Tìm hiểu quy định pháp luật về hợp đồng vô hiệu do có đối tượng không thể thực hiện được?
Quy định pháp luật dân sự về hợp đồng vô hiệu do có đối tượng không thể thực hiện được? Căn cứ áp dụng, trách nhiệm thông báo và hậu quả pháp lý? Trách nhiệm thông báo khi hợp đồng có đối tượng không thể thực hiện được? Khoản 2 Điều 408 Bộ luật Dân sự 2015 quy định một nghĩa vụ quan trọng trong quá trình giao kết hợp đồng, đó là nghĩa vụ thông báo. Cụ thể, nếu một bên biết hoặc phải biết rằng đối tượng của hợp đồng không thể thực hiện được nhưng lại cố tình không thông báo cho bên kia, thì bên đó sẽ phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại cho bên kia. Việc thông báo khi hợp đồng có đối tượng không thể thực hiện được này được thực hiện với các lý do sau đây: - Bảo vệ nguyên tắc thiện chí: Khi tham gia vào một giao dịch, các bên phải tuân thủ nguyên tắc thiện chí, nghĩa là phải thành thật và trung thực với nhau. Việc cố tình giấu thông tin quan trọng là vi phạm nguyên tắc này. - Đảm bảo tính công bằng: Quy định này giúp đảm bảo rằng các bên tham gia hợp đồng có đủ thông tin để đưa ra quyết định đúng đắn, từ đó tránh tình trạng một bên bị thiệt hại do thiếu thông tin. Lưu ý: Mặc dù nghĩa vụ thông báo là rất quan trọng, nhưng pháp luật cũng quy định một ngoại lệ, đó là trường hợp bên kia cũng biết hoặc phải biết về việc đối tượng hợp đồng không thể thực hiện được. Trong trường hợp này, nếu cả hai bên đều biết về vấn đề này mà vẫn đồng ý ký kết hợp đồng thì không bên nào có thể yêu cầu bên kia bồi thường thiệt hại. Nghĩa là, dù không được thông báo, họ vẫn có thể nhận thức rõ về vấn đề này. Trong trường hợp này, nếu họ vẫn chấp nhận ký kết hợp đồng, pháp luật coi rằng đã có sự đồng thuận giữa các bên, và trách nhiệm của bên không thông báo sẽ được miễn trừ. Quy định này có ý nghĩa rất quan trọng trong việc bảo vệ quyền lợi của các bên tham gia hợp đồng và đảm bảo tính công bằng của các giao dịch dân sự. Đồng thời, quy định này cũng khuyến khích các bên tham gia hợp đồng phải thành thật và trung thực với nhau. Hậu quả pháp lý của hợp đồng vô hiệu do đối tượng không thể thực hiện được? Mặc dù Điều 408 Bộ luật Dân sự 2015 không quy định cụ thể hậu quả pháp lý khi hợp đồng bị vô hiệu do đối tượng không thể thực hiện được, nhưng chúng ta có thể suy ra từ các quy định khác trong Bộ luật này. Cụ thể: - Không làm phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự: Theo Điều 131 Bộ luật Dân sự 2015, hợp đồng vô hiệu sẽ không tạo ra bất kỳ quyền lợi hoặc nghĩa vụ pháp lý nào cho các bên. Điều này có nghĩa là hợp đồng đó như chưa từng tồn tại. - Khôi phục tình trạng ban đầu: Các bên có nghĩa vụ phải trả lại cho nhau những gì đã nhận được trước đó. Tuy nhiên, nếu việc trả lại bằng hiện vật là không khả thi, các bên có thể lựa chọn cách thức khác như bồi thường bằng tiền. - Không phải hoàn trả lợi tức: Bên nào đã thu được lợi ích từ hợp đồng vô hiệu thì không phải hoàn trả lại lợi ích đó. - Trách nhiệm bồi thường vẫn tồn tại: Nếu một bên có lỗi trong việc gây ra thiệt hại cho bên kia, thì bên đó vẫn phải chịu trách nhiệm bồi thường. - Hợp đồng có nhiều phần: Nếu chỉ một phần của hợp đồng có đối tượng không thể thực hiện được, thì phần còn lại của hợp đồng vẫn có hiệu lực. Hậu quả pháp lý của hợp đồng vô hiệu do đối tượng không thể thực hiện được là một vấn đề quan trọng trong thực tiễn. Việc hiểu rõ các quy định pháp luật liên quan sẽ giúp các bên tham gia hợp đồng có thể bảo vệ quyền lợi của mình một cách tốt nhất. Cụ thể: - Bảo vệ quyền lợi của các bên: Các quy định nhằm mục tiêu bảo vệ quyền lợi của các bên tham gia hợp đồng, đặc biệt là bên bị thiệt hại. - Đảm bảo tính công bằng: Việc khôi phục tình trạng ban đầu giúp đảm bảo tính công bằng giữa các bên. - Nâng cao tính minh bạch của pháp luật: Các quy định này làm cho hậu quả pháp lý của hợp đồng vô hiệu trở nên rõ ràng và dễ hiểu hơn. (Bài viết được tham khảo từ một số bài báo, công trình khoa học liên quan)
Điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự? GDDS vô hiệu và hậu quả pháp ký khi GDDS vô hiệu?
