Khởi tố Giám đốc Ban quản lý dự án đầu tư xây dựng hạ tầng đô thị TPHCM
Bộ Công an đã khởi tố, bắt giam ông Bùi Thanh Tân, Giám đốc Ban Quản lý dự án đầu tư xây dựng hạ tầng đô thị TPHCM và 1 trưởng ban điều hành Dự án 4 thuộc ban này. Cơ quan Cảnh sát điều tra - Bộ Công an khởi tố và bắt giam ông Bùi Thanh Tân, sinh năm 1970, trú Phường 6, Quận 4, TPHCM về tội Nhận hối lộ. Ông Tân là Giám đốc Ban Quản lý dự án đầu tư xây dựng hạ tầng đô thị TPHCM. Cùng bị khởi tố và bắt giam về tội danh trên còn có Lê Thanh Tùng (sinh năm 1977, trú Quận 12, TPHCM), Trưởng ban điều hành Dự án 4 thuộc Ban Quản lý dự án đầu tư xây dựng hạ tầng đô thị. Dự án 4 chịu trách nhiệm quản lý giai đoạn 2 của Dự án xây dựng hạ tầng và cải tạo môi trường kênh Tham Lương - Bến Cát - rạch Nước Lên, với tổng vốn đầu tư 8.200 tỷ đồng. Ông Bùi Thanh Tân, Giám đốc Ban Quản lý dự án đầu tư xây dựng hạ tầng đô thị TPHCM Trước đó, do ông Bùi Thanh Tân đã vắng mặt tại cơ quan trong thời gian dài. Ngày 1/10, Chủ tịch UBND TPHCM đã quyết định phân công ông Trần Như Quốc Bảo, Phó Giám đốc Ban Quản lý dự án, phụ trách lãnh đạo và điều hành hoạt động của ban, bao gồm các giao dịch tài chính và nhiệm vụ của Giám đốc. Ban Quản lý dự án đầu tư xây dựng hạ tầng đô thị TPHCM đóng vai trò chủ đầu tư các công trình hạ tầng đô thị như cấp thoát nước, chống ngập, công viên, cây xanh, chiếu sáng và các dự án khác sử dụng vốn ngân sách hoặc vốn nhà nước ngoài ngân sách khi được giao, đảm bảo tuân thủ các quy định pháp luật trong quá trình đầu tư xây dựng. (Nguồn: Cổng Thông tin điện tử Chính phủ) Link bài viết: https://baochinhphu.vn/khoi-to-giam-doc-ban-quan-ly-du-an-dau-tu-xay-dung-ha-tang-do-thi-tphcm-102241016082238817.htm
Khởi tố tài xế và 3 giáo viên vụ bé trai tử vong do bị bỏ quên trên xe đưa đón
Cơ quan công an đã quyết định khởi tố 4 bị can liên quan đến việc bé trai tử vong do bị bỏ quên trên xe đưa đón xảy ra ngày 29/5/2024 trên địa bàn thành phố Thái Bình (1) Khởi tố thêm 03 bị can Ngày 30/5/2024, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Thái Bình đã ra Quyết định khởi tố bị can và Lệnh tạm giam đối với P.Q.A (sinh năm 1986, trú tại thôn Phúc Hạ, xã Vũ Phúc, thành phố Thái Bình) là giáo viên trường mầm non Hồng Nhung 2, địa chỉ tại xã Phú Xuân, thành phố Thái Bình về tội “Vô ý làm chết người” quy định tại Điều 128 Bộ luật hình sự 2015. Vào ngày 31/5/2024, căn cứ vào kết quả điều tra, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Thái Bình tiếp tục ra Quyết định bổ sung Quyết định khởi tố vụ án hình sự “Thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng” xảy ra tại xã Phú Xuân, thành phố Thái Bình. Theo đó, Quyết định khởi tố bị can và Lệnh bắt bị can để tạm giam đối với N.V.L (sinh năm 1965, trú tại tổ 1, phường Quang Trung) là lái xe đưa đón học sinh của Trường Mầm non Hồng Nhung cơ sở 2 về tội “Vô ý làm chết người” quy định tại Điều 128 Bộ luật hình sự 2015. Quyết định khởi tố bị can và Lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú đối với N.T.P (sinh năm 1966, trú tại thôn Đại Lai 2, xã Phú Xuân) và Đ.T.N (sinh năm 1998, trú tại tổ 4, phường Trần Lãm) là hai giáo viên phụ trách lớp có học sinh tử vong về tội “Thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng” quy định tại Điều 360 Bộ luật hình sự 2015. Như vậy, đã có 4 bị can bị Công an thành phố Thái Bình khởi tố liên quan đến vụ việc bé trai tử vong do bị bỏ quên trong xe ô tô. Vụ án đang được Lãnh đạo Công an tỉnh tập trung chỉ đạo điều tra xử lý nghiêm theo quy định của pháp luật. (Nguồn tổng hợp) (2) Điểm lại vụ án Theo các nguồn thông tin, khoảng 18h00’, ngày 29/5/2024, Công an Thành phố Thái Bình tiếp nhận tin báo của anh T.Đ.A (2004), trú tại xã Dũng Nghĩa, huyện Vũ Thư về việc cháu T.G.H (sinh ngày 20/9/2019), là học sinh lớp 4 tuổi Trường Mầm non Hồng Nhung, địa chỉ tại xã Phú Xuân, thành phố Thái Bình bị bỏ quên trên xe đưa đón của nhà trường dẫn đến tử vong. Bước đầu xác định: Khoảng 6h20’ ngày 29/5/2024, anh N.V.L (1965), trú tại phường Quang Trung, thành phố Thái Bình điều khiển xe ô tô 29 chỗ cùng 01 giáo viên Trường Mầm non Hồng Nhung đón cháu H và 09 học sinh khác đi học. Khi đến trường, anh L. mở cửa xe ô tô cho giáo viên và các cháu học sinh tự đi vào lớp. Sau đó, điều khiển xe đưa đón đỗ ở cổng trường rồi ra về. Khi vào lớp, giáo viên lớp có chụp ảnh điểm danh học sinh gửi lên phần mềm của nhà trường để theo dõi, quản lý thì phát hiện vắng cháu H nhưng không thông báo cho gia đình. Đến khoảng 17 giờ cùng ngày, anh T.Đ.A - là cậu ruột của cháu đến đón và phát hiện sự việc cháu H bị bỏ quên trên xe đưa đón của nhà trường dẫn đến tử vong. Ngay trong ngày, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Thành phố đã ra Quyết định khởi tố vụ án “Vô ý làm chết người” quy định tại Điều 128 Bộ luật hình sự 2015 để điều tra làm rõ vụ án. (3) Mức xử phạt tội "Vô ý làm chết người" và "Thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng" Theo Điều 128 Bộ luật hình sự 2015 quy định, người nào vô ý làm chết người, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 01 năm đến 05 năm. Phạm tội làm chết 02 người trở lên, thì bị phạt tù từ 03 năm đến 10 năm. Đối với Tội thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng được quy định tại Điều 360 Bộ luật hình sự 2015, người nào có chức vụ, quyền hạn vì thiếu trách nhiệm mà không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nhiệm vụ được giao thuộc một trong các trường hợp sau đây thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 05 năm: - Làm chết 01 người hoặc gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 01 người với tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 61% trở lên; - Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 02 người với tỷ lệ tổn thương cơ thể của mỗi người từ 31% đến 60%; - Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 03 người trở lên mà tổng tỷ lệ tổn thương cơ thể của những người này từ 61% đến 121%; - Gây thiệt hại về tài sản từ 100.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng. Như vậy, người phạm tội “Vô ý làm chết người" có thể sẽ lãnh mức án tù từ 01 đến 05 năm; người phạm tội đối với tội “Thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng” sẽ bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 05 năm. Mức xử phạt này dựa trên quy định của Bộ luật hình sự 2015, về thực tế xét xử, HĐXX sẽ xem xét thêm nhiều yếu tố của vụ án để đưa ra mức xử phạt cuối cùng dành cho các bị can.
Những trường hợp nào chỉ truy cứu TNHS khi bị hại yêu cầu?
Tội phạm sẽ phải chịu trách nhiệm hình sự cho hành vi phạm tội của mình. Tuy nhiên cũng có trường hợp người phạm tội chỉ bị truy cứu trách nhiệm hình sự khi có yêu cầu của bị hại. Căn cứ nào để không khởi tố vụ án hình sự? Theo Điều 157 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 sửa đổi 2021 quy định không được khởi tố vụ án hình sự khi có một trong các căn cứ sau: - Không có sự việc phạm tội; - Hành vi không cấu thành tội phạm; - Người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội chưa đến tuổi chịu trách nhiệm hình sự; - Người mà hành vi phạm tội của họ đã có bản án hoặc quyết định đình chỉ vụ án có hiệu lực pháp luật; - Đã hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự; - Tội phạm đã được đại xá; - Người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội đã chết, trừ trường hợp cần tái thẩm đối với người khác; - Tội phạm quy định tại khoản 1 các điều 134, 135, 136, 138, 139, 141, 143, 155 và 156 của Bộ luật hình sự mà bị hại hoặc người đại diện của bị hại không yêu cầu khởi tố. Như vậy, nếu thuộc một trong các căn cứ trên thì sẽ không được khởi tố vụ án hình sự. Theo đó, vẫn có các trường hợp mà bị hại hoặc người đại diện của bị hại không yêu cầu khởi tố thì sẽ không khởi tố vụ án. Những trường hợp nào chỉ truy cứu TNHS khi bị hại yêu cầu? Theo Điều 155 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 sửa đổi 2021 quy định: Chỉ được khởi tố vụ án hình sự về tội phạm quy định tại khoản 1 các điều 134, 135, 136, 138, 139, 141, 143, 155 và 156 Bộ luật Hình sự 2015 khi có yêu cầu của bị hại hoặc người đại diện của bị hại là người dưới 18 tuổi, người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất hoặc đã chết. Đồng thời, truy cứu trách nhiệm hình sự (TNHS) là việc buộc người có hành vi được quy định trong Bộ luật Hình sự phải chịu TNHS về hành vi phạm tội mà họ gây ra. Người đang bị truy cứu TNHS là người đang trong thời gian bị các cơ quan tiến hành tố tụng áp dụng các biện pháp tố tụng hình sự như khởi tố, điều tra; truy tố và xét xử. Theo đó, các trường hợp chỉ truy cứu TNHS khi bị hại yêu cầu bao gồm: - Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác theo Điều 134 Bộ luật Hình sự 2015. - Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh theo Điều 135 Bộ luật Hình sự 2015. - Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng hoặc do vượt quá mức cần thiết khi bắt giữ người phạm tội theo Điều 136 Bộ luật Hình sự 2015. - Tội vô ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác theo Điều 138 Bộ luật Hình sự 2015. - Tội vô ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác do vi phạm quy tắc nghề nghiệp hoặc quy tắc hành chính theo Điều 139 Bộ luật Hình sự 2015. - Tội hiếp dâm theo Điều 141 Bộ luật Hình sự 2015. - Tội cưỡng dâm theo Điều 143 Bộ luật Hình sự 2015. - Tội làm nhục người khác theo Điều 155 Bộ luật Hình sự 2015. - Tội vu khống theo Điều 156 Bộ luật Hình sự 2015. Cơ quan nào có thẩm quyền khởi tố vụ án hình sự? Theo Điều 153 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 quy định thẩm quyền khởi tố vụ án hình sự như sau: - Cơ quan điều tra quyết định khởi tố vụ án hình sự đối với tất cả vụ việc có dấu hiệu tội phạm, trừ những vụ việc do cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra, Viện kiểm sát, Hội đồng xét xử đang thụ lý, giải quyết quy định tại các khoản 2, 3 và 4 Điều 153 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015. - Cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra ra quyết định khởi tố vụ án hình sự trong trường hợp quy định tại Điều 164 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 . - Viện kiểm sát ra quyết định khởi tố vụ án hình sự trong trường hợp: + Viện kiểm sát hủy bỏ quyết định không khởi tố vụ án hình sự của Cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra; + Viện kiểm sát trực tiếp giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố; + Viện kiểm sát trực tiếp phát hiện dấu hiệu tội phạm hoặc theo yêu cầu khởi tố của Hội đồng xét xử. - Hội đồng xét xử ra quyết định khởi tố hoặc yêu cầu Viện kiểm sát khởi tố vụ án hình sự nếu qua việc xét xử tại phiên tòa mà phát hiện có việc bỏ lọt tội phạm. Như vậy, tùy theo vụ việc mà các cơ quan có thẩm quyền khởi tố vụ án hình sự có thể là cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra, Viện kiểm sát, Hội đồng xét xử đang thụ lý, giải quyết.
Người trốn truy nã đến hết thời hiệu truy cứu TNHS thì có tiếp tục khởi tố không?
Thông thường thời hiệu truy cứu TNHS là từ 5 năm đến 20 năm, nếu hết thời hạn này thì tội phạm sẽ không bị truy cứu TNHS. Vậy, đối với trường hợp tội phạm trốn truy nã quá thời hiệu thì có bị khởi tố không? Người trốn truy nã đến hết thời hiệu truy cứu TNHS thì có tiếp tục khởi tố không? Theo Điều 27 Bộ luật Hình sự 2015 quy định về thời hiệu truy cứu TNHS như sau: - Thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự là thời hạn do Bộ luật Hình sự 2015 quy định mà khi hết thời hạn đó thì người phạm tội không bị truy cứu trách nhiệm hình sự. - Thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự được quy định như sau: + 05 năm đối với tội phạm ít nghiêm trọng; + 10 năm đối với tội phạm nghiêm trọng; + 15 năm đối với tội phạm rất nghiêm trọng; + 20 năm đối với tội phạm đặc biệt nghiêm trọng. - Thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự được tính từ ngày tội phạm được thực hiện. Nếu trong thời hạn quy định trên, người phạm tội lại thực hiện hành vi phạm tội mới mà Bộ luật Hình sự 2015 quy định mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy trên 01 năm tù, thì thời hiệu đối với tội cũ được tính lại kể từ ngày thực hiện hành vi phạm tội mới. Nếu trong thời hạn quy định trên, người phạm tội cố tình trốn tránh và đã có quyết định truy nã, thì thời hiệu tính lại kể từ khi người đó ra đầu thú hoặc bị bắt giữ. Như vậy, đối với tội phạm đã được phát hiện và đã có quyết định truy nã nhưng trốn truy nã đến hết thời hiệu truy cứu TNHS theo quy định thì thời hiệu mới sẽ được tính lại từ khi người đó bị bắt. Tức là nếu bị bắt lại người đó vẫn sẽ bị tiếp tục khởi tố. Tội phạm được phân thành mấy loại? Thế nào là tội phạm đặc biệt nghiêm trọng? Theo Điều 9 Bộ luật Hình sự 2015, sửa đổi 2017 quy định phân loại tội phạm như sau: - Căn cứ vào tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội được quy định trong Bộ luật Hình sự 2015, tội phạm được phân thành 04 loại sau đây: + Tội phạm ít nghiêm trọng là tội phạm có tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội không lớn mà mức cao nhất của khung hình phạt do Bộ luật Hình sự 2015 quy định đối với tội ấy là phạt tiền, phạt cải tạo không giam giữ hoặc phạt tù đến 03 năm; + Tội phạm nghiêm trọng là tội phạm có tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội lớn mà mức cao nhất của khung hình phạt do Bộ luật Hình sự 2015 quy định đối với tội ấy là từ trên 03 năm tù đến 07 năm tù; + Tội phạm rất nghiêm trọng là tội phạm có tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội rất lớn mà mức cao nhất của khung hình phạt do Bộ luật Hình sự 2015 quy định đối với tội ấy là từ trên 07 năm tù đến 15 năm tù; + Tội phạm đặc biệt nghiêm trọng là tội phạm có tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội đặc biệt lớn mà mức cao nhất của khung hình phạt do Bộ luật Hình sự 2015 quy định đối với tội ấy là từ trên 15 năm tù đến 20 năm tù, tù chung thân hoặc tử hình. - Tội phạm do pháp nhân thương mại thực hiện được phân loại căn cứ vào tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội theo quy định trên và quy định tương ứng đối với các tội phạm được quy định tại Điều 76 Bộ luật Hình sự 2015. Như vậy, tội phạm sẽ được phân loại theo tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội, theo đó tội phạm đặc biệt nghiêm trọng là có mức độ nguy hiểm nhất và bị phạt tù mức cao nhất là tử hình. Những tội nào sẽ không áp dụng thời hiệu truy cứu TNHS? Theo Điều 28 Bộ luật Hình sự 2015 có quy định về các trường hợp không áp dụng thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự bao gồm: - Các tội xâm phạm an ninh quốc gia quy định tại Chương XIII Bộ luật Hình sự 2015; - Các tội phá hoại hòa bình, chống loài người và tội phạm chiến tranh quy định tại Chương XXVI Bộ luật Hình sự 2015; - Tội tham ô tài sản thuộc trường hợp quy định tại khoản 3 và khoản 4 Điều 353 Bộ luật Hình sự 2015; tội nhận hối lộ thuộc trường hợp quy định tại khoản 3 và khoản 4 Điều 354 của Bộ luật Hình sự 2015. Như vậy, nếu thuộc một trong các tội trên thì sẽ không áp dụng thời hiệu truy cứu TNHS. Tức là, bất cứ khi nào tội phạm được phát hiện thì vẫn sẽ bị truy cứu TNHS.
Chưa nộp đơn khởi kiện, khởi tố hình sự, cá nhân có được tự yêu cầu giám định thương tích không?
Khi nào sẽ thực hiện giám định thương tích? Cá nhân có quyền tự yêu cầu giám định thương tích khi chưa nộp đơn khởi kiện và chưa tiến hành khởi tố vụ án hình sự không? Khi nào thực hiện giám định thương tích? Theo Điều 2 Luật Giám định tư pháp 2012 được sửa đổi bởi Khoản 1 Điều 1 Luật Giám định tư pháp sửa đổi 2020 quy định: Giám định tư pháp là việc người giám định tư pháp sử dụng kiến thức, phương tiện, phương pháp khoa học, kỹ thuật, nghiệp vụ để kết luận về chuyên môn những vấn đề có liên quan đến hoạt động khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án hình sự, giải quyết vụ việc dân sự, vụ án hành chính theo trưng cầu của cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng hoặc theo yêu cầu của người yêu cầu giám định theo quy định của Luật Giám định tư pháp 2012. Theo đó, giám định thương tích là một trong các thủ tục giám định tư pháp. Giám định thương tích là quá trình xác định, đánh giá và phân tích các dấu hiệu, tổn thương và vết thương trên cơ thể người hoặc vật chất để tìm hiểu nguyên nhân, tính chất, và mức độ của thương tích. Giám định thương tích nhằm mục đích cung cấp các thông tin chính xác và khách quan về thương tích để xác định quyền lợi và nghĩa vụ của các bên liên quan, bao gồm nạn nhân, bị can, và hệ thống pháp luật, hỗ trợ hoạt động khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án hình sự, giải quyết vụ việc dân sự, vụ án hành chính. Theo Điều 206 Bộ luật tố tụng hình sự 2015 quy định về các trường hợp bắt buộc phải trưng cầu giám định bao gồm: - Tình trạng tâm thần của người bị buộc tội khi có sự nghi ngờ về năng lực trách nhiệm hình sự của họ; tình trạng tâm thần của người làm chứng hoặc bị hại khi có sự nghi ngờ về khả năng nhận thức, khả năng khai báo đúng đắn về những tình tiết của vụ án; - Tuổi của bị can, bị cáo, bị hại nếu việc đó có ý nghĩa đối với việc giải quyết vụ án và không có tài liệu để xác định chính xác tuổi của họ hoặc có nghi ngờ về tính xác thực của những tài liệu đó; - Nguyên nhân chết người; - Tính chất thương tích, mức độ tổn hại sức khỏe hoặc khả năng lao động; - Chất ma tuý, vũ khí quân dụng, vật liệu nổ, chất cháy, chất độc, chất phóng xạ, tiền giả, vàng, bạc, kim khí quý, đá quý, đồ cổ; - Mức độ ô nhiễm môi trường. Như vậy, khi cần xác định tính chất của thương tích, mức độ tổn hại đối với sức khỏe hoặc khả năng lao động của người bị gây thương tích, thì phải bắt buộc trưng cầu giám định thương tích. Chưa nộp đơn khởi kiện, chưa khởi tố hình sự, cá nhân có được tự yêu cầu giám định thương tích không? Theo Điều 22 Luật Giám định tư pháp 2012 được sửa đổi bởi Khoản 12 Điều 1 Luật Giám định tư pháp sửa đổi 2020 quy định về quyền, nghĩa vụ của người yêu cầu giám định tư pháp như sau: - Người yêu cầu giám định có quyền gửi văn bản yêu cầu cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng trưng cầu giám định. Trường hợp cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng không chấp nhận yêu cầu thì trong thời hạn 07 ngày, kể từ ngày nhận được yêu cầu trưng cầu giám định, phải thông báo cho người yêu cầu giám định bằng văn bản. Hết thời hạn nói trên hoặc kể từ ngày nhận được thông báo từ chối trưng cầu giám định, người yêu cầu giám định có quyền tự mình yêu cầu giám định - Người yêu cầu giám định có quyền: + Yêu cầu cá nhân, tổ chức thực hiện giám định tư pháp trả kết luận giám định đúng thời hạn đã thỏa thuận và theo nội dung đã yêu cầu; + Yêu cầu cá nhân, tổ chức đã thực hiện giám định tư pháp giải thích kết luận giám định; + Đề nghị Toà án triệu tập người giám định tư pháp đã thực hiện giám định tham gia phiên tòa để giải thích, trình bày về kết luận giám định; + Yêu cầu cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng trưng cầu giám định lại; yêu cầu giám định bổ sung theo quy định tại khoản 1 Điều 29 của Luật này. - Người yêu cầu giám định tư pháp có nghĩa vụ: + Cung cấp thông tin, tài liệu có liên quan đến đối tượng giám định theo yêu cầu của người giám định tư pháp và chịu trách nhiệm về tính chính xác của thông tin, tài liệu do mình cung cấp; + Nộp tạm ứng chi phí giám định tư pháp khi yêu cầu giám định; thanh toán kịp thời, đầy đủ chi phí giám định cho cá nhân, tổ chức thực hiện giám định khi nhận kết luận giám định. - Người yêu cầu giám định chỉ được thực hiện quyền tự yêu cầu giám định trước khi Tòa án ra quyết định đưa vụ án ra xét xử sơ thẩm. Như vậy, cá nhân chỉ có quyền tự yêu cầu giám định trước khi có quyết định đưa vụ án ra xét xử sơ thẩm. Theo đó, khi chưa nộp đơn khởi kiện, chưa khởi tố hình sự tức là chưa có quyết định, lúc này cá nhân có quyền tự yêu cầu giám định thương tích. Khi nào Tòa án sẽ ra quyết định đưa vụ án hình sự ra xét xử? Thời hạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án hình sự theo Điều 277 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 như sau: - Trong thời hạn 30 ngày đối với tội phạm ít nghiêm trọng, 45 ngày đối với tội phạm nghiêm trọng, 02 tháng đối với tội phạm rất nghiêm trọng, 03 tháng đối với tội phạm đặc biệt nghiêm trọng kể từ ngày thụ lý vụ án, Thẩm phán chủ tọa phiên tòa phải ra một trong các quyết định: + Đưa vụ án ra xét xử; + Trả hồ sơ để yêu cầu điều tra bổ sung; + Tạm đình chỉ vụ án hoặc đình chỉ vụ án. Đối với vụ án phức tạp, Chánh án Tòa án có thể quyết định gia hạn thời hạn chuẩn bị xét xử nhưng không quá 15 ngày đối với tội phạm ít nghiêm trọng và tội phạm nghiêm trọng, không quá 30 ngày đối với tội phạm rất nghiêm trọng và tội phạm đặc biệt nghiêm trọng. Việc gia hạn thời hạn chuẩn bị xét xử phải thông báo ngay cho Viện kiểm sát cùng cấp. - Đối với vụ án được trả lại để yêu cầu điều tra bổ sung thì trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận lại hồ sơ, Thẩm phán chủ tọa phiên tòa phải ra quyết định đưa vụ án ra xét xử. Trường hợp phục hồi vụ án thì thời hạn chuẩn bị xét xử theo thủ tục chung quy định tại Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 kể từ ngày Tòa án ra quyết định phục hồi vụ án. - Trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày có quyết định đưa vụ án ra xét xử, Tòa án phải mở phiên tòa; trường hợp vì lý do bất khả kháng hoặc do trở ngại khách quan thì Tòa án có thể mở phiên tòa trong thời hạn 30 ngày. Như vậy, trong thời hạn 30 ngày đối với tội phạm ít nghiêm trọng, 45 ngày đối với tội phạm nghiêm trọng, 02 tháng đối với tội phạm rất nghiêm trọng, 03 tháng đối với tội phạm đặc biệt nghiêm trọng kể từ ngày thụ lý vụ án, Thẩm phán phải ra quyết định đưa vụ án ra xét xử trong trường hợp đủ điều kiện xét xử.
