Luật sư có được bào chữa cho người thân không?
Luật sư có người thân vướng vào vòng lao lý thì có được đứng ra làm người bào chữa cho người thân không? Luật sư có những quyền và nghĩa vụ gì khi là người bào chữa của bị cáo? Luật sư có được bào chữa cho người thân không? Theo Điều 72 Bộ luật tố tụng hình sự 2015 quy định về người bào chữa thì: Người bào chữa là người được người bị buộc tội nhờ bào chữa hoặc cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng chỉ định và được cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng tiếp nhận việc đăng ký bào chữa. - Người bào chữa có thể là: Luật sư; người đại diện của người bị buộc tội; bào chữa viên nhân dân; trợ giúp viên pháp lý trong trường hợp người bị buộc tội thuộc đối tượng được trợ giúp pháp lý. - Những người sau đây không được bào chữa: + Người đã tiến hành tố tụng vụ án đó; người thân thích của người đã hoặc đang tiến hành tố tụng vụ án đó; + Người tham gia vụ án đó với tư cách là người làm chứng, người giám định, người định giá tài sản, người phiên dịch, người dịch thuật; + Người đang bị truy cứu trách nhiệm hình sự, người bị kết án mà chưa được xoá án tích, người đang bị áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc, cơ sở giáo dục bắt buộc. + Một người bào chữa có thể bào chữa cho nhiều người bị buộc tội trong cùng vụ án nếu quyền và lợi ích của họ không đối lập nhau. Như vậy, luật sư hoàn toàn được bào chữa cho người thân nếu được họ nhờ bào chữa hoặc cơ quan có thẩm quyền chỉ định và được cơ quan, người có thẩm quyền tiếp nhận đăng ký bào chữa. Đồng thời cũng lưu ý là luật sư phải không thuộc những người không được bào chữa theo quy định trên. Luật sư của có được tiết lộ thông tin của người mình nhận bào chữa không? Theo khoản 2 Điều 73 Bộ luật tố tụng hình sự 2015 quy định về nghĩa vụ của người bào chữa như sau: - Sử dụng mọi biện pháp do pháp luật quy định để làm sáng tỏ những tình tiết xác định người bị buộc tội vô tội, những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị can, bị cáo; - Giúp người bị buộc tội về mặt pháp lý nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ; - Không được từ chối bào chữa cho người bị buộc tội mà mình đã đảm nhận bào chữa nếu không vì lý do bất khả kháng hoặc không phải do trở ngại khách quan; - Tôn trọng sự thật; không được mua chuộc, cưỡng ép hoặc xúi giục người khác khai báo gian dối, cung cấp tài liệu sai sự thật; - Có mặt theo giấy triệu tập của Tòa án; trường hợp chỉ định người bào chữa theo quy định thì phải có mặt theo yêu cầu của Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát; - Không được tiết lộ bí mật điều tra mà mình biết khi thực hiện bào chữa; không được sử dụng tài liệu đã ghi chép, sao chụp trong hồ sơ vụ án vào mục đích xâm phạm lợi ích của Nhà nước, lợi ích công cộng, quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân; - Không được tiết lộ thông tin về vụ án, về người bị buộc tội mà mình biết khi bào chữa, trừ trường hợp người này đồng ý bằng văn bản và không được sử dụng thông tin đó vào mục đích xâm phạm lợi ích của Nhà nước, lợi ích công cộng, quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân. Như vậy, luật sư chỉ được tiết lộ thông tin của người mình nhận bào chữa khi được họ đồng ý bằng văn bản và không được dùng thông tin này để xâm phạm lợi ích Nhà nước, lợi ích công cộng, quyền và lợi ích hợp pháp của bất kỳ cơ quan, tổ chức, cá nhân nào. Trường hợp nào luật sư có quyền kháng cáo bản án, quyết định của Toà? Theo khoản 1 Điều 73 Bộ luật tố tụng hình sự 2015 quy định người bào chữa có quyền: - Gặp, hỏi người bị buộc tội; - Có mặt khi lấy lời khai của người bị bắt, bị tạm giữ, khi hỏi cung bị can và nếu người có thẩm quyền tiến hành lấy lời khai, hỏi cung đồng ý thì được hỏi người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can. Sau mỗi lần lấy lời khai, hỏi cung của người có thẩm quyền kết thúc thì người bào chữa có thể hỏi người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can; - Có mặt trong hoạt động đối chất, nhận dạng, nhận biết giọng nói và hoạt động điều tra khác theo quy định; - Được cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng báo trước về thời gian, địa điểm lấy lời khai, hỏi cung và thời gian, địa điểm tiến hành hoạt động điều tra khác; - Xem biên bản về hoạt động tố tụng có sự tham gia của mình, quyết định tố tụng liên quan đến người mà mình bào chữa; - Đề nghị thay đổi người có thẩm quyền tiến hành tố tụng, người giám định, người định giá tài sản, người phiên dịch, người dịch thuật; đề nghị thay đổi, hủy bỏ biện pháp ngăn chặn, biện pháp cưỡng chế; - Đề nghị tiến hành hoạt động tố tụng theo quy định; đề nghị triệu tập người làm chứng, người tham gia tố tụng khác, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng; - Thu thập, đưa ra chứng cứ, tài liệu, đồ vật, yêu cầu; - Kiểm tra, đánh giá và trình bày ý kiến về chứng cứ, tài liệu, đồ vật liên quan và yêu cầu người có thẩm quyền tiến hành tố tụng kiểm tra, đánh giá; - Đề nghị cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng thu thập chứng cứ, giám định bổ sung, giám định lại, định giá lại tài sản; - Đọc, ghi chép và sao chụp những tài liệu trong hồ sơ vụ án liên quan đến việc bào chữa từ khi kết thúc điều tra; - Tham gia hỏi, tranh luận tại phiên tòa; - Khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng; - Kháng cáo bản án, quyết định của Tòa án nếu bị cáo là người dưới 18 tuổi, người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất theo quy định. Như vậy, luật sư chỉ có quyền kháng cáo bản án, quyết định của Toà trong trường hợp bị cáo dưới 18 tuổi hoặc có nhược điểm về tâm thần/thể chất.
Kháng cáo bản án dân sự sơ thẩm quá thời hạn quy định thì có được chấp nhận hay không?
Nếu quá thời hạn kháng cáo bản án dân sự sơ thẩm mới thực hiện kháng cáo thì có được Tòa án chấp nhận hay không? Thời hạn kháng cáo bản án sơ thẩm theo quy định hiện nay là bao lâu? Ai là người có quyền kháng cáo bản án dân sự sơ thẩm? Theo Điều 271 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015 quy định về người có quyền kháng cáo như sau: "Đương sự, người đại diện hợp pháp của đương sự, cơ quan, tổ chức, cá nhân khởi kiện có quyền kháng cáo bản án sơ thẩm, quyết định tạm đình chỉ giải quyết vụ án dân sự, quyết định đình chỉ giải quyết vụ án dân sự của Tòa án cấp sơ thẩm để yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm giải quyết lại theo thủ tục phúc thẩm." Như vậy, những người có quyền kháng cáo bản án sơ thẩm là - Đương sự, người đại diện hợp pháp của đương sự; - Cơ quan, tổ chức, cá nhân khởi kiện. Thời hạn kháng cáo bản án dân sự sơ thẩm theo quy định hiện nay là bao lâu? Căn cứ theo Điều 273 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015 thì thời hạn tiến hành kháng cáo bản án sơ thẩm hiện nay là 15 ngày, kể từ ngày tuyên án. Trường hợp bạn không có mặt tại phiên tòa hoặc không có mặt khi tuyên án mà có lý do chính đáng thì thời hạn kháng cáo được tính từ ngày bạn nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết. Đối với trường hợp bạn đã tham gia phiên tòa nhưng vắng mặt khi Tòa án tuyên án mà không có lý do chính đáng thì thời hạn kháng cáo vẫn sẽ được tính từ ngày tuyên án. Lưu ý: Trường hợp bạn gửi đơn kháng cáo bằng dịch vụ bưu chính thì ngày kháng cáo được xác định căn cứ vào ngày tổ chức dịch vụ bưu chính nơi gửi đóng dấu ở phong bì. Trường hợp người kháng cáo đang bị tạm giam thì ngày kháng cáo là ngày đơn kháng cáo được giám thị trại giam xác nhận. Kháng cáo bản án dân sự sơ thẩm quá thời hạn quy định thì có được chấp nhận hay không? Tại Điều 275 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015, quy định về việc kháng cáo quá hạn và xem xét kháng cáo quá hạn như sau: - Kháng cáo quá thời hạn quy định tại Điều 273 của Bộ luật này là kháng cáo quá hạn. Sau khi nhận được đơn kháng cáo quá hạn, Tòa án cấp sơ thẩm phải gửi đơn kháng cáo, bản tường trình của người kháng cáo về lý do kháng cáo quá hạn và tài liệu, chứng cứ (nếu có) cho Tòa án cấp phúc thẩm. - Trong thời hạn 10 ngày, kể từ ngày nhận được đơn kháng cáo quá hạn và tài liệu, chứng cứ kèm theo, Tòa án cấp phúc thẩm thành lập Hội đồng gồm ba Thẩm phán để xem xét kháng cáo quá hạn. Phiên họp xem xét kháng cáo quá hạn phải có sự tham gia của đại diện Viện kiểm sát cùng cấp và người kháng cáo quá hạn. Trường hợp người kháng cáo, Kiểm sát viên vắng mặt thì Tòa án vẫn tiến hành phiên họp. - Căn cứ vào tài liệu, chứng cứ có liên quan đến việc kháng cáo quá hạn, ý kiến của người kháng cáo quá hạn, đại diện Viện kiểm sát tại phiên họp, Hội đồng xét kháng cáo quá hạn quyết định theo đa số về việc chấp nhận hoặc không chấp nhận việc kháng cáo quá hạn và phải ghi rõ lý do của việc chấp nhận hoặc không chấp nhận trong quyết định. Tòa án cấp phúc thẩm phải gửi quyết định cho người kháng cáo quá hạn, Tòa án cấp sơ thẩm và Viện kiểm sát cùng cấp; nếu Tòa án cấp phúc thẩm chấp nhận việc kháng cáo quá hạn thì Tòa án cấp sơ thẩm phải tiến hành các thủ tục do Bộ luật này quy định.” Như vậy, khi kháng cáo quá hạn thì người kháng cáo phải gửi bản tường trình về lý do kháng cáo quá hạn và tài liệu, chứng cứ (nếu có) cho Tòa án cấp sơ thẩm để Tòa án cấp sơ thẩm gửi cho Tòa án cấp phúc thẩm. Sau đó, Tòa án sẽ mở phiên họp xem xét kháng cáo quá hạn trong thời hạn 10 ngày, kể từ ngày nhận được đơn kháng cáo quá hạn và tài liệu, chứng cứ kèm theo. Căn cứ vào tài liệu, chứng cứ có liên quan đến việc kháng cáo quá hạn, ý kiến của người kháng cáo, đại diện Viện kiểm sát tại phiên họp, Hội đồng xét kháng cáo quá hạn quyết định theo đa số về việc chấp nhận hoặc không chấp nhận việc kháng cáo quá hạn và phải ghi rõ lý do của việc chấp nhận hoặc không chấp nhận trong quyết định. Theo đó, kháng cáo bản án sơ thẩm quá hạn vẫn có thể được chấp nhận nếu được đa số Hội đồng xét kháng cáo quá hạn chấp nhận, căn cứ dựa trên: - Tài liệu, chứng cứ có liên quan đến việc kháng cáo quá hạn; - Ý kiến của người kháng cáo, đại diện Viện kiểm sát.
Mẫu đơn kháng cáo và quy trình kháng cáo bản án dân sự năm 2024
Khi Tòa tuyên án sơ thẩm, các bị cáo, bị hại được quyền kháng cáo khi cho rằng bản án chưa được xét xử thỏa đáng. Vậy mẫu đơn kháng cáo và quy trình kháng cáo bản án dân sự năm 2024 được thực hiện ra sao? (1) Kháng cáo bản án dân sự Theo Điều 17 Bộ Luật Tố tụng dân sự 2015 quy định việc xét xử của Tòa án phải thực hiện qua hai cấp xét xử đó là cấp sơ thẩm và cấp phúc thẩm. Theo đó, bản án, quyết định sơ thẩm của Tòa án có thể bị kháng cáo, kháng nghị theo quy định của pháp luật tố tụng, cụ thể: - Bản án, quyết định sơ thẩm của Tòa án có thể bị kháng cáo, kháng nghị theo quy định của Bộ luật này. - Bản án, quyết định sơ thẩm của Tòa án không bị kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm trong thời hạn do Bộ luật Tố tụng Dân sự 2015 quy định thì có hiệu lực pháp luật. - Bản án, quyết định sơ thẩm của Tòa án bị kháng cáo, kháng nghị thì vụ án phải được xét xử phúc thẩm. Bản án, quyết định phúc thẩm có hiệu lực pháp luật. - Bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật mà phát hiện có vi phạm pháp luật hoặc có tình tiết mới theo quy định của Bộ luật này thì được xem xét lại theo thủ tục giám đốc thẩm hoặc tái thẩm. Như vậy, các bên có liên quan trong vụ việc dân sự được quyền kháng cáo, kháng nghị trong thời hạn quy định khi cho rằng bản án chưa được xét xử thỏa đáng, cần được xét xử lại hoặc có các tình tiết, bằng chứng mới phục vụ cho việc chứng minh, làm thay đổi tình hình vụ việc thì làm đơn kháng cáo, kháng nghị để được xét xử phúc thẩm. (2) Người có quyền kháng cáo Đương sự, người đại diện hợp pháp của đương sự, cơ quan, tổ chức, cá nhân khởi kiện có quyền kháng cáo bản án sơ thẩm, quyết định tạm đình chỉ giải quyết vụ án dân sự, quyết định đình chỉ giải quyết vụ án dân sự của Tòa án cấp sơ thẩm để yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm giải quyết lại theo thủ tục phúc thẩm (Điều 271 Bộ Luật Tố tụng Dân sự 2015). (3) Thời hạn kháng cáo Thời hạn kháng cáo được quy định tại Điều 273 Bộ Luật Tố tụng dân sự 2015 như sau: - Thời hạn kháng cáo đối với bản án của Tòa án cấp sơ thẩm là 15 ngày kể từ ngày tuyên án. - Thời hạn kháng cáo đối với quyết định tạm đình chỉ, đình chỉ giải quyết vụ án của Tòa án cấp sơ thẩm là 07 ngày. - Trường hợp đương sự, cơ quan tổ chức, tổ chức hoặc cá nhân khởi kiện không có mặt tại phiên tòa hoặc không có mặt khi tuyên án mà có lý do chính đáng thì thời hạn kháng cáo được tính từ ngày họ nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết. Trường hợp đã tham gia phiên tòa nhưng vắng mặt khi Tòa án tuyên án mà không có lý do chính đáng thì thời hạn kháng cáo được tính từ ngày tuyên án. - Trường hợp đơn kháng cáo được gửi qua dịch vụ bưu chính thì ngày kháng cáo được xác định căn cứ vào ngày tổ chức dịch vụ bưu chính nơi gửi đóng dấu ở phong bì. Trường hợp người kháng cáo đang bị tạm giam thì ngày kháng cáo là ngày đơn kháng cáo được giám thị trại giam xác nhận. (4) Hồ sơ và mẫu đơn kháng cáo bản án dân sự năm 2024 Theo Điều 272 Bộ Luật Tố tụng Dân sự 2015, người có quyền kháng cáo nộp hồ sơ kháng cáo bao gồm: - Đơn kháng cáo - Tài liệu, chứng cứ bổ sung (nếu có) để chứng minh cho kháng cáo của mình là có căn cứ và hợp pháp. Tại Mẫu số 54-DS ban hành kèm theo Nghị quyết 01/2017/NQ-HĐTP có quy định Mẫu đơn kháng cáo dân sự như sau: >>Tải Mẫu đơn kháng cáo dân sự ban hành kèm theo Nghị quyết 01/2017/NQ-HĐTP tại đâyhttps://cdn.thuvienphapluat.vn/uploads/danluatfile/2024/05/13/mau54-ds.docx (5) Quy trình kháng cáo bản án dân sự năm 2024 Căn cứ theo Điều 272, 274, 276, 277, 283 Bộ Luật Tố tụng Dân sự 2015, người có quyền kháng cáo thực hiện các bước sau đây để được thụ lý việc kháng cáo: Bước 1: Nộp đơn kháng cáo - Người có quyền kháng cáo chuẩn bị hồ sơ bao gồm đơn kháng cáo, tài liệu, chứng cứ (nếu có) gửi cho Tòa án cấp sơ thẩm đã ra bản án, quyết định sơ thẩm bị kháng cáo. - Trường hợp đơn kháng cáo được gửi cho Tòa án cấp phúc thẩm thì Tòa án đó phải chuyển cho Tòa án cấp sơ thẩm để tiến hành các thủ tục cần thiết theo quy định của Bộ luật Tố tụng Dân sự 2015. Bước 2: Tiếp nhận đơn kháng cáo Sau khi nhận được đơn kháng cáo, Tòa án cấp sơ thẩm phải kiểm tra tính hợp lệ của đơn kháng cáo. Trường hợp đơn kháng cáo chưa đúng quy định thì Tòa án cấp sơ thẩm yêu cầu người kháng cáo làm lại hoặc sửa đổi, bổ sung đơn kháng cáo. Bước 3: Nộp án phí Sau khi Tòa án chấp nhận đơn kháng cáo hợp lệ, trong thời hạn 10 ngày người kháng cáo nộp tiền tạm ứng án phí phúc thẩm và nộp cho Tòa án cấp sơ thẩm biên lai thu tiền tạm ứng án phí phúc thẩm. Bước 4: Thông báo cho các bên liên quan - Tòa án cấp sơ thẩm thông báo bằng văn bản cho Viện kiểm sát cùng cấp và đương sự có liên quan đến kháng cáo biết về việc kháng cáo kèm theo bản sao đơn kháng cáo, tài liệu, chứng cứ bổ sung mà người kháng cáo gửi kèm đơn kháng cáo. - Đương sự có liên quan đến kháng cáo được thông báo về việc kháng cáo có quyền gửi văn bản nêu ý kiến của mình về nội dung kháng cáo cho Tòa án cấp phúc thẩm. Văn bản nêu ý kiến của họ được đưa vào hồ sơ vụ án. - Tòa án cấp sơ thẩm phải gửi hồ sơ vụ án, đơn kháng cáo, quyết định kháng nghị và tài liệu, chứng cứ bổ sung kèm theo cho Tòa án cấp phúc thẩm trong thời hạn 05 ngày làm việc, kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, người kháng cáo đã nộp cho Tòa án cấp sơ thẩm biên lai thu tiền tạm ứng án phí phúc thẩm. Bước 5: Thụ lý vụ án để xét xử phúc thẩm - Sau khi nhận được hồ sơ vụ án, kháng cáo, kháng nghị và tài liệu, chứng cứ kèm theo, Tòa án cấp phúc thẩm phải vào sổ thụ lý - Tòa án phải thông báo bằng văn bản cho các đương sự, cơ quan, tổ chức, cá nhân khởi kiện và Viện kiểm sát cùng cấp về việc Tòa án đã thụ lý vụ án và thông báo trên Cổng thông tin điện tử của Tòa án trong thời hạn 03 ngày làm việc kể từ ngày thụ lý vụ án - Trong thời hạn 02 tháng, kể từ ngày thụ lý vụ án, tùy từng trường hợp, Tòa án cấp phúc thẩm ra một trong các quyết định sau đây: + Tạm đình chỉ xét xử phúc thẩm vụ án; + Đình chỉ xét xử phúc thẩm vụ án; + Đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm. Đối với các vụ án phức tạp hoặc do sự kiện bất khả kháng, Tòa án phúc thẩm có thể kéo dài hạn chuẩn bị xét xử nhưng không được quá 01 tháng. - Trong thời hạn 01 tháng, kể từ ngày có quyết định đưa vụ án ra xét xử, Tòa án phải mở phiên tòa phúc thẩm; trường hợp có lý do chính đáng thì thời hạn này là 02 tháng. - Trường hợp có quyết định tạm đình chỉ xét xử phúc thẩm vụ án thì thời hạn chuẩn bị xét xử phúc thẩm được tính lại kể từ ngày quyết định tiếp tục giải quyết vụ án của Tòa án có hiệu lực pháp luật.
Bị cáo không kháng cáo thì Tòa có áp dụng tình tiết giảm nhẹ hình phạt được không?
