mới được chuyển đổi giới tính, họ có bắt buộc phải phẫu thuật chuyển giới thì mới được chuyển đổi giới tính hay không hay họ có thể chuyển đổi giới tính dù không cần phẫu thuật chuyển giới ? Nhiều thủ tục pháp lý thay đổi Tuy Dự thảo Luật quy định cá nhân chuyển giới phải có nghĩa vụ thay đổi nhưng hộ tịch nhưng bên cạnh hộ tịch vẫn còn nhiều giấy tờ thủ tục liên quan, kéo theo đó là thủ tục hành chính dài ngoằng: + Chứng minh nhân dân phải làm lại: Đây là thủ tục hoàn toàn có thể làm lại nhanh chóng nên vẫn tương đối ổn định. + Giấy tờ chứng nhận sở hữu đất đai: Theo nghị định 43/2014/NĐ-CP thì quy trình cấp lại giấy chứng nhận quyền sở hữu đất đại khá phức tạp, nhiều thủ tục và đặc biệt chỉ quy định cấp lại đối với trường hợp do mất, nhưng nếu cá nhân thay đổi giới tính, thay đổi họ tên thì vẫn chưa có quy định nào hướng dẫn thay đổi các giấy tờ liên quan. Không chỉ sở hữu đất mà các giấy tờ liên quan khác như học bạ, khai sinh, giấy chứng nhận liên quan… như thế kéo theo việc Quốc hội thông qua quy định chuyển đổi giới tính là những thủ tục pháp lý liên quan đòi hỏi cần thay đổi theo, và liệu các chủ thể tiến hành và cơ quan, tổ chức sẽ có trách nhiệm thế nào, thủ tục ra sao thì vẫn còn nhiều vướng mắc. Việc thông qua quy định chuyển đổi giới tính vừa là tin vui nhưng cũng là tin buồn. Tin vui đối với cộng đồng LGBT và những người chuyển giới, nhưng lại là tin buồn đối với các nhà làm luật bởi họ phải thay đổi sau đó là cả hàng tá thủ tục hành chính liên quan.