Làm người dưới 13 tuổi có thai sẽ bị xử lý thế nào?
Theo Báo Phụ Nữ Việt Nam đưa tin, tại xã Tam Hiệp (huyện Thanh Trì, Hà Nội) vừa qua xảy ra vụ việc cháu bé 12 tuổi được gia đình thấy có biểu hiện bụng to bất thường nên đưa đi kiểm tra và phát hiện đang mang bầu ở tháng thứ 6. Vậy, người làm cho cháu bé có thai sẽ bị xử lý thế nào? Làm người dưới 13 tuổi có thai sẽ bị xử lý thế nào? Theo quy định tại Điều 142 Bộ luật Hình sự 2015, được sửa đổi bởi khoản 24 Điều 1 Luật sửa đổi Bộ luật Hình sự 2017 quy định về tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi như sau: - Người nào thực hiện một trong các hành vi sau đây, thì bị phạt tù từ 07 năm đến 15 năm: + Dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực hoặc lợi dụng tình trạng không thể tự vệ được của nạn nhân hoặc thủ đoạn khác giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi trái với ý muốn của họ; + Giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác với người dưới 13 tuổi. - Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 12 năm đến 20 năm: + Có tính chất loạn luân; + Làm nạn nhân có thai; + Gây thương tích, gây tổn hại cho sức khỏe hoặc gây rối loạn tâm thần và hành vi của nạn nhân mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31% đến 60%; + Đối với người mà người phạm tội có trách nhiệm chăm sóc, giáo dục, chữa bệnh; + Phạm tội 02 lần trở lên; + Đối với 02 người trở lên; + Tái phạm nguy hiểm. - Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù 20 năm, tù chung thân hoặc tử hình: + Có tổ chức; + Nhiều người hiếp một người; + Đối với người dưới 10 tuổi; + Gây thương tích, gây tổn hại cho sức khỏe hoặc gây rối loạn tâm thần và hành vi của nạn nhân mà tỷ lệ tổn thương cơ thể 61% trở lên; + Biết mình bị nhiễm HIV mà vẫn phạm tội; + Làm nạn nhân chết hoặc tự sát. - Người phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm. Như vậy, dù quan hệ tự nguyện hay ép buộc với người dưới 13 tuổi đều sẽ bị truy cứu với tội danh hiếp dâm người dưới 16 tuổi. Theo đó, làm người dưới 13 tuổi có thai sẽ bị phạt tù từ 12 năm đến 20 năm và có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm. Nếu gia đình không yêu cầu xử lý, người làm người dưới 13 tuổi có thai có bị khởi tố không? Theo Khoản 1 Điều 155 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015, được sửa đổi bởi khoản 3 Điều 1 Luật sửa đổi Bộ luật Tố tụng hình sự 2021 quy định về các trường hợp khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của bị hại như sau: Chỉ được khởi tố vụ án hình sự về tội phạm quy định tại khoản 1 các điều 134, 135, 136, 138, 139, 141, 143, 155 và 156 của Bộ Luật hình sự khi có yêu cầu của bị hại hoặc người đại diện của bị hại là người dưới 18 tuổi, người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất hoặc đã chết. Theo đó, tội phạm hiếp dâm người dưới 16 tuổi được quy định tại Điều 142 Bộ luật hình sự 2015 không nằm trong quy định trên, vì vậy dù không có yêu cầu của bị hại thì người làm người dưới 13 tuổi có thai vẫn sẽ bị khởi tố. Chưa quan hệ nhưng thực hiện các hành vi tiếp xúc về thể chất với người 16 tuổi thì bị xử lý thế nào? Theo Điều 146 Bộ luật hình sự 2015 được sửa đổi bổ sung bởi điểm e Khoản 2 Điều 2 Luật sửa đổi Bộ luật Hình sự 2017 quy định về tội dâm ô người dưới 16 tuổi như sau: - Người nào đủ 18 tuổi trở lên mà có hành vi dâm ô đối với người dưới 16 tuổi không nhằm mục đích giao cấu hoặc không nhằm thực hiện các hành vi quan hệ tình dục khác, thì bị phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm. - Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 03 năm đến 07 năm: + Phạm tội có tổ chức; + Phạm tội 02 lần trở lên; + Đối với 02 người trở lên; + Đối với người mà người phạm tội có trách nhiệm chăm sóc, giáo dục, chữa bệnh; + Gây rối loạn tâm thần và hành vi của nạn nhân mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31% đến 60%; + Tái phạm nguy hiểm. - Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 07 năm đến 12 năm: + Gây rối loạn tâm thần và hành vi của nạn nhân mà tỷ lệ tổn thương cơ thể 61% trở lên; + Làm nạn nhân tự sát. - Người phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm. Trong đó, các hành vi sau gọi là dâm ô được hướng dẫn bởi Khoản 3 Điều 3 Nghị quyết 06/2019/NQ-HĐTP như sau: Dâm ô quy định tại khoản 1 Điều 146 của Bộ luật Hình sự là hành vi của những người cùng giới tính hoặc khác giới tính tiếp xúc về thể chất trực tiếp hoặc gián tiếp qua lớp quần áo vào bộ phận sinh dục, bộ phận nhạy cảm, bộ phận khác trên cơ thể của người dưới 16 tuổi có tính chất tình dục nhưng không nhằm quan hệ tình dục, gồm một trong các hành vi sau đây: + Dùng bộ phận sinh dục, bộ phận nhạy cảm tiếp xúc (ví dụ: đụng chạm, cọ xát, chà xát...) với bộ phận sinh dục, bộ phận nhạy cảm, bộ phận khác của người dưới 16 tuổi; + Dùng bộ phận khác trên cơ thể (ví dụ: tay, chân, miệng, lưỡi...) tiếp xúc (ví dụ: vuốt ve, sờ, bóp, cấu véo, hôn, liếm...) với bộ phận sinh dục, bộ phận nhạy cảm của người dưới 16 tuổi; + Dùng dụng cụ tình dục tiếp xúc (ví dụ: đụng chạm, cọ xát, chà xát...) với bộ phận sinh dục, bộ phận nhạy cảm của người dưới 16 tuổi; + Dụ dỗ, ép buộc người dưới 16 tuổi dùng bộ phận khác trên cơ thể của họ tiếp xúc (ví dụ: vuốt ve, sờ, bóp, cấu véo, hôn, liếm...) với bộ phận nhạy cảm của người phạm tội hoặc của người khác; + Các hành vi khác có tính chất tình dục nhưng không nhằm quan hệ tình dục (ví dụ: hôn vào miệng, cổ, tai, gáy... của người dưới 16 tuổi). Theo đó, người từ đủ 18 tuổi trở lên mà có những hành vi tiếp xúc về thể chất trực tiếp hoặc gián tiếp vào bộ phận sinh dục, bộ phận nhạy cảm, bộ phận khác trên cơ thể của người dưới 16 tuổi có tính chất tình dục nhưng không nhằm quan hệ tình dục thì sẽ bị truy tố về tội dâm ô đối với người dưới 16 tuổi. Như vậy, dù không trực tiếp quan hệ với người dưới 16 tuổi nhưng có các hành động mang tính chất tình dục thì vẫn sẽ bị xử lý hình sự.
Khi nào pháp nhân được cử người khác ngoài người đại diện tham gia tố tụng hình sự?
Pháp nhân có bắt buộc cử người đại diện theo pháp luật thực hiện các thủ tục tố tụng không? Có trường hợp nào pháp nhân được cử người khác ngoài người đại diện tham gia tố tụng hình sự không? Bài viết sau đây sẽ giải đáp các thắc mắc trên. Ai sẽ là người thực hiện thủ tục tố tụng khi pháp nhân tham gia tố tụng? Theo Khoản 20 Điều 55 Bộ luật tố tụng hình sự 2015 quy định như sau: Người đại diện theo pháp luật của pháp nhân phạm tội, người đại diện khác theo quy định là người tham gia tố tụng. Theo quy định tại Điều 60, Điều 61 Bộ luật tố tụng hình sự 2015 quy định như sau: - Bị can là người hoặc pháp nhân bị khởi tố về hình sự. Quyền và nghĩa vụ của bị can là pháp nhân được thực hiện thông qua người đại diện theo pháp luật của pháp nhân theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự 2015. - Bị cáo là người hoặc pháp nhân đã bị Tòa án quyết định đưa ra xét xử. Quyền và nghĩa vụ của bị cáo là pháp nhân được thực hiện thông qua người đại diện theo pháp luật của pháp nhân theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự 2015. Đồng thời, người đại diện theo pháp luật của pháp nhân tham gia tố tụng được quy định tại Điều 434 Bộ luật tố tụng hình sự 2015 như sau: - Mọi hoạt động tố tụng của pháp nhân bị truy cứu trách nhiệm hình sự được thông qua người đại diện theo pháp luật của pháp nhân. Pháp nhân phải cử và bảo đảm cho người đại diện theo pháp luật của mình tham gia đầy đủ các hoạt động khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án theo yêu cầu của cơ quan, người có thẩm quyền. - Người đại diện theo pháp luật của pháp nhân tham gia tố tụng phải thông báo cho cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng họ tên, ngày, tháng, năm sinh, quốc tịch, dân tộc, tôn giáo, giới tính, nghề nghiệp, chức vụ của mình. Như vậy, người đại diện theo pháp luật của pháp nhân sẽ thay mặt pháp nhân tham gia các thủ tục tố tụng hình sự. Người đại diện theo pháp luật của pháp nhân là gì? Theo quy định tại Điều 134 Bộ luật Dân sự 2015, đại diện là: - Là việc cá nhân, pháp nhân (sau đây gọi chung là người đại diện) nhân danh và vì lợi ích của cá nhân hoặc pháp nhân khác (sau đây gọi chung là người được đại diện) xác lập, thực hiện giao dịch dân sự. - Cá nhân, pháp nhân có thể xác lập, thực hiện giao dịch dân sự thông qua người đại diện. Trường hợp pháp luật quy định thì người đại diện phải có năng lực pháp luật dân sự, năng lực hành vi dân sự phù hợp với giao dịch dân sự được xác lập, thực hiện. Theo quy định tại Điều 137 Bộ luật Dân sự 2015, người đại diện theo pháp luật của pháp nhân bao gồm: - Người được pháp nhân chỉ định theo điều lệ; - Người có thẩm quyền đại diện theo quy định của pháp luật; - Người do Tòa án chỉ định trong quá trình tố tụng tại Tòa án. Một pháp nhân có thể có nhiều người đại diện theo pháp luật và mỗi người đại diện có quyền đại diện cho pháp nhân. Như vậy, một pháp nhân có thể có một, nhiều hoặc không có người đại diện theo pháp luật Khi nào pháp nhân được cử người khác ngoài người đại diện tham gia tố tụng hình sự? Cũng tại Điều 434 Bộ luật tố tụng hình sự 2015, trong trường hợp người đại diện theo pháp luật của pháp nhân không thể tham gia tố tụng thì xử lý như sau: - Trường hợp người đại diện theo pháp luật của pháp nhân bị khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử hoặc không thể tham gia tố tụng được thì pháp nhân phải cử người khác làm người đại diện theo pháp luật của mình tham gia tố tụng. Trường hợp pháp nhân thay đổi người đại diện thì pháp nhân phải thông báo ngay cho cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng. - Tại thời điểm khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử mà pháp nhân không có người đại diện theo pháp luật hoặc có nhiều người cùng là đại diện theo pháp luật thì cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng chỉ định một người đại diện cho pháp nhân tham gia tố tụng. Như vậy, bắt buộc người tham gia tố tụng phải là người đại diện theo pháp luật của pháp nhân. Người thay mặt pháp nhân tham gia tố tụng chỉ có thể dưới tư cách là người đại diện theo pháp luật: - Nếu người đại diện hiện tại không thể tham gia tố tụng vì cũng đang là chủ thể tham gia tố tụng với tư cách cá nhân thì pháp nhân đó phải cử người khác làm người đại diện theo pháp luật để tham gia tố tụng. - Nếu không có hoặc có nhiều người đại diện thì cơ quan có thẩm quyền chỉ định một người người đại diện theo pháp luật để tham gia tố tụng. Người đại diện của pháp nhân có quyền và nghĩa vụ gì khi tham gia tố tụng hình sự? Quyền và nghĩa vụ của người đại diện theo pháp luật của pháp nhân khi tham gia tố tụng được quy định tại Điều 435 Bộ luật tố tụng hình sự 2015 như sau: Quyền của người đại diện theo pháp luật của pháp nhân - Được thông báo kết quả giải quyết nguồn tin về tội phạm; - Được biết lý do pháp nhân mà mình đại diện bị khởi tố; - Được thông báo, được giải thích về quyền và nghĩa vụ quy định tại Điều này; - Được nhận: + Quyết định khởi tố bị can đối với pháp nhân; + Quyết định thay đổi, bổ sung quyết định khởi tố bị can đối với pháp nhân; + Quyết định phê chuẩn quyết định khởi tố bị can đối với pháp nhân; + Quyết định phê chuẩn quyết định thay đổi, bổ sung quyết định khởi tố bị can đối với pháp nhân; + Quyết định áp dụng, thay đổi, hủy bỏ biện pháp cưỡng chế; + Bản kết luận điều tra; + Quyết định đình chỉ, tạm đình chỉ điều tra; + Quyết định đình chỉ, tạm đình chỉ vụ án; + Bản cáo trạng; + Quyết định đưa vụ án ra xét xử; + Bản án, quyết định của Tòa án và quyết định tố tụng khác theo quy định; - Trình bày lời khai, trình bày ý kiến, không buộc phải đưa ra lời khai chống lại pháp nhân mà mình đại diện hoặc buộc phải thừa nhận pháp nhân mà mình đại diện có tội; - Đưa ra chứng cứ, tài liệu, đồ vật, yêu cầu; - Đề nghị thay đổi người có thẩm quyền tiến hành tố tụng, người giám định, người định giá tài sản, người phiên dịch, người dịch thuật theo quy định; - Tự bào chữa, nhờ người bào chữa cho pháp nhân; - Được đọc, ghi chép bản sao tài liệu hoặc tài liệu đã được số hóa liên quan đến việc buộc tội, gỡ tội hoặc bản sao tài liệu khác liên quan đến việc bào chữa cho pháp nhân kể từ khi kết thúc điều tra khi có yêu cầu; - Tham gia phiên tòa, đề nghị chủ tọa phiên tòa hỏi hoặc tự mình hỏi những người tham gia phiên tòa nếu được chủ tọa đồng ý; tranh luận tại phiên tòa; - Phát biểu ý kiến sau cùng trước khi nghị án; - Xem biên bản phiên tòa, yêu cầu ghi những sửa đổi, bổ sung vào biên bản phiên tòa; - Kháng cáo bản án, quyết định của Tòa án; - Khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng. Nghĩa vụ của người đại diện theo pháp luật của pháp nhân - Có mặt theo giấy triệu tập của người có thẩm quyền tiến hành tố tụng. Trường hợp vắng mặt không vì lý do bất khả kháng hoặc do trở ngại khách quan thì có thể bị dẫn giải; - Chấp hành quyết định, yêu cầu của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng. Như vậy, khi thay mặt pháp nhân tham gia tố tụng hình sự, người đại diện theo pháp luật của pháp nhân vẫn có đầy đủ quyền và nghĩa vụ của người tham gia tố tụng.
16 tuổi lái xe gây tai nạn chết người có bị khởi tố không?
Không ít trường hợp người chưa đủ tuổi lái xe tham gia giao thông và cũng không hiếm trường hợp người chưa đủ tuổi lái xe gây tai nạn giao thông. Vậy thì trường hợp người 16 tuổi lái xe gây tai nạn chết người có bị khởi tố không? 1. Lái xe gây tai nạn chết người thì bị phạt bao nhiêu năm tù? Căn cứ Điều 260 Bộ luật Hình sự 2015, được sửa đổi bởi khoản 72 Điều 1 Luật sửa đổi Bộ luật Hình sự 2017 có quy định về tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ, theo đó: Người nào tham gia giao thông đường bộ mà vi phạm quy định về an toàn giao thông đường bộ gây thiệt hại cho người khác thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tiền từ 30.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 01 năm đến 05 năm: + Làm chết người; + Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 01 người mà tỷ lệ tổn thương cơ thể 61% trở lên; + Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 02 người trở lên mà tổng tỷ lệ tổn thương cơ thể của những người này từ 61% đến 121%; + Gây thiệt hại về tài sản từ 100.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng. … Theo đó, người nào tham gia giao thông đường bộ mà vi phạm quy định về an toàn giao thông đường bộ gây chết người thì sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ theo quy định tại Điều này. Nếu làm chết 01 người thì bị phạt tiền từ 30.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 01 năm đến 05 năm. Nếu làm chết 02 người thì bị phạt tù từ 03 năm đến 10 năm. Làm chết từ 3 người thì bị phạt tù từ 07 năm đến 15 năm. Người phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm. 2. 16 tuổi lái xe gây tai nạn chết người có bị khởi tố không? Theo khoản 1 Điều 12 Bộ luật Hình sự 2015 có quy định về tuổi chịu trách nhiệm hình sự thì người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hình sự về mọi tội phạm, trừ những tội phạm mà Bộ luật này có quy định khác. Điều 260 Bộ luật này quy định về tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ, theo đó không quy định độ tuổi khác đối với người phạm tội. Cho nên, trong trường hợp này thì người đủ 16 tuổi đã đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự về tội này. Căn cứ theo Điều 155 Bộ luật Tố tụng Hình sự 2015, được sửa đổi bởi khoản 3 Điều 1 Luật sửa đổi Bộ luật Tố tụng hình sự 2021 có quy định về khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của bị hại: - Chỉ được khởi tố vụ án hình sự về tội phạm quy định tại khoản 1 các điều 134, 135, 136, 138, 139, 141, 143, 155 và 156 của Bộ Luật hình sự khi có yêu cầu của bị hại hoặc người đại diện của bị hại là người dưới 18 tuổi, người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất hoặc đã chết. - Trường hợp người đã yêu cầu khởi tố rút yêu cầu thì vụ án phải được đình chỉ, trừ trường hợp có căn cứ xác định người đã yêu cầu rút yêu cầu khởi tố trái với ý muốn của họ do bị ép buộc, cưỡng bức thì tuy người đã yêu cầu khởi tố rút yêu cầu, Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án vẫn tiếp tục tiến hành tố tụng đối với vụ án. - Bị hại hoặc người đại diện của bị hại đã rút yêu cầu khởi tố thì không có quyền yêu cầu lại, trừ trường hợp rút yêu cầu do bị ép buộc, cưỡng bức. Theo đó, chỉ được khởi tố vụ án hình sự về tội phạm quy định tại khoản 1 các điều 134, 135, 136, 138, 139, 141, 143, 155 và 156 của Bộ Luật hình sự khi có yêu cầu của bị hại hoặc người đại diện của bị hại là người dưới 18 tuổi, người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất hoặc đã chết. Như vậy, tội phạm quy định tại Điều 260 Bộ luật Hình sự không thuộc trường hợp khởi tố vụ án hình sự khi có yêu cầu của bị hại hoặc người đại diện của bị hại là người dưới 18 tuổi, người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất hoặc đã chết. Cho nên đối với trường hợp người 16 tuổi (đã đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự) lái xe gây tai nạn chết người thì sẽ bị khởi tố hình sự khi có căn cứ theo quy định tại Điều 143 Bộ luật Tố tụng hình sự.
Từ vụ 02 thí sinh làm lộ đề thi tốt nghiệp, lộ đề thi có phải làm lộ bí mật nhà nước?