Mới đây, TAND cấp cao TPHCM xét xử phiên tòa phúc thẩm bị cáo Nguyễn Phương Hằng đã tuyên bố giảm án 3 tháng phạt tù cho bị cáo dù bị cáo không kháng cáo. Việc Hội đồng xét xử (HĐXX) giảm án khi bị cáo không kháng cáo có đúng với quy định của Bộ Luật Tố tụng Hình sự không? (1) Khi nào thì được mở phiên tòa phúc thẩm? Theo Điều 27 Bộ Luật Tố tụng hình sự 2015 quy định về chế độ xét xử sơ thẩm, phúc thẩm được đảm bảo như sau: - Bản án, quyết định sơ thẩm của Tòa án có thể bị kháng cáo, kháng nghị theo quy định Bộ Luật Tố tụng hình sự 2015 - Bản án, quyết định sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị trong thời hạn do Bộ Luật Tố tụng hình sự 2015 quy định thì có hiệu lực pháp luật - Bản án, quyết định sơ thẩm bị kháng cáo, kháng nghị thì vụ án phải được xét xử phúc thẩm. Bản án, quyết định phúc thẩm của Tòa án có hiệu lực pháp luật. - Bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật mà phát hiện có vi phạm pháp luật nghiêm trọng hoặc có tình tiết mới theo quy định của Bộ Luật Tố tụng hình sự 2015 thì được xem xét lại theo trình tự giám đốc thẩm hoặc tái thẩm. Về tính chất của phiên xét xử phúc thẩm, khoản 1 Điều 330 Bộ Luật Tố tụng Hình sự 2015 quy định như sau: - Xét xử phúc thẩm là việc Tòa án cấp trên trực tiếp xét xử lại vụ án hoặc xét lại quyết định sơ thẩm mà bản án, quyết định sơ thẩm đối với vụ án đó chưa có hiệu lực pháp luật bị kháng cáo hoặc kháng nghị. Căn cứ vào 2 quy định trên, để mở phiên tòa phúc thẩm là phải có kháng cáo, kháng nghị từ đương sự hoặc bản án sơ thẩm bị kháng cáo, kháng nghị. Nếu không có kháng cáo, kháng nghị với bản án quyết định sơ thẩm trong thời hạn quy định thì bản án sơ thẩm đó sẽ có hiệu lực thi hành. Trong vụ xét xử bà Nguyễn Phương Hằng, mặc dù bà Hằng cho rằng mức án 3 năm tù đối tội của bà là quá cao, tuy nhiên bà cũng không kháng cáo. Do bà Hằng không kháng cáo trong thời hạn quy định, bản án của tòa cấp sơ thẩm sẽ có hiệu lực, nghĩa là bà Hằng phải thi hành án phạt tù 03 năm theo như bản án quyết định sơ thẩm. Trong khi đó, các đồng phạm của bà trong vụ việc này đã làm đơn kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt nên bản án, quyết định sơ thẩm đối với các bị cáo này là chưa có hiệu lực. Tòa án cấp cao sẽ mở phiên xét xử phúc thẩm để xét xử hoặc xem xét lại quyết định, bản án cấp sơ thẩm theo quy định tại khoản 1 Điều 27 Bộ Luật Tố tụng Hình sự 2015 Do đó, việc tổ chức phiên tòa phúc thẩm các bị cáo trong vụ án của bà Nguyễn Phương Hằng là hoàn toàn đúng thủ tục tố tụng. (2) Bị cáo không kháng cáo có được giảm nhẹ hình phạt? Theo Điều 357 Bộ Luật Tố tụng Hình sự 2015 có quy định về việc sửa bản án sơ thẩm như sau: Khi có căn cứ xác định bản án sơ thẩm đã tuyên không đúng với tính chất, mức độ, hậu quả của hành vi phạm tội, nhân thân bị cáo hoặc có tình tiết mới thì Hội đồng xét xử phúc thẩm có quyền sửa bản án sơ thẩm như sau: - Miễn trách nhiệm hình sự hoặc miễn hình phạt cho bị cáo; không áp dụng hình phạt bổ sung; không áp dụng biện pháp tư pháp; - Áp dụng điều, khoản của Bộ luật hình sự về tội nhẹ hơn; - Giảm hình phạt cho bị cáo; - Giảm mức bồi thường thiệt hại và sửa quyết định xử lý vật chứng; - Chuyển sang hình phạt khác thuộc loại nhẹ hơn; - Giữ nguyên hoặc giảm mức hình phạt tù và cho hưởng án treo. Trường hợp Viện kiểm sát kháng nghị hoặc bị hại kháng cáo yêu cầu thì Hội đồng xét xử phúc thẩm có thể: - Tăng hình phạt, áp dụng điều, khoản của Bộ luật hình sự về tội nặng hơn; áp dụng hình phạt bổ sung; áp dụng biện pháp tư pháp; - Tăng mức bồi thường thiệt hại; - Chuyển sang hình phạt khác thuộc loại nặng hơn; - Không cho bị cáo hưởng án treo. - Nếu có căn cứ thì Hội đồng xét xử vẫn có thể giảm hình phạt, áp dụng điều, khoản của Bộ luật hình sự về tội nhẹ hơn, chuyển sang hình phạt khác thuộc loại nhẹ hơn, giữ nguyên mức hình phạt tù và cho hưởng án treo, giảm mức bồi thường thiệt hại. - Trường hợp có căn cứ, Hội đồng xét xử phúc thẩm có thể sửa bản án sơ thẩm theo quy định tại khoản 1 Điều 357 Bộ Luật Tố tụng Hình sự 2015 cho những bị cáo không kháng cáo hoặc không bị kháng cáo, kháng nghị. Theo quy định trên, HĐXX phúc thẩm có quyền sửa bản án sơ thẩm khi xét thấy có điểm chưa đúng trong bản án, quyết định sơ thẩm hoặc khi vụ án có thêm tình tiết mới. Trong đó, HĐXX có quyền sửa bản án sơ thẩm theo hướng giảm hình phạt cho bị cáo hoặc tăng nặng tùy theo các tình tiết mới mà các bên cung cấp. Tại khoản 3 Điều 357 Bộ Luật Tố tụng Hình sự 2015 cũng có nhắc đến trường hợp bị cáo không kháng cáo hoặc không bị kháng cáo nhưng HĐXX có căn cứ về tình tiết giảm nhẹ hay tăng nặng thì có quyền sửa bản án sơ thẩm theo khoản 1 Điều 357 Bộ Luật Tố tụng Hình sự 2015. Do đó, tuy bà Hằng không làm kháng cáo và cũng không bị kháng cáo, nhưng HĐXX xét thấy bị cáo đã nộp đầy đủ án phí, khắc phục thiệt hại là tình tiết giảm nhẹ hình phạt mới. Có lẽ với tình tiết giảm nhẹ đó và sự thành khẩn, ăn năn của bà Hằng, HĐXX đã có đủ căn cứ để sửa lại bản án sơ thẩm của bà Nguyễn Phương Hằng theo quy định tại Điều 357 Bộ Luật Tố tụng Hình sự 2015. (3) Sau khi được giảm án, bà Phương Hằng còn phải chấp hành phạt tù đến khi nào? Bà Phương Hằng bị bắt tạm giam vào ngày 24/3/2022. Tính từ ngày bị bắt tạm giam đến nay (5/4), bà Hằng đã chấp hành án được 2 năm 11 ngày. Như vậy, bà Hằng còn phải chấp hành bản án trên đến ngày 24/12/2024, tức còn 8 tháng 19 ngày là hết thời gian phạt tù.
Vụ khách hàng mất 11,9 tỷ: Tại sao Tòa tuyên Vietcombank bồi thường 700 triệu?
Gần đây một khách hàng mất 11,9 tỷ đã kiện Vietcombank ra Tòa mong lấy lại số tiền đã mất, nhưng số tiền được tòa tuyên bồi thường là 700 triệu đồng. Sau đây hãy cùng tìm hiểu lý do Tòa đưa ra mức bồi thường này. (1) Tại sao Tòa tuyên Vietcombank bồi thường 700 triệu? Cụ thể, ngày 20/03/2024, Hội đồng xét xử Tòa án nhân dân TP Từ Sơn (Bắc Ninh) đã tuyên chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của bà Trần Thị Chúc (khách hàng mất tiền) đối với Ngân hàng TMCP Ngoại thương Việt Nam - Vietcombank. Hội đồng xét xử buộc Vietcombank phải bồi thường thiệt hại cho bà Trần Thị Chúc vối số tiền là 700 triệu đồng, là một phần thiệt hại trong tài khoản mà bà Trần Thị Chúc mở tại ngân hàng này. Theo Hội đồng xét xử, qua đánh giá cho thấy trụ sở chi nhánh Kinh Bắc cũng như trên trang điện tử của ngân hàng Vietcombank có thực hiện niêm yết công khai tài liệu về điều khoản và điều kiện liên quan đến mở và sử dụng tài khoản. Tuy nhiên, hình thức niêm yết của chi nhánh không được thể hiện thuận lợi cho khách hàng trong việc tiếp cận tài liệu. Đồng thời, trong quá trình ký kết hợp đồng mở tài khoản, nhân viên ngân hàng đã không hướng dẫn khách hàng tiếp cận các văn bản liên quan trước mà chỉ giải thích những nội dung cơ bản. Theo đó, đã vi phạm quy định về điều kiện giao dịch chung trong giao kết hợp đồng được quy định tại Điều 406 Bộ Luật Dân sự 2015: “Điều kiện giao dịch chung là những điều khoản ổn định do một bên công bố để áp dụng chung cho bên được đề nghị giao kết hợp đồng; nếu bên được đề nghị chấp nhận giao kết hợp đồng thì coi như chấp nhận các điều khoản này. Điều kiện giao dịch chung chỉ có hiệu lực với bên xác lập giao dịch trong trường hợp điều kiện giao dịch này đã được công khai để bên xác lập giao dịch biết hoặc phải biết về điều kiện đó.” Vi phạm nêu trên là nguyên nhân gián tiếp dẫn đến việc bà Chúc bị mất 11,9 tỷ đồng trong tài khoản. Theo Hội đồng xét xử, nguyên nhân chính gây mất số tiền nêu trên xuất phát từ phía bà Chúc do không tự nhận thức được hành vi của mình là tiết lộ yếu tố định dạng, định danh hoặc yếu tố bảo mật để kẻ gian lợi dụng chiếm đoạt 11,9 tỷ đồng trong tài khoản. Còn về phía ngân hàng, Vietcombank chi nhánh Kinh Bắc có một phần lỗi là đã không giải thích kỹ các quy định của ngân hàng, cũng không cảnh báo trước thủ đoạn mới của kẻ gian. Theo bản án tại phiên tòa ngày 18/03/2024, Vietcombank cũng đã xác nhận chưa áp dụng đầy đủ các biện pháp xử lý khẩn cấp quy định tại văn bản 1867 ngày 16/10/2019 của Tổng giám đốc Vietcombank về xử lý sự cố gian lận/có dấu hiệu gian lận trong việc sử dụng dịch vụ ngân hàng điện tử của khách hàng cá nhân. (2) Khách hàng kháng cáo toàn bộ bản án Vì khoản tiền 700 triệu đồng được nhận bồi thường theo bản án đã tuyên là quá ít so với tổng số tiền 11,9 tỷ đồng bị mất trong tài khoản được mở tại chi nhánh Kinh Bắc. Chính vì thế, bà Chúc đã thực hiện kháng cáo toàn bộ bản án đã tuyên của tòa án cấp sơ thẩm. (Hình chụp Đơn kháng cáo - Nguồn: Báo Tuổi trẻ) Theo bà Chúc, số tiền đã bị rút bất hợp pháp do nhiều lỗi của Vietcombank gây ra và bản án sơ thẩm chưa đánh giá đầy đủ các lỗi của Vietcombank, cũng chưa xem xét và chưa chấp thuận giải quyết các quan điểm chính đáng, có căn cứ pháp luật của luật sư bảo vệ quyền lợi cho bà. Đồng thời, sau khi vụ việc xảy ra, nhân viên lẫn cán bộ quản lý của Chi nhánh Kinh Bắc đã không tư vấn, hướng dẫn cho bà thực hiện trợ giúp khẩn cấp. Và không có hành động kịp thời để bảo vệ cho khách hàng gặp rủi ro cũng như hạn chế, ngăn ngừa kẻ gian tẩu tán số tiền đã rút trong tài khoản của khách hàng mà chỉ hướng dẫn bà đi trình báo cơ quan công an. Về phía Vietcombank, đại diện Ngân hàng cho biết, máy chủ đã xác định các giao dịch nêu trên đều được thực hiện trên số tài khoản, mật khẩu và mã OTP đã cung cấp cho khách hàng. Trong các quy định của Vietcombank cũng như điều khoản liên quan đến hợp đồng mở tài khoản đều có nêu rõ trường hợp liên quan đến lỗi do khách hàng làm lộ thông tin mật khẩu tài khoản thì khách hàng phải hoàn toàn chịu trách nhiệm. Theo Tuổi trẻ
Thủ tục kháng cáo bản án dân sự và mẫu đơn kháng cáo mới nhất năm 2023
Kháng cáo là quyền của đương sự trong giai đoạn tố tụng dân sự nếu không đồng tình đối với các quyết định, bản án của Tòa án. Khi đó, đương sự thực hiện thủ tục kháng cáo để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Vậy thủ tục kháng cáo và mẫu đơn kháng cáo mới nhất được quy định ra sao? 1. Những ai có quyền kháng cáo bản án trong tố tụng dân sự? Căn cứ Điều 271 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015 quy định những người có quyền kháng cáo bao gồm những người sau đây: - Đương sự, người đại diện hợp pháp của đương sự. - Cơ quan, tổ chức, cá nhân khởi kiện có quyền kháng cáo. Đối với bản án sơ thẩm, quyết định tạm đình chỉ giải quyết vụ án dân sự, quyết định đình chỉ giải quyết vụ án dân sự của Tòa án cấp sơ thẩm để yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm giải quyết lại theo thủ tục phúc thẩm. 2. Thời hạn làm thủ tục kháng cáo là bao lâu? Đương sự có quyền kháng cáo căn cứ Điều 273 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015 quy định thời hạn kháng cáo để thực hiện kháng cáo theo thời hạn mà luật định. - Thời hạn kháng cáo đối với bản án của Tòa án cấp sơ thẩm là 15 ngày, kể từ ngày tuyên án. Lưu ý: Nếu đương sự, đại diện cơ quan, tổ chức hoặc cá nhân khởi kiện không có mặt tại phiên tòa hoặc không có mặt khi tuyên án thì xét thời hạn kháng cáo như sau: + Có lý do chính đáng thì thời hạn kháng cáo được tính từ ngày họ nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết. + Không có lý do chính đáng thì thời hạn kháng cáo được tính từ ngày tuyên án. - Thời hạn kháng cáo đối với quyết định tạm đình chỉ, đình chỉ giải quyết vụ án của Tòa án cấp sơ thẩm là 07 ngày, kể từ ngày đương sự, cơ quan, tổ chức, cá nhân khởi kiện nhận được quyết định hoặc kể từ ngày quyết định được niêm yết. - Trường hợp đơn kháng cáo được gửi qua dịch vụ bưu chính thì ngày kháng cáo được xác định căn cứ vào ngày tổ chức dịch vụ bưu chính nơi gửi đóng dấu ở phong bì. Trường hợp người kháng cáo đang bị tạm giam thì ngày kháng cáo là ngày đơn kháng cáo được giám thị trại giam xác nhận. Do đó, trong điều kiện thông thường mà đương sự có mặt tại phiên Tòa ngày ra quyết định, bản án thì căn cứ từ thời điểm đó đương sự có quyền kháng cáo trong 15 ngày. 3. Mẫu đơn kháng cáo và nội dung trong đơn kháng cáo Theo khoản 1 Điều 272 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015 khi thực hiện quyền kháng cáo, người kháng cáo phải làm đơn kháng cáo. tải Mẫu số 54-DS - Nghị quyết 01/2017/NQ-HĐTP Đơn kháng cáo phải có các nội dung chính sau đây: - Ngày, tháng, năm làm đơn kháng cáo; - Tên, địa chỉ; số điện thoại, fax, địa chỉ thư điện tử (nếu có) của người kháng cáo; - Kháng cáo toàn bộ hoặc phần của bản án, quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật; - Lý do của việc kháng cáo và yêu cầu của người kháng cáo; - Chữ ký hoặc điểm chỉ của người kháng cáo. Mẫu đơn kháng cáo cơ bản gồm những nội dung trên. 4. Những lưu ý khi nộp đơn kháng cáo trong tố tụng dân sự - Người kháng cáo là cá nhân có đầy đủ năng lực hành vi tố tụng dân sự có thể tự mình làm đơn kháng cáo. Tại mục tên, địa chỉ của người kháng cáo trong đơn phải ghi họ, tên, địa chỉ; số điện thoại, fax, địa chỉ thư điện tử (nếu có) của người kháng cáo. Ở phần cuối đơn kháng cáo, người kháng cáo phải ký tên hoặc điểm chỉ. - Người kháng cáo nếu không tự mình kháng cáo thì có thể ủy quyền cho người khác đại diện cho mình kháng cáo. Tại mục tên, địa chỉ của người kháng cáo trong đơn phải ghi họ, tên, địa chỉ của người đại diện theo ủy quyền của người kháng cáo, của người kháng cáo ủy quyền kháng cáo; số điện thoại, fax, địa chỉ thư điện tử (nếu có) của người kháng cáo ủy quyền kháng cáo và văn bản ủy quyền. Ở phần cuối đơn kháng cáo, người đại diện theo ủy quyền phải ký tên hoặc điểm chỉ. - Đơn kháng cáo phải được gửi cho Tòa án cấp sơ thẩm đã ra bản án, quyết định sơ thẩm bị kháng cáo. Trường hợp đơn kháng cáo được gửi cho Tòa án cấp phúc thẩm thì Tòa án đó phải chuyển cho Tòa án cấp sơ thẩm để tiến hành các thủ tục cần thiết theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự 2015. - Kèm theo đơn kháng cáo, người kháng cáo phải gửi tài liệu, chứng cứ bổ sung (nếu có) để chứng minh cho kháng cáo của mình là có căn cứ và hợp pháp.
Quyết định công nhận kết quả hòa giải thành không bị kháng cáo, kháng nghị
Việc tiến hành hòa giải được thực hiện trước khi Tòa án thụ lý vụ án về tranh chấp dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh; việc yêu cầu công nhận thuận tình ly hôn; vụ án hành chính thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự, Luật Tố tụng hành chính. Đó là nội dung liên quan đến phạm vi điều chỉnh trong một số lĩnh vực tại Luật Hòa giải, đối thoại tại Tòa án 2020, cụ thể tại Điều 35 như sau: Hiệu lực của quyết định công nhận kết quả hòa giải thành, đối thoại thành tại Tòa án - Quyết định công nhận kết quả hòa giải thành, đối thoại thành có hiệu lực pháp luật và không bị kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự, Luật Tố tụng hành chính. - Quyết định công nhận kết quả hòa giải thành được thi hành theo quy định của pháp luật về thi hành án dân sự. - Quyết định công nhận kết quả đối thoại thành được thi hành theo quy định của pháp luật về tố tụng hành chính. Điều kiện công nhận kết quả hòa giải thành, đối thoại thành tại Tòa án Theo quy định tại Điều 33 Luật Hòa giải, đối thoại tại Tòa án 2020 quy định về điều kiện công nhận kết quả hòa giải thành, đối thoại thành tại Tòa án như sau: Điều kiện công nhận kết quả hòa giải thành, đối thoại thành tại Tòa án Kết quả hòa giải thành, đối thoại thành được công nhận khi có đủ các điều kiện sau đây: - Các bên có năng lực hành vi dân sự đầy đủ; - Các bên là người có quyền, nghĩa vụ đối với nội dung thỏa thuận, thống nhất; - Nội dung thỏa thuận, thống nhất của các bên là hoàn toàn tự nguyện, không vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo đức xã hội, không nhằm trốn tránh nghĩa vụ với Nhà nước hoặc cơ quan, tổ chức, cá nhân khác; - Trường hợp các bên thuận tình ly hôn thì thỏa thuận của các bên phải có đầy đủ nội dung về việc ly hôn, việc chia tài sản, việc trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục con chưa thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự hoặc không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình trên cơ sở bảo đảm quyền lợi chính đáng của vợ, chồng, con theo quy định của Luật Hôn nhân và gia đình; - Trường hợp nội dung thỏa thuận hòa giải, thống nhất đối thoại của các bên liên quan đến quyền, nghĩa vụ của người khác nhưng người đó không có mặt tại phiên hòa giải, đối thoại thì thỏa thuận, thống nhất chỉ được công nhận khi có ý kiến đồng ý bằng văn bản của họ; - Trường hợp các bên thỏa thuận, thống nhất được một phần tranh chấp dân sự, một phần khiếu kiện hành chính thì chỉ được công nhận khi nội dung thỏa thuận, thống nhất không liên quan đến các phần khác của tranh chấp, khiếu kiện đó. Nội dung của Biên bản ghi nhận kết quả hòa giải, đối thoại tại Tòa án Căn cứ Điều 31 Luật Hòa giải, đối thoại tại Tòa án 2020 quy định về Biên bản ghi nhận kết quả hòa giải, đối thoại tại Tòa án như sau: Biên bản ghi nhận kết quả hòa giải, biên bản ghi nhận kết quả đối thoại phải có các nội dung sau đây: - Ngày, tháng, năm, địa điểm tiến hành phiên họp ghi nhận kết quả hòa giải, đối thoại; - Thành phần tham gia phiên họp ghi nhận kết quả hòa giải, đối thoại; - Diễn biến quá trình hòa giải, đối thoại; kết quả hòa giải thành, đối thoại thành. - Trường hợp các bên thuận tình ly hôn thì thỏa thuận của các bên phải có đầy đủ nội dung về việc ly hôn, việc chia tài sản, việc trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục con chưa thành niên, còn đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự hoặc không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình trên cơ sở bảo đảm quyền lợi chính đáng của vợ, chồng, con theo quy định của Luật Hôn nhân và gia đình; - Trường hợp nội dung thỏa thuận hòa giải, thống nhất đối thoại của các bên liên quan đến quyền, nghĩa vụ của người khác nhưng người đó không có mặt tại phiên hòa giải, đối thoại thì phải ghi rõ trong biên bản; - Ý kiến của các bên về việc yêu cầu hoặc không yêu cầu Tòa án ra quyết định công nhận kết quả hòa giải thành, đối thoại thành; - Chữ ký hoặc điểm chỉ của các bên, người đại diện, người phiên dịch; - Chữ ký của Hòa giải viên; - Chữ ký xác nhận của Thẩm phán tham gia phiên họp. Do đó, đối với Quyết định công nhận kết quả hòa giải thành, đối thoại thành có hiệu lực pháp luật và không bị kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm. Tuy nhiên, vẫn có thể bị xem xét lại khi có căn cứ cho rằng nội dung thỏa thuận, thống nhất của các bên vi phạm một trong các điều kiện quy định tại điều 33 của Luật Hòa giải, đối thoại tại Tòa án 2020. Thời hạn đề nghị xem xét lại là 15 ngày kể từ ngày nhận được hoặc biết được quyết định công nhận của tòa án.
Thủ tục kháng cáo trong tố tụng hình sự
Kháng cáo là một thủ tục trong tố tụng hình sự, khi đã có bản án, quyết định của Tòa án sơ thẩm nhưng chưa có hiệu lực pháp luật thì những người có quyền kháng cáo bản án, quyết định nếu không đồng ý phán quyết của Tòa án sơ thẩm thì có thể yêu cầu tòa cấp trên xét xử một lần nữa theo trình tự phúc thẩm. I. Người có quyền kháng cáo bản án, quyết định hình sự Theo quy định Điều 331 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 thì người có quyền kháng cáo là: - Bị cáo, bị hại, người đại diện của họ có quyền kháng cáo bản án hoặc quyết định sơ thẩm. - Người bào chữa có quyền kháng cáo để bảo vệ lợi ích của người dưới 18 tuổi, người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất mà mình bào chữa. - Nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người đại diện của họ có quyền kháng cáo phần bản án hoặc quyết định có liên quan đến việc bồi thường thiệt hại. - Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án, người đại diện của họ có quyền kháng cáo phần bản án hoặc quyết định có liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của họ. - Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại, đương sự là người dưới 18 tuổi hoặc người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất có quyền kháng cáo phần bản án hoặc quyết định có liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của người mà mình bảo vệ. - Người được Tòa án tuyên không có tội có quyền kháng cáo về các căn cứ mà bản án sơ thẩm đã xác định là họ không có tội. Như vậy, những đối tượng được quy định trên sẽ có quyền kháng cáo bản án, quyết định hình sự sơ thẩm của Tòa án. II. Thủ tục kháng cáo bản án, quyết định hình sự 1. Hồ sơ kháng cáo bản án, quyết định hình sự. - Đơn kháng cáo phải có các nội dung chính sau đây: + Ngày, tháng, năm làm đơn kháng cáo; + Họ tên, địa chỉ của người kháng cáo; + Lý do và yêu cầu của người kháng cáo; + Chữ ký hoặc điểm chỉ của người kháng cáo. Ngoài ra, cần kèm theo đơn kháng cáo hoặc cùng với việc trình bày trực tiếp là chứng cứ, tài liệu, đồ vật bổ sung (nếu có) để chứng minh tính có căn cứ của kháng cáo. Cơ sở pháp lý: Khoản 2, 3 Điều 332 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015. 2. Trình tự thực hiện thủ tục kháng cáo bản án, quyết định hình sự. Bước 1: Chuẩn bị hồ sơ kháng cáo và nộp đơn kháng cáo hoặc kháng cáo trực tiếp - Người kháng cáo phải gửi đơn kháng cáo đến Tòa án đã xét xử sơ thẩm hoặc Tòa án cấp phúc thẩm. Trong trường hợp bị cáo đang bị tạm giam thì Giám thị Trại tạm giam, Trưởng Nhà tạm giữ phải bảo đảm cho bị cáo thực hiện quyền kháng cáo, nhận đơn kháng cáo và chuyển cho Tòa án cấp sơ thẩm đã ra bản án, quyết định bị kháng cáo. - Ngoài ra, người kháng cáo có thể trình bày trực tiếp với Tòa án đã xét xử sơ thẩm hoặc Tòa án cấp phúc thẩm về việc kháng cáo. Tòa án phải lập biên bản về việc kháng cáo. Nếu Tòa án cấp phúc thẩm đã lập biên bản về việc kháng cáo hoặc nhận được đơn kháng cáo thì phải gửi biên bản hoặc đơn kháng cáo cho Tòa án cấp sơ thẩm để thực hiện theo quy định chung. Cơ sở pháp lý: khoản 1 Điều 332 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015. Bước 2: Tiếp nhận và xử lý kháng cáo - Sau khi nhận được đơn kháng cáo hoặc biên bản về việc kháng cáo, Tòa án cấp sơ thẩm phải vào sổ tiếp nhận và kiểm tra tính hợp lệ của đơn kháng cáo theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự 2015. - Trường hợp đơn kháng cáo hợp lệ thì Tòa án cấp sơ thẩm thông báo về việc kháng cáo theo quy định tại Điều 338 của Bộ luật này. - Trường hợp đơn kháng cáo hợp lệ nhưng nội dung kháng cáo chưa rõ thì Tòa án cấp sơ thẩm phải thông báo ngay cho người kháng cáo để làm rõ. - Trường hợp nội dung đơn kháng cáo đúng quy định của Bộ luật này nhưng quá thời hạn kháng cáo thì Tòa án cấp sơ thẩm yêu cầu người kháng cáo trình bày lý do và xuất trình chứng cứ, tài liệu, đồ vật (nếu có) để chứng minh lý do nộp đơn kháng cáo quá hạn là chính đáng. - Trường hợp người làm đơn kháng cáo không có quyền kháng cáo thì trong thời hạn 03 ngày kể từ ngày nhận đơn, Tòa án trả lại đơn và thông báo bằng văn bản cho người làm đơn, Viện kiểm sát cùng cấp. Văn bản thông báo phải ghi rõ lý do của việc trả lại đơn. Việc trả lại đơn có thể bị khiếu nại trong thời hạn 07 ngày kể từ ngày nhận được thông báo. Cơ sở pháp lý: Điều 334 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015. Bước 3: Thụ lý vụ án và tiến hành xét xử theo thủ tục phúc thẩm - Ngay sau khi nhận được hồ sơ vụ án có kháng cáo và chứng cứ, tài liệu, đồ vật kèm theo (nếu có), Tòa án cấp phúc thẩm phải vào sổ thụ lý. - Tòa án ra thông báo thụ lý vụ án và tiến hành các bước chuẩn bị xét xử và xét xử theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự 2015. Cơ sở pháp lý: Điều 340 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015.
Phải làm gì khi hết thời hạn kháng cáo?
Sau khi bản án sơ thẩm, quyết định đình chỉ,.. của Tóa án sơ thẩm có hiệu lực pháp luật, thì pháp luật cho phép đương sự có quyền kháng cáo bản án quyết định đó trong thời hạn luật định. Nếu hết thời hạn này, thì việc kháng cáo có được chấp và quy trình thế nào? Thời hạn kháng cáo Điều 245 Bộ Luật Tố tụng dân sự 2015 quy định thời hạn kháng cáo - Thời hạn kháng cáo đối với bản án của Toà án cấp sơ thẩm là mười lăm ngày, kể từ ngày tuyên án; đối với đương sự không có mặt tại phiên toà thì thời hạn kháng cáo tính từ ngày bản án được giao cho họ hoặc được niêm yết. - Thời hạn kháng cáo đối với quyết định tạm đình chỉ, đình chỉ giải quyết vụ án của Toà án cấp sơ thẩm là bảy ngày, kể từ ngày người có quyền kháng cáo nhận được quyết định. - Trong trường hợp đơn kháng cáo gửi qua bưu điện thì ngày kháng cáo được tính căn cứ vào ngày bưu điện nơi gửi đóng dấu ở phong bì. Phải làm gì khi hết thời hạn kháng cáo? Theo Điều 247 Bộ Luật Tố tụng dân sự 2015 quy định về kháng quá quá hạn: Kháng cáo quá thời hạn quy định tại Điều 245 của Bộ luật này là kháng cáo quá hạn. Sau khi nhận được đơn kháng cáo quá hạn, Toà án cấp sơ thẩm phải gửi đơn kháng cáo, bản tường trình của người kháng cáo về lý do kháng cáo quá hạn và tài liệu, chứng cứ, nếu có cho Toà án cấp phúc thẩm. Theo đó, trong trường hợp hết hạn kháng cáo theo quy định về thời hạn kháng cáo nếu đương sự vẫn có nhu cầu kháng cáo thì đương sự hoặc người được ủy quyền của đương sự làm đơn kháng cáo quá hạn, bản tường trình nêu lý do về việc kháng cáo cáo hạn gửi tới Tòa án cùng tài liệu chứng cứ nếu có. Theo Điều 6 Nghị quyết 06/2012/NQ-HĐTP quy định lý do chính đáng trong trường hợp kháng cáo quá hạn. “Lý do chính đáng” là trường hợp bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan khác (như: do thiên tai, lũ lụt; do ốm đau, tai nạn phải điều trị tại bệnh viện,...) làm cho người kháng cáo không thể thực hiện được việc kháng cáo trong thời hạn luật định. Quy trình giải quyết đơn kháng cáo quá hạn - Trong thời hạn mười ngày kể từ ngày nhận được đơn kháng cáo quá hạn và tài liệu, chứng cứ kèm theo, Toà án cấp phúc thẩm thành lập Hội đồng gồm ba Thẩm phán để xem xét kháng cáo quá hạn. - Hội đồng có quyền ra quyết định chấp nhận hoặc không chấp nhận việc kháng cáo quá hạn và phải ghi rõ lý do của việc chấp nhận hoặc không chấp nhận trong quyết định. - Toà án cấp phúc thẩm phải gửi quyết định cho người kháng cáo quá hạn và Toà án cấp sơ thẩm; nếu Toà án cấp phúc thẩm chấp nhận việc kháng cáo quá hạn thì Toà án cấp sơ thẩm phải tiến hành các thủ tục do Bộ luật này quy định và gửi hồ sơ vụ án cho Toà án cấp phúc thẩm.
Có được thay đổi yêu cầu ban đầu tại phiên tòa phúc thẩm dân sự?
Phiên tòa phúc thẩm - Hình minh họa Trong quá trình giải quyết tranh chấp phát sinh trong đời sống xã hội thì có nhiều nguyên nhân khác nhau dẫn đến việc thay đổi mong muốn của người đã yêu cầu. Nếu trong trường hợp yêu cầu này phát sinh sau khi kết thúc phúc tòa sơ thẩm, thì có được quyền thay đổi yêu cầu ban đầu tại phiên tòa phúc thẩm không? Thay đổi yêu cầu ban đầu được hiểu như thế nào? Có thể hiểu thay đổi yêu cầu ban đầu là việc sửa đổi yêu cầu mà đương sự đã đưa ra ban đầu. Phiên tòa phúc thẩm có được thay đổi yêu cầu ban đầu không? Quy định pháp luật về tố tụng không quy định quyền yêu cầu thay đổi yêu cầu ban đầu của đương sự ở phiên tòa phúc thẩm. Mà chỉ quy định về quyền thay đổi yêu cầu ban đầu tại phiên tòa sơ thẩm và quyền kháng cáo tại phiên tòa phúc thẩm. Cụ thể theo điều 284 Bộ Luật tố tụng dân sự 2015 quy định về việc kháng cáo của đương sự: “Điều 284. Thay đổi, bổ sung, rút kháng cáo, kháng nghị 1. Trường hợp chưa hết thời hạn kháng cáo theo quy định tại Điều 273 của Bộ luật này thì người đã kháng cáo có quyền thay đổi, bổ sung kháng cáo mà không bị giới hạn bởi phạm vi kháng cáo ban đầu. Trường hợp chưa hết thời hạn kháng nghị theo quy định tại Điều 280 của Bộ luật này thì Viện kiểm sát đã kháng nghị có quyền thay đổi, bổ sung kháng nghị mà không bị giới hạn bởi phạm vi kháng nghị ban đầu. 2. Trước khi bắt đầu phiên tòa hoặc tại phiên tòa phúc thẩm, người kháng cáo có quyền thay đổi, bổ sung kháng cáo, Viện kiểm sát đã kháng nghị có quyền thay đổi, bổ sung kháng nghị, nhưng không được vượt quá phạm vi kháng cáo, kháng nghị ban đầu, nếu thời hạn kháng cáo, kháng nghị đã hết. 3. Trước khi bắt đầu phiên tòa hoặc tại phiên tòa phúc thẩm, người kháng cáo có quyền rút kháng cáo, Viện kiểm sát đã kháng nghị hoặc Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp có quyền rút kháng nghị. ….” Như vậy, đương sự không thể thay đổi yêu cầu ban đầu tại phiên tòa phúc thẩm. Trong trường hợp, bạn muốn thay đổi, bổ sung những yêu cầu khi đã kết thúc phiên tòa sơ thẩm thì bạn cần khởi kiện tại một vụ án khác đối với những yêu cầu đó. Tại phiên tòa phúc thẩm chỉ xem xét kháng cáo bản án quyết định tại phiên tòa sơ thẩm. Thời hạn kháng cáo - Thời hạn kháng cáo đối với bản án của Tòa án cấp sơ thẩm là 15 ngày, kể từ ngày tuyên án; đối với đương sự, đại diện cơ quan, tổ chức hoặc cá nhân khởi kiện không có mặt tại phiên tòa hoặc không có mặt khi tuyên án mà có lý do chính đáng thì thời hạn kháng cáo được tính từ ngày họ nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết. Đối với trường hợp đương sự, đại diện cơ quan, tổ chức hoặc cá nhân khởi kiện đã tham gia phiên tòa nhưng vắng mặt khi Tòa án tuyên án mà không có lý do chính đáng thì thời hạn kháng cáo được tính từ ngày tuyên án. - Thời hạn kháng cáo đối với quyết định tạm đình chỉ, đình chỉ giải quyết vụ án của Tòa án cấp sơ thẩm là 07 ngày, kể từ ngày đương sự, cơ quan, tổ chức, cá nhân khởi kiện nhận được quyết định hoặc kể từ ngày quyết định được niêm yết theo quy định của Bộ luật này. Căn cứ theo Điều 273 Bộ Luật tố tụng dân sự 2015
Bàn về ủy quyền kháng cáo theo quy định tại khoản 6 Điều 272 BLTTDS năm 2015
Ảnh minh họa: ủy quyền kháng cáo So với quy định về người có quyền kháng cáo trong BLTTDS năm 2004, quy định trong BLTTDS năm 2015 đã có sửa đổi, bổ sung theo hướng quy định cụ thể hơn về chủ thể, đối tượng kháng cáo. Cụ thể, Điều 271 BLTTDS năm 2015 quy định: “Đương sự, người đại diện hợp pháp của đương sự, cơ quan, tổ chức, cá nhân khởi kiện có quyền kháng cáo bản án sơ thẩm, quyết định tạm đình chỉ giải quyết vụ án dân sự, quyết định đình chỉ giải quyết vụ án dân sự của Tòa án sơ thẩm để yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm giải quyết lại theo thủ tục phúc thẩm”. Như vậy, chủ thể có quyền kháng cáo là đương sự, người đại diện hợp pháp của đương sự, cơ quan, tổ chức, cá nhân khởi kiện. Đối tượng của việc kháng cáo bao gồm: Bản án sơ thẩm, quyết định tạm đình chỉ, quyết định đình chỉ giải quyết vụ án của Tòa án cấp sơ thẩm. Thủ tục thực hiện quyền kháng cáo là làm đơn kháng cáo, đơn kháng cáo phải được gửi cho Tòa án cấp sơ thẩm đã ra bản án, quyết định sơ thẩm bị kháng cáo. Tuy nhiên, qua công tác kiểm sát giải quyết các vụ án dân sự của Viện KSND thành phố Hà Nội, tác giả nêu lên một vấn đề hiện còn nhiều sự tranh cãi về mặt pháp lý cũng như các cách hiểu và áp dụng không thống nhất giữa những người tiến hành tố tụng với nhau cũng như giữa những người tiến hành tố tụng với luật sư bảo vệ quyền và lợi ích cho đương sự về ủy quyền kháng cáo theo quy định tại khoản 6 Điều 272 BLTTDS năm 2015. Để tìm hiểu kỹ hơn về vấn đề này tác giả đưa ra một ví dụ cụ thể sau đây: Ngày 22/06/2012, Ngân hàng TM TNHH MTV Dầu Khí Toàn Cầu (gọi tắt là GPBank) và anh Bùi Đ, chị Nguyễn L ký kết Hợp đồng tín dụng. Theo đó, GPBank cho anh Đ và chị L vay số tiền 3.000.000.000 đồng với mục đích tiêu dùng, thời gian vay 12 tháng kể từ ngày 22/6/2012. Để đảm bảo cho khoản vay trên ông Bùi Lê H và bà Đặng Thị D đã tự nguyện ký Hợp đồng thế chấp tại thửa đất số 35, tờ bản đồ số 08 tại xã T, huyện TT, Hà Nội diện tích 133m2, do UBND huyện TT, thành phố Hà Nội cấp ngày 22/09/2003 đứng tên Ông Bùi Lê H. Do anh Đ và chị L vi phạm nghĩa vụ thanh toán nên năm 2014, GPBank bán nợ lại cho Công ty TNHH MTV quản lý tài sản của các tổ chức tín dụng Việt Nam (VAMC). Ngày 19/8/2019, VAMC yêu cầu anh Đ và chị L phải trả cho VAMC tổng số tiền 8.486.727.733 đồng Trong đó: Nợ gốc: 3.000.000.000 đồng ; Nợ lãi trong hạn: 3.389.399.945 đồng; Nợ lãi quá hạn: 2.097.327.788 đồng. Trường hợp anh Đ và chị L không thanh toán được toàn bộ nghĩa vụ nợ gốc và lãi thì VAMC yêu cầu cơ quan thi hành án có thẩm quyền kê biên phát mại tài sản thế chấp là toàn bộ diện tích đất 133m2 và ngôi nhà 3 tầng trên thửa đất số 35 tờ bản đồ số 08 tại thôn H, xã T, huyện TT để thanh toán hết toàn bộ nghĩa vụ trả nợ cho VAMC. Quá trình giải quyết vụ án Bị đơn anh Bùi Đ và chị Nguyễn L xác nhận về thời gian ký kết hợp đồng và khoản tiền vay cũng như toàn bộ số nợ mà VAMC đề nghị VAMC cho anh, chị giãn nợ trả dần. Người có QLNVLQ ông Bùi Lê H và bà Đặng Thị D đề nghị Tòa án giải quyết theo quy định của pháp luật. Đối với ngôi nhà 3 tầng trên thửa đất số 35 tờ bản đồ số 08 tại thôn H, xã T, huyện TT là do anh Đặng Việt D xây dựng thuộc quyền sở hữu của anh D. Đề nghị Tòa án giải quyết theo quy định của pháp luật Tại bản án sơ thẩm ngày 15/10/2019, Toà án nhân dân huyện TT, thành phố H đã xử: 1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của VAMC. Buộc anh Bùi Đ và chị Nguyễn L phải trả cho VAMC số tiền phát sinh theo Hợp đồng tín dụng. Tổng số tiền 8.486.727.733 đồng (Trong đó: Nợ gốc: 3.000.000.000 đồng; Nợ lãi trong hạn: 3.389.399.945 đồng; Nợ lãi quá hạn: 2.097.327.788 đồng) Anh Đ và chị L còn phải thanh toán các khoản lãi theo thỏa thuận trong hợp đồng tín dụng các bên có thỏa thuận về việc điều chỉnh lãi suất cho vay theo từng thời kỳ của ngân hàng cho vay thì lãi suất mà khách hàng vay phải tiếp tục thanh toán cho VAMC cho vay theo quyết định của Tòa án cũng sẽ được điều chỉnh cho phù hợp với sự điều chỉnh lãi suất của Ngân hàng cho vay. 2. Trường hợp anh Bùi Đ và chị Nguyễn L không trả được nợ thì VAMC có quyền yêu cầu cơ quan thi hành án dân sự phát mại tài sản là Quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền trên thửa đất tại thửa số 35, tờ bản đồ số 08 tại xã H, huyện TT, thành phố H diện tích 133m2 do uỷ ban nhân dân huyện TT, thành phố H cấp ngày 22/09/2003 đứng tên ông Bùi Lê H. Theo Hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất của bên thứ ba số công chứng số 666/2010 ngày 5/02/2010 được lập tại Phòng công chứng số 7 thành phố Hà Nội. 3. Không chấp nhận yêu cầu độc lập của người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan là anh Đặng Việt D do ông Vũ Đình T làm đại diện. Ngoài ra Tòa án còn tuyên về án phí quyền kháng cáo, quyền thi hành án của các đương sự. Sau khi xét xử sơ thẩm, do không đồng ý với nội dung bản án sơ thẩm nên trong thời hạn kháng cáo, ông Vũ Đình T đã thay mặt anh Đặng Việt D kháng cáo đối với bản án sơ thẩm và nộp đơn kháng cáo cho TAND huyện TT. Đề nghị Tòa án cấp phúc thẩm: Công nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở đối với ngôi nhà 3 tầng trên thửa đất số 35 tờ bản đồ số 08 tại xã H huyện TT thuộc quyền sử dụng và sở hữu của anh Đặng Việt D. Ngày 25/12/2019, TAND TP H thụ lý phúc thẩm. Sau khi nghiên cứu hồ sơ vụ án và Văn bản ủy quyền được ký tại Văn phòng công chứng TT với nội dung và phạm vi uỷ quyền như sau: “Ông Vũ Đình T được đại diện cho anh Đặng Việt D tham gia tố tụng tại TAND các cấp; được thay mặt anh D thực hiện các quyền và nghĩa vụ của đương sự theo pháp luật quy định; được quyết định mọi việc có liên quan trong quá trình tham gia tố tụng giải quyết vụ án; anh Đặng Việt D cam kết chấp hành đúng những gì đã được xác lập trong tờ uỷ quyền và không khiếu nại về sau; thời gian uỷ quyền: cho đến khi vụ án được giải quyết xong”. Với nội dung trong văn bản ủy quyền như trên có hai quan điểm khác nhau: Quan điểm thứ nhất cho rằng: Không chấp nhận đơn kháng cáo của ông Vũ Đình T với lý do: ông T không được quyền kháng cáo thay cho anh D bởi văn bản uỷ quyền không ghi rõ là ông T được uỷ quyền kháng cáo theo quy định tại khoản 6 Điều 272 BLTTDS năm 2015. Do đó đơn kháng cáo không hợp lệ. Quan điểm thứ hai cho rằng: Đơn kháng cáo của ông Vũ Đình T hợp lệ. Bởi lẽ, nội dung và phạm vi uỷ quyền của anh Đặng Việt D ghi cụ thể là ông T được đại diện cho anh tham gia tố tụng tại TAND các cấp; được thay mặt anh D thực hiện các quyền và nghĩa vụ của đương sự theo pháp luật quy định bao gồm cả quyền kháng cáo bản án của Toà án. Qua nghiên cứu các quy định Điều 134 và Điều 562 của BLDS năm 2015 và các quy định tại Điều 85 BLTTDS năm 2015 quy định về người đại diện. Tác giả hoàn toàn đồng ý với quan điểm thứ hai, bởi lẽ, “toàn quyền giải quyết vụ án tại Tòa án nhân dân các cấp” nội hàm của nó đã bao gồm cả quyền kháng cáo. Bên cạnh đó, Điều 271 BLTTDS năm 2015 về người có quyền kháng cáo cũng quy định: “Đương sự, người đại diện hợp pháp của đương sự, cơ quan, tổ chức, cá nhân khởi kiện có quyền kháng cáo bản án sơ thẩm, quyết định tạm đình chỉ giải quyết vụ án dân sự, quyết định đình chỉ giải quyết vụ án dân sự của Tòa án cấp sơ thẩm để yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm giải quyết lại theo thủ tục phúc thẩm” mà như đã nêu ở trên, đại diện hợp pháp bao gồm đại diện theo pháp luật và theo ủy quyền. Khoản 6 Điều 272 BLTTDS năm 2015 quy định: Việc ủy quyền quy định tại các khoản 3, 4 và 5 Điều này phải được làm thành văn bản có công chứng, chứng thực hợp pháp, trừ trường hợp văn bản ủy quyền đó được lập tại Tòa án có sự chứng kiến của Thẩm phán hoặc người được Chánh án Tòa án phân công. Trong văn bản ủy quyền phải có nội dung đương sự ủy quyền cho người đại diện theo ủy quyền kháng cáo bản án, quyết định tạm đình chỉ, đình chỉ giải quyết vụ án của Tòa án cấp sơ thẩm. Như vậy, quy định tại khoản 6 Điều 272 BLTTDS năm 2015 được áp dụng cho trường hợp chưa có ủy quyền hoặc có ủy quyền nhưng phạm vi ủy quyền không bao gồm quyền kháng cáo hoặc tại thời hạn ủy quyền đã hết. Để hiểu rõ hơn tác giả đưa ra cụ thể vụ việc như sau: Ngày 17/7/2019 ông Nguyễn Văn G ủy quyền cho anh Nguyễn Văn P. Giấy ủy quyền được lập tại UBND xã Hồng Dương. Nội dung ủy quyền như sau: “Nay tôi ủy quyền toàn bộ quyền, lợi nghĩa vụ của tôi cho anh Nguyễn Văn P trực tiếp thay mặt tôi đến Tòa án nhân dân huyện TO giải quyết vụ việc “Đòi tài sản” có liên quan đến việc thi hành án dân sự tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện TO, thành phố H để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp cho tôi theo quy định của pháp luật”. Như vậy, với Giấy ủy quyền trên thì phạm vi ủy quyền của anh P chỉ được thay mặt cho ông G đến Tòa án nhân dân huyện TO giải quyết liên quan đến vụ việc “Đòi tài sản” và việc thi hành án dân sự tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện TO, thành phố H”. Do đó, trong vụ án này thì đơn kháng cáo của anh P không hợp lệ nên không được xem xét giải quyết. Qua phân tích và dẫn chứng vụ việc cụ thể như trên tác giả cho rằng: Đối với trường hợp đương sự đã ủy quyền cho người khác đại diện cho mình toàn quyền giải quyết vụ án tại Tòa án các cấp thì văn bản ủy quyền không cần thiết phải chi rõ nội dung là ủy quyền kháng cáo. Để phù hợp với tình hình thực tế, tránh việc áp dụng không đúng quy định tại Điều 272 của BLTTDS năm 2015, thiết nghĩ 02 ngành Tòa án và Viện kiểm sát cần có văn bản hướng dẫn đầy đủ, cụ thể và rõ ràng hơn để bảo đảm thống nhất áp dụng pháp luật việc ủy quyền kháng cáo theo quy định tại khoản 6 Điều 272 BLTTDS năm 2015. Lê Thị Hồng Hạnh - Phòng 9 (vkshanoi.gov.vn) Theo VKSNDTC
Thủ tục kháng cáo vụ án hình sự?