Vừa qua, Chính phủ đưa tin xem xét khởi tố 02 thí sinh làm lộ đề thi tốt nghiệp. Theo đó, hành vi này không những làm ảnh hưởng đến chất lượng kỳ thi mà còn làm ảnh hưởng đến trật tự xã hội. Xem xét khởi tố 02 thí sinh làm lộ đề thi tốt nghiệp Theo Báo Chính phủ, Thiếu tá Đỗ Xuân Giang (Cục An ninh chính trị nội bộ, Bộ Công an) cho biết, theo báo cáo của lực lượng công an, kỳ thi tốt nghiệp THPT 2023 có 51 trường hợp vi phạm quy chế, trong đó có 39 em sử dụng điện thoại di động. Nghiêm trọng nhất là 2 thí sinh vi phạm quy chế thi ở Yên Bái và Cao Bằng chụp ảnh đề thi gửi ra ngoài phòng thi. Theo ông Giang, báo cáo gần đây nhất của lực lượng công an, căn cứ vào tính chất, mức độ, hậu quả không loại trừ khả năng những trường hợp này sẽ bị xử lý hình sự. "Việc này dù không gây ảnh hưởng đến chất lượng kỳ thi, nhưng hành vi này cấu thành tội phạm. Hành vi của thí sinh này không những xâm phạm đến quy định của pháp luật về bảo vệ bí mật Nhà nước mà còn đe dọa đến an toàn của kỳ thi và tạo dư luận rất xấu về tính nghiêm túc của kỳ thi", ông Đỗ Xuân Giang nhấn mạnh. Cục An ninh chính trị nội bộ đã có văn bản chỉ đạo công an các địa phương làm rõ và không loại trừ xem xét khởi tố các trường hợp liên quan. Việc khởi tố này góp phần cảnh tỉnh tất cả thí sinh trong thời gian tới, hạn chế tiêu cực, đặc biệt là sử dụng công nghệ cao trong quá trình thi cử. Được biết, để đảm bảo an toàn trong các kỳ thi tốt nghiệp THPT từ 2025 trở đi, Cục An ninh chính trị nội bộ sẽ báo cáo lãnh đạo Bộ Công an về phương án thanh tra, kiểm tra kỳ thi phù hợp. Chánh Thanh tra Bộ GD&ĐT Nguyễn Đức Cường cũng cho biết, việc để thí sinh mang điện thoại vào phòng thi làm lọt lộ đề thi ra ngoài có trách nhiệm của cán bộ coi thi và các cán bộ liên quan. Người để các đối tượng đưa đề thi - tài liệu mật ra ngoài là vi phạm pháp luật hình sự, nên các địa phương cần tập huấn kỹ hơn trong kỳ thi các năm tới. Sắp tới, Bộ GD&ĐT sẽ tổ chức hội nghị sâu về kỳ thi tốt nghiệp THPT và xin ý kiến Bộ Công an để tiếp tục cải tiến về ứng dụng công nghệ thông tin và sử dụng công nghệ cao trong kỳ thi. Tham khảo: Đề thi THPT quốc gia có phải là bí mật nhà nước? Căn cứ Điều 16 Quy chế ban hành kèm theo Thông tư 15/2020/TT-BGDĐT (được sửa đổi bởi Thông tư 05/2021/TT-BGDĐT) có quy định khu vực ra đề thi, in sao đề thi và các yêu cầu bảo mật đề thi như sau: - Đề thi, đáp án chưa công khai thuộc danh mục bí mật nhà nước độ “Tối mật”. Đề thi dự bị chưa sử dụng tự giải mật sau khi kết thúc công tác coi thi của kỳ thi. - Việc ra đề thi, in sao đề thi (gọi chung là làm đề thi) phải được thực hiện tại một địa điểm an toàn, biệt lập và được lực lượng công an kiểm tra về an ninh, an toàn, bảo vệ nghiêm ngặt suốt thời gian làm đề thi cho đến hết thời gian thi môn cuối cùng của kỳ thi, có đầy đủ phương tiện bảo mật, phòng ngừa lộ lọt thông tin, PCCC. - Các thành viên tham gia làm đề thi đều phải cách ly triệt để với bên ngoài. Trong trường hợp cần thiết và được sự đồng ý bằng văn bản của Chủ tịch Hội đồng ra đề thi hoặc Trưởng ban In sao đề thi thì các thành viên mới được phép liên hệ với bên ngoài bằng điện thoại cố định, có loa ngoài, có ghi âm dưới sự giám sát của bảo vệ, công an. - Danh sách những người tham gia làm đề thi phải được giữ bí mật trước, trong và sau kỳ thi. Người làm việc trong khu vực cách ly phải đeo phù hiệu và chỉ hoạt động trong phạm vi cho phép, chỉ được ra khỏi khu vực cách ly sau khi kết thúc buổi thi cuối cùng của kỳ thi. - Trong trường hợp đặc biệt, được sự đồng ý bằng văn bản của Chủ tịch Hội đồng ra đề thi hoặc Trưởng ban In sao đề thi, các thành viên mới được phép ra khỏi khu vực cách ly dưới sự giám sát của công an. - Phong bì (túi) chứa đề thi để vận chuyển và bàn giao đề thi từ nơi làm đề thi đến Ban Chỉ đạo cấp quốc gia, các Hội đồng thi/ Điểm thi phải được làm bằng giấy đủ độ bền, kín, tối màu và được dán chặt, không bong mép, có đủ nhãn, dấu niêm phong; nội dung in trên túi phải theo đúng quy định của Bộ GDĐT. - Toàn bộ quá trình vận chuyển và bàn giao đề thi phải được công an giám sát; các túi chứa đề thi phải được đựng trong các thùng có khóa và được niêm phong; phải lập biên bản về quá trình giao nhận, vận chuyển. - Máy móc và thiết bị tại nơi làm đề thi, dù bị hư hỏng hay không dùng đến, chỉ được đưa ra ngoài khu vực cách ly khi kết thúc buổi thi cuối cùng của kỳ thi. Theo đó, đề thi THPT quốc gia được quy định là danh mục bí mật nhà nước độ “Tối mật”. Đề thi dự bị chưa sử dụng tự giải mật sau khi kết thúc công tác coi thi của kỳ thi. Truy cứu hình sự tội làm lộ bí mật nhà nước (1) Tội cố ý làm lộ bí mật nhà nước Theo Điều 337 Bộ luật Hình sự 2015 (sửa đổi bởi Bộ luật Hình sự 2017) vi phạm tội cố ý làm lộ bí mật nhà nước; tội chiếm đoạt, mua bán hoặc tiêu hủy vật hoặc tài liệu bí mật nhà nước bị xử lý như sau: - Người nào cố ý làm lộ bí mật nhà nước, chiếm đoạt, mua bán hoặc tiêu hủy vật hoặc tài liệu bí mật nhà nước, nếu không thuộc trường hợp quy định tại Điều 110 Bộ luật Hình sự 2015, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm. - Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 05 năm đến 10 năm: + Bí mật nhà nước thuộc độ tối mật. + Lợi dụng chức vụ, quyền hạn. + Gây tổn hại về quốc phòng, an ninh, đối ngoại, kinh tế, văn hóa. - Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 10 năm đến 15 năm: + Có tổ chức; + Bí mật nhà nước thuộc độ tuyệt mật; + Phạm tội 02 lần trở lên; + Gây tổn hại về chế độ chính trị, độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ. - Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 10 triệu đồng đến 100 triệu đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm. (2) Tội vô ý làm lộ bí mật nhà nước Căn cứ Điều 338 Bộ luật Hình sự 2015 (sửa đổi bởi Bộ luật Hình sự 2017) quy định tội vô ý làm lộ bí mật nhà nước; tội làm mất vật, tài liệu bí mật nhà nước như sau: - Người nào vô ý làm lộ bí mật nhà nước hoặc làm mất vật, tài liệu bí mật nhà nước, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm. - Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm: + Bí mật nhà nước thuộc độ tối mật, tuyệt mật; + Gây tổn hại về quốc phòng, an ninh, đối ngoại, kinh tế, văn hóa, chế độ chính trị, độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ. - Người phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm. Như vậy, người ra đề thi THPT quốc gia có trách nhiệm phải bảo vệ đề thi cho đến khi bí mật được giải. Theo đó, đề thi THPT quốc gia được quy định là bí mật nhà nước có độ tối mật. Trường hợp người cố ý vi phạm tội làm lộ bí mật nhà nước có thể bị truy cứu hình sự lên đến 15 năm tù hoặc vô ý có thể đối mặt cao nhất là 7 năm tù. Theo Báo Chính phủ
Công chức bị khởi tố nhưng Tòa chưa tuyên án thì có được xét nâng bậc lương?
Một số thắc mắc được đặt ra rằng liệu là công chức và đang bị khởi tố nhưng chưa có bản án của tòa án thì công chức này có được xét nâng bậc lương thường xuyên hay không? Bài viết sẽ cung cấp một số thông tin liên quan đến vấn đề này. Thời gian không được tính xét nâng bậc lương thường xuyên Căn cứ theo điểm c khoản 1 Điều 2 Chế độ nâng bậc lương của Thông tư 08/2013/TT-BNV quy định về thời gian không được tính xét nâng bậc lương thường xuyên như sau: - Thời gian nghỉ việc riêng không hưởng lương; - Thời gian đi làm chuyên gia, đi học, thực tập, công tác, khảo sát ở trong nước và ở nước ngoài vượt quá thời hạn do cơ quan có thẩm quyền quyết định; - Thời gian bị đình chỉ công tác, bị tạm giữ, tạm giam và các loại thời gian không làm việc khác ngoài quy định tại Điểm b Khoản 1 Điều này. - Thời gian tập sự (bao gồm cả trường hợp được hưởng 100% mức lương của ngạch công chức, chức danh nghề nghiệp viên chức tập sự). - Thời gian cán bộ, công chức, viên chức và người lao động đào ngũ trong quá trình thực hiện nghĩa vụ quân sự tại ngũ. - Thời gian thử thách đối với cán bộ, công chức, viên chức và người lao động bị phạt tù nhưng cho hưởng án treo; trường hợp thời gian thử thách ít hơn thời gian bị kéo dài nâng bậc lương thường xuyên tính theo thời gian bị kéo dài nâng bậc lương thường xuyên. - Thời gian nghỉ công tác chờ đủ tuổi nghỉ hưu theo quy định hiện hành của pháp luật Tổng các loại thời gian không được tính để xét nâng bậc lương thường xuyên quy định tại Điểm này (nếu có) được tính tròn tháng, nếu có thời gian lẻ không tròn tháng thì được tính như sau: Dưới 11 ngày làm việc (không bao gồm các ngày nghỉ hằng tuần và ngày nghỉ làm việc được hưởng nguyên lương theo quy định của pháp luật về lao động) thì không tính; từ 11 ngày làm việc trở lên tính bằng 01 tháng. Vậy công chức bị khởi tố có thuộc thời gian không được xét nâng bậc lương thường xuyên? Công chức bị khởi tố có bị tạm đình chỉ công tác không? Căn cứ Điều 81 Luật Cán bộ, công chức 2008 quy định về tạm đình chỉ công tác đối với cán bộ, công chức như sau: Tạm đình chỉ công tác đối với cán bộ, công chức: - Cơ quan, tổ chức, đơn vị quản lý cán bộ, công chức có thể ra quyết định tạm đình chỉ công tác trong thời gian xem xét, xử lý kỷ luật cán bộ, công chức, nếu để cán bộ, công chức đó tiếp tục làm việc có thể gây khó khăn cho việc xem xét, xử lý. Thời hạn tạm đình chỉ công tác không quá 15 ngày, trường hợp cần thiết có thể kéo dài thêm nhưng tối đa không quá 15 ngày; nếu cán bộ, công chức bị tạm giữ, tạm giam để phục vụ công tác điều tra, truy tố, xét xử thì thời gian tạm giữ, tạm giam được tính là thời gian nghỉ việc có lý do; hết thời hạn tạm đình chỉ công tác nếu cán bộ, công chức không bị xử lý kỷ luật thì được tiếp tục bố trí làm việc ở vị trí cũ. - Trong thời gian bị tạm đình chỉ công tác hoặc bị tạm giữ, tạm giam để phục vụ cho công tác điều tra, truy tố, xét xử, cán bộ, công chức được hưởng lương theo quy định của Chính phủ. Theo quy định trên, cơ quan, tổ chức, đơn vị quản lý công chức có thể ra quyết định tạm đình chỉ công tác trong thời gian xem xét, xử lý kỷ luật cán bộ, công chức, nếu để cán bộ, công chức đó tiếp tục làm việc có thể gây khó khăn cho việc xem xét, xử lý. Do đó, khi công chức bị khởi tố nhưng không có quyết định tạm giữ, tạm giam thì công chức sẽ không bị tạm đình chỉnh công tác. Công chức bị khởi tố thì có bị xử lý kỷ luật không? Theo Điều 3 Nghị định 112/2020/NĐ-CP quy định về các trường hợp chưa xem xét xử lý kỷ luật như sau: - Cán bộ, công chức, viên chức đang trong thời gian nghỉ hàng năm, nghỉ theo chế độ, nghỉ việc riêng được cấp có thẩm quyền cho phép. - Cán bộ, công chức, viên chức đang trong thời gian điều trị bệnh hiểm nghèo hoặc đang mất khả năng nhận thức; bị ốm nặng đang điều trị nội trú tại bệnh viện có xác nhận của cơ quan y tế có thẩm quyền. - Cán bộ, công chức, viên chức là nữ giới đang trong thời gian mang thai, nghỉ thai sản, đang nuôi con dưới 12 tháng tuổi hoặc cán bộ, công chức, viên chức là nam giới (trong trường hợp vợ chết hoặc vì lý do khách quan, bất khả kháng khác) đang nuôi con dưới 12 tháng tuổi. - Cán bộ, công chức, viên chức đang bị khởi tố, tạm giữ, tạm giam chờ kết luận của cơ quan có thẩm quyền điều tra, truy tố, xét xử về hành vi vi phạm pháp luật, trừ trường hợp theo quyết định của cấp có thẩm quyền. Theo đó, khi công chức bị khởi tố thì chưa xem xét xử lý kỷ luật đối với công chức đó. Như vậy, trong trường hợp công chức bị khởi tố nhưng không có quyết định tạm giữ, tạm giam thì trong trường hợp này đơn vị chưa xem xét xử lý kỷ luật nên không được tạm đình chỉ công tác đối với công chức này. Do đó, công chức trong giai đoạn này vẫn được đi làm, hưởng hệ số lương bình thường và vẫn được xét nâng bậc lương thường xuyên.
Đăng thông tin sai sự thật, vu khống xử lý ra sao?
Cho em hỏi: cá nhân đang sinh sống định cư tại Mỹ( người góc Viêt) đã đăng thông tin sai sự thật, vu khống lên mạng xã hội( hình ảnh, giấy tờ cá nhân) của cá nhân đang sinh sống tại Viêt Nam, vậy người Việt nam có khởi tố được cá nhân ở Mỹ không ạ để ngăn chặn lại hành vi đó, em phải làm như thế nào ạ, giải thắc mắc giúp e với ạ, thank anh/chị.
Bị khởi tố có bắt buộc phải tạm đình chỉ đảm nhiệm chức vụ?
Đối với trường hợp người đang đảm nhiệm chức vụ khi bị khởi tố thì có bắt buộc phải tạm đình chỉ đảm nhiệm chức vụ hay không? Căn cứ khoản 1 Điều 13 Bộ Luật tố tụng hình sự 2015 quy định: "Điều 13. Suy đoán vô tội Người bị buộc tội được coi là không có tội cho đến khi được chứng minh theo trình tự, thủ tục do Bộ luật này quy định và có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật." Ngoài ra căn cứ theo Điều 181 Bộ Luật tố tụng hình sự 2015: “Điều 181. Tạm đình chỉ chức vụ bị can đang đảm nhiệm Khi xét thấy việc bị can tiếp tục giữ chức vụ gây khó khăn cho việc điều tra thì Cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra, Viện kiểm sát có quyền kiến nghị với cơ quan, tổ chức có thẩm quyền quản lý bị can tạm đình chỉ chức vụ của bị can…” Theo đó các bị can bị khởi tố trong các vụ án chưa bị coi là người phạm tội cho đến khi có bản án xét xử của tòa án. Vì vậy người bị khởi tố vẫn có quyền thực hiện các công việc theo chức vụ của mình nếu Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát không có văn bản đề nghị cơ quan, đơn vị, người sử dụng lao động tạm đình chỉ công tác, chức vụ quyền hạn khi xét thấy việc để bị can tiếp tục công việc có thể gây khó khăn cho quá trình điều tra hoặc tạo điều kiện tiếp tục phạm tội.
Các trường hợp chỉ khởi tố vụ án hình sự khi có yêu cầu
Về nguyên tắc việc khởi tố vụ án hình sự là quyền của cơ quan có thẩm quyền, không phụ thuộc vào ý chí của người bị hại hay người đại diện hợp pháp của họ. Tuy nhiên trong một số trường hợp nhất định việc truy cứu trách nhiệm hình sự phải phụ thuộc vào yêu cầu của người bị hại hoặc người đại diện hợp pháp của họ. Theo quy định của Bộ Luật tố tụng hình sự 2015 các trường hợp sau đấy chỉ khởi tố khi có yêu cầu của người bị hại hoặc người đại diện hợp pháp của họ: - Người nào cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 11% đến 30% hoặc dưới 11% nhưng thuộc một trong các trường hợp thuộc khoản 1 Điều 134 Bộ luật hình sự 2015. - Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh - Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng hoặc do vượt quá mức cần thiết khi bắt giữ người phạm tội - Tội vô ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác - Tội vô ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác do vi phạm quy tắc nghề nghiệp hoặc quy tắc hành chính - Tội hiếp dâm - Tội cưỡng dâm - Tội làm nhục người khác - Tội vu khống - Tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp Hình thức yêu cầu khởi tố vụ án hình sự thể hiện dưới hình thức đơn hoặc trình bày trực tiếp. - Đơn yêu cầu khởi tố có chữ ký hoặc điểm chỉ của người yêu cầu. - Trình bày trực tiếp thì cơ quan điều tra, viện kiểm sát lập biên bản ghi rõ yêu cầu khởi tố có chữ ký hoặc điểm chỉ của người yêu cầu. Biên bản do viện kiểm sát lập được chuyển ngay cho cơ quan điều tra để xem xét việc khởi tố vụ án hình sự và đưa vào hồ sơ vụ án. Như vậy, có 10 trường hợp chỉ được khởi tố khi có yêu cầu của người bị hại hoặc người đại diện hợp pháp của họ. Nếu không nhận được yêu cầu mà khởi tố vụ án là vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng và phải trả hồ sơ theo đúng quy định pháp luật. Căn cứ: Bộ Luật tố tụng hình sự 2015; Bộ Luật hình sự 2015.
Bị hại rút yêu cầu sẽ không khởi tố vụ án khi nào?
Tham khảo: >>>[Tổng hợp] Thời hiệu khởi kiện đối với một số tranh chấp dân sự; >>>Trình tự giải quyết vụ án dân sự theo Bộ luật tố tụng dân sự 2015; >>>Tổng hợp các loại thời hiệu; Khởi tố vụ án là giai đoạn đầu trong quá trình tố tụng giải quyết vụ án. Theo đó, khởi tố vụ án theo yêu cầu người bị hại nếu thuộc một trong các trường hợp quy định tại Điều 155 Bộ luật tố tụng hình sự 2015. Vậy nếu người bị hại rút đơn yêu cầu thì không khởi tố trong trường hợp nào? Căn cứ khoản 2 Điều 282 Bộ luật tố tụng hình sự 2015, quy định về các trường hợp Thẩm phán chủ tọa phiên tòa ra quyết định đình chỉ vụ án khi thuộc một trong các trường hợp, trong đó có trường hợp người bị hại rút đơn như sau: “Người đã yêu cầu khởi tố rút yêu cầu thì vụ án phải được đình chỉ, trừ trường hợp có căn cứ xác định người đã yêu cầu rút yêu cầu khởi tố trái với ý muốn của họ do bị ép buộc, cưỡng bức thì tùy người đã yêu cầu khởi tố rút yêu cầu, Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án vẫn tiếp tục tiến hành tố tụng đối với vụ án”. Theo đó, Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 đã không giới hạn về thời điểm mà người đã yêu cầu khởi tố rút yêu cầu. Do đó, tùy từng trường hợp cụ thể mà các Tòa án giải quyết như sau (Căn cứ Công văn 254/TANDTC-PC của Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn về việc người đã yêu cầu khởi tố vụ án hình sự rút yêu cầu theo quy định tại Điều 155 của Bộ luật tố tụng dân sự 2015): Người bị hại rút đơn yêu cầu tại giai đoạn xét xử sơ thẩm: - Người đã yêu cầu khởi tố vụ án hình sự rút yêu cầu trước ngày mở phiên tòa sơ thẩm thì Thẩm phán chủ tọa phiên tòa căn cứ Điều 45 và điểm a khoản 1 Điều 282 của Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 để ra quyết định đình chỉ vụ án, cụ thể: + Căn cứ: Điều 45 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 quy định về nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của Thẩm phán, cụ thể: ..... 2. Thẩm phán chủ tọa phiên tòa có những nhiệm vụ, quyền hạn quy định tại khoản 1 Điều này và những nhiệm vụ, quyền hạn: a) Quyết định áp dụng, thay đổi, hủy bỏ biện pháp ngăn chặn, biện pháp cưỡng chế, trừ biện pháp tạm giam; b) Quyết định trả hồ sơ để điều tra bổ sung; c) Quyết định đưa vụ án ra xét xử; quyết định đình chỉ hoặc tạm đình chỉ vụ án; d) Điều hành việc xét xử vụ án, tranh tụng tại phiên tòa; đ) Quyết định trưng cầu giám định, giám định bổ sung hoặc giám định lại, thực nghiệm điều tra; thay đổi hoặc yêu cầu thay đổi người giám định; yêu cầu định giá tài sản, yêu cầu thay đổi người định giá tài sản; e) Yêu cầu hoặc đề nghị cử, thay đổi người bào chữa; thay đổi người giám sát người dưới 18 tuổi phạm tội; yêu cầu cử, thay đổi người phiên dịch, người dịch thuật; g) Quyết định triệu tập những người cần xét hỏi đến phiên tòa; h) Thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn tố tụng khác thuộc thẩm quyền của Tòa án theo sự phân công của Chánh án Tòa án theo quy định của Bộ luật này. 3. Thẩm phán phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về hành vi, quyết định của mình. + Căn cứ: điểm a khoản 1 Điều 282 của Bộ luật Tố tụng hình sự 2015, quy định về các trường hợp ra quyết định đình chỉ vụ án của Thẩm phán chủ tọa phiên tòa như sau: 1. Thẩm phán chủ tọa phiên tòa ra quyết định đình chỉ vụ án khi thuộc một trong các trường hợp: a) Có một trong các căn cứ quy định tại khoản 2 Điều 155 hoặc các điểm 3, 4, 5, 6 và 7 Điều 157* của Bộ luật này; *Căn cứ các khoản 3, 4, 5, 6 và 7 Điều 157 Bộ luật hình sự như sau: 3. Người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội chưa đến tuổi chịu trách nhiệm hình sự; 4. Người mà hành vi phạm tội của họ đã có bản án hoặc quyết định đình chỉ vụ án có hiệu lực pháp luật; 5. Đã hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự; 6. Tội phạm đã được đại xá; 7. Người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội đã chết, trừ trường hợp cần tái thẩm đối với người khác - Trường hợp người đã yêu cầu khởi tố vụ án hình sự rút yêu cầu tại phiên tòa thì Hội đồng xét xử hoặc Thẩm phán chủ tọa phiên tòa xét xử theo thủ tục rút gọn căn cứ khoản 2 Điều 155 và Điều 299 của Bộ luật Tố tụng hình sự ra quyết định đình chỉ vụ án, cụ thể: + Căn cứ: khoản 2 Điều 155 (đã nêu ở trên) + Căn cứ: Điều 299 về Việc ra bản án, quyết định của Tòa án như sau: 1. Bản án phải được Hội đồng xét xử thảo luận và thông qua tại phòng nghị án. 2. Quyết định về việc thay đổi thành viên Hội đồng xét xử, Kiểm sát viên, Thư ký Tòa án, người giám định, người định giá tài sản, người phiên dịch, người dịch thuật, tạm đình chỉ hoặc đình chỉ vụ án, hoãn phiên tòa, bắt tạm giam hoặc trả tự do cho bị cáo phải được thảo luận, thông qua tại phòng nghị án và được lập văn bản. 3. Quyết định các vấn đề khác được Hội đồng xét xử thảo luận và thông qua tại phòng xử án không phải lập văn bản nhưng phải được ghi vào biên bản phiên tòa. - Trường hợp sau khi kết thúc phiên tòa sơ thẩm vẫn còn thời hạn kháng cáo, kháng nghị mà người đã yêu cầu khởi tố vụ án hình sự rút yêu cầu thì Tòa án phải hướng dẫn họ làm đơn kháng cáo để Tòa án cấp phúc phẩm xem xét giải quyết việc rút yêu cầu theo thủ tục phúc thẩm. Người bị hại rút đơn yêu cầu tại giai đoạn xét xử phúc thẩm: - Trường hợp có kháng cáo, kháng nghị mà tại giai đoạn xét xử phúc thẩm người đã yêu cầu khởi tố vụ án hình sự rút yêu cầu thì Hội đồng xét xử hoặc Thẩm phán chủ tọa phiên tòa xét xử theo thủ tục rút gọn căn cứ khoản 2 Điều 155 và Điều 359 của Bộ luật Tố tụng hình sự hủy bản án sơ thẩm và đình chỉ vụ án. + Căn cứ: khoản 2 Điều 155 (đã nêu ở trên) + Căn cứ: Điều 359 về các trường hợp hủy bản án sơ thẩm và đính chỉ vụ án trong các căn cứ sau: 1. Khi có một trong các căn cứ quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều 157 (về các căn cứ không khởi tố vụ án hình sự: 1. Không có sự việc phạm tội; 2. Hành vi không cấu thành tội phạm) của Bộ luật này thì Hội đồng xét xử phúc thẩm hủy bản án sơ thẩm, tuyên bị cáo không có tội và đình chỉ vụ án. 2. Khi có một trong các căn cứ quy định tại các khoản 3, 4, 5, 6 và 7 Điều 157 (về các căn cứ không khởi tố vụ án hình sự) của Bộ luật này thì Hội đồng xét xử phúc thẩm hủy bản án sơ thẩm và đình chỉ vụ án. - Trong bản án phúc thẩm, Tòa án phải nhận định rõ lý do hủy bản án sơ thẩm và đình chỉ vụ án là do người đã yêu cầu khởi tố vụ án hình sự rút yêu cầu, không phải do lỗi của Tòa án cấp sơ thẩm. Vậy, nếu người bị hại rút đơn yêu cầu thì vụ án được đình chỉ, nếu xét thấy không có dấu hiệu bị ép buộc, cưỡng bức. Nếu có các dấu hiệu trên thì tùy người đã yêu cầu khởi tố rút yêu cầu, Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án vẫn tiếp tục tiến hành tố tụng đối với vụ án.
Yêu cầu khi khởi tố hay không khởi tố vụ án hình sự
Khi ra một quyết định khởi tố vụ án hình sự hoặc không khởi tố vụ án hình sự cần đảm bảo những yêu cầu nào? Vì sao
Tai nạn ở Long An: Không thể truy tố tài xế tội giết người
Sau vụ xe đầu kéo mất lái đâm vào đám đông người đi xe máy đứng chờ đèn đỏ ở Long An, nhiều ý kiến cho rằng nên truy tố tài xế với tội giết người chứ không phải là tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ theo Điều 260. Đương nhiên mỗi ý kiến đưa ra đều kèm theo lý lẽ và cách hiểu riêng của cá nhân người đưa ra ý kiến. Trước khi nêu quan điểm cá nhân mình, mình xin trích lại một số quan điểm của các Luật sư khác về tội danh trong trường hợp này. Có quan điểm cho rằng nên truy tố với tội danh giết người. “Khi xem kỹ lại clip tai nạn thấy chiếc xe lao lên đám đông mà không có một lực thắng nào, mặt đường rộng có thể cho tài xế lựa chọn cách đánh lái vào bên đường trống hoặc lao vào đuôi xe tải đậu chờ đèn đỏ, gây ra vụ thảm sát kinh hoàng. Như vậy, đây là một vụ giết người với lỗi cố ý vì tài xế” Theo như đoạn clip và nội dung, diễn biến sự việc có thể thấy tài xế đã cố ý đẩy mình vào trạng thái say xỉn và phê ma túy, nhận thức rõ hành vi say rượu và phê ma túy mà leo lên điều khiển một nguồn nguy hiểm cao độ như vậy là có thể gây chết người, thấy trước hậu quả chết người hàng loạt có thể xảy ra, tuy tài xế không mong muốn nhưng có ý thức để mặc cho hậu quả chết người xảy ra. “Do vậy, phải khởi tố hành vi của tài xế tội giết người theo Khoản 1 Điểm l Điều 123 BLHS năm 2015 với tình tiết tăng nặng là sử dụng phương tiện nguy hiểm có khả năng làm chết nhiều người theo Điểm m Khoản 1 Điều 48 BLHS mới thỏa đáng và có tác dụng răn đe, phòng ngừa chung”. Những quan điểm trái ngược với ý kiến trên, có Luật sư cho rằng không thể truy tố tài xế tội danh giết người bởi đối với tội giết người, về mặt chủ quan của tội phạm thì cơ bản là phải xác định được động cơ và mục đích. Ở đây, rất khó và gần như không thể xác định được động cơ, mục đích giết người trong trường hợp này. Một Luật sư khác cho rằng đây là lỗi vô ý vì quá tự tin khi điều khiển dù có sử dụng rượu bia hay chất kích thích khác nên không thể truy cứu tài xế vào tội giết người. “Nếu nói như một số Ls là truy cứu tội giết người thì có một thực tế, cứ cầm xe chạy ra đường thì đâm chết là tội giết thì cam đoan một điều tất cả sẽ đi bộ chứ không ai dám đi phương tiện ô tô, xe máy…” Mình đã đọc rất nhiều các luồng ý kiến khác nhau của các Luật sư, Chuyên gia pháp lý, ai nói ra cũng có lý lẽ riêng của mình. Vì hiện tại vụ án mới đến bước khởi tố, cơ quan CSĐT chưa có bản kết luận điều tra chính thức nên cũng chưa thể vội khẳng định được điều gì. Mặc dù biết rằng những khả năng như tài xế có thù hằn với những người xe máy chờ đèn đỏ và có ý định lao xe vào để giết họ rất khó có thể xảy ra, tuy nhiên để chắc chắn khi đưa ra quan điểm cá nhân thì mình giả định trường hợp mình vừa nêu là không có thật. Tài xế và những người xe máy không hề có quen biết, không có tư thù cá nhân, tài xế không hề có ý định giết những người này trước đó. Như vậy, có thể truy tố tội giết người với tài xế hay không? Mình nghĩ chỉ cần đi sâu vào phân tích mặt chủ quan của tội phạm trong hành vi này là có thể xác định được. Thứ nhất, là yếu tố lỗi. Đương nhiên tài xế là người có lỗi. Vậy lỗi cố ý hay là lỗi vô ý? Như mình đã đặt giả định ở trên thì lỗi cố ý coi như không xét đến. Vậy đây là hành vi với lỗi vô ý, bởi theo quy định của BLDS thì xe đầu kéo là nguồn nguy hiểm cao độ. Tài xế điều khiển nguồn nguy hiểm cao độ gây ra hậu quả thì phải chịu trách nhiệm. Và tài xế biết và buộc phải biết rằng sử dụng rượu, ma túy khi điều khiển nguồn nguy hiểm cao độ sẽ gây ra nguy hiểm đến mức làm chết người nhưng tài xế vẫn làm. Vậy lỗi được xác định ở đây là vô ý do qúa tự tin. Đã là lỗi vô ý, thì đương nhiên không thể cấu thành tội giết người được, bởi tội giết người được cấu thành với lỗi cố ý. Nếu có chăng thì hành vi của tài xế chỉ có thể cấu thành tội vô ý làm chết người mà thôi, và mình hoàn toàn với quan điểm của vị Luật sư cho rằng chỉ có thể truy tố tài xế theo Điều 260 BLHS.
08 trường hợp không khởi tố vụ án hình sự
>>>Không khởi tố vụ án "thông cung vụ Nga - Mỹ" >>>Phân biệt khởi tố vụ án và khởi tố bị can Khởi tố là bước đầu tiên trong quá trình giải quyết một vụ án hình sự. Tuy nhiên, không phải vụ việc nào xảy ra cũng có thể khởi tố. Sau đây là những trường hợp không khởi tố vụ án hình sự theo quy định tại Điều 157 BLTTHS 2015: 1. Không có sự việc phạm tội Nguồn tin báo, tố giác tội phạm được tiếp nhận không chính xác, không có sự việc xảy ra hoặc có xảy ra nhưng không có dấu hiệu tội phạm. 2. Hành vi không cấu thành tội phạm Hành vi không thỏa mãn dấu hiệu cấu thành tội phạm theo quy định pháp luật hình sự. Ví dụ: Người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội không có năng lực trách nhiệm hình sự (không đảm bảo về mặt chủ thể). 3. Người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội chưa đến tuổi chịu trách nhiệm hình sự Theo quy định tại Điều 12 BLHS SĐ, BS 2017 về độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự như sau: - Dưới 14 tuổi: không phải chịu trách nhiệm hình sự. - Từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi: chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự về tội giết người, tội hiếp dâm, cố ý gây thương tích, … và một số tội rất nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm trọng. - Từ đủ 16 tuổi: chịu trách nhiệm hình sự về mọi tội phạm. Như vậy, nếu lúc phạm tội chưa đủ 14 tuổi hoặc đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi mà phạm tội ít nghiêm trọng, nghiêm trọng thì không bị khởi tố hình sự. 4. Người mà hành vi phạm tội của họ đã có bản án hoặc quyết định đình chỉ vụ án có hiệu lực pháp luật Theo Điều 14 BLTTHS 2015 , không ai bị kết án hai lần vì một tội phạm. Vì vậy, không được khởi tố […] đối với người mà hành vi của họ đã có bản án của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật. Quyết định đình chỉ vụ án là quyết định tố tụng làm chấm dứt việc giải quyết vụ án hình sự và có hiệu lực pháp luật ngay sau khi cơ quan có thẩm quyền ra quyết định. Trong 02 trường hợp này sẽ không được khởi tố vụ án hình sự. 5. Đã hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự Theo Điều 27 BLHS 2015, thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự (được tính từ ngày tội phạm được thực hiện): - 05 năm đối với tội phạm ít nghiêm trọng; -10 năm đối với tội phạm nghiêm trọng; - 15 năm đối với tội phạm rất nghiêm trọng; - 20 năm đối với tội phạm đặc biệt nghiêm trọng. Như vậy, nếu hết thời hạn nêu trên, người phạm tội không bị truy cứu trách nhiệm hình sự. 6. Tội phạm đã được đại xá Đại xá là sự khoan hồng của Nhà nước do Quốc hội quyết định nhằm tha tội hoàn toàn và triệt để cho một số loại tội phạm nhất định đối với hàng loạt người phạm tội nhân sự kiện quan trọng trong đời sống chính trị của đất nước. Tội phạm đã được đại xá là căn cứ để không khởi tố vụ án hình sự. 7. Người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội đã chết, trừ trường hợp cần tái thẩm đối với người khác Trong quá trình giải quyết vụ án mà xác định được người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội đã chết thì không khởi tố vụ án hình sự, trừ trường hợp cần tái thẩm đối với người khác. 8. Tội phạm quy định tại khoản 1 các điều 134, 135, 136, 138, 139, 141, 143, 155, 156 và 226 của Bộ luật hình sự 2015 mà bị hại hoặc người đại diện của bị hại không yêu cầu khởi tố. Sẽ không khởi tố vụ án hình sự nếu bị hại, người đại diện của bị hại là người dưới 18 tuổi, người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất hoặc đã chết không yêu cầu khởi tố đối với 11 tội danh sau đây: - Tộicố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác; - Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh; - Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng hoặc do vượt quá mức cần thiết khi bắt giữ người phạm tội; -Tội vô ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác; - Tội vô ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác do vi phạm quy tắc nghề nghiệp hoặc quy tắc hành chính; - Tội hiếp dâm; - Tội cưỡng dâm; - Tội cưỡng dâm người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi; - Tội làm nhục người khác; - Tội vu khống; - Tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp. Trên đây là 08 trường hợp không khởi tố vụ án hình sự.
BOT: Khởi tố nếu có hành vi gây rối, cản trở giao thông
Như mọi người đã biết thì thời gian gần sự việc đang làm xôn xao dư luận và được quan tâm nhất là các vụ việc liên quan đến các trạm BOT tại các tỉnh, mở đầu cho trào lưu này là vụ việc diễn ra tại BOT Cai Lậy (Tiền giang). Sự việc diễn ra khi BOT Cai lậy chính thức đi vào hoạt động thì có thu phí từ ngày 1/8. Sau hai tuần hoạt động, ngày 15/8, BOT Cai Lậy cho xả trạm, ngừng thu phí. Quốc lộ 1 là đoạn đi qua huyện Cai Lậy, việc đặt trạm tại đây theo nhận định của các tài xế là không hợp lý và mức phí quá cao. Do vậy, phản đối hoạt động này bằng cách đưa tiền lẻ, gây kẹt xe, buộc chủ đầu tư phải nhiều lần phải xả trạm. Sau đó, Bộ GTVT đã họp, thống nhất giảm giá vé cho tất cả các phương tiện. Cụ thể, mức phí thấp nhất với xe dưới 12 chỗ, xe tải dưới 2 tấn là 25.000 đồng/lượt (trước 35.000 đồng), mức cao nhất 140.000 đồng (trước 180.000 đồng) với xe tải từ 18 tấn trở lên và xe đầu kéo container trên 40 feet. Theo chủ đầu tư, mức phí sẽ giảm 30% so với trước đây. Người dân tại 4 xã, gồm Phú Nhuận, Mỹ Thành Nam, Bình Phú và Phú An (huyện Cai Lậy) được miễn phí qua trạm nếu như không kinh doanh vận tải. Vụ việc chưa có hồi kết khi qua nhiều ngày dù nhiều phương án đưa ra nhưng vẫn chưa chốt được. Tuy vậy, với hành động gây rối, kích động và gây tắc nghẽn giao thông liên tục tại tuyến Quốc lộ này gây ảnh hưởng không ít đến hoạt động giao thương giữa các tỉnh miền tây với TPHCM và nhiều hoạt động khác. Do đó, mới đây Thủ Tướng Chính phủ vừa có Công điện 82/CĐ-TTg khẩn về việc về bảo đảm an ninh trật tự tại trạm thu giá dịch vụ sử dụng đường bộ theo hình thức Hợp đồng BOT, cụ thể” Các cơ quan, Bộ ngành từ trung ương đến địa phương cần có sự phối hợp chặt chẽ và có biện pháp mạnh để xử lý hoặc khi đã đủ dấu hiệu thì tiến hành khởi tố hình sự với các đối tượng có hành vi: Cản trở giao thông (nhất là quay đầu xe nhiều lần, cố tình dừng xe trước trạm thu giá rồi bổ đi làm việc khác…), phá hoại trang thiết bị tại các trạm thu, có hành vi tổ chức gây rối, phản động, kích động. Cung cấp thông tin liên quan đến đối tượng có hành vi gây rối làm mất an ninh trật tự (trong đó có cả hành vi đưa tin sai sự thật, làm phức tạp tình hình). Chỉ đạo BTTTT yêu câu cơ quan thông tấn, báo chí không đưa tin hoặc đăngg tải bình luận có tính chất cổ vũ cho các đối tượng có hành vi cản trở tại trạm thu giá. Như vậy, đây là chỉ đạo có tính định hướng và quyết liệt của Thủ tướng cho sự việc gây chú ý trong dư luận nhiều nhất, việc xử ký là nên thực hiện để đảm bảo hoạt động của các trạm BOT. Bên cạnh đó, có tính định hướng để các trạm BOT khác không rơi vào những viễn cảnh tương tự.
Sau sự vụ bắt giữ người tại Đồng Tâm và đã được Chủ tịch Ủy ban nhân dân Hà Nội ký biên bản thỏa thuận sẽ không truy cứu trách nhiệm hình sự đối với những người tham gia giam, giữ các cán bộ và chiến sỹ công an. Tuy nhiên, chiều 13/6, Công an thành phố Hà Nội đã ra quyết định khởi tố vụ án đối với hai tội danh là Tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản và Tội bắt, giữ hoặc giam người trái pháp luật. Dù vụ việc đã được yên ắng sau giấy cam kết của ông Nguyễn Đức Chung - Chủ tịch Ủy ban nhân dân Hà Nội nhưng hồi kết vẫn chưa dừng tại đó, dù đã được đưa ra bàn luận về hiệu lực của giấy cam kết đó nhưng điều gì cũng phải được thực thI trên cơ sở của pháp luật. Và quyết định khởi tố vụ án là kết quả của sự tuân thủ các quy định của pháp luật. Bắt nguồn từ việc khởi tố tội Gây rối trật tự công cộng tại xã Đồng Tâm, huyện Mỹ Đức, Hà Nội, người dân Đồng Tâm đã bắt giữ các cán bộ huyện Mỹ Đức và chiến sỹ công an Hà Nội giam tại nhà văn hóa thôn. Sau đó, các cán bộ và chiến sỹ đã được thả và có công bố rộng rãi giấy cam kết không truy cứu trách nhiệm hình sự mà ông Chung đã ký. Trường hợp bị khởi tố về hai tội danh trên, các dối tượng có thể chịu các mức án sau theo quy định của Bộ luật hình sự 1999: "Điều 143. Tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản 1. Người nào hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản của người khác gây thiệt hại từ năm trăm nghìn đồng đến dưới năm mươi triệu đồng hoặc dưới năm trăm nghìn đồng nhưng gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi này hoặc đã bị kết án về tội này, chưa được xoá án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến ba năm. ..." "Điều 123. Tội bắt, giữ hoặc giam người trái pháp luật 1. Người nào bắt, giữ hoặc giam người trái pháp luật, thì bị phạt cảnh cáo, cải tạo không giam giữ đến hai năm hoặc phạt tù từ ba tháng đến hai năm. 2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ một năm đến năm năm: a) Có tổ chức; b) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn; c) Đối với người thi hành công vụ; d) Phạm tội nhiều lần; đ) Đối với nhiều người. 3. Phạm tội gây hậu quả nghiêm trọng thì bị phạt tù từ ba năm đến mười năm. 4. Người phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ nhất định từ một năm đến năm năm." Trên đây là một số thông tin trao đổi với các bạn thành viên.
Ông bầu Nguyễn Đức Kiên bị khởi tố
Bầu Kiên bị bắt vì tội kinh doanh trái phép, nay bị can Nguyễn Đức Kiên vừa bị cơ quan điều tra khởi tố thêm 2 tội danh khác là "Cố ý làm trái quy định của nhà nước gây hậu quả nghiêm trọng" và "Lừa đảo chiếm đoạt tài sản". Ngày 18/9, theo Cổng thông tin điện tử Bộ Công an, lãnh đạo 3 ngành Tư pháp Trung ương đã họp nghe Cơ quan Cảnh sát điều tra Bộ Công an báo cáo tiến độ, đánh giá tài liệu, chứng cứ thu thập được trong vụ án Nguyễn Đức Kiên và những người có liên quan. Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản: Điều 139 viết: 1. Người nào bằng thủ đoạn gian dối chiếm đoạt tài sản của người khác có giá trị từ hai triệu đồng đến dưới năm mươi triệu đồng hoặc dưới hai triệu đồng nhưng gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi chiếm đoạt hoặc đã bị kết án về tội chiếm đoạt tài sản, chưa được xoá án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến ba năm. 2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm: a) Có tổ chức; b) Có tính chất chuyên nghiệp; c) Tái phạm nguy hiểm; d) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn hoặc lợi dụng danh nghĩa cơ quan, tổ chức; đ) Dùng thủ đoạn xảo quyệt; e) Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ năm mươi triệu đồng đến dưới hai trăm triệu đồng; g) Gây hậu quả nghiêm trọng. 3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ bảy năm đến mười lăm năm: a) Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ hai trăm triệu đồng đến dưới năm trăm triệu đồng; b) Gây hậu quả rất nghiêm trọng. 4. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ mười hai năm đến hai mươi năm hoặc tù chung thân: a) Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ năm trăm triệu đồng trở lên; b) Gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng. 5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ mười triệu đồng đến một trăm triệu đồng, tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản, bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ một năm đến năm năm. Tội cố ý làm trái quy định của Nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng: Điều 165 viết: 1. Người nào lợi dụng chức vụ, quyền hạn cố ý làm trái quy định của Nhà nước về quản lý kinh tế gây thiệt hại từ một trăm triệu đồng đến dưới ba trăm triệu đồng hoặc dưới một trăm triệu đồng, đã bị xử lý kỷ luật về hành vi này mà còn vi phạm gây hậu quả nghiêm trọng, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ một năm đến năm năm. 2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ ba năm đến mười hai năm: a) Vì vụ lợi hoặc động cơ cá nhân khác; b) Có tổ chức; c) Dùng thủ đoạn xảo quyệt; d) Gây thiệt hại từ ba trăm triệu đồng đến dưới một tỷ đồng hoặc gây hậu quả rất nghiêm trọng khác. 3. Phạm tội gây thiệt hại từ một tỷ đồng trở lên hoặc gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng khác, thì bị phạt tù từ mười năm đến hai mươi năm. 4. Người phạm tội còn có thể bị tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản, cấm đảm nhiệm chức vụ hoặc làm công việc nhất định từ một năm đến năm năm. Bị bắt bởi một tội và bị khởi tố bởi những tội khác, điều này thấy rất phổ biến trong thời gian qua.