Cho mình hỏi hiện nay có văn bản pháp luật nào hướng dẫn chi tiết về Thứ nhất; thủ tục kháng cáo vụ án hình sự Thứ hai kháng nghị vụ án hình sự Có văn bản nào hướng dany chi tiết về Hai thủ tục đó không vậy
Cách tính thời hạn kháng cáo vụ án dân sự
Điều 270 Bộ luật tố tụng dân sự 2015 (BLTTDS) quy định xét xử phúc thẩm là việc Tòa án cấp phúc thẩm trực tiếp xét xử lại vụ án mà bản án, quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật bị kháng cáo, kháng nghị. Theo đó, sau khi Tòa án sơ thẩm ban hành bản án thì các đương sự/người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan vẫn được quyền kháng cáo để tiếp tục xét xử theo thủ tục phúc thẩm. Điều 273 BLTTDS quy định về thời hạn kháng cáo như sau: Điều 273. Thời hạn kháng cáo 1. Thời hạn kháng cáo đối với bản án của Tòa án cấp sơ thẩm là 15 ngày, kể từ ngày tuyên án; đối với đương sự, đại diện cơ quan, tổ chức hoặc cá nhân khởi kiện không có mặt tại phiên tòa hoặc không có mặt khi tuyên án mà có lý do chính đáng thì thời hạn kháng cáo được tính từ ngày họ nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết. Đối với trường hợp đương sự, đại diện cơ quan, tổ chức hoặc cá nhân khởi kiện đã tham gia phiên tòa nhưng vắng mặt khi Tòa án tuyên án mà không có lý do chính đáng thì thời hạn kháng cáo được tính từ ngày tuyên án. 2. Thời hạn kháng cáo đối với quyết định tạm đình chỉ, đình chỉ giải quyết vụ án của Tòa án cấp sơ thẩm là 07 ngày, kể từ ngày đương sự, cơ quan, tổ chức, cá nhân khởi kiện nhận được quyết định hoặc kể từ ngày quyết định được niêm yết theo quy định của Bộ luật này. 3. Trường hợp đơn kháng cáo được gửi qua dịch vụ bưu chính thì ngày kháng cáo được xác định căn cứ vào ngày tổ chức dịch vụ bưu chính nơi gửi đóng dấu ở phong bì. Trường hợp người kháng cáo đang bị tạm giam thì ngày kháng cáo là ngày đơn kháng cáo được giám thị trại giam xác nhận. >>> Về cách tính thời hạn kháng cáo Thời điểm bắt đầu thời hạn kháng cáo Khoản 1 Điều 4 Nghị quyết 06/2012/NQ-HĐTP quy định về thời điểm bắt đầu thời hạn kháng cáo được tính như sau: “- Thời điểm bắt đầu tính thời hạn kháng cáo bản án sơ thẩm là ngày tiếp theo của ngày được xác định. - Ngày được xác định là ngày Toà án tuyên án đối với đương sự có mặt tại phiên toà sơ thẩm hoặc là ngày bản án sơ thẩm được giao hoặc được niêm yết đối với đương sự không có mặt tại phiên toà sơ thẩm.” Ví dụ về cách tính: Ngày 01/01/2020, Toà án xét xử sơ thẩm vụ án dân sự và cùng ngày 01/01/2020 Toà án tuyên án, thì ngày được xác định và thời điểm bắt đầu tính thời hạn kháng cáo như sau: + Đối với đương sự có mặt tại phiên toà sơ thẩm, thì ngày được xác định là ngày 01/01/2020 và thời điểm bắt đầu tính thời hạn kháng cáo 15 ngày là ngày 02/01/2020. + Đối với đương sự không có mặt tại phiên toà sơ thẩm và giả sử ngày 10/01/2020 Toà án cấp sơ thẩm mới giao bản án sơ thẩm cho đương sự, thì ngày được xác định là ngày 10/01/2020 và thời điểm bắt đầu tính thời hạn kháng cáo mười lăm ngày là ngày 11/01/2020. Nếu Toà án cấp sơ thẩm không thể giao trực tiếp bản án sơ thẩm cho đương sự mà phải niêm yết công khai và giả sử ngày niêm yết công khai tại trụ sở Uỷ ban nhân dân cấp xã nơi cư trú của đương sự là ngày 10/01/2020, thì ngày được xác định là ngày 10/01/2020 và thời điểm bắt đầu tính thời hạn kháng cáo mười lăm ngày là ngày 11/01/2020. Thời điểm kết thúc thời hạn kháng cáo Khoản 4 Điều 4 Nghị quyết 06/2012/NQ-HĐTP quy định về thời điểm kết thúc thời hạn kháng cáo được tính như sau: “- Thời điểm kết thúc thời hạn kháng cáo là thời điểm kết thúc ngày cuối cùng của thời hạn. - Nếu ngày cuối cùng của thời hạn là ngày nghỉ cuối tuần (thứ bảy, chủ nhật) hoặc ngày nghỉ lễ, thì thời hạn kháng cáo kết thúc vào lúc hai mươi tư giờ của ngày làm việc đầu tiên tiếp theo ngày nghỉ đó. - Trường hợp Tòa án phải tiến hành ủy thác tư pháp để tống đạt bản án, quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm cho đương sự đang cư trú ở nước ngoài thì thời điểm bắt đầu tính thời hạn kháng cáo là ngày nhận được ủy thác tư pháp, ngày nhận được ủy thác tư pháp được xác định theo quy định của pháp luật về ủy thác tư pháp.”
Trình tự, thủ tục kháng cáo bản án sơ thẩm
Bản án có hiệu lực pháp luật khi nào? Trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, người có quyền kháng cáo có thể thực hiện kháng cáo đối với bản án của Toà án cấp sơ thẩm để yêu cầu Toà án cấp trên trực tiếp giải quyết lại theo thủ tục phúc thẩm. Về thời hạn, người có quyền và trình tự thủ tục kháng cáo bản án sơ thẩm sẽ được nêu cụ thể trong nội dung bên dưới. I. Thời hạn và người có quyền kháng cáo Thời hạn kháng cáo Người có quyền kháng cáo Bản án dân sự sơ thẩm + 15 ngày, kể từ ngày tuyên án; Điều 273, Bộ luật Tố tụng Dân sự 2015 - Đương sự, người đại diện hợp pháp của đương sự, cơ quan, tổ chức, cá nhân khởi kiện có quyền kháng cáo bản án sơ thẩm, quyết định tạm đình chỉ giải quyết vụ án dân sự, quyết định đình chỉ giải quyết vụ án dân sự của Tòa án cấp sơ thẩm để yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm giải quyết lại theo thủ tục phúc thẩm. Điều 271, Bộ luật Tố tụng Dân sự 2015 Bản án hình sự sơ thẩm + 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Điều 333, Bộ luật Tố tụng Hình sự 2015 - Bị cáo, bị hại, người đại diện của họ - Người bào chữa có quyền kháng cáo để bảo vệ lợi ích của người dưới 18 tuổi, người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất mà mình bào chữa. - Nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người đại diện của họ có quyền kháng cáo phần bản án hoặc quyết định có liên quan đến việc bồi thường thiệt hại. - Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án, người đại diện của họ có quyền kháng cáo phần bản án hoặc quyết định có liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của họ. - Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại, đương sự là người dưới 18 tuổi hoặc người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất có quyền kháng cáo phần bản án hoặc quyết định có liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của người mà mình bảo vệ. - Người được Tòa án tuyên không có tội có quyền kháng cáo về các căn cứ mà bản án sơ thẩm đã xác định là họ không có tội. Điều 331, Bộ luật Tố tụng Hình sự 2015 Bản án hành chính sơ thẩm + 15 ngày kể từ ngày tuyên án; Điều 206, Luật Tố tụng hành chính 2015 Đương sự hoặc người đại diện hợp pháp của đương sự có quyền kháng cáo bản án của Tòa án cấp sơ thẩm để yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm giải quyết lại theo thủ tục phúc thẩm. Điều 204, Bộ luật Tố tụng Hành chính 2015 II. Trình tự thủ tục kháng cáo 1. Bản án dân sự sơ thẩm - Trình tự kháng cáo Đơn kháng cáo phải có các nội dung chính sau đây: + Ngày, tháng, năm làm đơn kháng cáo; + Tên, địa chỉ; số điện thoại, fax, địa chỉ thư điện tử (nếu có) của người kháng cáo; + Kháng cáo toàn bộ hoặc phần của bản án, quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật; + Lý do của việc kháng cáo và yêu cầu của người kháng cáo; + Chữ ký hoặc điểm chỉ của người kháng cáo. 2. Bản án hình sự sơ thẩm - Trình tự kháng cáo - Đơn kháng cáo có các nội dung chính: + Ngày, tháng, năm làm đơn kháng cáo; + Họ tên, địa chỉ của người kháng cáo; + Lý do và yêu cầu của người kháng cáo; + Chữ ký hoặc điểm chỉ của người kháng cáo. - Kèm theo đơn kháng cáo hoặc cùng với việc trình bày trực tiếp là chứng cứ, tài liệu, đồ vật bổ sung (nếu có) để chứng minh tính có căn cứ của kháng cáo 3. Bản án hành chính sơ thẩm - Trình tự kháng cáo Đơn kháng cáo phải có các nội dung chính sau đây: + Ngày, tháng, năm làm đơn kháng cáo; + Tên, địa chỉ; số điện thoại, fax, địa chỉ thư điện tử (nếu có) của người kháng cáo; + Kháng cáo toàn bộ hoặc một phần của bản án, quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật; + Lý do của việc kháng cáo và yêu cầu của người kháng cáo; + Chữ ký hoặc điểm chỉ của người kháng cáo.
Thời điểm bắt đầu tính thời hạn kháng cáo
Khoản 1 Điều 273 Bộ Luật tố tụng Dân sự 2015 có quy định: "Điều 273. Thời hạn kháng cáo 1. Thời hạn kháng cáo đối với bản án của Tòa án cấp sơ thẩm là 15 ngày, kể từ ngày tuyên án; đối với đương sự, đại diện cơ quan, tổ chức hoặc cá nhân khởi kiện không có mặt tại phiên tòa hoặc không có mặt khi tuyên án mà có lý do chính đáng thì thời hạn kháng cáo được tính từ ngày họ nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết. Đối với trường hợp đương sự, đại diện cơ quan, tổ chức hoặc cá nhân khởi kiện đã tham gia phiên tòa nhưng vắng mặt khi Tòa án tuyên án mà không có lý do chính đáng thì thời hạn kháng cáo được tính từ ngày tuyên án. 2. Thời hạn kháng cáo đối với quyết định tạm đình chỉ, đình chỉ giải quyết vụ án của Tòa án cấp sơ thẩm là 07 ngày, kể từ ngày đương sự, cơ quan, tổ chức, cá nhân khởi kiện nhận được quyết định hoặc kể từ ngày quyết định được niêm yết theo quy định của Bộ luật này. 3. Trường hợp đơn kháng cáo được gửi qua dịch vụ bưu chính thì ngày kháng cáo được xác định căn cứ vào ngày tổ chức dịch vụ bưu chính nơi gửi đóng dấu ở phong bì. Trường hợp người kháng cáo đang bị tạm giam thì ngày kháng cáo là ngày đơn kháng cáo được giám thị trại giam xác nhận". Như vậy, về nguyên tắc thời điểm bắt đầu tính thời hạn kháng cáo của bản án sơ thẩm là ngày Tòa án tuyên án đối với đương sự có mặt tại phiên tòa. Tuy nhiên, đối với trường hợp đương sự không có mặt khi tuyên án mà có lý do chính đáng thì thời hạn kháng cáo không được tính bắt đầu từ ngày tuyên án, mà bắt đầu tính từ ngày họ nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.
Luật sư có quyền kháng cáo trong vụ án hành chính hay không?
Quyền kháng cáo bản án, quyết định sơ thẩm vụ án hành chính: Luật sư - người bảo vệ quyền và lợi ích của bà A (đại diện theo ủy quyền của bà B - người khởi kiện, đồng thời bà A cũng là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan), Luật sư có được quyền kháng cáo không? Tòa án căn cứ vào khoản 6 Điều 61 và điểm a khoản 4 Điều 207, bác đơn kháng cáo của Luật sư có đúng không?
Bị cáo "XIN" hay "ĐỀ NGHỊ" tăng/giảm hình phạt?
Xin chào cả nhà, Bắt nguồn từ vụ việc được xem là chưa từng có tiền lệ trong lịch sử xét xử ngành Tòa án Việt Nam đó là "Bị cáo kháng cáo tăng hình phạt cho mình". Nhóm em có nổ ra một cuộc tranh luận đó là: Bị cáo "XIN" hay "ĐỀ NGHỊ" tăng/giảm hình phạt? Về lý thuyết, kháng cáo là quyền của bị cáo và được quy định tại Bộ luật tố tụng hình sự và theo em được biết thì không có văn bản nào hướng dẫn bị cáo viết kháng cáo như thế nào, viết ra sao. Nên ở đây có 2 luồng ý kiến: - Thứ 1: Phải là "ĐỀ NGHỊ" thì mới đúng bản chất pháp lý, Tòa án dựa trên tình tiết vụ án, áp dụng các quy định pháp luật để xét xử công bằng chứ không phải là xét theo cơ chế "XIN - CHO" - Thứ 2: Vì kháng cáo là quyền nên việc bị cáo tự cho rằng mình ở tâm thế phải đi xin và làm đơn kháng cáo XIN giảm hình phạt cũng không có gì sai. Về thực tế, em cũng có tham khảo 1 số anh/chị làm ở Tòa án, việc bị cáo kháng cáo tăng hình phạt thì chưa có tiền lệ, nhưng với trường hợp bị cáo kháng cáo giảm hình phạt, đơn kháng cáo được chấp nhận đều là "Đơn xin kháng cáo" hay "Đơn kháng cáo: có nội dung xin giảm nhẹ hình phạt. Mong cả nhà cho em xin ý kiến ạ!!
Quy định mới về thời hạn kháng cáo trong BLTTDS năm 2015
BLTTDS năm 2015 đã có nhiều quy định mới, tiến bộ, khắc phục được những bất cập, chưa hợp lý trong các quy định của BLTTDS năm 2004 (sửa đổi, bổ sung năm 2011). Tại Điều 245 BLTTDS năm 2014 (sửa đổi bổ sung năm 2011) chưa có quy định về việc xác định thời điểm bắt đầu thời hạn kháng cáo theo thủ tục phúc thẩm trong trường hợp đương sự có mặt tại phiên tòa. Mặt khác, một số trường trong quá trình diễn ra phiên tòa đương sự bỏ về khi Hội đồng xét xử chưa nghị án hoặc đương sự vắng mặt khi Hội đồng xét xử tuyên án mà không có lý do chính đáng, hoặc có lý do chính đáng nhưng lại không thể tham gia phiên tòa...Tuy nhiên, tại BLTTDS năm 2004 (sửa đổi, bổ sung năm 2011) lại chưa có quy định cụ thể, rõ ràng về thời hạn kháng cáo đối với những trường hợp nói trên. Để khắc phục những tồn tại trên, BLTTDS năm 2015 đã sửa đổi, bổ sung Điều 245 BLTTDS năm 2011 thành Điều 273 quy định về thời hạn kháng cáo. Theo đó: - Thời hạn kháng cáo đối với bản án của Tòa án cấp sơ thẩm là 15 ngày, kể từ ngày tuyên án; đối với đương sự, đại diện cơ quan, tổ chức hoặc cá nhân khởi kiện không có mặt tại phiên tòa hoặc không có mặt khi tuyên án mà có lý do chính đáng thì thời hạn kháng cáo được tính từ ngày họ nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết. Đối với trường hợp đương sự, đại diện cơ quan, tổ chức hoặc cá nhân khởi kiện đã tham gia phiên tòa nhưng vắng mặt khi Tòa án tuyên án mà không có lý do chính đáng thì thời hạn kháng cáo được tính từ ngày tuyên án. - Thời hạn kháng cáo đối với quyết định tạm đình chỉ, đình chỉ giải quyết vụ án của Tòa án cấp sơ thẩm là 07 ngày, kể từ ngày đương sự, cơ quan, tổ chức, cá nhân khởi kiện nhận được quyết định hoặc kể từ ngày quyết định được niêm yết theo quy định của Bộ luật này. - Trường hợp đơn kháng cáo được gửi qua dịch vụ bưu chính thì ngày kháng cáo được xác định căn cứ vào ngày tổ chức dịch vụ bưu chính nơi gửi đóng dấu ở phong bì. Trường hợp người kháng cáo đang bị tạm giam thì ngày kháng cáo là ngày đơn kháng cáo được giám thị trại giam xác nhận.
Người bị tuyên vô tội có thể kháng cáo, nhưng để làm gì ?
Khi nghiên cứu các quy định của Bộ luật tố tụng hình sự 2003 và kể của của Bộ luật tố tụng hình sự 2015, mình đều gặp một quy định làm mình rất khó hiểu. Cụ thể: Đoạn cuối cùng của Điều 231 BLTTHS 2003 quy định: Người được Toà án tuyên bố là không có tội có quyền kháng cáo phần lý do bản án sơ thẩm đã tuyên là họ không có tội. Khoản 6 điều 331 BLTTHS 2015 cũng quy định tương tự: Người được Tòa án tuyên không có tội có quyền kháng cáo về các căn cứ mà bản án sơ thẩm đã xác định là họ không có tội. Điều mình khó hiểu ở đây là "lý do cần phải có các quy định này". Người xưa vẫn thường nói: Vô phúc đáo tụng đình. Tức vướng đến chuyên tố tụng là chuyện không vui, vậy tại sao một người đã được toà án tuyên là không có tội lại kháng cáo. Mặc dù quy định chỉ nêu về việc kháng cáo "lý do" hay "căn cứ" mà từ đó Toà án quyết định người đó không có tội, nhưng vấn đề mình không hiểu vẫn như cũ: Tại sao phải cần quy định như vậy. Nghĩ đi nghĩ lại mình chỉ "dự đoán" được một lý do, có thể là căn cứ đó liên quan đến xác định việc bồi thường thiệt hại, đặc biệt là khi trách nhiệm bồi thường là của nhà nước. Nhưng không biết có đúng và đủ không, hy vọng mọi người ai biết có thể hướng dẫn cho mình. :(
Luật sư có được bào chữa cho người thân không?