Khởi tố Giám đốc Ban quản lý dự án đầu tư xây dựng hạ tầng đô thị TPHCM
Bộ Công an đã khởi tố, bắt giam ông Bùi Thanh Tân, Giám đốc Ban Quản lý dự án đầu tư xây dựng hạ tầng đô thị TPHCM và 1 trưởng ban điều hành Dự án 4 thuộc ban này. Cơ quan Cảnh sát điều tra - Bộ Công an khởi tố và bắt giam ông Bùi Thanh Tân, sinh năm 1970, trú Phường 6, Quận 4, TPHCM về tội Nhận hối lộ. Ông Tân là Giám đốc Ban Quản lý dự án đầu tư xây dựng hạ tầng đô thị TPHCM. Cùng bị khởi tố và bắt giam về tội danh trên còn có Lê Thanh Tùng (sinh năm 1977, trú Quận 12, TPHCM), Trưởng ban điều hành Dự án 4 thuộc Ban Quản lý dự án đầu tư xây dựng hạ tầng đô thị. Dự án 4 chịu trách nhiệm quản lý giai đoạn 2 của Dự án xây dựng hạ tầng và cải tạo môi trường kênh Tham Lương - Bến Cát - rạch Nước Lên, với tổng vốn đầu tư 8.200 tỷ đồng. Ông Bùi Thanh Tân, Giám đốc Ban Quản lý dự án đầu tư xây dựng hạ tầng đô thị TPHCM Trước đó, do ông Bùi Thanh Tân đã vắng mặt tại cơ quan trong thời gian dài. Ngày 1/10, Chủ tịch UBND TPHCM đã quyết định phân công ông Trần Như Quốc Bảo, Phó Giám đốc Ban Quản lý dự án, phụ trách lãnh đạo và điều hành hoạt động của ban, bao gồm các giao dịch tài chính và nhiệm vụ của Giám đốc. Ban Quản lý dự án đầu tư xây dựng hạ tầng đô thị TPHCM đóng vai trò chủ đầu tư các công trình hạ tầng đô thị như cấp thoát nước, chống ngập, công viên, cây xanh, chiếu sáng và các dự án khác sử dụng vốn ngân sách hoặc vốn nhà nước ngoài ngân sách khi được giao, đảm bảo tuân thủ các quy định pháp luật trong quá trình đầu tư xây dựng. (Nguồn: Cổng Thông tin điện tử Chính phủ) Link bài viết: https://baochinhphu.vn/khoi-to-giam-doc-ban-quan-ly-du-an-dau-tu-xay-dung-ha-tang-do-thi-tphcm-102241016082238817.htm
Khởi tố tài xế và 3 giáo viên vụ bé trai tử vong do bị bỏ quên trên xe đưa đón
Cơ quan công an đã quyết định khởi tố 4 bị can liên quan đến việc bé trai tử vong do bị bỏ quên trên xe đưa đón xảy ra ngày 29/5/2024 trên địa bàn thành phố Thái Bình (1) Khởi tố thêm 03 bị can Ngày 30/5/2024, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Thái Bình đã ra Quyết định khởi tố bị can và Lệnh tạm giam đối với P.Q.A (sinh năm 1986, trú tại thôn Phúc Hạ, xã Vũ Phúc, thành phố Thái Bình) là giáo viên trường mầm non Hồng Nhung 2, địa chỉ tại xã Phú Xuân, thành phố Thái Bình về tội “Vô ý làm chết người” quy định tại Điều 128 Bộ luật hình sự 2015. Vào ngày 31/5/2024, căn cứ vào kết quả điều tra, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Thái Bình tiếp tục ra Quyết định bổ sung Quyết định khởi tố vụ án hình sự “Thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng” xảy ra tại xã Phú Xuân, thành phố Thái Bình. Theo đó, Quyết định khởi tố bị can và Lệnh bắt bị can để tạm giam đối với N.V.L (sinh năm 1965, trú tại tổ 1, phường Quang Trung) là lái xe đưa đón học sinh của Trường Mầm non Hồng Nhung cơ sở 2 về tội “Vô ý làm chết người” quy định tại Điều 128 Bộ luật hình sự 2015. Quyết định khởi tố bị can và Lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú đối với N.T.P (sinh năm 1966, trú tại thôn Đại Lai 2, xã Phú Xuân) và Đ.T.N (sinh năm 1998, trú tại tổ 4, phường Trần Lãm) là hai giáo viên phụ trách lớp có học sinh tử vong về tội “Thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng” quy định tại Điều 360 Bộ luật hình sự 2015. Như vậy, đã có 4 bị can bị Công an thành phố Thái Bình khởi tố liên quan đến vụ việc bé trai tử vong do bị bỏ quên trong xe ô tô. Vụ án đang được Lãnh đạo Công an tỉnh tập trung chỉ đạo điều tra xử lý nghiêm theo quy định của pháp luật. (Nguồn tổng hợp) (2) Điểm lại vụ án Theo các nguồn thông tin, khoảng 18h00’, ngày 29/5/2024, Công an Thành phố Thái Bình tiếp nhận tin báo của anh T.Đ.A (2004), trú tại xã Dũng Nghĩa, huyện Vũ Thư về việc cháu T.G.H (sinh ngày 20/9/2019), là học sinh lớp 4 tuổi Trường Mầm non Hồng Nhung, địa chỉ tại xã Phú Xuân, thành phố Thái Bình bị bỏ quên trên xe đưa đón của nhà trường dẫn đến tử vong. Bước đầu xác định: Khoảng 6h20’ ngày 29/5/2024, anh N.V.L (1965), trú tại phường Quang Trung, thành phố Thái Bình điều khiển xe ô tô 29 chỗ cùng 01 giáo viên Trường Mầm non Hồng Nhung đón cháu H và 09 học sinh khác đi học. Khi đến trường, anh L. mở cửa xe ô tô cho giáo viên và các cháu học sinh tự đi vào lớp. Sau đó, điều khiển xe đưa đón đỗ ở cổng trường rồi ra về. Khi vào lớp, giáo viên lớp có chụp ảnh điểm danh học sinh gửi lên phần mềm của nhà trường để theo dõi, quản lý thì phát hiện vắng cháu H nhưng không thông báo cho gia đình. Đến khoảng 17 giờ cùng ngày, anh T.Đ.A - là cậu ruột của cháu đến đón và phát hiện sự việc cháu H bị bỏ quên trên xe đưa đón của nhà trường dẫn đến tử vong. Ngay trong ngày, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Thành phố đã ra Quyết định khởi tố vụ án “Vô ý làm chết người” quy định tại Điều 128 Bộ luật hình sự 2015 để điều tra làm rõ vụ án. (3) Mức xử phạt tội "Vô ý làm chết người" và "Thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng" Theo Điều 128 Bộ luật hình sự 2015 quy định, người nào vô ý làm chết người, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 01 năm đến 05 năm. Phạm tội làm chết 02 người trở lên, thì bị phạt tù từ 03 năm đến 10 năm. Đối với Tội thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng được quy định tại Điều 360 Bộ luật hình sự 2015, người nào có chức vụ, quyền hạn vì thiếu trách nhiệm mà không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nhiệm vụ được giao thuộc một trong các trường hợp sau đây thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 05 năm: - Làm chết 01 người hoặc gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 01 người với tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 61% trở lên; - Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 02 người với tỷ lệ tổn thương cơ thể của mỗi người từ 31% đến 60%; - Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 03 người trở lên mà tổng tỷ lệ tổn thương cơ thể của những người này từ 61% đến 121%; - Gây thiệt hại về tài sản từ 100.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng. Như vậy, người phạm tội “Vô ý làm chết người" có thể sẽ lãnh mức án tù từ 01 đến 05 năm; người phạm tội đối với tội “Thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng” sẽ bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 05 năm. Mức xử phạt này dựa trên quy định của Bộ luật hình sự 2015, về thực tế xét xử, HĐXX sẽ xem xét thêm nhiều yếu tố của vụ án để đưa ra mức xử phạt cuối cùng dành cho các bị can.
Những trường hợp nào chỉ truy cứu TNHS khi bị hại yêu cầu?
Tội phạm sẽ phải chịu trách nhiệm hình sự cho hành vi phạm tội của mình. Tuy nhiên cũng có trường hợp người phạm tội chỉ bị truy cứu trách nhiệm hình sự khi có yêu cầu của bị hại. Căn cứ nào để không khởi tố vụ án hình sự? Theo Điều 157 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 sửa đổi 2021 quy định không được khởi tố vụ án hình sự khi có một trong các căn cứ sau: - Không có sự việc phạm tội; - Hành vi không cấu thành tội phạm; - Người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội chưa đến tuổi chịu trách nhiệm hình sự; - Người mà hành vi phạm tội của họ đã có bản án hoặc quyết định đình chỉ vụ án có hiệu lực pháp luật; - Đã hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự; - Tội phạm đã được đại xá; - Người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội đã chết, trừ trường hợp cần tái thẩm đối với người khác; - Tội phạm quy định tại khoản 1 các điều 134, 135, 136, 138, 139, 141, 143, 155 và 156 của Bộ luật hình sự mà bị hại hoặc người đại diện của bị hại không yêu cầu khởi tố. Như vậy, nếu thuộc một trong các căn cứ trên thì sẽ không được khởi tố vụ án hình sự. Theo đó, vẫn có các trường hợp mà bị hại hoặc người đại diện của bị hại không yêu cầu khởi tố thì sẽ không khởi tố vụ án. Những trường hợp nào chỉ truy cứu TNHS khi bị hại yêu cầu? Theo Điều 155 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 sửa đổi 2021 quy định: Chỉ được khởi tố vụ án hình sự về tội phạm quy định tại khoản 1 các điều 134, 135, 136, 138, 139, 141, 143, 155 và 156 Bộ luật Hình sự 2015 khi có yêu cầu của bị hại hoặc người đại diện của bị hại là người dưới 18 tuổi, người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất hoặc đã chết. Đồng thời, truy cứu trách nhiệm hình sự (TNHS) là việc buộc người có hành vi được quy định trong Bộ luật Hình sự phải chịu TNHS về hành vi phạm tội mà họ gây ra. Người đang bị truy cứu TNHS là người đang trong thời gian bị các cơ quan tiến hành tố tụng áp dụng các biện pháp tố tụng hình sự như khởi tố, điều tra; truy tố và xét xử. Theo đó, các trường hợp chỉ truy cứu TNHS khi bị hại yêu cầu bao gồm: - Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác theo Điều 134 Bộ luật Hình sự 2015. - Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh theo Điều 135 Bộ luật Hình sự 2015. - Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng hoặc do vượt quá mức cần thiết khi bắt giữ người phạm tội theo Điều 136 Bộ luật Hình sự 2015. - Tội vô ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác theo Điều 138 Bộ luật Hình sự 2015. - Tội vô ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác do vi phạm quy tắc nghề nghiệp hoặc quy tắc hành chính theo Điều 139 Bộ luật Hình sự 2015. - Tội hiếp dâm theo Điều 141 Bộ luật Hình sự 2015. - Tội cưỡng dâm theo Điều 143 Bộ luật Hình sự 2015. - Tội làm nhục người khác theo Điều 155 Bộ luật Hình sự 2015. - Tội vu khống theo Điều 156 Bộ luật Hình sự 2015. Cơ quan nào có thẩm quyền khởi tố vụ án hình sự? Theo Điều 153 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 quy định thẩm quyền khởi tố vụ án hình sự như sau: - Cơ quan điều tra quyết định khởi tố vụ án hình sự đối với tất cả vụ việc có dấu hiệu tội phạm, trừ những vụ việc do cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra, Viện kiểm sát, Hội đồng xét xử đang thụ lý, giải quyết quy định tại các khoản 2, 3 và 4 Điều 153 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015. - Cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra ra quyết định khởi tố vụ án hình sự trong trường hợp quy định tại Điều 164 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 . - Viện kiểm sát ra quyết định khởi tố vụ án hình sự trong trường hợp: + Viện kiểm sát hủy bỏ quyết định không khởi tố vụ án hình sự của Cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra; + Viện kiểm sát trực tiếp giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố; + Viện kiểm sát trực tiếp phát hiện dấu hiệu tội phạm hoặc theo yêu cầu khởi tố của Hội đồng xét xử. - Hội đồng xét xử ra quyết định khởi tố hoặc yêu cầu Viện kiểm sát khởi tố vụ án hình sự nếu qua việc xét xử tại phiên tòa mà phát hiện có việc bỏ lọt tội phạm. Như vậy, tùy theo vụ việc mà các cơ quan có thẩm quyền khởi tố vụ án hình sự có thể là cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra, Viện kiểm sát, Hội đồng xét xử đang thụ lý, giải quyết.
Người trốn truy nã đến hết thời hiệu truy cứu TNHS thì có tiếp tục khởi tố không?
Thông thường thời hiệu truy cứu TNHS là từ 5 năm đến 20 năm, nếu hết thời hạn này thì tội phạm sẽ không bị truy cứu TNHS. Vậy, đối với trường hợp tội phạm trốn truy nã quá thời hiệu thì có bị khởi tố không? Người trốn truy nã đến hết thời hiệu truy cứu TNHS thì có tiếp tục khởi tố không? Theo Điều 27 Bộ luật Hình sự 2015 quy định về thời hiệu truy cứu TNHS như sau: - Thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự là thời hạn do Bộ luật Hình sự 2015 quy định mà khi hết thời hạn đó thì người phạm tội không bị truy cứu trách nhiệm hình sự. - Thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự được quy định như sau: + 05 năm đối với tội phạm ít nghiêm trọng; + 10 năm đối với tội phạm nghiêm trọng; + 15 năm đối với tội phạm rất nghiêm trọng; + 20 năm đối với tội phạm đặc biệt nghiêm trọng. - Thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự được tính từ ngày tội phạm được thực hiện. Nếu trong thời hạn quy định trên, người phạm tội lại thực hiện hành vi phạm tội mới mà Bộ luật Hình sự 2015 quy định mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy trên 01 năm tù, thì thời hiệu đối với tội cũ được tính lại kể từ ngày thực hiện hành vi phạm tội mới. Nếu trong thời hạn quy định trên, người phạm tội cố tình trốn tránh và đã có quyết định truy nã, thì thời hiệu tính lại kể từ khi người đó ra đầu thú hoặc bị bắt giữ. Như vậy, đối với tội phạm đã được phát hiện và đã có quyết định truy nã nhưng trốn truy nã đến hết thời hiệu truy cứu TNHS theo quy định thì thời hiệu mới sẽ được tính lại từ khi người đó bị bắt. Tức là nếu bị bắt lại người đó vẫn sẽ bị tiếp tục khởi tố. Tội phạm được phân thành mấy loại? Thế nào là tội phạm đặc biệt nghiêm trọng? Theo Điều 9 Bộ luật Hình sự 2015, sửa đổi 2017 quy định phân loại tội phạm như sau: - Căn cứ vào tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội được quy định trong Bộ luật Hình sự 2015, tội phạm được phân thành 04 loại sau đây: + Tội phạm ít nghiêm trọng là tội phạm có tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội không lớn mà mức cao nhất của khung hình phạt do Bộ luật Hình sự 2015 quy định đối với tội ấy là phạt tiền, phạt cải tạo không giam giữ hoặc phạt tù đến 03 năm; + Tội phạm nghiêm trọng là tội phạm có tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội lớn mà mức cao nhất của khung hình phạt do Bộ luật Hình sự 2015 quy định đối với tội ấy là từ trên 03 năm tù đến 07 năm tù; + Tội phạm rất nghiêm trọng là tội phạm có tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội rất lớn mà mức cao nhất của khung hình phạt do Bộ luật Hình sự 2015 quy định đối với tội ấy là từ trên 07 năm tù đến 15 năm tù; + Tội phạm đặc biệt nghiêm trọng là tội phạm có tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội đặc biệt lớn mà mức cao nhất của khung hình phạt do Bộ luật Hình sự 2015 quy định đối với tội ấy là từ trên 15 năm tù đến 20 năm tù, tù chung thân hoặc tử hình. - Tội phạm do pháp nhân thương mại thực hiện được phân loại căn cứ vào tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội theo quy định trên và quy định tương ứng đối với các tội phạm được quy định tại Điều 76 Bộ luật Hình sự 2015. Như vậy, tội phạm sẽ được phân loại theo tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội, theo đó tội phạm đặc biệt nghiêm trọng là có mức độ nguy hiểm nhất và bị phạt tù mức cao nhất là tử hình. Những tội nào sẽ không áp dụng thời hiệu truy cứu TNHS? Theo Điều 28 Bộ luật Hình sự 2015 có quy định về các trường hợp không áp dụng thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự bao gồm: - Các tội xâm phạm an ninh quốc gia quy định tại Chương XIII Bộ luật Hình sự 2015; - Các tội phá hoại hòa bình, chống loài người và tội phạm chiến tranh quy định tại Chương XXVI Bộ luật Hình sự 2015; - Tội tham ô tài sản thuộc trường hợp quy định tại khoản 3 và khoản 4 Điều 353 Bộ luật Hình sự 2015; tội nhận hối lộ thuộc trường hợp quy định tại khoản 3 và khoản 4 Điều 354 của Bộ luật Hình sự 2015. Như vậy, nếu thuộc một trong các tội trên thì sẽ không áp dụng thời hiệu truy cứu TNHS. Tức là, bất cứ khi nào tội phạm được phát hiện thì vẫn sẽ bị truy cứu TNHS.
Chưa nộp đơn khởi kiện, khởi tố hình sự, cá nhân có được tự yêu cầu giám định thương tích không?
Khi nào sẽ thực hiện giám định thương tích? Cá nhân có quyền tự yêu cầu giám định thương tích khi chưa nộp đơn khởi kiện và chưa tiến hành khởi tố vụ án hình sự không? Khi nào thực hiện giám định thương tích? Theo Điều 2 Luật Giám định tư pháp 2012 được sửa đổi bởi Khoản 1 Điều 1 Luật Giám định tư pháp sửa đổi 2020 quy định: Giám định tư pháp là việc người giám định tư pháp sử dụng kiến thức, phương tiện, phương pháp khoa học, kỹ thuật, nghiệp vụ để kết luận về chuyên môn những vấn đề có liên quan đến hoạt động khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án hình sự, giải quyết vụ việc dân sự, vụ án hành chính theo trưng cầu của cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng hoặc theo yêu cầu của người yêu cầu giám định theo quy định của Luật Giám định tư pháp 2012. Theo đó, giám định thương tích là một trong các thủ tục giám định tư pháp. Giám định thương tích là quá trình xác định, đánh giá và phân tích các dấu hiệu, tổn thương và vết thương trên cơ thể người hoặc vật chất để tìm hiểu nguyên nhân, tính chất, và mức độ của thương tích. Giám định thương tích nhằm mục đích cung cấp các thông tin chính xác và khách quan về thương tích để xác định quyền lợi và nghĩa vụ của các bên liên quan, bao gồm nạn nhân, bị can, và hệ thống pháp luật, hỗ trợ hoạt động khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án hình sự, giải quyết vụ việc dân sự, vụ án hành chính. Theo Điều 206 Bộ luật tố tụng hình sự 2015 quy định về các trường hợp bắt buộc phải trưng cầu giám định bao gồm: - Tình trạng tâm thần của người bị buộc tội khi có sự nghi ngờ về năng lực trách nhiệm hình sự của họ; tình trạng tâm thần của người làm chứng hoặc bị hại khi có sự nghi ngờ về khả năng nhận thức, khả năng khai báo đúng đắn về những tình tiết của vụ án; - Tuổi của bị can, bị cáo, bị hại nếu việc đó có ý nghĩa đối với việc giải quyết vụ án và không có tài liệu để xác định chính xác tuổi của họ hoặc có nghi ngờ về tính xác thực của những tài liệu đó; - Nguyên nhân chết người; - Tính chất thương tích, mức độ tổn hại sức khỏe hoặc khả năng lao động; - Chất ma tuý, vũ khí quân dụng, vật liệu nổ, chất cháy, chất độc, chất phóng xạ, tiền giả, vàng, bạc, kim khí quý, đá quý, đồ cổ; - Mức độ ô nhiễm môi trường. Như vậy, khi cần xác định tính chất của thương tích, mức độ tổn hại đối với sức khỏe hoặc khả năng lao động của người bị gây thương tích, thì phải bắt buộc trưng cầu giám định thương tích. Chưa nộp đơn khởi kiện, chưa khởi tố hình sự, cá nhân có được tự yêu cầu giám định thương tích không? Theo Điều 22 Luật Giám định tư pháp 2012 được sửa đổi bởi Khoản 12 Điều 1 Luật Giám định tư pháp sửa đổi 2020 quy định về quyền, nghĩa vụ của người yêu cầu giám định tư pháp như sau: - Người yêu cầu giám định có quyền gửi văn bản yêu cầu cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng trưng cầu giám định. Trường hợp cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng không chấp nhận yêu cầu thì trong thời hạn 07 ngày, kể từ ngày nhận được yêu cầu trưng cầu giám định, phải thông báo cho người yêu cầu giám định bằng văn bản. Hết thời hạn nói trên hoặc kể từ ngày nhận được thông báo từ chối trưng cầu giám định, người yêu cầu giám định có quyền tự mình yêu cầu giám định - Người yêu cầu giám định có quyền: + Yêu cầu cá nhân, tổ chức thực hiện giám định tư pháp trả kết luận giám định đúng thời hạn đã thỏa thuận và theo nội dung đã yêu cầu; + Yêu cầu cá nhân, tổ chức đã thực hiện giám định tư pháp giải thích kết luận giám định; + Đề nghị Toà án triệu tập người giám định tư pháp đã thực hiện giám định tham gia phiên tòa để giải thích, trình bày về kết luận giám định; + Yêu cầu cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng trưng cầu giám định lại; yêu cầu giám định bổ sung theo quy định tại khoản 1 Điều 29 của Luật này. - Người yêu cầu giám định tư pháp có nghĩa vụ: + Cung cấp thông tin, tài liệu có liên quan đến đối tượng giám định theo yêu cầu của người giám định tư pháp và chịu trách nhiệm về tính chính xác của thông tin, tài liệu do mình cung cấp; + Nộp tạm ứng chi phí giám định tư pháp khi yêu cầu giám định; thanh toán kịp thời, đầy đủ chi phí giám định cho cá nhân, tổ chức thực hiện giám định khi nhận kết luận giám định. - Người yêu cầu giám định chỉ được thực hiện quyền tự yêu cầu giám định trước khi Tòa án ra quyết định đưa vụ án ra xét xử sơ thẩm. Như vậy, cá nhân chỉ có quyền tự yêu cầu giám định trước khi có quyết định đưa vụ án ra xét xử sơ thẩm. Theo đó, khi chưa nộp đơn khởi kiện, chưa khởi tố hình sự tức là chưa có quyết định, lúc này cá nhân có quyền tự yêu cầu giám định thương tích. Khi nào Tòa án sẽ ra quyết định đưa vụ án hình sự ra xét xử? Thời hạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án hình sự theo Điều 277 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 như sau: - Trong thời hạn 30 ngày đối với tội phạm ít nghiêm trọng, 45 ngày đối với tội phạm nghiêm trọng, 02 tháng đối với tội phạm rất nghiêm trọng, 03 tháng đối với tội phạm đặc biệt nghiêm trọng kể từ ngày thụ lý vụ án, Thẩm phán chủ tọa phiên tòa phải ra một trong các quyết định: + Đưa vụ án ra xét xử; + Trả hồ sơ để yêu cầu điều tra bổ sung; + Tạm đình chỉ vụ án hoặc đình chỉ vụ án. Đối với vụ án phức tạp, Chánh án Tòa án có thể quyết định gia hạn thời hạn chuẩn bị xét xử nhưng không quá 15 ngày đối với tội phạm ít nghiêm trọng và tội phạm nghiêm trọng, không quá 30 ngày đối với tội phạm rất nghiêm trọng và tội phạm đặc biệt nghiêm trọng. Việc gia hạn thời hạn chuẩn bị xét xử phải thông báo ngay cho Viện kiểm sát cùng cấp. - Đối với vụ án được trả lại để yêu cầu điều tra bổ sung thì trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận lại hồ sơ, Thẩm phán chủ tọa phiên tòa phải ra quyết định đưa vụ án ra xét xử. Trường hợp phục hồi vụ án thì thời hạn chuẩn bị xét xử theo thủ tục chung quy định tại Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 kể từ ngày Tòa án ra quyết định phục hồi vụ án. - Trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày có quyết định đưa vụ án ra xét xử, Tòa án phải mở phiên tòa; trường hợp vì lý do bất khả kháng hoặc do trở ngại khách quan thì Tòa án có thể mở phiên tòa trong thời hạn 30 ngày. Như vậy, trong thời hạn 30 ngày đối với tội phạm ít nghiêm trọng, 45 ngày đối với tội phạm nghiêm trọng, 02 tháng đối với tội phạm rất nghiêm trọng, 03 tháng đối với tội phạm đặc biệt nghiêm trọng kể từ ngày thụ lý vụ án, Thẩm phán phải ra quyết định đưa vụ án ra xét xử trong trường hợp đủ điều kiện xét xử.