Luật sư có người thân vướng vào vòng lao lý thì có được đứng ra làm người bào chữa cho người thân không? Luật sư có những quyền và nghĩa vụ gì khi là người bào chữa của bị cáo? Luật sư có được bào chữa cho người thân không? Theo Điều 72 Bộ luật tố tụng hình sự 2015 quy định về người bào chữa thì: Người bào chữa là người được người bị buộc tội nhờ bào chữa hoặc cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng chỉ định và được cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng tiếp nhận việc đăng ký bào chữa. - Người bào chữa có thể là: Luật sư; người đại diện của người bị buộc tội; bào chữa viên nhân dân; trợ giúp viên pháp lý trong trường hợp người bị buộc tội thuộc đối tượng được trợ giúp pháp lý. - Những người sau đây không được bào chữa: + Người đã tiến hành tố tụng vụ án đó; người thân thích của người đã hoặc đang tiến hành tố tụng vụ án đó; + Người tham gia vụ án đó với tư cách là người làm chứng, người giám định, người định giá tài sản, người phiên dịch, người dịch thuật; + Người đang bị truy cứu trách nhiệm hình sự, người bị kết án mà chưa được xoá án tích, người đang bị áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc, cơ sở giáo dục bắt buộc. + Một người bào chữa có thể bào chữa cho nhiều người bị buộc tội trong cùng vụ án nếu quyền và lợi ích của họ không đối lập nhau. Như vậy, luật sư hoàn toàn được bào chữa cho người thân nếu được họ nhờ bào chữa hoặc cơ quan có thẩm quyền chỉ định và được cơ quan, người có thẩm quyền tiếp nhận đăng ký bào chữa. Đồng thời cũng lưu ý là luật sư phải không thuộc những người không được bào chữa theo quy định trên. Luật sư của có được tiết lộ thông tin của người mình nhận bào chữa không? Theo khoản 2 Điều 73 Bộ luật tố tụng hình sự 2015 quy định về nghĩa vụ của người bào chữa như sau: - Sử dụng mọi biện pháp do pháp luật quy định để làm sáng tỏ những tình tiết xác định người bị buộc tội vô tội, những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị can, bị cáo; - Giúp người bị buộc tội về mặt pháp lý nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ; - Không được từ chối bào chữa cho người bị buộc tội mà mình đã đảm nhận bào chữa nếu không vì lý do bất khả kháng hoặc không phải do trở ngại khách quan; - Tôn trọng sự thật; không được mua chuộc, cưỡng ép hoặc xúi giục người khác khai báo gian dối, cung cấp tài liệu sai sự thật; - Có mặt theo giấy triệu tập của Tòa án; trường hợp chỉ định người bào chữa theo quy định thì phải có mặt theo yêu cầu của Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát; - Không được tiết lộ bí mật điều tra mà mình biết khi thực hiện bào chữa; không được sử dụng tài liệu đã ghi chép, sao chụp trong hồ sơ vụ án vào mục đích xâm phạm lợi ích của Nhà nước, lợi ích công cộng, quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân; - Không được tiết lộ thông tin về vụ án, về người bị buộc tội mà mình biết khi bào chữa, trừ trường hợp người này đồng ý bằng văn bản và không được sử dụng thông tin đó vào mục đích xâm phạm lợi ích của Nhà nước, lợi ích công cộng, quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân. Như vậy, luật sư chỉ được tiết lộ thông tin của người mình nhận bào chữa khi được họ đồng ý bằng văn bản và không được dùng thông tin này để xâm phạm lợi ích Nhà nước, lợi ích công cộng, quyền và lợi ích hợp pháp của bất kỳ cơ quan, tổ chức, cá nhân nào. Trường hợp nào luật sư có quyền kháng cáo bản án, quyết định của Toà? Theo khoản 1 Điều 73 Bộ luật tố tụng hình sự 2015 quy định người bào chữa có quyền: - Gặp, hỏi người bị buộc tội; - Có mặt khi lấy lời khai của người bị bắt, bị tạm giữ, khi hỏi cung bị can và nếu người có thẩm quyền tiến hành lấy lời khai, hỏi cung đồng ý thì được hỏi người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can. Sau mỗi lần lấy lời khai, hỏi cung của người có thẩm quyền kết thúc thì người bào chữa có thể hỏi người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can; - Có mặt trong hoạt động đối chất, nhận dạng, nhận biết giọng nói và hoạt động điều tra khác theo quy định; - Được cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng báo trước về thời gian, địa điểm lấy lời khai, hỏi cung và thời gian, địa điểm tiến hành hoạt động điều tra khác; - Xem biên bản về hoạt động tố tụng có sự tham gia của mình, quyết định tố tụng liên quan đến người mà mình bào chữa; - Đề nghị thay đổi người có thẩm quyền tiến hành tố tụng, người giám định, người định giá tài sản, người phiên dịch, người dịch thuật; đề nghị thay đổi, hủy bỏ biện pháp ngăn chặn, biện pháp cưỡng chế; - Đề nghị tiến hành hoạt động tố tụng theo quy định; đề nghị triệu tập người làm chứng, người tham gia tố tụng khác, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng; - Thu thập, đưa ra chứng cứ, tài liệu, đồ vật, yêu cầu; - Kiểm tra, đánh giá và trình bày ý kiến về chứng cứ, tài liệu, đồ vật liên quan và yêu cầu người có thẩm quyền tiến hành tố tụng kiểm tra, đánh giá; - Đề nghị cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng thu thập chứng cứ, giám định bổ sung, giám định lại, định giá lại tài sản; - Đọc, ghi chép và sao chụp những tài liệu trong hồ sơ vụ án liên quan đến việc bào chữa từ khi kết thúc điều tra; - Tham gia hỏi, tranh luận tại phiên tòa; - Khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng; - Kháng cáo bản án, quyết định của Tòa án nếu bị cáo là người dưới 18 tuổi, người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất theo quy định. Như vậy, luật sư chỉ có quyền kháng cáo bản án, quyết định của Toà trong trường hợp bị cáo dưới 18 tuổi hoặc có nhược điểm về tâm thần/thể chất.
Kháng cáo bản án dân sự sơ thẩm quá thời hạn quy định thì có được chấp nhận hay không?
Nếu quá thời hạn kháng cáo bản án dân sự sơ thẩm mới thực hiện kháng cáo thì có được Tòa án chấp nhận hay không? Thời hạn kháng cáo bản án sơ thẩm theo quy định hiện nay là bao lâu? Ai là người có quyền kháng cáo bản án dân sự sơ thẩm? Theo Điều 271 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015 quy định về người có quyền kháng cáo như sau: "Đương sự, người đại diện hợp pháp của đương sự, cơ quan, tổ chức, cá nhân khởi kiện có quyền kháng cáo bản án sơ thẩm, quyết định tạm đình chỉ giải quyết vụ án dân sự, quyết định đình chỉ giải quyết vụ án dân sự của Tòa án cấp sơ thẩm để yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm giải quyết lại theo thủ tục phúc thẩm." Như vậy, những người có quyền kháng cáo bản án sơ thẩm là - Đương sự, người đại diện hợp pháp của đương sự; - Cơ quan, tổ chức, cá nhân khởi kiện. Thời hạn kháng cáo bản án dân sự sơ thẩm theo quy định hiện nay là bao lâu? Căn cứ theo Điều 273 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015 thì thời hạn tiến hành kháng cáo bản án sơ thẩm hiện nay là 15 ngày, kể từ ngày tuyên án. Trường hợp bạn không có mặt tại phiên tòa hoặc không có mặt khi tuyên án mà có lý do chính đáng thì thời hạn kháng cáo được tính từ ngày bạn nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết. Đối với trường hợp bạn đã tham gia phiên tòa nhưng vắng mặt khi Tòa án tuyên án mà không có lý do chính đáng thì thời hạn kháng cáo vẫn sẽ được tính từ ngày tuyên án. Lưu ý: Trường hợp bạn gửi đơn kháng cáo bằng dịch vụ bưu chính thì ngày kháng cáo được xác định căn cứ vào ngày tổ chức dịch vụ bưu chính nơi gửi đóng dấu ở phong bì. Trường hợp người kháng cáo đang bị tạm giam thì ngày kháng cáo là ngày đơn kháng cáo được giám thị trại giam xác nhận. Kháng cáo bản án dân sự sơ thẩm quá thời hạn quy định thì có được chấp nhận hay không? Tại Điều 275 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015, quy định về việc kháng cáo quá hạn và xem xét kháng cáo quá hạn như sau: - Kháng cáo quá thời hạn quy định tại Điều 273 của Bộ luật này là kháng cáo quá hạn. Sau khi nhận được đơn kháng cáo quá hạn, Tòa án cấp sơ thẩm phải gửi đơn kháng cáo, bản tường trình của người kháng cáo về lý do kháng cáo quá hạn và tài liệu, chứng cứ (nếu có) cho Tòa án cấp phúc thẩm. - Trong thời hạn 10 ngày, kể từ ngày nhận được đơn kháng cáo quá hạn và tài liệu, chứng cứ kèm theo, Tòa án cấp phúc thẩm thành lập Hội đồng gồm ba Thẩm phán để xem xét kháng cáo quá hạn. Phiên họp xem xét kháng cáo quá hạn phải có sự tham gia của đại diện Viện kiểm sát cùng cấp và người kháng cáo quá hạn. Trường hợp người kháng cáo, Kiểm sát viên vắng mặt thì Tòa án vẫn tiến hành phiên họp. - Căn cứ vào tài liệu, chứng cứ có liên quan đến việc kháng cáo quá hạn, ý kiến của người kháng cáo quá hạn, đại diện Viện kiểm sát tại phiên họp, Hội đồng xét kháng cáo quá hạn quyết định theo đa số về việc chấp nhận hoặc không chấp nhận việc kháng cáo quá hạn và phải ghi rõ lý do của việc chấp nhận hoặc không chấp nhận trong quyết định. Tòa án cấp phúc thẩm phải gửi quyết định cho người kháng cáo quá hạn, Tòa án cấp sơ thẩm và Viện kiểm sát cùng cấp; nếu Tòa án cấp phúc thẩm chấp nhận việc kháng cáo quá hạn thì Tòa án cấp sơ thẩm phải tiến hành các thủ tục do Bộ luật này quy định.” Như vậy, khi kháng cáo quá hạn thì người kháng cáo phải gửi bản tường trình về lý do kháng cáo quá hạn và tài liệu, chứng cứ (nếu có) cho Tòa án cấp sơ thẩm để Tòa án cấp sơ thẩm gửi cho Tòa án cấp phúc thẩm. Sau đó, Tòa án sẽ mở phiên họp xem xét kháng cáo quá hạn trong thời hạn 10 ngày, kể từ ngày nhận được đơn kháng cáo quá hạn và tài liệu, chứng cứ kèm theo. Căn cứ vào tài liệu, chứng cứ có liên quan đến việc kháng cáo quá hạn, ý kiến của người kháng cáo, đại diện Viện kiểm sát tại phiên họp, Hội đồng xét kháng cáo quá hạn quyết định theo đa số về việc chấp nhận hoặc không chấp nhận việc kháng cáo quá hạn và phải ghi rõ lý do của việc chấp nhận hoặc không chấp nhận trong quyết định. Theo đó, kháng cáo bản án sơ thẩm quá hạn vẫn có thể được chấp nhận nếu được đa số Hội đồng xét kháng cáo quá hạn chấp nhận, căn cứ dựa trên: - Tài liệu, chứng cứ có liên quan đến việc kháng cáo quá hạn; - Ý kiến của người kháng cáo, đại diện Viện kiểm sát.
Mẫu đơn kháng cáo và quy trình kháng cáo bản án dân sự năm 2024
Khi Tòa tuyên án sơ thẩm, các bị cáo, bị hại được quyền kháng cáo khi cho rằng bản án chưa được xét xử thỏa đáng. Vậy mẫu đơn kháng cáo và quy trình kháng cáo bản án dân sự năm 2024 được thực hiện ra sao? (1) Kháng cáo bản án dân sự Theo Điều 17 Bộ Luật Tố tụng dân sự 2015 quy định việc xét xử của Tòa án phải thực hiện qua hai cấp xét xử đó là cấp sơ thẩm và cấp phúc thẩm. Theo đó, bản án, quyết định sơ thẩm của Tòa án có thể bị kháng cáo, kháng nghị theo quy định của pháp luật tố tụng, cụ thể: - Bản án, quyết định sơ thẩm của Tòa án có thể bị kháng cáo, kháng nghị theo quy định của Bộ luật này. - Bản án, quyết định sơ thẩm của Tòa án không bị kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm trong thời hạn do Bộ luật Tố tụng Dân sự 2015 quy định thì có hiệu lực pháp luật. - Bản án, quyết định sơ thẩm của Tòa án bị kháng cáo, kháng nghị thì vụ án phải được xét xử phúc thẩm. Bản án, quyết định phúc thẩm có hiệu lực pháp luật. - Bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật mà phát hiện có vi phạm pháp luật hoặc có tình tiết mới theo quy định của Bộ luật này thì được xem xét lại theo thủ tục giám đốc thẩm hoặc tái thẩm. Như vậy, các bên có liên quan trong vụ việc dân sự được quyền kháng cáo, kháng nghị trong thời hạn quy định khi cho rằng bản án chưa được xét xử thỏa đáng, cần được xét xử lại hoặc có các tình tiết, bằng chứng mới phục vụ cho việc chứng minh, làm thay đổi tình hình vụ việc thì làm đơn kháng cáo, kháng nghị để được xét xử phúc thẩm. (2) Người có quyền kháng cáo Đương sự, người đại diện hợp pháp của đương sự, cơ quan, tổ chức, cá nhân khởi kiện có quyền kháng cáo bản án sơ thẩm, quyết định tạm đình chỉ giải quyết vụ án dân sự, quyết định đình chỉ giải quyết vụ án dân sự của Tòa án cấp sơ thẩm để yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm giải quyết lại theo thủ tục phúc thẩm (Điều 271 Bộ Luật Tố tụng Dân sự 2015). (3) Thời hạn kháng cáo Thời hạn kháng cáo được quy định tại Điều 273 Bộ Luật Tố tụng dân sự 2015 như sau: - Thời hạn kháng cáo đối với bản án của Tòa án cấp sơ thẩm là 15 ngày kể từ ngày tuyên án. - Thời hạn kháng cáo đối với quyết định tạm đình chỉ, đình chỉ giải quyết vụ án của Tòa án cấp sơ thẩm là 07 ngày. - Trường hợp đương sự, cơ quan tổ chức, tổ chức hoặc cá nhân khởi kiện không có mặt tại phiên tòa hoặc không có mặt khi tuyên án mà có lý do chính đáng thì thời hạn kháng cáo được tính từ ngày họ nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết. Trường hợp đã tham gia phiên tòa nhưng vắng mặt khi Tòa án tuyên án mà không có lý do chính đáng thì thời hạn kháng cáo được tính từ ngày tuyên án. - Trường hợp đơn kháng cáo được gửi qua dịch vụ bưu chính thì ngày kháng cáo được xác định căn cứ vào ngày tổ chức dịch vụ bưu chính nơi gửi đóng dấu ở phong bì. Trường hợp người kháng cáo đang bị tạm giam thì ngày kháng cáo là ngày đơn kháng cáo được giám thị trại giam xác nhận. (4) Hồ sơ và mẫu đơn kháng cáo bản án dân sự năm 2024 Theo Điều 272 Bộ Luật Tố tụng Dân sự 2015, người có quyền kháng cáo nộp hồ sơ kháng cáo bao gồm: - Đơn kháng cáo - Tài liệu, chứng cứ bổ sung (nếu có) để chứng minh cho kháng cáo của mình là có căn cứ và hợp pháp. Tại Mẫu số 54-DS ban hành kèm theo Nghị quyết 01/2017/NQ-HĐTP có quy định Mẫu đơn kháng cáo dân sự như sau: >>Tải Mẫu đơn kháng cáo dân sự ban hành kèm theo Nghị quyết 01/2017/NQ-HĐTP tại đâyhttps://cdn.thuvienphapluat.vn/uploads/danluatfile/2024/05/13/mau54-ds.docx (5) Quy trình kháng cáo bản án dân sự năm 2024 Căn cứ theo Điều 272, 274, 276, 277, 283 Bộ Luật Tố tụng Dân sự 2015, người có quyền kháng cáo thực hiện các bước sau đây để được thụ lý việc kháng cáo: Bước 1: Nộp đơn kháng cáo - Người có quyền kháng cáo chuẩn bị hồ sơ bao gồm đơn kháng cáo, tài liệu, chứng cứ (nếu có) gửi cho Tòa án cấp sơ thẩm đã ra bản án, quyết định sơ thẩm bị kháng cáo. - Trường hợp đơn kháng cáo được gửi cho Tòa án cấp phúc thẩm thì Tòa án đó phải chuyển cho Tòa án cấp sơ thẩm để tiến hành các thủ tục cần thiết theo quy định của Bộ luật Tố tụng Dân sự 2015. Bước 2: Tiếp nhận đơn kháng cáo Sau khi nhận được đơn kháng cáo, Tòa án cấp sơ thẩm phải kiểm tra tính hợp lệ của đơn kháng cáo. Trường hợp đơn kháng cáo chưa đúng quy định thì Tòa án cấp sơ thẩm yêu cầu người kháng cáo làm lại hoặc sửa đổi, bổ sung đơn kháng cáo. Bước 3: Nộp án phí Sau khi Tòa án chấp nhận đơn kháng cáo hợp lệ, trong thời hạn 10 ngày người kháng cáo nộp tiền tạm ứng án phí phúc thẩm và nộp cho Tòa án cấp sơ thẩm biên lai thu tiền tạm ứng án phí phúc thẩm. Bước 4: Thông báo cho các bên liên quan - Tòa án cấp sơ thẩm thông báo bằng văn bản cho Viện kiểm sát cùng cấp và đương sự có liên quan đến kháng cáo biết về việc kháng cáo kèm theo bản sao đơn kháng cáo, tài liệu, chứng cứ bổ sung mà người kháng cáo gửi kèm đơn kháng cáo. - Đương sự có liên quan đến kháng cáo được thông báo về việc kháng cáo có quyền gửi văn bản nêu ý kiến của mình về nội dung kháng cáo cho Tòa án cấp phúc thẩm. Văn bản nêu ý kiến của họ được đưa vào hồ sơ vụ án. - Tòa án cấp sơ thẩm phải gửi hồ sơ vụ án, đơn kháng cáo, quyết định kháng nghị và tài liệu, chứng cứ bổ sung kèm theo cho Tòa án cấp phúc thẩm trong thời hạn 05 ngày làm việc, kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, người kháng cáo đã nộp cho Tòa án cấp sơ thẩm biên lai thu tiền tạm ứng án phí phúc thẩm. Bước 5: Thụ lý vụ án để xét xử phúc thẩm - Sau khi nhận được hồ sơ vụ án, kháng cáo, kháng nghị và tài liệu, chứng cứ kèm theo, Tòa án cấp phúc thẩm phải vào sổ thụ lý - Tòa án phải thông báo bằng văn bản cho các đương sự, cơ quan, tổ chức, cá nhân khởi kiện và Viện kiểm sát cùng cấp về việc Tòa án đã thụ lý vụ án và thông báo trên Cổng thông tin điện tử của Tòa án trong thời hạn 03 ngày làm việc kể từ ngày thụ lý vụ án - Trong thời hạn 02 tháng, kể từ ngày thụ lý vụ án, tùy từng trường hợp, Tòa án cấp phúc thẩm ra một trong các quyết định sau đây: + Tạm đình chỉ xét xử phúc thẩm vụ án; + Đình chỉ xét xử phúc thẩm vụ án; + Đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm. Đối với các vụ án phức tạp hoặc do sự kiện bất khả kháng, Tòa án phúc thẩm có thể kéo dài hạn chuẩn bị xét xử nhưng không được quá 01 tháng. - Trong thời hạn 01 tháng, kể từ ngày có quyết định đưa vụ án ra xét xử, Tòa án phải mở phiên tòa phúc thẩm; trường hợp có lý do chính đáng thì thời hạn này là 02 tháng. - Trường hợp có quyết định tạm đình chỉ xét xử phúc thẩm vụ án thì thời hạn chuẩn bị xét xử phúc thẩm được tính lại kể từ ngày quyết định tiếp tục giải quyết vụ án của Tòa án có hiệu lực pháp luật.
Bị cáo không kháng cáo thì Tòa có áp dụng tình tiết giảm nhẹ hình phạt được không?
Mới đây, TAND cấp cao TPHCM xét xử phiên tòa phúc thẩm bị cáo Nguyễn Phương Hằng đã tuyên bố giảm án 3 tháng phạt tù cho bị cáo dù bị cáo không kháng cáo. Việc Hội đồng xét xử (HĐXX) giảm án khi bị cáo không kháng cáo có đúng với quy định của Bộ Luật Tố tụng Hình sự không? (1) Khi nào thì được mở phiên tòa phúc thẩm? Theo Điều 27 Bộ Luật Tố tụng hình sự 2015 quy định về chế độ xét xử sơ thẩm, phúc thẩm được đảm bảo như sau: - Bản án, quyết định sơ thẩm của Tòa án có thể bị kháng cáo, kháng nghị theo quy định Bộ Luật Tố tụng hình sự 2015 - Bản án, quyết định sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị trong thời hạn do Bộ Luật Tố tụng hình sự 2015 quy định thì có hiệu lực pháp luật - Bản án, quyết định sơ thẩm bị kháng cáo, kháng nghị thì vụ án phải được xét xử phúc thẩm. Bản án, quyết định phúc thẩm của Tòa án có hiệu lực pháp luật. - Bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật mà phát hiện có vi phạm pháp luật nghiêm trọng hoặc có tình tiết mới theo quy định của Bộ Luật Tố tụng hình sự 2015 thì được xem xét lại theo trình tự giám đốc thẩm hoặc tái thẩm. Về tính chất của phiên xét xử phúc thẩm, khoản 1 Điều 330 Bộ Luật Tố tụng Hình sự 2015 quy định như sau: - Xét xử phúc thẩm là việc Tòa án cấp trên trực tiếp xét xử lại vụ án hoặc xét lại quyết định sơ thẩm mà bản án, quyết định sơ thẩm đối với vụ án đó chưa có hiệu lực pháp luật bị kháng cáo hoặc kháng nghị. Căn cứ vào 2 quy định trên, để mở phiên tòa phúc thẩm là phải có kháng cáo, kháng nghị từ đương sự hoặc bản án sơ thẩm bị kháng cáo, kháng nghị. Nếu không có kháng cáo, kháng nghị với bản án quyết định sơ thẩm trong thời hạn quy định thì bản án sơ thẩm đó sẽ có hiệu lực thi hành. Trong vụ xét xử bà Nguyễn Phương Hằng, mặc dù bà Hằng cho rằng mức án 3 năm tù đối tội của bà là quá cao, tuy nhiên bà cũng không kháng cáo. Do bà Hằng không kháng cáo trong thời hạn quy định, bản án của tòa cấp sơ thẩm sẽ có hiệu lực, nghĩa là bà Hằng phải thi hành án phạt tù 03 năm theo như bản án quyết định sơ thẩm. Trong khi đó, các đồng phạm của bà trong vụ việc này đã làm đơn kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt nên bản án, quyết định sơ thẩm đối với các bị cáo này là chưa có hiệu lực. Tòa án cấp cao sẽ mở phiên xét xử phúc thẩm để xét xử hoặc xem xét lại quyết định, bản án cấp sơ thẩm theo quy định tại khoản 1 Điều 27 Bộ Luật Tố tụng Hình sự 2015 Do đó, việc tổ chức phiên tòa phúc thẩm các bị cáo trong vụ án của bà Nguyễn Phương Hằng là hoàn toàn đúng thủ tục tố tụng. (2) Bị cáo không kháng cáo có được giảm nhẹ hình phạt? Theo Điều 357 Bộ Luật Tố tụng Hình sự 2015 có quy định về việc sửa bản án sơ thẩm như sau: Khi có căn cứ xác định bản án sơ thẩm đã tuyên không đúng với tính chất, mức độ, hậu quả của hành vi phạm tội, nhân thân bị cáo hoặc có tình tiết mới thì Hội đồng xét xử phúc thẩm có quyền sửa bản án sơ thẩm như sau: - Miễn trách nhiệm hình sự hoặc miễn hình phạt cho bị cáo; không áp dụng hình phạt bổ sung; không áp dụng biện pháp tư pháp; - Áp dụng điều, khoản của Bộ luật hình sự về tội nhẹ hơn; - Giảm hình phạt cho bị cáo; - Giảm mức bồi thường thiệt hại và sửa quyết định xử lý vật chứng; - Chuyển sang hình phạt khác thuộc loại nhẹ hơn; - Giữ nguyên hoặc giảm mức hình phạt tù và cho hưởng án treo. Trường hợp Viện kiểm sát kháng nghị hoặc bị hại kháng cáo yêu cầu thì Hội đồng xét xử phúc thẩm có thể: - Tăng hình phạt, áp dụng điều, khoản của Bộ luật hình sự về tội nặng hơn; áp dụng hình phạt bổ sung; áp dụng biện pháp tư pháp; - Tăng mức bồi thường thiệt hại; - Chuyển sang hình phạt khác thuộc loại nặng hơn; - Không cho bị cáo hưởng án treo. - Nếu có căn cứ thì Hội đồng xét xử vẫn có thể giảm hình phạt, áp dụng điều, khoản của Bộ luật hình sự về tội nhẹ hơn, chuyển sang hình phạt khác thuộc loại nhẹ hơn, giữ nguyên mức hình phạt tù và cho hưởng án treo, giảm mức bồi thường thiệt hại. - Trường hợp có căn cứ, Hội đồng xét xử phúc thẩm có thể sửa bản án sơ thẩm theo quy định tại khoản 1 Điều 357 Bộ Luật Tố tụng Hình sự 2015 cho những bị cáo không kháng cáo hoặc không bị kháng cáo, kháng nghị. Theo quy định trên, HĐXX phúc thẩm có quyền sửa bản án sơ thẩm khi xét thấy có điểm chưa đúng trong bản án, quyết định sơ thẩm hoặc khi vụ án có thêm tình tiết mới. Trong đó, HĐXX có quyền sửa bản án sơ thẩm theo hướng giảm hình phạt cho bị cáo hoặc tăng nặng tùy theo các tình tiết mới mà các bên cung cấp. Tại khoản 3 Điều 357 Bộ Luật Tố tụng Hình sự 2015 cũng có nhắc đến trường hợp bị cáo không kháng cáo hoặc không bị kháng cáo nhưng HĐXX có căn cứ về tình tiết giảm nhẹ hay tăng nặng thì có quyền sửa bản án sơ thẩm theo khoản 1 Điều 357 Bộ Luật Tố tụng Hình sự 2015. Do đó, tuy bà Hằng không làm kháng cáo và cũng không bị kháng cáo, nhưng HĐXX xét thấy bị cáo đã nộp đầy đủ án phí, khắc phục thiệt hại là tình tiết giảm nhẹ hình phạt mới. Có lẽ với tình tiết giảm nhẹ đó và sự thành khẩn, ăn năn của bà Hằng, HĐXX đã có đủ căn cứ để sửa lại bản án sơ thẩm của bà Nguyễn Phương Hằng theo quy định tại Điều 357 Bộ Luật Tố tụng Hình sự 2015. (3) Sau khi được giảm án, bà Phương Hằng còn phải chấp hành phạt tù đến khi nào? Bà Phương Hằng bị bắt tạm giam vào ngày 24/3/2022. Tính từ ngày bị bắt tạm giam đến nay (5/4), bà Hằng đã chấp hành án được 2 năm 11 ngày. Như vậy, bà Hằng còn phải chấp hành bản án trên đến ngày 24/12/2024, tức còn 8 tháng 19 ngày là hết thời gian phạt tù.
Vụ khách hàng mất 11,9 tỷ: Tại sao Tòa tuyên Vietcombank bồi thường 700 triệu?
Gần đây một khách hàng mất 11,9 tỷ đã kiện Vietcombank ra Tòa mong lấy lại số tiền đã mất, nhưng số tiền được tòa tuyên bồi thường là 700 triệu đồng. Sau đây hãy cùng tìm hiểu lý do Tòa đưa ra mức bồi thường này. (1) Tại sao Tòa tuyên Vietcombank bồi thường 700 triệu? Cụ thể, ngày 20/03/2024, Hội đồng xét xử Tòa án nhân dân TP Từ Sơn (Bắc Ninh) đã tuyên chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của bà Trần Thị Chúc (khách hàng mất tiền) đối với Ngân hàng TMCP Ngoại thương Việt Nam - Vietcombank. Hội đồng xét xử buộc Vietcombank phải bồi thường thiệt hại cho bà Trần Thị Chúc vối số tiền là 700 triệu đồng, là một phần thiệt hại trong tài khoản mà bà Trần Thị Chúc mở tại ngân hàng này. Theo Hội đồng xét xử, qua đánh giá cho thấy trụ sở chi nhánh Kinh Bắc cũng như trên trang điện tử của ngân hàng Vietcombank có thực hiện niêm yết công khai tài liệu về điều khoản và điều kiện liên quan đến mở và sử dụng tài khoản. Tuy nhiên, hình thức niêm yết của chi nhánh không được thể hiện thuận lợi cho khách hàng trong việc tiếp cận tài liệu. Đồng thời, trong quá trình ký kết hợp đồng mở tài khoản, nhân viên ngân hàng đã không hướng dẫn khách hàng tiếp cận các văn bản liên quan trước mà chỉ giải thích những nội dung cơ bản. Theo đó, đã vi phạm quy định về điều kiện giao dịch chung trong giao kết hợp đồng được quy định tại Điều 406 Bộ Luật Dân sự 2015: “Điều kiện giao dịch chung là những điều khoản ổn định do một bên công bố để áp dụng chung cho bên được đề nghị giao kết hợp đồng; nếu bên được đề nghị chấp nhận giao kết hợp đồng thì coi như chấp nhận các điều khoản này. Điều kiện giao dịch chung chỉ có hiệu lực với bên xác lập giao dịch trong trường hợp điều kiện giao dịch này đã được công khai để bên xác lập giao dịch biết hoặc phải biết về điều kiện đó.” Vi phạm nêu trên là nguyên nhân gián tiếp dẫn đến việc bà Chúc bị mất 11,9 tỷ đồng trong tài khoản. Theo Hội đồng xét xử, nguyên nhân chính gây mất số tiền nêu trên xuất phát từ phía bà Chúc do không tự nhận thức được hành vi của mình là tiết lộ yếu tố định dạng, định danh hoặc yếu tố bảo mật để kẻ gian lợi dụng chiếm đoạt 11,9 tỷ đồng trong tài khoản. Còn về phía ngân hàng, Vietcombank chi nhánh Kinh Bắc có một phần lỗi là đã không giải thích kỹ các quy định của ngân hàng, cũng không cảnh báo trước thủ đoạn mới của kẻ gian. Theo bản án tại phiên tòa ngày 18/03/2024, Vietcombank cũng đã xác nhận chưa áp dụng đầy đủ các biện pháp xử lý khẩn cấp quy định tại văn bản 1867 ngày 16/10/2019 của Tổng giám đốc Vietcombank về xử lý sự cố gian lận/có dấu hiệu gian lận trong việc sử dụng dịch vụ ngân hàng điện tử của khách hàng cá nhân. (2) Khách hàng kháng cáo toàn bộ bản án Vì khoản tiền 700 triệu đồng được nhận bồi thường theo bản án đã tuyên là quá ít so với tổng số tiền 11,9 tỷ đồng bị mất trong tài khoản được mở tại chi nhánh Kinh Bắc. Chính vì thế, bà Chúc đã thực hiện kháng cáo toàn bộ bản án đã tuyên của tòa án cấp sơ thẩm. (Hình chụp Đơn kháng cáo - Nguồn: Báo Tuổi trẻ) Theo bà Chúc, số tiền đã bị rút bất hợp pháp do nhiều lỗi của Vietcombank gây ra và bản án sơ thẩm chưa đánh giá đầy đủ các lỗi của Vietcombank, cũng chưa xem xét và chưa chấp thuận giải quyết các quan điểm chính đáng, có căn cứ pháp luật của luật sư bảo vệ quyền lợi cho bà. Đồng thời, sau khi vụ việc xảy ra, nhân viên lẫn cán bộ quản lý của Chi nhánh Kinh Bắc đã không tư vấn, hướng dẫn cho bà thực hiện trợ giúp khẩn cấp. Và không có hành động kịp thời để bảo vệ cho khách hàng gặp rủi ro cũng như hạn chế, ngăn ngừa kẻ gian tẩu tán số tiền đã rút trong tài khoản của khách hàng mà chỉ hướng dẫn bà đi trình báo cơ quan công an. Về phía Vietcombank, đại diện Ngân hàng cho biết, máy chủ đã xác định các giao dịch nêu trên đều được thực hiện trên số tài khoản, mật khẩu và mã OTP đã cung cấp cho khách hàng. Trong các quy định của Vietcombank cũng như điều khoản liên quan đến hợp đồng mở tài khoản đều có nêu rõ trường hợp liên quan đến lỗi do khách hàng làm lộ thông tin mật khẩu tài khoản thì khách hàng phải hoàn toàn chịu trách nhiệm. Theo Tuổi trẻ
Thủ tục kháng cáo bản án dân sự và mẫu đơn kháng cáo mới nhất năm 2023
Kháng cáo là quyền của đương sự trong giai đoạn tố tụng dân sự nếu không đồng tình đối với các quyết định, bản án của Tòa án. Khi đó, đương sự thực hiện thủ tục kháng cáo để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Vậy thủ tục kháng cáo và mẫu đơn kháng cáo mới nhất được quy định ra sao? 1. Những ai có quyền kháng cáo bản án trong tố tụng dân sự? Căn cứ Điều 271 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015 quy định những người có quyền kháng cáo bao gồm những người sau đây: - Đương sự, người đại diện hợp pháp của đương sự. - Cơ quan, tổ chức, cá nhân khởi kiện có quyền kháng cáo. Đối với bản án sơ thẩm, quyết định tạm đình chỉ giải quyết vụ án dân sự, quyết định đình chỉ giải quyết vụ án dân sự của Tòa án cấp sơ thẩm để yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm giải quyết lại theo thủ tục phúc thẩm. 2. Thời hạn làm thủ tục kháng cáo là bao lâu? Đương sự có quyền kháng cáo căn cứ Điều 273 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015 quy định thời hạn kháng cáo để thực hiện kháng cáo theo thời hạn mà luật định. - Thời hạn kháng cáo đối với bản án của Tòa án cấp sơ thẩm là 15 ngày, kể từ ngày tuyên án. Lưu ý: Nếu đương sự, đại diện cơ quan, tổ chức hoặc cá nhân khởi kiện không có mặt tại phiên tòa hoặc không có mặt khi tuyên án thì xét thời hạn kháng cáo như sau: + Có lý do chính đáng thì thời hạn kháng cáo được tính từ ngày họ nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết. + Không có lý do chính đáng thì thời hạn kháng cáo được tính từ ngày tuyên án. - Thời hạn kháng cáo đối với quyết định tạm đình chỉ, đình chỉ giải quyết vụ án của Tòa án cấp sơ thẩm là 07 ngày, kể từ ngày đương sự, cơ quan, tổ chức, cá nhân khởi kiện nhận được quyết định hoặc kể từ ngày quyết định được niêm yết. - Trường hợp đơn kháng cáo được gửi qua dịch vụ bưu chính thì ngày kháng cáo được xác định căn cứ vào ngày tổ chức dịch vụ bưu chính nơi gửi đóng dấu ở phong bì. Trường hợp người kháng cáo đang bị tạm giam thì ngày kháng cáo là ngày đơn kháng cáo được giám thị trại giam xác nhận. Do đó, trong điều kiện thông thường mà đương sự có mặt tại phiên Tòa ngày ra quyết định, bản án thì căn cứ từ thời điểm đó đương sự có quyền kháng cáo trong 15 ngày. 3. Mẫu đơn kháng cáo và nội dung trong đơn kháng cáo Theo khoản 1 Điều 272 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015 khi thực hiện quyền kháng cáo, người kháng cáo phải làm đơn kháng cáo. tải Mẫu số 54-DS - Nghị quyết 01/2017/NQ-HĐTP Đơn kháng cáo phải có các nội dung chính sau đây: - Ngày, tháng, năm làm đơn kháng cáo; - Tên, địa chỉ; số điện thoại, fax, địa chỉ thư điện tử (nếu có) của người kháng cáo; - Kháng cáo toàn bộ hoặc phần của bản án, quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật; - Lý do của việc kháng cáo và yêu cầu của người kháng cáo; - Chữ ký hoặc điểm chỉ của người kháng cáo. Mẫu đơn kháng cáo cơ bản gồm những nội dung trên. 4. Những lưu ý khi nộp đơn kháng cáo trong tố tụng dân sự - Người kháng cáo là cá nhân có đầy đủ năng lực hành vi tố tụng dân sự có thể tự mình làm đơn kháng cáo. Tại mục tên, địa chỉ của người kháng cáo trong đơn phải ghi họ, tên, địa chỉ; số điện thoại, fax, địa chỉ thư điện tử (nếu có) của người kháng cáo. Ở phần cuối đơn kháng cáo, người kháng cáo phải ký tên hoặc điểm chỉ. - Người kháng cáo nếu không tự mình kháng cáo thì có thể ủy quyền cho người khác đại diện cho mình kháng cáo. Tại mục tên, địa chỉ của người kháng cáo trong đơn phải ghi họ, tên, địa chỉ của người đại diện theo ủy quyền của người kháng cáo, của người kháng cáo ủy quyền kháng cáo; số điện thoại, fax, địa chỉ thư điện tử (nếu có) của người kháng cáo ủy quyền kháng cáo và văn bản ủy quyền. Ở phần cuối đơn kháng cáo, người đại diện theo ủy quyền phải ký tên hoặc điểm chỉ. - Đơn kháng cáo phải được gửi cho Tòa án cấp sơ thẩm đã ra bản án, quyết định sơ thẩm bị kháng cáo. Trường hợp đơn kháng cáo được gửi cho Tòa án cấp phúc thẩm thì Tòa án đó phải chuyển cho Tòa án cấp sơ thẩm để tiến hành các thủ tục cần thiết theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự 2015. - Kèm theo đơn kháng cáo, người kháng cáo phải gửi tài liệu, chứng cứ bổ sung (nếu có) để chứng minh cho kháng cáo của mình là có căn cứ và hợp pháp.
Quyết định công nhận kết quả hòa giải thành không bị kháng cáo, kháng nghị
Việc tiến hành hòa giải được thực hiện trước khi Tòa án thụ lý vụ án về tranh chấp dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh; việc yêu cầu công nhận thuận tình ly hôn; vụ án hành chính thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự, Luật Tố tụng hành chính. Đó là nội dung liên quan đến phạm vi điều chỉnh trong một số lĩnh vực tại Luật Hòa giải, đối thoại tại Tòa án 2020, cụ thể tại Điều 35 như sau: Hiệu lực của quyết định công nhận kết quả hòa giải thành, đối thoại thành tại Tòa án - Quyết định công nhận kết quả hòa giải thành, đối thoại thành có hiệu lực pháp luật và không bị kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự, Luật Tố tụng hành chính. - Quyết định công nhận kết quả hòa giải thành được thi hành theo quy định của pháp luật về thi hành án dân sự. - Quyết định công nhận kết quả đối thoại thành được thi hành theo quy định của pháp luật về tố tụng hành chính. Điều kiện công nhận kết quả hòa giải thành, đối thoại thành tại Tòa án Theo quy định tại Điều 33 Luật Hòa giải, đối thoại tại Tòa án 2020 quy định về điều kiện công nhận kết quả hòa giải thành, đối thoại thành tại Tòa án như sau: Điều kiện công nhận kết quả hòa giải thành, đối thoại thành tại Tòa án Kết quả hòa giải thành, đối thoại thành được công nhận khi có đủ các điều kiện sau đây: - Các bên có năng lực hành vi dân sự đầy đủ; - Các bên là người có quyền, nghĩa vụ đối với nội dung thỏa thuận, thống nhất; - Nội dung thỏa thuận, thống nhất của các bên là hoàn toàn tự nguyện, không vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo đức xã hội, không nhằm trốn tránh nghĩa vụ với Nhà nước hoặc cơ quan, tổ chức, cá nhân khác; - Trường hợp các bên thuận tình ly hôn thì thỏa thuận của các bên phải có đầy đủ nội dung về việc ly hôn, việc chia tài sản, việc trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục con chưa thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự hoặc không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình trên cơ sở bảo đảm quyền lợi chính đáng của vợ, chồng, con theo quy định của Luật Hôn nhân và gia đình; - Trường hợp nội dung thỏa thuận hòa giải, thống nhất đối thoại của các bên liên quan đến quyền, nghĩa vụ của người khác nhưng người đó không có mặt tại phiên hòa giải, đối thoại thì thỏa thuận, thống nhất chỉ được công nhận khi có ý kiến đồng ý bằng văn bản của họ; - Trường hợp các bên thỏa thuận, thống nhất được một phần tranh chấp dân sự, một phần khiếu kiện hành chính thì chỉ được công nhận khi nội dung thỏa thuận, thống nhất không liên quan đến các phần khác của tranh chấp, khiếu kiện đó. Nội dung của Biên bản ghi nhận kết quả hòa giải, đối thoại tại Tòa án Căn cứ Điều 31 Luật Hòa giải, đối thoại tại Tòa án 2020 quy định về Biên bản ghi nhận kết quả hòa giải, đối thoại tại Tòa án như sau: Biên bản ghi nhận kết quả hòa giải, biên bản ghi nhận kết quả đối thoại phải có các nội dung sau đây: - Ngày, tháng, năm, địa điểm tiến hành phiên họp ghi nhận kết quả hòa giải, đối thoại; - Thành phần tham gia phiên họp ghi nhận kết quả hòa giải, đối thoại; - Diễn biến quá trình hòa giải, đối thoại; kết quả hòa giải thành, đối thoại thành. - Trường hợp các bên thuận tình ly hôn thì thỏa thuận của các bên phải có đầy đủ nội dung về việc ly hôn, việc chia tài sản, việc trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục con chưa thành niên, còn đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự hoặc không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình trên cơ sở bảo đảm quyền lợi chính đáng của vợ, chồng, con theo quy định của Luật Hôn nhân và gia đình; - Trường hợp nội dung thỏa thuận hòa giải, thống nhất đối thoại của các bên liên quan đến quyền, nghĩa vụ của người khác nhưng người đó không có mặt tại phiên hòa giải, đối thoại thì phải ghi rõ trong biên bản; - Ý kiến của các bên về việc yêu cầu hoặc không yêu cầu Tòa án ra quyết định công nhận kết quả hòa giải thành, đối thoại thành; - Chữ ký hoặc điểm chỉ của các bên, người đại diện, người phiên dịch; - Chữ ký của Hòa giải viên; - Chữ ký xác nhận của Thẩm phán tham gia phiên họp. Do đó, đối với Quyết định công nhận kết quả hòa giải thành, đối thoại thành có hiệu lực pháp luật và không bị kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm. Tuy nhiên, vẫn có thể bị xem xét lại khi có căn cứ cho rằng nội dung thỏa thuận, thống nhất của các bên vi phạm một trong các điều kiện quy định tại điều 33 của Luật Hòa giải, đối thoại tại Tòa án 2020. Thời hạn đề nghị xem xét lại là 15 ngày kể từ ngày nhận được hoặc biết được quyết định công nhận của tòa án.