Làm người dưới 13 tuổi có thai sẽ bị xử lý thế nào?
Theo Báo Phụ Nữ Việt Nam đưa tin, tại xã Tam Hiệp (huyện Thanh Trì, Hà Nội) vừa qua xảy ra vụ việc cháu bé 12 tuổi được gia đình thấy có biểu hiện bụng to bất thường nên đưa đi kiểm tra và phát hiện đang mang bầu ở tháng thứ 6. Vậy, người làm cho cháu bé có thai sẽ bị xử lý thế nào? Làm người dưới 13 tuổi có thai sẽ bị xử lý thế nào? Theo quy định tại Điều 142 Bộ luật Hình sự 2015, được sửa đổi bởi khoản 24 Điều 1 Luật sửa đổi Bộ luật Hình sự 2017 quy định về tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi như sau: - Người nào thực hiện một trong các hành vi sau đây, thì bị phạt tù từ 07 năm đến 15 năm: + Dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực hoặc lợi dụng tình trạng không thể tự vệ được của nạn nhân hoặc thủ đoạn khác giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi trái với ý muốn của họ; + Giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác với người dưới 13 tuổi. - Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 12 năm đến 20 năm: + Có tính chất loạn luân; + Làm nạn nhân có thai; + Gây thương tích, gây tổn hại cho sức khỏe hoặc gây rối loạn tâm thần và hành vi của nạn nhân mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31% đến 60%; + Đối với người mà người phạm tội có trách nhiệm chăm sóc, giáo dục, chữa bệnh; + Phạm tội 02 lần trở lên; + Đối với 02 người trở lên; + Tái phạm nguy hiểm. - Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù 20 năm, tù chung thân hoặc tử hình: + Có tổ chức; + Nhiều người hiếp một người; + Đối với người dưới 10 tuổi; + Gây thương tích, gây tổn hại cho sức khỏe hoặc gây rối loạn tâm thần và hành vi của nạn nhân mà tỷ lệ tổn thương cơ thể 61% trở lên; + Biết mình bị nhiễm HIV mà vẫn phạm tội; + Làm nạn nhân chết hoặc tự sát. - Người phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm. Như vậy, dù quan hệ tự nguyện hay ép buộc với người dưới 13 tuổi đều sẽ bị truy cứu với tội danh hiếp dâm người dưới 16 tuổi. Theo đó, làm người dưới 13 tuổi có thai sẽ bị phạt tù từ 12 năm đến 20 năm và có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm. Nếu gia đình không yêu cầu xử lý, người làm người dưới 13 tuổi có thai có bị khởi tố không? Theo Khoản 1 Điều 155 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015, được sửa đổi bởi khoản 3 Điều 1 Luật sửa đổi Bộ luật Tố tụng hình sự 2021 quy định về các trường hợp khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của bị hại như sau: Chỉ được khởi tố vụ án hình sự về tội phạm quy định tại khoản 1 các điều 134, 135, 136, 138, 139, 141, 143, 155 và 156 của Bộ Luật hình sự khi có yêu cầu của bị hại hoặc người đại diện của bị hại là người dưới 18 tuổi, người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất hoặc đã chết. Theo đó, tội phạm hiếp dâm người dưới 16 tuổi được quy định tại Điều 142 Bộ luật hình sự 2015 không nằm trong quy định trên, vì vậy dù không có yêu cầu của bị hại thì người làm người dưới 13 tuổi có thai vẫn sẽ bị khởi tố. Chưa quan hệ nhưng thực hiện các hành vi tiếp xúc về thể chất với người 16 tuổi thì bị xử lý thế nào? Theo Điều 146 Bộ luật hình sự 2015 được sửa đổi bổ sung bởi điểm e Khoản 2 Điều 2 Luật sửa đổi Bộ luật Hình sự 2017 quy định về tội dâm ô người dưới 16 tuổi như sau: - Người nào đủ 18 tuổi trở lên mà có hành vi dâm ô đối với người dưới 16 tuổi không nhằm mục đích giao cấu hoặc không nhằm thực hiện các hành vi quan hệ tình dục khác, thì bị phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm. - Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 03 năm đến 07 năm: + Phạm tội có tổ chức; + Phạm tội 02 lần trở lên; + Đối với 02 người trở lên; + Đối với người mà người phạm tội có trách nhiệm chăm sóc, giáo dục, chữa bệnh; + Gây rối loạn tâm thần và hành vi của nạn nhân mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31% đến 60%; + Tái phạm nguy hiểm. - Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 07 năm đến 12 năm: + Gây rối loạn tâm thần và hành vi của nạn nhân mà tỷ lệ tổn thương cơ thể 61% trở lên; + Làm nạn nhân tự sát. - Người phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm. Trong đó, các hành vi sau gọi là dâm ô được hướng dẫn bởi Khoản 3 Điều 3 Nghị quyết 06/2019/NQ-HĐTP như sau: Dâm ô quy định tại khoản 1 Điều 146 của Bộ luật Hình sự là hành vi của những người cùng giới tính hoặc khác giới tính tiếp xúc về thể chất trực tiếp hoặc gián tiếp qua lớp quần áo vào bộ phận sinh dục, bộ phận nhạy cảm, bộ phận khác trên cơ thể của người dưới 16 tuổi có tính chất tình dục nhưng không nhằm quan hệ tình dục, gồm một trong các hành vi sau đây: + Dùng bộ phận sinh dục, bộ phận nhạy cảm tiếp xúc (ví dụ: đụng chạm, cọ xát, chà xát...) với bộ phận sinh dục, bộ phận nhạy cảm, bộ phận khác của người dưới 16 tuổi; + Dùng bộ phận khác trên cơ thể (ví dụ: tay, chân, miệng, lưỡi...) tiếp xúc (ví dụ: vuốt ve, sờ, bóp, cấu véo, hôn, liếm...) với bộ phận sinh dục, bộ phận nhạy cảm của người dưới 16 tuổi; + Dùng dụng cụ tình dục tiếp xúc (ví dụ: đụng chạm, cọ xát, chà xát...) với bộ phận sinh dục, bộ phận nhạy cảm của người dưới 16 tuổi; + Dụ dỗ, ép buộc người dưới 16 tuổi dùng bộ phận khác trên cơ thể của họ tiếp xúc (ví dụ: vuốt ve, sờ, bóp, cấu véo, hôn, liếm...) với bộ phận nhạy cảm của người phạm tội hoặc của người khác; + Các hành vi khác có tính chất tình dục nhưng không nhằm quan hệ tình dục (ví dụ: hôn vào miệng, cổ, tai, gáy... của người dưới 16 tuổi). Theo đó, người từ đủ 18 tuổi trở lên mà có những hành vi tiếp xúc về thể chất trực tiếp hoặc gián tiếp vào bộ phận sinh dục, bộ phận nhạy cảm, bộ phận khác trên cơ thể của người dưới 16 tuổi có tính chất tình dục nhưng không nhằm quan hệ tình dục thì sẽ bị truy tố về tội dâm ô đối với người dưới 16 tuổi. Như vậy, dù không trực tiếp quan hệ với người dưới 16 tuổi nhưng có các hành động mang tính chất tình dục thì vẫn sẽ bị xử lý hình sự.
Khi nào pháp nhân được cử người khác ngoài người đại diện tham gia tố tụng hình sự?
Pháp nhân có bắt buộc cử người đại diện theo pháp luật thực hiện các thủ tục tố tụng không? Có trường hợp nào pháp nhân được cử người khác ngoài người đại diện tham gia tố tụng hình sự không? Bài viết sau đây sẽ giải đáp các thắc mắc trên. Ai sẽ là người thực hiện thủ tục tố tụng khi pháp nhân tham gia tố tụng? Theo Khoản 20 Điều 55 Bộ luật tố tụng hình sự 2015 quy định như sau: Người đại diện theo pháp luật của pháp nhân phạm tội, người đại diện khác theo quy định là người tham gia tố tụng. Theo quy định tại Điều 60, Điều 61 Bộ luật tố tụng hình sự 2015 quy định như sau: - Bị can là người hoặc pháp nhân bị khởi tố về hình sự. Quyền và nghĩa vụ của bị can là pháp nhân được thực hiện thông qua người đại diện theo pháp luật của pháp nhân theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự 2015. - Bị cáo là người hoặc pháp nhân đã bị Tòa án quyết định đưa ra xét xử. Quyền và nghĩa vụ của bị cáo là pháp nhân được thực hiện thông qua người đại diện theo pháp luật của pháp nhân theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự 2015. Đồng thời, người đại diện theo pháp luật của pháp nhân tham gia tố tụng được quy định tại Điều 434 Bộ luật tố tụng hình sự 2015 như sau: - Mọi hoạt động tố tụng của pháp nhân bị truy cứu trách nhiệm hình sự được thông qua người đại diện theo pháp luật của pháp nhân. Pháp nhân phải cử và bảo đảm cho người đại diện theo pháp luật của mình tham gia đầy đủ các hoạt động khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án theo yêu cầu của cơ quan, người có thẩm quyền. - Người đại diện theo pháp luật của pháp nhân tham gia tố tụng phải thông báo cho cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng họ tên, ngày, tháng, năm sinh, quốc tịch, dân tộc, tôn giáo, giới tính, nghề nghiệp, chức vụ của mình. Như vậy, người đại diện theo pháp luật của pháp nhân sẽ thay mặt pháp nhân tham gia các thủ tục tố tụng hình sự. Người đại diện theo pháp luật của pháp nhân là gì? Theo quy định tại Điều 134 Bộ luật Dân sự 2015, đại diện là: - Là việc cá nhân, pháp nhân (sau đây gọi chung là người đại diện) nhân danh và vì lợi ích của cá nhân hoặc pháp nhân khác (sau đây gọi chung là người được đại diện) xác lập, thực hiện giao dịch dân sự. - Cá nhân, pháp nhân có thể xác lập, thực hiện giao dịch dân sự thông qua người đại diện. Trường hợp pháp luật quy định thì người đại diện phải có năng lực pháp luật dân sự, năng lực hành vi dân sự phù hợp với giao dịch dân sự được xác lập, thực hiện. Theo quy định tại Điều 137 Bộ luật Dân sự 2015, người đại diện theo pháp luật của pháp nhân bao gồm: - Người được pháp nhân chỉ định theo điều lệ; - Người có thẩm quyền đại diện theo quy định của pháp luật; - Người do Tòa án chỉ định trong quá trình tố tụng tại Tòa án. Một pháp nhân có thể có nhiều người đại diện theo pháp luật và mỗi người đại diện có quyền đại diện cho pháp nhân. Như vậy, một pháp nhân có thể có một, nhiều hoặc không có người đại diện theo pháp luật Khi nào pháp nhân được cử người khác ngoài người đại diện tham gia tố tụng hình sự? Cũng tại Điều 434 Bộ luật tố tụng hình sự 2015, trong trường hợp người đại diện theo pháp luật của pháp nhân không thể tham gia tố tụng thì xử lý như sau: - Trường hợp người đại diện theo pháp luật của pháp nhân bị khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử hoặc không thể tham gia tố tụng được thì pháp nhân phải cử người khác làm người đại diện theo pháp luật của mình tham gia tố tụng. Trường hợp pháp nhân thay đổi người đại diện thì pháp nhân phải thông báo ngay cho cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng. - Tại thời điểm khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử mà pháp nhân không có người đại diện theo pháp luật hoặc có nhiều người cùng là đại diện theo pháp luật thì cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng chỉ định một người đại diện cho pháp nhân tham gia tố tụng. Như vậy, bắt buộc người tham gia tố tụng phải là người đại diện theo pháp luật của pháp nhân. Người thay mặt pháp nhân tham gia tố tụng chỉ có thể dưới tư cách là người đại diện theo pháp luật: - Nếu người đại diện hiện tại không thể tham gia tố tụng vì cũng đang là chủ thể tham gia tố tụng với tư cách cá nhân thì pháp nhân đó phải cử người khác làm người đại diện theo pháp luật để tham gia tố tụng. - Nếu không có hoặc có nhiều người đại diện thì cơ quan có thẩm quyền chỉ định một người người đại diện theo pháp luật để tham gia tố tụng. Người đại diện của pháp nhân có quyền và nghĩa vụ gì khi tham gia tố tụng hình sự? Quyền và nghĩa vụ của người đại diện theo pháp luật của pháp nhân khi tham gia tố tụng được quy định tại Điều 435 Bộ luật tố tụng hình sự 2015 như sau: Quyền của người đại diện theo pháp luật của pháp nhân - Được thông báo kết quả giải quyết nguồn tin về tội phạm; - Được biết lý do pháp nhân mà mình đại diện bị khởi tố; - Được thông báo, được giải thích về quyền và nghĩa vụ quy định tại Điều này; - Được nhận: + Quyết định khởi tố bị can đối với pháp nhân; + Quyết định thay đổi, bổ sung quyết định khởi tố bị can đối với pháp nhân; + Quyết định phê chuẩn quyết định khởi tố bị can đối với pháp nhân; + Quyết định phê chuẩn quyết định thay đổi, bổ sung quyết định khởi tố bị can đối với pháp nhân; + Quyết định áp dụng, thay đổi, hủy bỏ biện pháp cưỡng chế; + Bản kết luận điều tra; + Quyết định đình chỉ, tạm đình chỉ điều tra; + Quyết định đình chỉ, tạm đình chỉ vụ án; + Bản cáo trạng; + Quyết định đưa vụ án ra xét xử; + Bản án, quyết định của Tòa án và quyết định tố tụng khác theo quy định; - Trình bày lời khai, trình bày ý kiến, không buộc phải đưa ra lời khai chống lại pháp nhân mà mình đại diện hoặc buộc phải thừa nhận pháp nhân mà mình đại diện có tội; - Đưa ra chứng cứ, tài liệu, đồ vật, yêu cầu; - Đề nghị thay đổi người có thẩm quyền tiến hành tố tụng, người giám định, người định giá tài sản, người phiên dịch, người dịch thuật theo quy định; - Tự bào chữa, nhờ người bào chữa cho pháp nhân; - Được đọc, ghi chép bản sao tài liệu hoặc tài liệu đã được số hóa liên quan đến việc buộc tội, gỡ tội hoặc bản sao tài liệu khác liên quan đến việc bào chữa cho pháp nhân kể từ khi kết thúc điều tra khi có yêu cầu; - Tham gia phiên tòa, đề nghị chủ tọa phiên tòa hỏi hoặc tự mình hỏi những người tham gia phiên tòa nếu được chủ tọa đồng ý; tranh luận tại phiên tòa; - Phát biểu ý kiến sau cùng trước khi nghị án; - Xem biên bản phiên tòa, yêu cầu ghi những sửa đổi, bổ sung vào biên bản phiên tòa; - Kháng cáo bản án, quyết định của Tòa án; - Khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng. Nghĩa vụ của người đại diện theo pháp luật của pháp nhân - Có mặt theo giấy triệu tập của người có thẩm quyền tiến hành tố tụng. Trường hợp vắng mặt không vì lý do bất khả kháng hoặc do trở ngại khách quan thì có thể bị dẫn giải; - Chấp hành quyết định, yêu cầu của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng. Như vậy, khi thay mặt pháp nhân tham gia tố tụng hình sự, người đại diện theo pháp luật của pháp nhân vẫn có đầy đủ quyền và nghĩa vụ của người tham gia tố tụng.
16 tuổi lái xe gây tai nạn chết người có bị khởi tố không?
Không ít trường hợp người chưa đủ tuổi lái xe tham gia giao thông và cũng không hiếm trường hợp người chưa đủ tuổi lái xe gây tai nạn giao thông. Vậy thì trường hợp người 16 tuổi lái xe gây tai nạn chết người có bị khởi tố không? 1. Lái xe gây tai nạn chết người thì bị phạt bao nhiêu năm tù? Căn cứ Điều 260 Bộ luật Hình sự 2015, được sửa đổi bởi khoản 72 Điều 1 Luật sửa đổi Bộ luật Hình sự 2017 có quy định về tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ, theo đó: Người nào tham gia giao thông đường bộ mà vi phạm quy định về an toàn giao thông đường bộ gây thiệt hại cho người khác thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tiền từ 30.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 01 năm đến 05 năm: + Làm chết người; + Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 01 người mà tỷ lệ tổn thương cơ thể 61% trở lên; + Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 02 người trở lên mà tổng tỷ lệ tổn thương cơ thể của những người này từ 61% đến 121%; + Gây thiệt hại về tài sản từ 100.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng. … Theo đó, người nào tham gia giao thông đường bộ mà vi phạm quy định về an toàn giao thông đường bộ gây chết người thì sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ theo quy định tại Điều này. Nếu làm chết 01 người thì bị phạt tiền từ 30.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 01 năm đến 05 năm. Nếu làm chết 02 người thì bị phạt tù từ 03 năm đến 10 năm. Làm chết từ 3 người thì bị phạt tù từ 07 năm đến 15 năm. Người phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm. 2. 16 tuổi lái xe gây tai nạn chết người có bị khởi tố không? Theo khoản 1 Điều 12 Bộ luật Hình sự 2015 có quy định về tuổi chịu trách nhiệm hình sự thì người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hình sự về mọi tội phạm, trừ những tội phạm mà Bộ luật này có quy định khác. Điều 260 Bộ luật này quy định về tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ, theo đó không quy định độ tuổi khác đối với người phạm tội. Cho nên, trong trường hợp này thì người đủ 16 tuổi đã đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự về tội này. Căn cứ theo Điều 155 Bộ luật Tố tụng Hình sự 2015, được sửa đổi bởi khoản 3 Điều 1 Luật sửa đổi Bộ luật Tố tụng hình sự 2021 có quy định về khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của bị hại: - Chỉ được khởi tố vụ án hình sự về tội phạm quy định tại khoản 1 các điều 134, 135, 136, 138, 139, 141, 143, 155 và 156 của Bộ Luật hình sự khi có yêu cầu của bị hại hoặc người đại diện của bị hại là người dưới 18 tuổi, người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất hoặc đã chết. - Trường hợp người đã yêu cầu khởi tố rút yêu cầu thì vụ án phải được đình chỉ, trừ trường hợp có căn cứ xác định người đã yêu cầu rút yêu cầu khởi tố trái với ý muốn của họ do bị ép buộc, cưỡng bức thì tuy người đã yêu cầu khởi tố rút yêu cầu, Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án vẫn tiếp tục tiến hành tố tụng đối với vụ án. - Bị hại hoặc người đại diện của bị hại đã rút yêu cầu khởi tố thì không có quyền yêu cầu lại, trừ trường hợp rút yêu cầu do bị ép buộc, cưỡng bức. Theo đó, chỉ được khởi tố vụ án hình sự về tội phạm quy định tại khoản 1 các điều 134, 135, 136, 138, 139, 141, 143, 155 và 156 của Bộ Luật hình sự khi có yêu cầu của bị hại hoặc người đại diện của bị hại là người dưới 18 tuổi, người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất hoặc đã chết. Như vậy, tội phạm quy định tại Điều 260 Bộ luật Hình sự không thuộc trường hợp khởi tố vụ án hình sự khi có yêu cầu của bị hại hoặc người đại diện của bị hại là người dưới 18 tuổi, người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất hoặc đã chết. Cho nên đối với trường hợp người 16 tuổi (đã đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự) lái xe gây tai nạn chết người thì sẽ bị khởi tố hình sự khi có căn cứ theo quy định tại Điều 143 Bộ luật Tố tụng hình sự.
Từ vụ 02 thí sinh làm lộ đề thi tốt nghiệp, lộ đề thi có phải làm lộ bí mật nhà nước?