Thủ tục kháng cáo trong tố tụng hình sự
Kháng cáo là một thủ tục trong tố tụng hình sự, khi đã có bản án, quyết định của Tòa án sơ thẩm nhưng chưa có hiệu lực pháp luật thì những người có quyền kháng cáo bản án, quyết định nếu không đồng ý phán quyết của Tòa án sơ thẩm thì có thể yêu cầu tòa cấp trên xét xử một lần nữa theo trình tự phúc thẩm. I. Người có quyền kháng cáo bản án, quyết định hình sự Theo quy định Điều 331 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 thì người có quyền kháng cáo là: - Bị cáo, bị hại, người đại diện của họ có quyền kháng cáo bản án hoặc quyết định sơ thẩm. - Người bào chữa có quyền kháng cáo để bảo vệ lợi ích của người dưới 18 tuổi, người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất mà mình bào chữa. - Nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người đại diện của họ có quyền kháng cáo phần bản án hoặc quyết định có liên quan đến việc bồi thường thiệt hại. - Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án, người đại diện của họ có quyền kháng cáo phần bản án hoặc quyết định có liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của họ. - Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại, đương sự là người dưới 18 tuổi hoặc người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất có quyền kháng cáo phần bản án hoặc quyết định có liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của người mà mình bảo vệ. - Người được Tòa án tuyên không có tội có quyền kháng cáo về các căn cứ mà bản án sơ thẩm đã xác định là họ không có tội. Như vậy, những đối tượng được quy định trên sẽ có quyền kháng cáo bản án, quyết định hình sự sơ thẩm của Tòa án. II. Thủ tục kháng cáo bản án, quyết định hình sự 1. Hồ sơ kháng cáo bản án, quyết định hình sự. - Đơn kháng cáo phải có các nội dung chính sau đây: + Ngày, tháng, năm làm đơn kháng cáo; + Họ tên, địa chỉ của người kháng cáo; + Lý do và yêu cầu của người kháng cáo; + Chữ ký hoặc điểm chỉ của người kháng cáo. Ngoài ra, cần kèm theo đơn kháng cáo hoặc cùng với việc trình bày trực tiếp là chứng cứ, tài liệu, đồ vật bổ sung (nếu có) để chứng minh tính có căn cứ của kháng cáo. Cơ sở pháp lý: Khoản 2, 3 Điều 332 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015. 2. Trình tự thực hiện thủ tục kháng cáo bản án, quyết định hình sự. Bước 1: Chuẩn bị hồ sơ kháng cáo và nộp đơn kháng cáo hoặc kháng cáo trực tiếp - Người kháng cáo phải gửi đơn kháng cáo đến Tòa án đã xét xử sơ thẩm hoặc Tòa án cấp phúc thẩm. Trong trường hợp bị cáo đang bị tạm giam thì Giám thị Trại tạm giam, Trưởng Nhà tạm giữ phải bảo đảm cho bị cáo thực hiện quyền kháng cáo, nhận đơn kháng cáo và chuyển cho Tòa án cấp sơ thẩm đã ra bản án, quyết định bị kháng cáo. - Ngoài ra, người kháng cáo có thể trình bày trực tiếp với Tòa án đã xét xử sơ thẩm hoặc Tòa án cấp phúc thẩm về việc kháng cáo. Tòa án phải lập biên bản về việc kháng cáo. Nếu Tòa án cấp phúc thẩm đã lập biên bản về việc kháng cáo hoặc nhận được đơn kháng cáo thì phải gửi biên bản hoặc đơn kháng cáo cho Tòa án cấp sơ thẩm để thực hiện theo quy định chung. Cơ sở pháp lý: khoản 1 Điều 332 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015. Bước 2: Tiếp nhận và xử lý kháng cáo - Sau khi nhận được đơn kháng cáo hoặc biên bản về việc kháng cáo, Tòa án cấp sơ thẩm phải vào sổ tiếp nhận và kiểm tra tính hợp lệ của đơn kháng cáo theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự 2015. - Trường hợp đơn kháng cáo hợp lệ thì Tòa án cấp sơ thẩm thông báo về việc kháng cáo theo quy định tại Điều 338 của Bộ luật này. - Trường hợp đơn kháng cáo hợp lệ nhưng nội dung kháng cáo chưa rõ thì Tòa án cấp sơ thẩm phải thông báo ngay cho người kháng cáo để làm rõ. - Trường hợp nội dung đơn kháng cáo đúng quy định của Bộ luật này nhưng quá thời hạn kháng cáo thì Tòa án cấp sơ thẩm yêu cầu người kháng cáo trình bày lý do và xuất trình chứng cứ, tài liệu, đồ vật (nếu có) để chứng minh lý do nộp đơn kháng cáo quá hạn là chính đáng. - Trường hợp người làm đơn kháng cáo không có quyền kháng cáo thì trong thời hạn 03 ngày kể từ ngày nhận đơn, Tòa án trả lại đơn và thông báo bằng văn bản cho người làm đơn, Viện kiểm sát cùng cấp. Văn bản thông báo phải ghi rõ lý do của việc trả lại đơn. Việc trả lại đơn có thể bị khiếu nại trong thời hạn 07 ngày kể từ ngày nhận được thông báo. Cơ sở pháp lý: Điều 334 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015. Bước 3: Thụ lý vụ án và tiến hành xét xử theo thủ tục phúc thẩm - Ngay sau khi nhận được hồ sơ vụ án có kháng cáo và chứng cứ, tài liệu, đồ vật kèm theo (nếu có), Tòa án cấp phúc thẩm phải vào sổ thụ lý. - Tòa án ra thông báo thụ lý vụ án và tiến hành các bước chuẩn bị xét xử và xét xử theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự 2015. Cơ sở pháp lý: Điều 340 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015.
Phải làm gì khi hết thời hạn kháng cáo?
Sau khi bản án sơ thẩm, quyết định đình chỉ,.. của Tóa án sơ thẩm có hiệu lực pháp luật, thì pháp luật cho phép đương sự có quyền kháng cáo bản án quyết định đó trong thời hạn luật định. Nếu hết thời hạn này, thì việc kháng cáo có được chấp và quy trình thế nào? Thời hạn kháng cáo Điều 245 Bộ Luật Tố tụng dân sự 2015 quy định thời hạn kháng cáo - Thời hạn kháng cáo đối với bản án của Toà án cấp sơ thẩm là mười lăm ngày, kể từ ngày tuyên án; đối với đương sự không có mặt tại phiên toà thì thời hạn kháng cáo tính từ ngày bản án được giao cho họ hoặc được niêm yết. - Thời hạn kháng cáo đối với quyết định tạm đình chỉ, đình chỉ giải quyết vụ án của Toà án cấp sơ thẩm là bảy ngày, kể từ ngày người có quyền kháng cáo nhận được quyết định. - Trong trường hợp đơn kháng cáo gửi qua bưu điện thì ngày kháng cáo được tính căn cứ vào ngày bưu điện nơi gửi đóng dấu ở phong bì. Phải làm gì khi hết thời hạn kháng cáo? Theo Điều 247 Bộ Luật Tố tụng dân sự 2015 quy định về kháng quá quá hạn: Kháng cáo quá thời hạn quy định tại Điều 245 của Bộ luật này là kháng cáo quá hạn. Sau khi nhận được đơn kháng cáo quá hạn, Toà án cấp sơ thẩm phải gửi đơn kháng cáo, bản tường trình của người kháng cáo về lý do kháng cáo quá hạn và tài liệu, chứng cứ, nếu có cho Toà án cấp phúc thẩm. Theo đó, trong trường hợp hết hạn kháng cáo theo quy định về thời hạn kháng cáo nếu đương sự vẫn có nhu cầu kháng cáo thì đương sự hoặc người được ủy quyền của đương sự làm đơn kháng cáo quá hạn, bản tường trình nêu lý do về việc kháng cáo cáo hạn gửi tới Tòa án cùng tài liệu chứng cứ nếu có. Theo Điều 6 Nghị quyết 06/2012/NQ-HĐTP quy định lý do chính đáng trong trường hợp kháng cáo quá hạn. “Lý do chính đáng” là trường hợp bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan khác (như: do thiên tai, lũ lụt; do ốm đau, tai nạn phải điều trị tại bệnh viện,...) làm cho người kháng cáo không thể thực hiện được việc kháng cáo trong thời hạn luật định. Quy trình giải quyết đơn kháng cáo quá hạn - Trong thời hạn mười ngày kể từ ngày nhận được đơn kháng cáo quá hạn và tài liệu, chứng cứ kèm theo, Toà án cấp phúc thẩm thành lập Hội đồng gồm ba Thẩm phán để xem xét kháng cáo quá hạn. - Hội đồng có quyền ra quyết định chấp nhận hoặc không chấp nhận việc kháng cáo quá hạn và phải ghi rõ lý do của việc chấp nhận hoặc không chấp nhận trong quyết định. - Toà án cấp phúc thẩm phải gửi quyết định cho người kháng cáo quá hạn và Toà án cấp sơ thẩm; nếu Toà án cấp phúc thẩm chấp nhận việc kháng cáo quá hạn thì Toà án cấp sơ thẩm phải tiến hành các thủ tục do Bộ luật này quy định và gửi hồ sơ vụ án cho Toà án cấp phúc thẩm.
Có được thay đổi yêu cầu ban đầu tại phiên tòa phúc thẩm dân sự?
Phiên tòa phúc thẩm - Hình minh họa Trong quá trình giải quyết tranh chấp phát sinh trong đời sống xã hội thì có nhiều nguyên nhân khác nhau dẫn đến việc thay đổi mong muốn của người đã yêu cầu. Nếu trong trường hợp yêu cầu này phát sinh sau khi kết thúc phúc tòa sơ thẩm, thì có được quyền thay đổi yêu cầu ban đầu tại phiên tòa phúc thẩm không? Thay đổi yêu cầu ban đầu được hiểu như thế nào? Có thể hiểu thay đổi yêu cầu ban đầu là việc sửa đổi yêu cầu mà đương sự đã đưa ra ban đầu. Phiên tòa phúc thẩm có được thay đổi yêu cầu ban đầu không? Quy định pháp luật về tố tụng không quy định quyền yêu cầu thay đổi yêu cầu ban đầu của đương sự ở phiên tòa phúc thẩm. Mà chỉ quy định về quyền thay đổi yêu cầu ban đầu tại phiên tòa sơ thẩm và quyền kháng cáo tại phiên tòa phúc thẩm. Cụ thể theo điều 284 Bộ Luật tố tụng dân sự 2015 quy định về việc kháng cáo của đương sự: “Điều 284. Thay đổi, bổ sung, rút kháng cáo, kháng nghị 1. Trường hợp chưa hết thời hạn kháng cáo theo quy định tại Điều 273 của Bộ luật này thì người đã kháng cáo có quyền thay đổi, bổ sung kháng cáo mà không bị giới hạn bởi phạm vi kháng cáo ban đầu. Trường hợp chưa hết thời hạn kháng nghị theo quy định tại Điều 280 của Bộ luật này thì Viện kiểm sát đã kháng nghị có quyền thay đổi, bổ sung kháng nghị mà không bị giới hạn bởi phạm vi kháng nghị ban đầu. 2. Trước khi bắt đầu phiên tòa hoặc tại phiên tòa phúc thẩm, người kháng cáo có quyền thay đổi, bổ sung kháng cáo, Viện kiểm sát đã kháng nghị có quyền thay đổi, bổ sung kháng nghị, nhưng không được vượt quá phạm vi kháng cáo, kháng nghị ban đầu, nếu thời hạn kháng cáo, kháng nghị đã hết. 3. Trước khi bắt đầu phiên tòa hoặc tại phiên tòa phúc thẩm, người kháng cáo có quyền rút kháng cáo, Viện kiểm sát đã kháng nghị hoặc Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp có quyền rút kháng nghị. ….” Như vậy, đương sự không thể thay đổi yêu cầu ban đầu tại phiên tòa phúc thẩm. Trong trường hợp, bạn muốn thay đổi, bổ sung những yêu cầu khi đã kết thúc phiên tòa sơ thẩm thì bạn cần khởi kiện tại một vụ án khác đối với những yêu cầu đó. Tại phiên tòa phúc thẩm chỉ xem xét kháng cáo bản án quyết định tại phiên tòa sơ thẩm. Thời hạn kháng cáo - Thời hạn kháng cáo đối với bản án của Tòa án cấp sơ thẩm là 15 ngày, kể từ ngày tuyên án; đối với đương sự, đại diện cơ quan, tổ chức hoặc cá nhân khởi kiện không có mặt tại phiên tòa hoặc không có mặt khi tuyên án mà có lý do chính đáng thì thời hạn kháng cáo được tính từ ngày họ nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết. Đối với trường hợp đương sự, đại diện cơ quan, tổ chức hoặc cá nhân khởi kiện đã tham gia phiên tòa nhưng vắng mặt khi Tòa án tuyên án mà không có lý do chính đáng thì thời hạn kháng cáo được tính từ ngày tuyên án. - Thời hạn kháng cáo đối với quyết định tạm đình chỉ, đình chỉ giải quyết vụ án của Tòa án cấp sơ thẩm là 07 ngày, kể từ ngày đương sự, cơ quan, tổ chức, cá nhân khởi kiện nhận được quyết định hoặc kể từ ngày quyết định được niêm yết theo quy định của Bộ luật này. Căn cứ theo Điều 273 Bộ Luật tố tụng dân sự 2015
Bàn về ủy quyền kháng cáo theo quy định tại khoản 6 Điều 272 BLTTDS năm 2015
Ảnh minh họa: ủy quyền kháng cáo So với quy định về người có quyền kháng cáo trong BLTTDS năm 2004, quy định trong BLTTDS năm 2015 đã có sửa đổi, bổ sung theo hướng quy định cụ thể hơn về chủ thể, đối tượng kháng cáo. Cụ thể, Điều 271 BLTTDS năm 2015 quy định: “Đương sự, người đại diện hợp pháp của đương sự, cơ quan, tổ chức, cá nhân khởi kiện có quyền kháng cáo bản án sơ thẩm, quyết định tạm đình chỉ giải quyết vụ án dân sự, quyết định đình chỉ giải quyết vụ án dân sự của Tòa án sơ thẩm để yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm giải quyết lại theo thủ tục phúc thẩm”. Như vậy, chủ thể có quyền kháng cáo là đương sự, người đại diện hợp pháp của đương sự, cơ quan, tổ chức, cá nhân khởi kiện. Đối tượng của việc kháng cáo bao gồm: Bản án sơ thẩm, quyết định tạm đình chỉ, quyết định đình chỉ giải quyết vụ án của Tòa án cấp sơ thẩm. Thủ tục thực hiện quyền kháng cáo là làm đơn kháng cáo, đơn kháng cáo phải được gửi cho Tòa án cấp sơ thẩm đã ra bản án, quyết định sơ thẩm bị kháng cáo. Tuy nhiên, qua công tác kiểm sát giải quyết các vụ án dân sự của Viện KSND thành phố Hà Nội, tác giả nêu lên một vấn đề hiện còn nhiều sự tranh cãi về mặt pháp lý cũng như các cách hiểu và áp dụng không thống nhất giữa những người tiến hành tố tụng với nhau cũng như giữa những người tiến hành tố tụng với luật sư bảo vệ quyền và lợi ích cho đương sự về ủy quyền kháng cáo theo quy định tại khoản 6 Điều 272 BLTTDS năm 2015. Để tìm hiểu kỹ hơn về vấn đề này tác giả đưa ra một ví dụ cụ thể sau đây: Ngày 22/06/2012, Ngân hàng TM TNHH MTV Dầu Khí Toàn Cầu (gọi tắt là GPBank) và anh Bùi Đ, chị Nguyễn L ký kết Hợp đồng tín dụng. Theo đó, GPBank cho anh Đ và chị L vay số tiền 3.000.000.000 đồng với mục đích tiêu dùng, thời gian vay 12 tháng kể từ ngày 22/6/2012. Để đảm bảo cho khoản vay trên ông Bùi Lê H và bà Đặng Thị D đã tự nguyện ký Hợp đồng thế chấp tại thửa đất số 35, tờ bản đồ số 08 tại xã T, huyện TT, Hà Nội diện tích 133m2, do UBND huyện TT, thành phố Hà Nội cấp ngày 22/09/2003 đứng tên Ông Bùi Lê H. Do anh Đ và chị L vi phạm nghĩa vụ thanh toán nên năm 2014, GPBank bán nợ lại cho Công ty TNHH MTV quản lý tài sản của các tổ chức tín dụng Việt Nam (VAMC). Ngày 19/8/2019, VAMC yêu cầu anh Đ và chị L phải trả cho VAMC tổng số tiền 8.486.727.733 đồng Trong đó: Nợ gốc: 3.000.000.000 đồng ; Nợ lãi trong hạn: 3.389.399.945 đồng; Nợ lãi quá hạn: 2.097.327.788 đồng. Trường hợp anh Đ và chị L không thanh toán được toàn bộ nghĩa vụ nợ gốc và lãi thì VAMC yêu cầu cơ quan thi hành án có thẩm quyền kê biên phát mại tài sản thế chấp là toàn bộ diện tích đất 133m2 và ngôi nhà 3 tầng trên thửa đất số 35 tờ bản đồ số 08 tại thôn H, xã T, huyện TT để thanh toán hết toàn bộ nghĩa vụ trả nợ cho VAMC. Quá trình giải quyết vụ án Bị đơn anh Bùi Đ và chị Nguyễn L xác nhận về thời gian ký kết hợp đồng và khoản tiền vay cũng như toàn bộ số nợ mà VAMC đề nghị VAMC cho anh, chị giãn nợ trả dần. Người có QLNVLQ ông Bùi Lê H và bà Đặng Thị D đề nghị Tòa án giải quyết theo quy định của pháp luật. Đối với ngôi nhà 3 tầng trên thửa đất số 35 tờ bản đồ số 08 tại thôn H, xã T, huyện TT là do anh Đặng Việt D xây dựng thuộc quyền sở hữu của anh D. Đề nghị Tòa án giải quyết theo quy định của pháp luật Tại bản án sơ thẩm ngày 15/10/2019, Toà án nhân dân huyện TT, thành phố H đã xử: 1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của VAMC. Buộc anh Bùi Đ và chị Nguyễn L phải trả cho VAMC số tiền phát sinh theo Hợp đồng tín dụng. Tổng số tiền 8.486.727.733 đồng (Trong đó: Nợ gốc: 3.000.000.000 đồng; Nợ lãi trong hạn: 3.389.399.945 đồng; Nợ lãi quá hạn: 2.097.327.788 đồng) Anh Đ và chị L còn phải thanh toán các khoản lãi theo thỏa thuận trong hợp đồng tín dụng các bên có thỏa thuận về việc điều chỉnh lãi suất cho vay theo từng thời kỳ của ngân hàng cho vay thì lãi suất mà khách hàng vay phải tiếp tục thanh toán cho VAMC cho vay theo quyết định của Tòa án cũng sẽ được điều chỉnh cho phù hợp với sự điều chỉnh lãi suất của Ngân hàng cho vay. 2. Trường hợp anh Bùi Đ và chị Nguyễn L không trả được nợ thì VAMC có quyền yêu cầu cơ quan thi hành án dân sự phát mại tài sản là Quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền trên thửa đất tại thửa số 35, tờ bản đồ số 08 tại xã H, huyện TT, thành phố H diện tích 133m2 do uỷ ban nhân dân huyện TT, thành phố H cấp ngày 22/09/2003 đứng tên ông Bùi Lê H. Theo Hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất của bên thứ ba số công chứng số 666/2010 ngày 5/02/2010 được lập tại Phòng công chứng số 7 thành phố Hà Nội. 3. Không chấp nhận yêu cầu độc lập của người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan là anh Đặng Việt D do ông Vũ Đình T làm đại diện. Ngoài ra Tòa án còn tuyên về án phí quyền kháng cáo, quyền thi hành án của các đương sự. Sau khi xét xử sơ thẩm, do không đồng ý với nội dung bản án sơ thẩm nên trong thời hạn kháng cáo, ông Vũ Đình T đã thay mặt anh Đặng Việt D kháng cáo đối với bản án sơ thẩm và nộp đơn kháng cáo cho TAND huyện TT. Đề nghị Tòa án cấp phúc thẩm: Công nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở đối với ngôi nhà 3 tầng trên thửa đất số 35 tờ bản đồ số 08 tại xã H huyện TT thuộc quyền sử dụng và sở hữu của anh Đặng Việt D. Ngày 25/12/2019, TAND TP H thụ lý phúc thẩm. Sau khi nghiên cứu hồ sơ vụ án và Văn bản ủy quyền được ký tại Văn phòng công chứng TT với nội dung và phạm vi uỷ quyền như sau: “Ông Vũ Đình T được đại diện cho anh Đặng Việt D tham gia tố tụng tại TAND các cấp; được thay mặt anh D thực hiện các quyền và nghĩa vụ của đương sự theo pháp luật quy định; được quyết định mọi việc có liên quan trong quá trình tham gia tố tụng giải quyết vụ án; anh Đặng Việt D cam kết chấp hành đúng những gì đã được xác lập trong tờ uỷ quyền và không khiếu nại về sau; thời gian uỷ quyền: cho đến khi vụ án được giải quyết xong”. Với nội dung trong văn bản ủy quyền như trên có hai quan điểm khác nhau: Quan điểm thứ nhất cho rằng: Không chấp nhận đơn kháng cáo của ông Vũ Đình T với lý do: ông T không được quyền kháng cáo thay cho anh D bởi văn bản uỷ quyền không ghi rõ là ông T được uỷ quyền kháng cáo theo quy định tại khoản 6 Điều 272 BLTTDS năm 2015. Do đó đơn kháng cáo không hợp lệ. Quan điểm thứ hai cho rằng: Đơn kháng cáo của ông Vũ Đình T hợp lệ. Bởi lẽ, nội dung và phạm vi uỷ quyền của anh Đặng Việt D ghi cụ thể là ông T được đại diện cho anh tham gia tố tụng tại TAND các cấp; được thay mặt anh D thực hiện các quyền và nghĩa vụ của đương sự theo pháp luật quy định bao gồm cả quyền kháng cáo bản án của Toà án. Qua nghiên cứu các quy định Điều 134 và Điều 562 của BLDS năm 2015 và các quy định tại Điều 85 BLTTDS năm 2015 quy định về người đại diện. Tác giả hoàn toàn đồng ý với quan điểm thứ hai, bởi lẽ, “toàn quyền giải quyết vụ án tại Tòa án nhân dân các cấp” nội hàm của nó đã bao gồm cả quyền kháng cáo. Bên cạnh đó, Điều 271 BLTTDS năm 2015 về người có quyền kháng cáo cũng quy định: “Đương sự, người đại diện hợp pháp của đương sự, cơ quan, tổ chức, cá nhân khởi kiện có quyền kháng cáo bản án sơ thẩm, quyết định tạm đình chỉ giải quyết vụ án dân sự, quyết định đình chỉ giải quyết vụ án dân sự của Tòa án cấp sơ thẩm để yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm giải quyết lại theo thủ tục phúc thẩm” mà như đã nêu ở trên, đại diện hợp pháp bao gồm đại diện theo pháp luật và theo ủy quyền. Khoản 6 Điều 272 BLTTDS năm 2015 quy định: Việc ủy quyền quy định tại các khoản 3, 4 và 5 Điều này phải được làm thành văn bản có công chứng, chứng thực hợp pháp, trừ trường hợp văn bản ủy quyền đó được lập tại Tòa án có sự chứng kiến của Thẩm phán hoặc người được Chánh án Tòa án phân công. Trong văn bản ủy quyền phải có nội dung đương sự ủy quyền cho người đại diện theo ủy quyền kháng cáo bản án, quyết định tạm đình chỉ, đình chỉ giải quyết vụ án của Tòa án cấp sơ thẩm. Như vậy, quy định tại khoản 6 Điều 272 BLTTDS năm 2015 được áp dụng cho trường hợp chưa có ủy quyền hoặc có ủy quyền nhưng phạm vi ủy quyền không bao gồm quyền kháng cáo hoặc tại thời hạn ủy quyền đã hết. Để hiểu rõ hơn tác giả đưa ra cụ thể vụ việc như sau: Ngày 17/7/2019 ông Nguyễn Văn G ủy quyền cho anh Nguyễn Văn P. Giấy ủy quyền được lập tại UBND xã Hồng Dương. Nội dung ủy quyền như sau: “Nay tôi ủy quyền toàn bộ quyền, lợi nghĩa vụ của tôi cho anh Nguyễn Văn P trực tiếp thay mặt tôi đến Tòa án nhân dân huyện TO giải quyết vụ việc “Đòi tài sản” có liên quan đến việc thi hành án dân sự tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện TO, thành phố H để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp cho tôi theo quy định của pháp luật”. Như vậy, với Giấy ủy quyền trên thì phạm vi ủy quyền của anh P chỉ được thay mặt cho ông G đến Tòa án nhân dân huyện TO giải quyết liên quan đến vụ việc “Đòi tài sản” và việc thi hành án dân sự tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện TO, thành phố H”. Do đó, trong vụ án này thì đơn kháng cáo của anh P không hợp lệ nên không được xem xét giải quyết. Qua phân tích và dẫn chứng vụ việc cụ thể như trên tác giả cho rằng: Đối với trường hợp đương sự đã ủy quyền cho người khác đại diện cho mình toàn quyền giải quyết vụ án tại Tòa án các cấp thì văn bản ủy quyền không cần thiết phải chi rõ nội dung là ủy quyền kháng cáo. Để phù hợp với tình hình thực tế, tránh việc áp dụng không đúng quy định tại Điều 272 của BLTTDS năm 2015, thiết nghĩ 02 ngành Tòa án và Viện kiểm sát cần có văn bản hướng dẫn đầy đủ, cụ thể và rõ ràng hơn để bảo đảm thống nhất áp dụng pháp luật việc ủy quyền kháng cáo theo quy định tại khoản 6 Điều 272 BLTTDS năm 2015. Lê Thị Hồng Hạnh - Phòng 9 (vkshanoi.gov.vn) Theo VKSNDTC
Thủ tục kháng cáo vụ án hình sự?