Vừa qua, Chính phủ đưa tin xem xét khởi tố 02 thí sinh làm lộ đề thi tốt nghiệp. Theo đó, hành vi này không những làm ảnh hưởng đến chất lượng kỳ thi mà còn làm ảnh hưởng đến trật tự xã hội. Xem xét khởi tố 02 thí sinh làm lộ đề thi tốt nghiệp Theo Báo Chính phủ, Thiếu tá Đỗ Xuân Giang (Cục An ninh chính trị nội bộ, Bộ Công an) cho biết, theo báo cáo của lực lượng công an, kỳ thi tốt nghiệp THPT 2023 có 51 trường hợp vi phạm quy chế, trong đó có 39 em sử dụng điện thoại di động. Nghiêm trọng nhất là 2 thí sinh vi phạm quy chế thi ở Yên Bái và Cao Bằng chụp ảnh đề thi gửi ra ngoài phòng thi. Theo ông Giang, báo cáo gần đây nhất của lực lượng công an, căn cứ vào tính chất, mức độ, hậu quả không loại trừ khả năng những trường hợp này sẽ bị xử lý hình sự. "Việc này dù không gây ảnh hưởng đến chất lượng kỳ thi, nhưng hành vi này cấu thành tội phạm. Hành vi của thí sinh này không những xâm phạm đến quy định của pháp luật về bảo vệ bí mật Nhà nước mà còn đe dọa đến an toàn của kỳ thi và tạo dư luận rất xấu về tính nghiêm túc của kỳ thi", ông Đỗ Xuân Giang nhấn mạnh. Cục An ninh chính trị nội bộ đã có văn bản chỉ đạo công an các địa phương làm rõ và không loại trừ xem xét khởi tố các trường hợp liên quan. Việc khởi tố này góp phần cảnh tỉnh tất cả thí sinh trong thời gian tới, hạn chế tiêu cực, đặc biệt là sử dụng công nghệ cao trong quá trình thi cử. Được biết, để đảm bảo an toàn trong các kỳ thi tốt nghiệp THPT từ 2025 trở đi, Cục An ninh chính trị nội bộ sẽ báo cáo lãnh đạo Bộ Công an về phương án thanh tra, kiểm tra kỳ thi phù hợp. Chánh Thanh tra Bộ GD&ĐT Nguyễn Đức Cường cũng cho biết, việc để thí sinh mang điện thoại vào phòng thi làm lọt lộ đề thi ra ngoài có trách nhiệm của cán bộ coi thi và các cán bộ liên quan. Người để các đối tượng đưa đề thi - tài liệu mật ra ngoài là vi phạm pháp luật hình sự, nên các địa phương cần tập huấn kỹ hơn trong kỳ thi các năm tới. Sắp tới, Bộ GD&ĐT sẽ tổ chức hội nghị sâu về kỳ thi tốt nghiệp THPT và xin ý kiến Bộ Công an để tiếp tục cải tiến về ứng dụng công nghệ thông tin và sử dụng công nghệ cao trong kỳ thi. Tham khảo: Đề thi THPT quốc gia có phải là bí mật nhà nước? Căn cứ Điều 16 Quy chế ban hành kèm theo Thông tư 15/2020/TT-BGDĐT (được sửa đổi bởi Thông tư 05/2021/TT-BGDĐT) có quy định khu vực ra đề thi, in sao đề thi và các yêu cầu bảo mật đề thi như sau: - Đề thi, đáp án chưa công khai thuộc danh mục bí mật nhà nước độ “Tối mật”. Đề thi dự bị chưa sử dụng tự giải mật sau khi kết thúc công tác coi thi của kỳ thi. - Việc ra đề thi, in sao đề thi (gọi chung là làm đề thi) phải được thực hiện tại một địa điểm an toàn, biệt lập và được lực lượng công an kiểm tra về an ninh, an toàn, bảo vệ nghiêm ngặt suốt thời gian làm đề thi cho đến hết thời gian thi môn cuối cùng của kỳ thi, có đầy đủ phương tiện bảo mật, phòng ngừa lộ lọt thông tin, PCCC. - Các thành viên tham gia làm đề thi đều phải cách ly triệt để với bên ngoài. Trong trường hợp cần thiết và được sự đồng ý bằng văn bản của Chủ tịch Hội đồng ra đề thi hoặc Trưởng ban In sao đề thi thì các thành viên mới được phép liên hệ với bên ngoài bằng điện thoại cố định, có loa ngoài, có ghi âm dưới sự giám sát của bảo vệ, công an. - Danh sách những người tham gia làm đề thi phải được giữ bí mật trước, trong và sau kỳ thi. Người làm việc trong khu vực cách ly phải đeo phù hiệu và chỉ hoạt động trong phạm vi cho phép, chỉ được ra khỏi khu vực cách ly sau khi kết thúc buổi thi cuối cùng của kỳ thi. - Trong trường hợp đặc biệt, được sự đồng ý bằng văn bản của Chủ tịch Hội đồng ra đề thi hoặc Trưởng ban In sao đề thi, các thành viên mới được phép ra khỏi khu vực cách ly dưới sự giám sát của công an. - Phong bì (túi) chứa đề thi để vận chuyển và bàn giao đề thi từ nơi làm đề thi đến Ban Chỉ đạo cấp quốc gia, các Hội đồng thi/ Điểm thi phải được làm bằng giấy đủ độ bền, kín, tối màu và được dán chặt, không bong mép, có đủ nhãn, dấu niêm phong; nội dung in trên túi phải theo đúng quy định của Bộ GDĐT. - Toàn bộ quá trình vận chuyển và bàn giao đề thi phải được công an giám sát; các túi chứa đề thi phải được đựng trong các thùng có khóa và được niêm phong; phải lập biên bản về quá trình giao nhận, vận chuyển. - Máy móc và thiết bị tại nơi làm đề thi, dù bị hư hỏng hay không dùng đến, chỉ được đưa ra ngoài khu vực cách ly khi kết thúc buổi thi cuối cùng của kỳ thi. Theo đó, đề thi THPT quốc gia được quy định là danh mục bí mật nhà nước độ “Tối mật”. Đề thi dự bị chưa sử dụng tự giải mật sau khi kết thúc công tác coi thi của kỳ thi. Truy cứu hình sự tội làm lộ bí mật nhà nước (1) Tội cố ý làm lộ bí mật nhà nước Theo Điều 337 Bộ luật Hình sự 2015 (sửa đổi bởi Bộ luật Hình sự 2017) vi phạm tội cố ý làm lộ bí mật nhà nước; tội chiếm đoạt, mua bán hoặc tiêu hủy vật hoặc tài liệu bí mật nhà nước bị xử lý như sau: - Người nào cố ý làm lộ bí mật nhà nước, chiếm đoạt, mua bán hoặc tiêu hủy vật hoặc tài liệu bí mật nhà nước, nếu không thuộc trường hợp quy định tại Điều 110 Bộ luật Hình sự 2015, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm. - Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 05 năm đến 10 năm: + Bí mật nhà nước thuộc độ tối mật. + Lợi dụng chức vụ, quyền hạn. + Gây tổn hại về quốc phòng, an ninh, đối ngoại, kinh tế, văn hóa. - Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 10 năm đến 15 năm: + Có tổ chức; + Bí mật nhà nước thuộc độ tuyệt mật; + Phạm tội 02 lần trở lên; + Gây tổn hại về chế độ chính trị, độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ. - Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 10 triệu đồng đến 100 triệu đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm. (2) Tội vô ý làm lộ bí mật nhà nước Căn cứ Điều 338 Bộ luật Hình sự 2015 (sửa đổi bởi Bộ luật Hình sự 2017) quy định tội vô ý làm lộ bí mật nhà nước; tội làm mất vật, tài liệu bí mật nhà nước như sau: - Người nào vô ý làm lộ bí mật nhà nước hoặc làm mất vật, tài liệu bí mật nhà nước, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm. - Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm: + Bí mật nhà nước thuộc độ tối mật, tuyệt mật; + Gây tổn hại về quốc phòng, an ninh, đối ngoại, kinh tế, văn hóa, chế độ chính trị, độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ. - Người phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm. Như vậy, người ra đề thi THPT quốc gia có trách nhiệm phải bảo vệ đề thi cho đến khi bí mật được giải. Theo đó, đề thi THPT quốc gia được quy định là bí mật nhà nước có độ tối mật. Trường hợp người cố ý vi phạm tội làm lộ bí mật nhà nước có thể bị truy cứu hình sự lên đến 15 năm tù hoặc vô ý có thể đối mặt cao nhất là 7 năm tù. Theo Báo Chính phủ
Công chức bị khởi tố nhưng Tòa chưa tuyên án thì có được xét nâng bậc lương?
Một số thắc mắc được đặt ra rằng liệu là công chức và đang bị khởi tố nhưng chưa có bản án của tòa án thì công chức này có được xét nâng bậc lương thường xuyên hay không? Bài viết sẽ cung cấp một số thông tin liên quan đến vấn đề này. Thời gian không được tính xét nâng bậc lương thường xuyên Căn cứ theo điểm c khoản 1 Điều 2 Chế độ nâng bậc lương của Thông tư 08/2013/TT-BNV quy định về thời gian không được tính xét nâng bậc lương thường xuyên như sau: - Thời gian nghỉ việc riêng không hưởng lương; - Thời gian đi làm chuyên gia, đi học, thực tập, công tác, khảo sát ở trong nước và ở nước ngoài vượt quá thời hạn do cơ quan có thẩm quyền quyết định; - Thời gian bị đình chỉ công tác, bị tạm giữ, tạm giam và các loại thời gian không làm việc khác ngoài quy định tại Điểm b Khoản 1 Điều này. - Thời gian tập sự (bao gồm cả trường hợp được hưởng 100% mức lương của ngạch công chức, chức danh nghề nghiệp viên chức tập sự). - Thời gian cán bộ, công chức, viên chức và người lao động đào ngũ trong quá trình thực hiện nghĩa vụ quân sự tại ngũ. - Thời gian thử thách đối với cán bộ, công chức, viên chức và người lao động bị phạt tù nhưng cho hưởng án treo; trường hợp thời gian thử thách ít hơn thời gian bị kéo dài nâng bậc lương thường xuyên tính theo thời gian bị kéo dài nâng bậc lương thường xuyên. - Thời gian nghỉ công tác chờ đủ tuổi nghỉ hưu theo quy định hiện hành của pháp luật Tổng các loại thời gian không được tính để xét nâng bậc lương thường xuyên quy định tại Điểm này (nếu có) được tính tròn tháng, nếu có thời gian lẻ không tròn tháng thì được tính như sau: Dưới 11 ngày làm việc (không bao gồm các ngày nghỉ hằng tuần và ngày nghỉ làm việc được hưởng nguyên lương theo quy định của pháp luật về lao động) thì không tính; từ 11 ngày làm việc trở lên tính bằng 01 tháng. Vậy công chức bị khởi tố có thuộc thời gian không được xét nâng bậc lương thường xuyên? Công chức bị khởi tố có bị tạm đình chỉ công tác không? Căn cứ Điều 81 Luật Cán bộ, công chức 2008 quy định về tạm đình chỉ công tác đối với cán bộ, công chức như sau: Tạm đình chỉ công tác đối với cán bộ, công chức: - Cơ quan, tổ chức, đơn vị quản lý cán bộ, công chức có thể ra quyết định tạm đình chỉ công tác trong thời gian xem xét, xử lý kỷ luật cán bộ, công chức, nếu để cán bộ, công chức đó tiếp tục làm việc có thể gây khó khăn cho việc xem xét, xử lý. Thời hạn tạm đình chỉ công tác không quá 15 ngày, trường hợp cần thiết có thể kéo dài thêm nhưng tối đa không quá 15 ngày; nếu cán bộ, công chức bị tạm giữ, tạm giam để phục vụ công tác điều tra, truy tố, xét xử thì thời gian tạm giữ, tạm giam được tính là thời gian nghỉ việc có lý do; hết thời hạn tạm đình chỉ công tác nếu cán bộ, công chức không bị xử lý kỷ luật thì được tiếp tục bố trí làm việc ở vị trí cũ. - Trong thời gian bị tạm đình chỉ công tác hoặc bị tạm giữ, tạm giam để phục vụ cho công tác điều tra, truy tố, xét xử, cán bộ, công chức được hưởng lương theo quy định của Chính phủ. Theo quy định trên, cơ quan, tổ chức, đơn vị quản lý công chức có thể ra quyết định tạm đình chỉ công tác trong thời gian xem xét, xử lý kỷ luật cán bộ, công chức, nếu để cán bộ, công chức đó tiếp tục làm việc có thể gây khó khăn cho việc xem xét, xử lý. Do đó, khi công chức bị khởi tố nhưng không có quyết định tạm giữ, tạm giam thì công chức sẽ không bị tạm đình chỉnh công tác. Công chức bị khởi tố thì có bị xử lý kỷ luật không? Theo Điều 3 Nghị định 112/2020/NĐ-CP quy định về các trường hợp chưa xem xét xử lý kỷ luật như sau: - Cán bộ, công chức, viên chức đang trong thời gian nghỉ hàng năm, nghỉ theo chế độ, nghỉ việc riêng được cấp có thẩm quyền cho phép. - Cán bộ, công chức, viên chức đang trong thời gian điều trị bệnh hiểm nghèo hoặc đang mất khả năng nhận thức; bị ốm nặng đang điều trị nội trú tại bệnh viện có xác nhận của cơ quan y tế có thẩm quyền. - Cán bộ, công chức, viên chức là nữ giới đang trong thời gian mang thai, nghỉ thai sản, đang nuôi con dưới 12 tháng tuổi hoặc cán bộ, công chức, viên chức là nam giới (trong trường hợp vợ chết hoặc vì lý do khách quan, bất khả kháng khác) đang nuôi con dưới 12 tháng tuổi. - Cán bộ, công chức, viên chức đang bị khởi tố, tạm giữ, tạm giam chờ kết luận của cơ quan có thẩm quyền điều tra, truy tố, xét xử về hành vi vi phạm pháp luật, trừ trường hợp theo quyết định của cấp có thẩm quyền. Theo đó, khi công chức bị khởi tố thì chưa xem xét xử lý kỷ luật đối với công chức đó. Như vậy, trong trường hợp công chức bị khởi tố nhưng không có quyết định tạm giữ, tạm giam thì trong trường hợp này đơn vị chưa xem xét xử lý kỷ luật nên không được tạm đình chỉ công tác đối với công chức này. Do đó, công chức trong giai đoạn này vẫn được đi làm, hưởng hệ số lương bình thường và vẫn được xét nâng bậc lương thường xuyên.
Đăng thông tin sai sự thật, vu khống xử lý ra sao?
Cho em hỏi: cá nhân đang sinh sống định cư tại Mỹ( người góc Viêt) đã đăng thông tin sai sự thật, vu khống lên mạng xã hội( hình ảnh, giấy tờ cá nhân) của cá nhân đang sinh sống tại Viêt Nam, vậy người Việt nam có khởi tố được cá nhân ở Mỹ không ạ để ngăn chặn lại hành vi đó, em phải làm như thế nào ạ, giải thắc mắc giúp e với ạ, thank anh/chị.
Bị khởi tố có bắt buộc phải tạm đình chỉ đảm nhiệm chức vụ?
Đối với trường hợp người đang đảm nhiệm chức vụ khi bị khởi tố thì có bắt buộc phải tạm đình chỉ đảm nhiệm chức vụ hay không? Căn cứ khoản 1 Điều 13 Bộ Luật tố tụng hình sự 2015 quy định: "Điều 13. Suy đoán vô tội Người bị buộc tội được coi là không có tội cho đến khi được chứng minh theo trình tự, thủ tục do Bộ luật này quy định và có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật." Ngoài ra căn cứ theo Điều 181 Bộ Luật tố tụng hình sự 2015: “Điều 181. Tạm đình chỉ chức vụ bị can đang đảm nhiệm Khi xét thấy việc bị can tiếp tục giữ chức vụ gây khó khăn cho việc điều tra thì Cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra, Viện kiểm sát có quyền kiến nghị với cơ quan, tổ chức có thẩm quyền quản lý bị can tạm đình chỉ chức vụ của bị can…” Theo đó các bị can bị khởi tố trong các vụ án chưa bị coi là người phạm tội cho đến khi có bản án xét xử của tòa án. Vì vậy người bị khởi tố vẫn có quyền thực hiện các công việc theo chức vụ của mình nếu Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát không có văn bản đề nghị cơ quan, đơn vị, người sử dụng lao động tạm đình chỉ công tác, chức vụ quyền hạn khi xét thấy việc để bị can tiếp tục công việc có thể gây khó khăn cho quá trình điều tra hoặc tạo điều kiện tiếp tục phạm tội.
Các trường hợp chỉ khởi tố vụ án hình sự khi có yêu cầu
Về nguyên tắc việc khởi tố vụ án hình sự là quyền của cơ quan có thẩm quyền, không phụ thuộc vào ý chí của người bị hại hay người đại diện hợp pháp của họ. Tuy nhiên trong một số trường hợp nhất định việc truy cứu trách nhiệm hình sự phải phụ thuộc vào yêu cầu của người bị hại hoặc người đại diện hợp pháp của họ. Theo quy định của Bộ Luật tố tụng hình sự 2015 các trường hợp sau đấy chỉ khởi tố khi có yêu cầu của người bị hại hoặc người đại diện hợp pháp của họ: - Người nào cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 11% đến 30% hoặc dưới 11% nhưng thuộc một trong các trường hợp thuộc khoản 1 Điều 134 Bộ luật hình sự 2015. - Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh - Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng hoặc do vượt quá mức cần thiết khi bắt giữ người phạm tội - Tội vô ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác - Tội vô ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác do vi phạm quy tắc nghề nghiệp hoặc quy tắc hành chính - Tội hiếp dâm - Tội cưỡng dâm - Tội làm nhục người khác - Tội vu khống - Tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp Hình thức yêu cầu khởi tố vụ án hình sự thể hiện dưới hình thức đơn hoặc trình bày trực tiếp. - Đơn yêu cầu khởi tố có chữ ký hoặc điểm chỉ của người yêu cầu. - Trình bày trực tiếp thì cơ quan điều tra, viện kiểm sát lập biên bản ghi rõ yêu cầu khởi tố có chữ ký hoặc điểm chỉ của người yêu cầu. Biên bản do viện kiểm sát lập được chuyển ngay cho cơ quan điều tra để xem xét việc khởi tố vụ án hình sự và đưa vào hồ sơ vụ án. Như vậy, có 10 trường hợp chỉ được khởi tố khi có yêu cầu của người bị hại hoặc người đại diện hợp pháp của họ. Nếu không nhận được yêu cầu mà khởi tố vụ án là vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng và phải trả hồ sơ theo đúng quy định pháp luật. Căn cứ: Bộ Luật tố tụng hình sự 2015; Bộ Luật hình sự 2015.
Bị hại rút yêu cầu sẽ không khởi tố vụ án khi nào?
Tham khảo: >>>[Tổng hợp] Thời hiệu khởi kiện đối với một số tranh chấp dân sự; >>>Trình tự giải quyết vụ án dân sự theo Bộ luật tố tụng dân sự 2015; >>>Tổng hợp các loại thời hiệu; Khởi tố vụ án là giai đoạn đầu trong quá trình tố tụng giải quyết vụ án. Theo đó, khởi tố vụ án theo yêu cầu người bị hại nếu thuộc một trong các trường hợp quy định tại Điều 155 Bộ luật tố tụng hình sự 2015. Vậy nếu người bị hại rút đơn yêu cầu thì không khởi tố trong trường hợp nào? Căn cứ khoản 2 Điều 282 Bộ luật tố tụng hình sự 2015, quy định về các trường hợp Thẩm phán chủ tọa phiên tòa ra quyết định đình chỉ vụ án khi thuộc một trong các trường hợp, trong đó có trường hợp người bị hại rút đơn như sau: “Người đã yêu cầu khởi tố rút yêu cầu thì vụ án phải được đình chỉ, trừ trường hợp có căn cứ xác định người đã yêu cầu rút yêu cầu khởi tố trái với ý muốn của họ do bị ép buộc, cưỡng bức thì tùy người đã yêu cầu khởi tố rút yêu cầu, Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án vẫn tiếp tục tiến hành tố tụng đối với vụ án”. Theo đó, Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 đã không giới hạn về thời điểm mà người đã yêu cầu khởi tố rút yêu cầu. Do đó, tùy từng trường hợp cụ thể mà các Tòa án giải quyết như sau (Căn cứ Công văn 254/TANDTC-PC của Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn về việc người đã yêu cầu khởi tố vụ án hình sự rút yêu cầu theo quy định tại Điều 155 của Bộ luật tố tụng dân sự 2015): Người bị hại rút đơn yêu cầu tại giai đoạn xét xử sơ thẩm: - Người đã yêu cầu khởi tố vụ án hình sự rút yêu cầu trước ngày mở phiên tòa sơ thẩm thì Thẩm phán chủ tọa phiên tòa căn cứ Điều 45 và điểm a khoản 1 Điều 282 của Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 để ra quyết định đình chỉ vụ án, cụ thể: + Căn cứ: Điều 45 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 quy định về nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của Thẩm phán, cụ thể: ..... 2. Thẩm phán chủ tọa phiên tòa có những nhiệm vụ, quyền hạn quy định tại khoản 1 Điều này và những nhiệm vụ, quyền hạn: a) Quyết định áp dụng, thay đổi, hủy bỏ biện pháp ngăn chặn, biện pháp cưỡng chế, trừ biện pháp tạm giam; b) Quyết định trả hồ sơ để điều tra bổ sung; c) Quyết định đưa vụ án ra xét xử; quyết định đình chỉ hoặc tạm đình chỉ vụ án; d) Điều hành việc xét xử vụ án, tranh tụng tại phiên tòa; đ) Quyết định trưng cầu giám định, giám định bổ sung hoặc giám định lại, thực nghiệm điều tra; thay đổi hoặc yêu cầu thay đổi người giám định; yêu cầu định giá tài sản, yêu cầu thay đổi người định giá tài sản; e) Yêu cầu hoặc đề nghị cử, thay đổi người bào chữa; thay đổi người giám sát người dưới 18 tuổi phạm tội; yêu cầu cử, thay đổi người phiên dịch, người dịch thuật; g) Quyết định triệu tập những người cần xét hỏi đến phiên tòa; h) Thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn tố tụng khác thuộc thẩm quyền của Tòa án theo sự phân công của Chánh án Tòa án theo quy định của Bộ luật này. 3. Thẩm phán phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về hành vi, quyết định của mình. + Căn cứ: điểm a khoản 1 Điều 282 của Bộ luật Tố tụng hình sự 2015, quy định về các trường hợp ra quyết định đình chỉ vụ án của Thẩm phán chủ tọa phiên tòa như sau: 1. Thẩm phán chủ tọa phiên tòa ra quyết định đình chỉ vụ án khi thuộc một trong các trường hợp: a) Có một trong các căn cứ quy định tại khoản 2 Điều 155 hoặc các điểm 3, 4, 5, 6 và 7 Điều 157* của Bộ luật này; *Căn cứ các khoản 3, 4, 5, 6 và 7 Điều 157 Bộ luật hình sự như sau: 3. Người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội chưa đến tuổi chịu trách nhiệm hình sự; 4. Người mà hành vi phạm tội của họ đã có bản án hoặc quyết định đình chỉ vụ án có hiệu lực pháp luật; 5. Đã hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự; 6. Tội phạm đã được đại xá; 7. Người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội đã chết, trừ trường hợp cần tái thẩm đối với người khác - Trường hợp người đã yêu cầu khởi tố vụ án hình sự rút yêu cầu tại phiên tòa thì Hội đồng xét xử hoặc Thẩm phán chủ tọa phiên tòa xét xử theo thủ tục rút gọn căn cứ khoản 2 Điều 155 và Điều 299 của Bộ luật Tố tụng hình sự ra quyết định đình chỉ vụ án, cụ thể: + Căn cứ: khoản 2 Điều 155 (đã nêu ở trên) + Căn cứ: Điều 299 về Việc ra bản án, quyết định của Tòa án như sau: 1. Bản án phải được Hội đồng xét xử thảo luận và thông qua tại phòng nghị án. 2. Quyết định về việc thay đổi thành viên Hội đồng xét xử, Kiểm sát viên, Thư ký Tòa án, người giám định, người định giá tài sản, người phiên dịch, người dịch thuật, tạm đình chỉ hoặc đình chỉ vụ án, hoãn phiên tòa, bắt tạm giam hoặc trả tự do cho bị cáo phải được thảo luận, thông qua tại phòng nghị án và được lập văn bản. 3. Quyết định các vấn đề khác được Hội đồng xét xử thảo luận và thông qua tại phòng xử án không phải lập văn bản nhưng phải được ghi vào biên bản phiên tòa. - Trường hợp sau khi kết thúc phiên tòa sơ thẩm vẫn còn thời hạn kháng cáo, kháng nghị mà người đã yêu cầu khởi tố vụ án hình sự rút yêu cầu thì Tòa án phải hướng dẫn họ làm đơn kháng cáo để Tòa án cấp phúc phẩm xem xét giải quyết việc rút yêu cầu theo thủ tục phúc thẩm. Người bị hại rút đơn yêu cầu tại giai đoạn xét xử phúc thẩm: - Trường hợp có kháng cáo, kháng nghị mà tại giai đoạn xét xử phúc thẩm người đã yêu cầu khởi tố vụ án hình sự rút yêu cầu thì Hội đồng xét xử hoặc Thẩm phán chủ tọa phiên tòa xét xử theo thủ tục rút gọn căn cứ khoản 2 Điều 155 và Điều 359 của Bộ luật Tố tụng hình sự hủy bản án sơ thẩm và đình chỉ vụ án. + Căn cứ: khoản 2 Điều 155 (đã nêu ở trên) + Căn cứ: Điều 359 về các trường hợp hủy bản án sơ thẩm và đính chỉ vụ án trong các căn cứ sau: 1. Khi có một trong các căn cứ quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều 157 (về các căn cứ không khởi tố vụ án hình sự: 1. Không có sự việc phạm tội; 2. Hành vi không cấu thành tội phạm) của Bộ luật này thì Hội đồng xét xử phúc thẩm hủy bản án sơ thẩm, tuyên bị cáo không có tội và đình chỉ vụ án. 2. Khi có một trong các căn cứ quy định tại các khoản 3, 4, 5, 6 và 7 Điều 157 (về các căn cứ không khởi tố vụ án hình sự) của Bộ luật này thì Hội đồng xét xử phúc thẩm hủy bản án sơ thẩm và đình chỉ vụ án. - Trong bản án phúc thẩm, Tòa án phải nhận định rõ lý do hủy bản án sơ thẩm và đình chỉ vụ án là do người đã yêu cầu khởi tố vụ án hình sự rút yêu cầu, không phải do lỗi của Tòa án cấp sơ thẩm. Vậy, nếu người bị hại rút đơn yêu cầu thì vụ án được đình chỉ, nếu xét thấy không có dấu hiệu bị ép buộc, cưỡng bức. Nếu có các dấu hiệu trên thì tùy người đã yêu cầu khởi tố rút yêu cầu, Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án vẫn tiếp tục tiến hành tố tụng đối với vụ án.