Cho mình hỏi hiện nay có văn bản pháp luật nào hướng dẫn chi tiết về Thứ nhất; thủ tục kháng cáo vụ án hình sự Thứ hai kháng nghị vụ án hình sự Có văn bản nào hướng dany chi tiết về Hai thủ tục đó không vậy
Cách tính thời hạn kháng cáo vụ án dân sự
Điều 270 Bộ luật tố tụng dân sự 2015 (BLTTDS) quy định xét xử phúc thẩm là việc Tòa án cấp phúc thẩm trực tiếp xét xử lại vụ án mà bản án, quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật bị kháng cáo, kháng nghị. Theo đó, sau khi Tòa án sơ thẩm ban hành bản án thì các đương sự/người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan vẫn được quyền kháng cáo để tiếp tục xét xử theo thủ tục phúc thẩm. Điều 273 BLTTDS quy định về thời hạn kháng cáo như sau: Điều 273. Thời hạn kháng cáo 1. Thời hạn kháng cáo đối với bản án của Tòa án cấp sơ thẩm là 15 ngày, kể từ ngày tuyên án; đối với đương sự, đại diện cơ quan, tổ chức hoặc cá nhân khởi kiện không có mặt tại phiên tòa hoặc không có mặt khi tuyên án mà có lý do chính đáng thì thời hạn kháng cáo được tính từ ngày họ nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết. Đối với trường hợp đương sự, đại diện cơ quan, tổ chức hoặc cá nhân khởi kiện đã tham gia phiên tòa nhưng vắng mặt khi Tòa án tuyên án mà không có lý do chính đáng thì thời hạn kháng cáo được tính từ ngày tuyên án. 2. Thời hạn kháng cáo đối với quyết định tạm đình chỉ, đình chỉ giải quyết vụ án của Tòa án cấp sơ thẩm là 07 ngày, kể từ ngày đương sự, cơ quan, tổ chức, cá nhân khởi kiện nhận được quyết định hoặc kể từ ngày quyết định được niêm yết theo quy định của Bộ luật này. 3. Trường hợp đơn kháng cáo được gửi qua dịch vụ bưu chính thì ngày kháng cáo được xác định căn cứ vào ngày tổ chức dịch vụ bưu chính nơi gửi đóng dấu ở phong bì. Trường hợp người kháng cáo đang bị tạm giam thì ngày kháng cáo là ngày đơn kháng cáo được giám thị trại giam xác nhận. >>> Về cách tính thời hạn kháng cáo Thời điểm bắt đầu thời hạn kháng cáo Khoản 1 Điều 4 Nghị quyết 06/2012/NQ-HĐTP quy định về thời điểm bắt đầu thời hạn kháng cáo được tính như sau: “- Thời điểm bắt đầu tính thời hạn kháng cáo bản án sơ thẩm là ngày tiếp theo của ngày được xác định. - Ngày được xác định là ngày Toà án tuyên án đối với đương sự có mặt tại phiên toà sơ thẩm hoặc là ngày bản án sơ thẩm được giao hoặc được niêm yết đối với đương sự không có mặt tại phiên toà sơ thẩm.” Ví dụ về cách tính: Ngày 01/01/2020, Toà án xét xử sơ thẩm vụ án dân sự và cùng ngày 01/01/2020 Toà án tuyên án, thì ngày được xác định và thời điểm bắt đầu tính thời hạn kháng cáo như sau: + Đối với đương sự có mặt tại phiên toà sơ thẩm, thì ngày được xác định là ngày 01/01/2020 và thời điểm bắt đầu tính thời hạn kháng cáo 15 ngày là ngày 02/01/2020. + Đối với đương sự không có mặt tại phiên toà sơ thẩm và giả sử ngày 10/01/2020 Toà án cấp sơ thẩm mới giao bản án sơ thẩm cho đương sự, thì ngày được xác định là ngày 10/01/2020 và thời điểm bắt đầu tính thời hạn kháng cáo mười lăm ngày là ngày 11/01/2020. Nếu Toà án cấp sơ thẩm không thể giao trực tiếp bản án sơ thẩm cho đương sự mà phải niêm yết công khai và giả sử ngày niêm yết công khai tại trụ sở Uỷ ban nhân dân cấp xã nơi cư trú của đương sự là ngày 10/01/2020, thì ngày được xác định là ngày 10/01/2020 và thời điểm bắt đầu tính thời hạn kháng cáo mười lăm ngày là ngày 11/01/2020. Thời điểm kết thúc thời hạn kháng cáo Khoản 4 Điều 4 Nghị quyết 06/2012/NQ-HĐTP quy định về thời điểm kết thúc thời hạn kháng cáo được tính như sau: “- Thời điểm kết thúc thời hạn kháng cáo là thời điểm kết thúc ngày cuối cùng của thời hạn. - Nếu ngày cuối cùng của thời hạn là ngày nghỉ cuối tuần (thứ bảy, chủ nhật) hoặc ngày nghỉ lễ, thì thời hạn kháng cáo kết thúc vào lúc hai mươi tư giờ của ngày làm việc đầu tiên tiếp theo ngày nghỉ đó. - Trường hợp Tòa án phải tiến hành ủy thác tư pháp để tống đạt bản án, quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm cho đương sự đang cư trú ở nước ngoài thì thời điểm bắt đầu tính thời hạn kháng cáo là ngày nhận được ủy thác tư pháp, ngày nhận được ủy thác tư pháp được xác định theo quy định của pháp luật về ủy thác tư pháp.”
Trình tự, thủ tục kháng cáo bản án sơ thẩm
Bản án có hiệu lực pháp luật khi nào? Trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, người có quyền kháng cáo có thể thực hiện kháng cáo đối với bản án của Toà án cấp sơ thẩm để yêu cầu Toà án cấp trên trực tiếp giải quyết lại theo thủ tục phúc thẩm. Về thời hạn, người có quyền và trình tự thủ tục kháng cáo bản án sơ thẩm sẽ được nêu cụ thể trong nội dung bên dưới. I. Thời hạn và người có quyền kháng cáo Thời hạn kháng cáo Người có quyền kháng cáo Bản án dân sự sơ thẩm + 15 ngày, kể từ ngày tuyên án; Điều 273, Bộ luật Tố tụng Dân sự 2015 - Đương sự, người đại diện hợp pháp của đương sự, cơ quan, tổ chức, cá nhân khởi kiện có quyền kháng cáo bản án sơ thẩm, quyết định tạm đình chỉ giải quyết vụ án dân sự, quyết định đình chỉ giải quyết vụ án dân sự của Tòa án cấp sơ thẩm để yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm giải quyết lại theo thủ tục phúc thẩm. Điều 271, Bộ luật Tố tụng Dân sự 2015 Bản án hình sự sơ thẩm + 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Điều 333, Bộ luật Tố tụng Hình sự 2015 - Bị cáo, bị hại, người đại diện của họ - Người bào chữa có quyền kháng cáo để bảo vệ lợi ích của người dưới 18 tuổi, người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất mà mình bào chữa. - Nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người đại diện của họ có quyền kháng cáo phần bản án hoặc quyết định có liên quan đến việc bồi thường thiệt hại. - Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án, người đại diện của họ có quyền kháng cáo phần bản án hoặc quyết định có liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của họ. - Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại, đương sự là người dưới 18 tuổi hoặc người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất có quyền kháng cáo phần bản án hoặc quyết định có liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của người mà mình bảo vệ. - Người được Tòa án tuyên không có tội có quyền kháng cáo về các căn cứ mà bản án sơ thẩm đã xác định là họ không có tội. Điều 331, Bộ luật Tố tụng Hình sự 2015 Bản án hành chính sơ thẩm + 15 ngày kể từ ngày tuyên án; Điều 206, Luật Tố tụng hành chính 2015 Đương sự hoặc người đại diện hợp pháp của đương sự có quyền kháng cáo bản án của Tòa án cấp sơ thẩm để yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm giải quyết lại theo thủ tục phúc thẩm. Điều 204, Bộ luật Tố tụng Hành chính 2015 II. Trình tự thủ tục kháng cáo 1. Bản án dân sự sơ thẩm - Trình tự kháng cáo Đơn kháng cáo phải có các nội dung chính sau đây: + Ngày, tháng, năm làm đơn kháng cáo; + Tên, địa chỉ; số điện thoại, fax, địa chỉ thư điện tử (nếu có) của người kháng cáo; + Kháng cáo toàn bộ hoặc phần của bản án, quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật; + Lý do của việc kháng cáo và yêu cầu của người kháng cáo; + Chữ ký hoặc điểm chỉ của người kháng cáo. 2. Bản án hình sự sơ thẩm - Trình tự kháng cáo - Đơn kháng cáo có các nội dung chính: + Ngày, tháng, năm làm đơn kháng cáo; + Họ tên, địa chỉ của người kháng cáo; + Lý do và yêu cầu của người kháng cáo; + Chữ ký hoặc điểm chỉ của người kháng cáo. - Kèm theo đơn kháng cáo hoặc cùng với việc trình bày trực tiếp là chứng cứ, tài liệu, đồ vật bổ sung (nếu có) để chứng minh tính có căn cứ của kháng cáo 3. Bản án hành chính sơ thẩm - Trình tự kháng cáo Đơn kháng cáo phải có các nội dung chính sau đây: + Ngày, tháng, năm làm đơn kháng cáo; + Tên, địa chỉ; số điện thoại, fax, địa chỉ thư điện tử (nếu có) của người kháng cáo; + Kháng cáo toàn bộ hoặc một phần của bản án, quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật; + Lý do của việc kháng cáo và yêu cầu của người kháng cáo; + Chữ ký hoặc điểm chỉ của người kháng cáo.
Thời điểm bắt đầu tính thời hạn kháng cáo
Khoản 1 Điều 273 Bộ Luật tố tụng Dân sự 2015 có quy định: "Điều 273. Thời hạn kháng cáo 1. Thời hạn kháng cáo đối với bản án của Tòa án cấp sơ thẩm là 15 ngày, kể từ ngày tuyên án; đối với đương sự, đại diện cơ quan, tổ chức hoặc cá nhân khởi kiện không có mặt tại phiên tòa hoặc không có mặt khi tuyên án mà có lý do chính đáng thì thời hạn kháng cáo được tính từ ngày họ nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết. Đối với trường hợp đương sự, đại diện cơ quan, tổ chức hoặc cá nhân khởi kiện đã tham gia phiên tòa nhưng vắng mặt khi Tòa án tuyên án mà không có lý do chính đáng thì thời hạn kháng cáo được tính từ ngày tuyên án. 2. Thời hạn kháng cáo đối với quyết định tạm đình chỉ, đình chỉ giải quyết vụ án của Tòa án cấp sơ thẩm là 07 ngày, kể từ ngày đương sự, cơ quan, tổ chức, cá nhân khởi kiện nhận được quyết định hoặc kể từ ngày quyết định được niêm yết theo quy định của Bộ luật này. 3. Trường hợp đơn kháng cáo được gửi qua dịch vụ bưu chính thì ngày kháng cáo được xác định căn cứ vào ngày tổ chức dịch vụ bưu chính nơi gửi đóng dấu ở phong bì. Trường hợp người kháng cáo đang bị tạm giam thì ngày kháng cáo là ngày đơn kháng cáo được giám thị trại giam xác nhận". Như vậy, về nguyên tắc thời điểm bắt đầu tính thời hạn kháng cáo của bản án sơ thẩm là ngày Tòa án tuyên án đối với đương sự có mặt tại phiên tòa. Tuy nhiên, đối với trường hợp đương sự không có mặt khi tuyên án mà có lý do chính đáng thì thời hạn kháng cáo không được tính bắt đầu từ ngày tuyên án, mà bắt đầu tính từ ngày họ nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.
Luật sư có quyền kháng cáo trong vụ án hành chính hay không?
Quyền kháng cáo bản án, quyết định sơ thẩm vụ án hành chính: Luật sư - người bảo vệ quyền và lợi ích của bà A (đại diện theo ủy quyền của bà B - người khởi kiện, đồng thời bà A cũng là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan), Luật sư có được quyền kháng cáo không? Tòa án căn cứ vào khoản 6 Điều 61 và điểm a khoản 4 Điều 207, bác đơn kháng cáo của Luật sư có đúng không?
Bị cáo "XIN" hay "ĐỀ NGHỊ" tăng/giảm hình phạt?
Xin chào cả nhà, Bắt nguồn từ vụ việc được xem là chưa từng có tiền lệ trong lịch sử xét xử ngành Tòa án Việt Nam đó là "Bị cáo kháng cáo tăng hình phạt cho mình". Nhóm em có nổ ra một cuộc tranh luận đó là: Bị cáo "XIN" hay "ĐỀ NGHỊ" tăng/giảm hình phạt? Về lý thuyết, kháng cáo là quyền của bị cáo và được quy định tại Bộ luật tố tụng hình sự và theo em được biết thì không có văn bản nào hướng dẫn bị cáo viết kháng cáo như thế nào, viết ra sao. Nên ở đây có 2 luồng ý kiến: - Thứ 1: Phải là "ĐỀ NGHỊ" thì mới đúng bản chất pháp lý, Tòa án dựa trên tình tiết vụ án, áp dụng các quy định pháp luật để xét xử công bằng chứ không phải là xét theo cơ chế "XIN - CHO" - Thứ 2: Vì kháng cáo là quyền nên việc bị cáo tự cho rằng mình ở tâm thế phải đi xin và làm đơn kháng cáo XIN giảm hình phạt cũng không có gì sai. Về thực tế, em cũng có tham khảo 1 số anh/chị làm ở Tòa án, việc bị cáo kháng cáo tăng hình phạt thì chưa có tiền lệ, nhưng với trường hợp bị cáo kháng cáo giảm hình phạt, đơn kháng cáo được chấp nhận đều là "Đơn xin kháng cáo" hay "Đơn kháng cáo: có nội dung xin giảm nhẹ hình phạt. Mong cả nhà cho em xin ý kiến ạ!!
Quy định mới về thời hạn kháng cáo trong BLTTDS năm 2015
BLTTDS năm 2015 đã có nhiều quy định mới, tiến bộ, khắc phục được những bất cập, chưa hợp lý trong các quy định của BLTTDS năm 2004 (sửa đổi, bổ sung năm 2011). Tại Điều 245 BLTTDS năm 2014 (sửa đổi bổ sung năm 2011) chưa có quy định về việc xác định thời điểm bắt đầu thời hạn kháng cáo theo thủ tục phúc thẩm trong trường hợp đương sự có mặt tại phiên tòa. Mặt khác, một số trường trong quá trình diễn ra phiên tòa đương sự bỏ về khi Hội đồng xét xử chưa nghị án hoặc đương sự vắng mặt khi Hội đồng xét xử tuyên án mà không có lý do chính đáng, hoặc có lý do chính đáng nhưng lại không thể tham gia phiên tòa...Tuy nhiên, tại BLTTDS năm 2004 (sửa đổi, bổ sung năm 2011) lại chưa có quy định cụ thể, rõ ràng về thời hạn kháng cáo đối với những trường hợp nói trên. Để khắc phục những tồn tại trên, BLTTDS năm 2015 đã sửa đổi, bổ sung Điều 245 BLTTDS năm 2011 thành Điều 273 quy định về thời hạn kháng cáo. Theo đó: - Thời hạn kháng cáo đối với bản án của Tòa án cấp sơ thẩm là 15 ngày, kể từ ngày tuyên án; đối với đương sự, đại diện cơ quan, tổ chức hoặc cá nhân khởi kiện không có mặt tại phiên tòa hoặc không có mặt khi tuyên án mà có lý do chính đáng thì thời hạn kháng cáo được tính từ ngày họ nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết. Đối với trường hợp đương sự, đại diện cơ quan, tổ chức hoặc cá nhân khởi kiện đã tham gia phiên tòa nhưng vắng mặt khi Tòa án tuyên án mà không có lý do chính đáng thì thời hạn kháng cáo được tính từ ngày tuyên án. - Thời hạn kháng cáo đối với quyết định tạm đình chỉ, đình chỉ giải quyết vụ án của Tòa án cấp sơ thẩm là 07 ngày, kể từ ngày đương sự, cơ quan, tổ chức, cá nhân khởi kiện nhận được quyết định hoặc kể từ ngày quyết định được niêm yết theo quy định của Bộ luật này. - Trường hợp đơn kháng cáo được gửi qua dịch vụ bưu chính thì ngày kháng cáo được xác định căn cứ vào ngày tổ chức dịch vụ bưu chính nơi gửi đóng dấu ở phong bì. Trường hợp người kháng cáo đang bị tạm giam thì ngày kháng cáo là ngày đơn kháng cáo được giám thị trại giam xác nhận.
Người bị tuyên vô tội có thể kháng cáo, nhưng để làm gì ?
Khi nghiên cứu các quy định của Bộ luật tố tụng hình sự 2003 và kể của của Bộ luật tố tụng hình sự 2015, mình đều gặp một quy định làm mình rất khó hiểu. Cụ thể: Đoạn cuối cùng của Điều 231 BLTTHS 2003 quy định: Người được Toà án tuyên bố là không có tội có quyền kháng cáo phần lý do bản án sơ thẩm đã tuyên là họ không có tội. Khoản 6 điều 331 BLTTHS 2015 cũng quy định tương tự: Người được Tòa án tuyên không có tội có quyền kháng cáo về các căn cứ mà bản án sơ thẩm đã xác định là họ không có tội. Điều mình khó hiểu ở đây là "lý do cần phải có các quy định này". Người xưa vẫn thường nói: Vô phúc đáo tụng đình. Tức vướng đến chuyên tố tụng là chuyện không vui, vậy tại sao một người đã được toà án tuyên là không có tội lại kháng cáo. Mặc dù quy định chỉ nêu về việc kháng cáo "lý do" hay "căn cứ" mà từ đó Toà án quyết định người đó không có tội, nhưng vấn đề mình không hiểu vẫn như cũ: Tại sao phải cần quy định như vậy. Nghĩ đi nghĩ lại mình chỉ "dự đoán" được một lý do, có thể là căn cứ đó liên quan đến xác định việc bồi thường thiệt hại, đặc biệt là khi trách nhiệm bồi thường là của nhà nước. Nhưng không biết có đúng và đủ không, hy vọng mọi người ai biết có thể hướng dẫn cho mình. :(