Yêu cầu khi khởi tố hay không khởi tố vụ án hình sự
Khi ra một quyết định khởi tố vụ án hình sự hoặc không khởi tố vụ án hình sự cần đảm bảo những yêu cầu nào? Vì sao
Tai nạn ở Long An: Không thể truy tố tài xế tội giết người
Sau vụ xe đầu kéo mất lái đâm vào đám đông người đi xe máy đứng chờ đèn đỏ ở Long An, nhiều ý kiến cho rằng nên truy tố tài xế với tội giết người chứ không phải là tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ theo Điều 260. Đương nhiên mỗi ý kiến đưa ra đều kèm theo lý lẽ và cách hiểu riêng của cá nhân người đưa ra ý kiến. Trước khi nêu quan điểm cá nhân mình, mình xin trích lại một số quan điểm của các Luật sư khác về tội danh trong trường hợp này. Có quan điểm cho rằng nên truy tố với tội danh giết người. “Khi xem kỹ lại clip tai nạn thấy chiếc xe lao lên đám đông mà không có một lực thắng nào, mặt đường rộng có thể cho tài xế lựa chọn cách đánh lái vào bên đường trống hoặc lao vào đuôi xe tải đậu chờ đèn đỏ, gây ra vụ thảm sát kinh hoàng. Như vậy, đây là một vụ giết người với lỗi cố ý vì tài xế” Theo như đoạn clip và nội dung, diễn biến sự việc có thể thấy tài xế đã cố ý đẩy mình vào trạng thái say xỉn và phê ma túy, nhận thức rõ hành vi say rượu và phê ma túy mà leo lên điều khiển một nguồn nguy hiểm cao độ như vậy là có thể gây chết người, thấy trước hậu quả chết người hàng loạt có thể xảy ra, tuy tài xế không mong muốn nhưng có ý thức để mặc cho hậu quả chết người xảy ra. “Do vậy, phải khởi tố hành vi của tài xế tội giết người theo Khoản 1 Điểm l Điều 123 BLHS năm 2015 với tình tiết tăng nặng là sử dụng phương tiện nguy hiểm có khả năng làm chết nhiều người theo Điểm m Khoản 1 Điều 48 BLHS mới thỏa đáng và có tác dụng răn đe, phòng ngừa chung”. Những quan điểm trái ngược với ý kiến trên, có Luật sư cho rằng không thể truy tố tài xế tội danh giết người bởi đối với tội giết người, về mặt chủ quan của tội phạm thì cơ bản là phải xác định được động cơ và mục đích. Ở đây, rất khó và gần như không thể xác định được động cơ, mục đích giết người trong trường hợp này. Một Luật sư khác cho rằng đây là lỗi vô ý vì quá tự tin khi điều khiển dù có sử dụng rượu bia hay chất kích thích khác nên không thể truy cứu tài xế vào tội giết người. “Nếu nói như một số Ls là truy cứu tội giết người thì có một thực tế, cứ cầm xe chạy ra đường thì đâm chết là tội giết thì cam đoan một điều tất cả sẽ đi bộ chứ không ai dám đi phương tiện ô tô, xe máy…” Mình đã đọc rất nhiều các luồng ý kiến khác nhau của các Luật sư, Chuyên gia pháp lý, ai nói ra cũng có lý lẽ riêng của mình. Vì hiện tại vụ án mới đến bước khởi tố, cơ quan CSĐT chưa có bản kết luận điều tra chính thức nên cũng chưa thể vội khẳng định được điều gì. Mặc dù biết rằng những khả năng như tài xế có thù hằn với những người xe máy chờ đèn đỏ và có ý định lao xe vào để giết họ rất khó có thể xảy ra, tuy nhiên để chắc chắn khi đưa ra quan điểm cá nhân thì mình giả định trường hợp mình vừa nêu là không có thật. Tài xế và những người xe máy không hề có quen biết, không có tư thù cá nhân, tài xế không hề có ý định giết những người này trước đó. Như vậy, có thể truy tố tội giết người với tài xế hay không? Mình nghĩ chỉ cần đi sâu vào phân tích mặt chủ quan của tội phạm trong hành vi này là có thể xác định được. Thứ nhất, là yếu tố lỗi. Đương nhiên tài xế là người có lỗi. Vậy lỗi cố ý hay là lỗi vô ý? Như mình đã đặt giả định ở trên thì lỗi cố ý coi như không xét đến. Vậy đây là hành vi với lỗi vô ý, bởi theo quy định của BLDS thì xe đầu kéo là nguồn nguy hiểm cao độ. Tài xế điều khiển nguồn nguy hiểm cao độ gây ra hậu quả thì phải chịu trách nhiệm. Và tài xế biết và buộc phải biết rằng sử dụng rượu, ma túy khi điều khiển nguồn nguy hiểm cao độ sẽ gây ra nguy hiểm đến mức làm chết người nhưng tài xế vẫn làm. Vậy lỗi được xác định ở đây là vô ý do qúa tự tin. Đã là lỗi vô ý, thì đương nhiên không thể cấu thành tội giết người được, bởi tội giết người được cấu thành với lỗi cố ý. Nếu có chăng thì hành vi của tài xế chỉ có thể cấu thành tội vô ý làm chết người mà thôi, và mình hoàn toàn với quan điểm của vị Luật sư cho rằng chỉ có thể truy tố tài xế theo Điều 260 BLHS.
08 trường hợp không khởi tố vụ án hình sự
>>>Không khởi tố vụ án "thông cung vụ Nga - Mỹ" >>>Phân biệt khởi tố vụ án và khởi tố bị can Khởi tố là bước đầu tiên trong quá trình giải quyết một vụ án hình sự. Tuy nhiên, không phải vụ việc nào xảy ra cũng có thể khởi tố. Sau đây là những trường hợp không khởi tố vụ án hình sự theo quy định tại Điều 157 BLTTHS 2015: 1. Không có sự việc phạm tội Nguồn tin báo, tố giác tội phạm được tiếp nhận không chính xác, không có sự việc xảy ra hoặc có xảy ra nhưng không có dấu hiệu tội phạm. 2. Hành vi không cấu thành tội phạm Hành vi không thỏa mãn dấu hiệu cấu thành tội phạm theo quy định pháp luật hình sự. Ví dụ: Người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội không có năng lực trách nhiệm hình sự (không đảm bảo về mặt chủ thể). 3. Người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội chưa đến tuổi chịu trách nhiệm hình sự Theo quy định tại Điều 12 BLHS SĐ, BS 2017 về độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự như sau: - Dưới 14 tuổi: không phải chịu trách nhiệm hình sự. - Từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi: chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự về tội giết người, tội hiếp dâm, cố ý gây thương tích, … và một số tội rất nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm trọng. - Từ đủ 16 tuổi: chịu trách nhiệm hình sự về mọi tội phạm. Như vậy, nếu lúc phạm tội chưa đủ 14 tuổi hoặc đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi mà phạm tội ít nghiêm trọng, nghiêm trọng thì không bị khởi tố hình sự. 4. Người mà hành vi phạm tội của họ đã có bản án hoặc quyết định đình chỉ vụ án có hiệu lực pháp luật Theo Điều 14 BLTTHS 2015 , không ai bị kết án hai lần vì một tội phạm. Vì vậy, không được khởi tố […] đối với người mà hành vi của họ đã có bản án của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật. Quyết định đình chỉ vụ án là quyết định tố tụng làm chấm dứt việc giải quyết vụ án hình sự và có hiệu lực pháp luật ngay sau khi cơ quan có thẩm quyền ra quyết định. Trong 02 trường hợp này sẽ không được khởi tố vụ án hình sự. 5. Đã hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự Theo Điều 27 BLHS 2015, thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự (được tính từ ngày tội phạm được thực hiện): - 05 năm đối với tội phạm ít nghiêm trọng; -10 năm đối với tội phạm nghiêm trọng; - 15 năm đối với tội phạm rất nghiêm trọng; - 20 năm đối với tội phạm đặc biệt nghiêm trọng. Như vậy, nếu hết thời hạn nêu trên, người phạm tội không bị truy cứu trách nhiệm hình sự. 6. Tội phạm đã được đại xá Đại xá là sự khoan hồng của Nhà nước do Quốc hội quyết định nhằm tha tội hoàn toàn và triệt để cho một số loại tội phạm nhất định đối với hàng loạt người phạm tội nhân sự kiện quan trọng trong đời sống chính trị của đất nước. Tội phạm đã được đại xá là căn cứ để không khởi tố vụ án hình sự. 7. Người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội đã chết, trừ trường hợp cần tái thẩm đối với người khác Trong quá trình giải quyết vụ án mà xác định được người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội đã chết thì không khởi tố vụ án hình sự, trừ trường hợp cần tái thẩm đối với người khác. 8. Tội phạm quy định tại khoản 1 các điều 134, 135, 136, 138, 139, 141, 143, 155, 156 và 226 của Bộ luật hình sự 2015 mà bị hại hoặc người đại diện của bị hại không yêu cầu khởi tố. Sẽ không khởi tố vụ án hình sự nếu bị hại, người đại diện của bị hại là người dưới 18 tuổi, người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất hoặc đã chết không yêu cầu khởi tố đối với 11 tội danh sau đây: - Tộicố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác; - Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh; - Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng hoặc do vượt quá mức cần thiết khi bắt giữ người phạm tội; -Tội vô ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác; - Tội vô ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác do vi phạm quy tắc nghề nghiệp hoặc quy tắc hành chính; - Tội hiếp dâm; - Tội cưỡng dâm; - Tội cưỡng dâm người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi; - Tội làm nhục người khác; - Tội vu khống; - Tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp. Trên đây là 08 trường hợp không khởi tố vụ án hình sự.
BOT: Khởi tố nếu có hành vi gây rối, cản trở giao thông
Như mọi người đã biết thì thời gian gần sự việc đang làm xôn xao dư luận và được quan tâm nhất là các vụ việc liên quan đến các trạm BOT tại các tỉnh, mở đầu cho trào lưu này là vụ việc diễn ra tại BOT Cai Lậy (Tiền giang). Sự việc diễn ra khi BOT Cai lậy chính thức đi vào hoạt động thì có thu phí từ ngày 1/8. Sau hai tuần hoạt động, ngày 15/8, BOT Cai Lậy cho xả trạm, ngừng thu phí. Quốc lộ 1 là đoạn đi qua huyện Cai Lậy, việc đặt trạm tại đây theo nhận định của các tài xế là không hợp lý và mức phí quá cao. Do vậy, phản đối hoạt động này bằng cách đưa tiền lẻ, gây kẹt xe, buộc chủ đầu tư phải nhiều lần phải xả trạm. Sau đó, Bộ GTVT đã họp, thống nhất giảm giá vé cho tất cả các phương tiện. Cụ thể, mức phí thấp nhất với xe dưới 12 chỗ, xe tải dưới 2 tấn là 25.000 đồng/lượt (trước 35.000 đồng), mức cao nhất 140.000 đồng (trước 180.000 đồng) với xe tải từ 18 tấn trở lên và xe đầu kéo container trên 40 feet. Theo chủ đầu tư, mức phí sẽ giảm 30% so với trước đây. Người dân tại 4 xã, gồm Phú Nhuận, Mỹ Thành Nam, Bình Phú và Phú An (huyện Cai Lậy) được miễn phí qua trạm nếu như không kinh doanh vận tải. Vụ việc chưa có hồi kết khi qua nhiều ngày dù nhiều phương án đưa ra nhưng vẫn chưa chốt được. Tuy vậy, với hành động gây rối, kích động và gây tắc nghẽn giao thông liên tục tại tuyến Quốc lộ này gây ảnh hưởng không ít đến hoạt động giao thương giữa các tỉnh miền tây với TPHCM và nhiều hoạt động khác. Do đó, mới đây Thủ Tướng Chính phủ vừa có Công điện 82/CĐ-TTg khẩn về việc về bảo đảm an ninh trật tự tại trạm thu giá dịch vụ sử dụng đường bộ theo hình thức Hợp đồng BOT, cụ thể” Các cơ quan, Bộ ngành từ trung ương đến địa phương cần có sự phối hợp chặt chẽ và có biện pháp mạnh để xử lý hoặc khi đã đủ dấu hiệu thì tiến hành khởi tố hình sự với các đối tượng có hành vi: Cản trở giao thông (nhất là quay đầu xe nhiều lần, cố tình dừng xe trước trạm thu giá rồi bổ đi làm việc khác…), phá hoại trang thiết bị tại các trạm thu, có hành vi tổ chức gây rối, phản động, kích động. Cung cấp thông tin liên quan đến đối tượng có hành vi gây rối làm mất an ninh trật tự (trong đó có cả hành vi đưa tin sai sự thật, làm phức tạp tình hình). Chỉ đạo BTTTT yêu câu cơ quan thông tấn, báo chí không đưa tin hoặc đăngg tải bình luận có tính chất cổ vũ cho các đối tượng có hành vi cản trở tại trạm thu giá. Như vậy, đây là chỉ đạo có tính định hướng và quyết liệt của Thủ tướng cho sự việc gây chú ý trong dư luận nhiều nhất, việc xử ký là nên thực hiện để đảm bảo hoạt động của các trạm BOT. Bên cạnh đó, có tính định hướng để các trạm BOT khác không rơi vào những viễn cảnh tương tự.
Sau sự vụ bắt giữ người tại Đồng Tâm và đã được Chủ tịch Ủy ban nhân dân Hà Nội ký biên bản thỏa thuận sẽ không truy cứu trách nhiệm hình sự đối với những người tham gia giam, giữ các cán bộ và chiến sỹ công an. Tuy nhiên, chiều 13/6, Công an thành phố Hà Nội đã ra quyết định khởi tố vụ án đối với hai tội danh là Tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản và Tội bắt, giữ hoặc giam người trái pháp luật. Dù vụ việc đã được yên ắng sau giấy cam kết của ông Nguyễn Đức Chung - Chủ tịch Ủy ban nhân dân Hà Nội nhưng hồi kết vẫn chưa dừng tại đó, dù đã được đưa ra bàn luận về hiệu lực của giấy cam kết đó nhưng điều gì cũng phải được thực thI trên cơ sở của pháp luật. Và quyết định khởi tố vụ án là kết quả của sự tuân thủ các quy định của pháp luật. Bắt nguồn từ việc khởi tố tội Gây rối trật tự công cộng tại xã Đồng Tâm, huyện Mỹ Đức, Hà Nội, người dân Đồng Tâm đã bắt giữ các cán bộ huyện Mỹ Đức và chiến sỹ công an Hà Nội giam tại nhà văn hóa thôn. Sau đó, các cán bộ và chiến sỹ đã được thả và có công bố rộng rãi giấy cam kết không truy cứu trách nhiệm hình sự mà ông Chung đã ký. Trường hợp bị khởi tố về hai tội danh trên, các dối tượng có thể chịu các mức án sau theo quy định của Bộ luật hình sự 1999: "Điều 143. Tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản 1. Người nào hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản của người khác gây thiệt hại từ năm trăm nghìn đồng đến dưới năm mươi triệu đồng hoặc dưới năm trăm nghìn đồng nhưng gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi này hoặc đã bị kết án về tội này, chưa được xoá án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến ba năm. ..." "Điều 123. Tội bắt, giữ hoặc giam người trái pháp luật 1. Người nào bắt, giữ hoặc giam người trái pháp luật, thì bị phạt cảnh cáo, cải tạo không giam giữ đến hai năm hoặc phạt tù từ ba tháng đến hai năm. 2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ một năm đến năm năm: a) Có tổ chức; b) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn; c) Đối với người thi hành công vụ; d) Phạm tội nhiều lần; đ) Đối với nhiều người. 3. Phạm tội gây hậu quả nghiêm trọng thì bị phạt tù từ ba năm đến mười năm. 4. Người phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ nhất định từ một năm đến năm năm." Trên đây là một số thông tin trao đổi với các bạn thành viên.
Ông bầu Nguyễn Đức Kiên bị khởi tố
Bầu Kiên bị bắt vì tội kinh doanh trái phép, nay bị can Nguyễn Đức Kiên vừa bị cơ quan điều tra khởi tố thêm 2 tội danh khác là "Cố ý làm trái quy định của nhà nước gây hậu quả nghiêm trọng" và "Lừa đảo chiếm đoạt tài sản". Ngày 18/9, theo Cổng thông tin điện tử Bộ Công an, lãnh đạo 3 ngành Tư pháp Trung ương đã họp nghe Cơ quan Cảnh sát điều tra Bộ Công an báo cáo tiến độ, đánh giá tài liệu, chứng cứ thu thập được trong vụ án Nguyễn Đức Kiên và những người có liên quan. Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản: Điều 139 viết: 1. Người nào bằng thủ đoạn gian dối chiếm đoạt tài sản của người khác có giá trị từ hai triệu đồng đến dưới năm mươi triệu đồng hoặc dưới hai triệu đồng nhưng gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi chiếm đoạt hoặc đã bị kết án về tội chiếm đoạt tài sản, chưa được xoá án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến ba năm. 2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm: a) Có tổ chức; b) Có tính chất chuyên nghiệp; c) Tái phạm nguy hiểm; d) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn hoặc lợi dụng danh nghĩa cơ quan, tổ chức; đ) Dùng thủ đoạn xảo quyệt; e) Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ năm mươi triệu đồng đến dưới hai trăm triệu đồng; g) Gây hậu quả nghiêm trọng. 3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ bảy năm đến mười lăm năm: a) Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ hai trăm triệu đồng đến dưới năm trăm triệu đồng; b) Gây hậu quả rất nghiêm trọng. 4. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ mười hai năm đến hai mươi năm hoặc tù chung thân: a) Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ năm trăm triệu đồng trở lên; b) Gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng. 5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ mười triệu đồng đến một trăm triệu đồng, tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản, bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ một năm đến năm năm. Tội cố ý làm trái quy định của Nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng: Điều 165 viết: 1. Người nào lợi dụng chức vụ, quyền hạn cố ý làm trái quy định của Nhà nước về quản lý kinh tế gây thiệt hại từ một trăm triệu đồng đến dưới ba trăm triệu đồng hoặc dưới một trăm triệu đồng, đã bị xử lý kỷ luật về hành vi này mà còn vi phạm gây hậu quả nghiêm trọng, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ một năm đến năm năm. 2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ ba năm đến mười hai năm: a) Vì vụ lợi hoặc động cơ cá nhân khác; b) Có tổ chức; c) Dùng thủ đoạn xảo quyệt; d) Gây thiệt hại từ ba trăm triệu đồng đến dưới một tỷ đồng hoặc gây hậu quả rất nghiêm trọng khác. 3. Phạm tội gây thiệt hại từ một tỷ đồng trở lên hoặc gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng khác, thì bị phạt tù từ mười năm đến hai mươi năm. 4. Người phạm tội còn có thể bị tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản, cấm đảm nhiệm chức vụ hoặc làm công việc nhất định từ một năm đến năm năm. Bị bắt bởi một tội và bị khởi tố bởi những tội khác, điều này thấy rất phổ biến trong thời gian qua.