Giao dịch dân sự là gì? Điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự? Giao dịch dân sự vô hiệu và hậu quả pháp lý của giao dịch dân sự vô hiệu? Điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự? Theo quy định tại Điều 116 Bộ luật Dân sự 2015 thì Giao dịch dân sự (“GDDS”) là hợp đồng hoặc hành vi pháp lý đơn phương làm phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự. Trong đó, điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự được quy định tại Điều 117 Bộ luật Dân sự 2015 với nội dung như sau: - Giao dịch dân sự có hiệu lực khi có đủ các điều kiện sau đây: +) Chủ thể có năng lực pháp luật dân sự, năng lực hành vi dân sự phù hợp với giao dịch dân sự được xác lập. +) Chủ thể tham gia giao dịch dân sự hoàn toàn tự nguyện. Sư tự nguyện ở đây được hiểu là sự tự do định đoạt ý chí, không bị ép buộc, dọa nạt, lừa dối và không bị người khác áp đặt ý chí. +) Mục đích và nội dung của giao dịch dân sự không vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo đức xã hội. Mục đích của giao dịch dân sự được xác định là lợi ích mà chủ thể mong muốn đạt được khi xác lập giao dịch đó (Điều 118 Bộ luật Dân sự 2015). Trong đó, điều cấm của luật được hiểu là những quy định của luật không cho phép chủ thể thực hiện những hành vi nhất định; Đạo đức xã hội được hiểu là những chuẩn mực ứng xử chung trong đời sống xã hội, được cộng đồng thừa nhận và tôn trọng. - Hình thức của giao dịch dân sự là điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự trong trường hợp luật có quy định. Về nguyên tắc, giao dịch dân sự có thể được thể hiện bằng lời nói, bằng văn bản hoặc bằng hành vi cụ thể. Trường hợp luật quy định giao dịch dân sự phải được thể hiện bằng văn bản có công chứng, chứng thực, đăng ký thì phải tuân theo quy định đó (theo quy định tại Điều 119 Bộ luật Dân sự 2015). Bên cạnh đó, Điều 120 Bộ luật Dân sự 2015 có quy định về giao dịch dân sự có điều kiện như sau: - Trường hợp các bên có thỏa thuận về điều kiện phát sinh hoặc hủy bỏ giao dịch dân sự thì khi điều kiện đó xảy ra, giao dịch dân sự phát sinh hoặc hủy bỏ. - Trường hợp điều kiện làm phát sinh hoặc hủy bỏ giao dịch dân sự không thể xảy ra được do hành vi cố ý cản trở trực tiếp hoặc gián tiếp của một bên thì coi như điều kiện đó đã xảy ra; trường hợp có sự tác động trực tiếp hoặc gián tiếp của một bên cố ý thúc đẩy cho điều kiện xảy ra thì coi như điều kiện đó không xảy ra. Giao dịch dân sự vô hiệu và hậu quả pháp lý của giao dịch dân sự vô hiệu? Theo quy định tại Điều 122 Bộ luật Dân sự 2015 thì Giao dịch dân sự không có một trong các điều kiện được quy định tại Điều 117 của Bộ luật Dân sự 2015 (như đã phân tích cụ thể bên trên) thì sẽ được xác định là giao dịch dân sự vô hiệu, trừ trường hợp pháp luật có đưa ra quy định khác. Lưu ý, Giao dịch dân sự cũng có thể vô hiệu từng phần khi một phần nội dung của giao dịch dân sự vô hiệu nhưng không ảnh hưởng đến hiệu lực của phần còn lại của giao dịch (Theo quy định tại Điều 130 Bộ luật Dân sự 2015). Khi giao dịch dân sự vô hiệu thì hậu quả pháp lý của giao dịch dân sự vô hiệu được hướng dẫn giải quyết tại Điều 131 Bộ luật Dân sự 2015 với nội dung như sau: - Giao dịch dân sự vô hiệu không làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự của các bên kể từ thời điểm giao dịch được xác lập. - Khi giao dịch dân sự vô hiệu thì các bên khôi phục lại tình trạng ban đầu, hoàn trả cho nhau những gì đã nhận. Trường hợp không thể hoàn trả được bằng hiện vật thì trị giá thành tiền để hoàn trả. - Bên ngay tình trong việc thu hoa lợi, lợi tức không phải hoàn trả lại hoa lợi, lợi tức đó. - Bên có lỗi gây thiệt hại thì phải bồi thường. - Việc giải quyết hậu quả của giao dịch dân sự vô hiệu liên quan đến quyền nhân thân do Bộ luật Dân sự 2015, luật khác có liên quan quy định.
Quy định về căn cứ xác lập quyền đại diện và hậu quả pháp lý của hành vi đại diện?
Quy định pháp luật về căn cứ xác lập quyền đại diện? Các loại đại diện? Và hậu quả pháp lý của hành vi đại diện? Quy định về đại diện và căn cứ xác lập quyền đại diện? Theo quy định tại khoản 1 Điều 134 Bộ luật Dân sự 2015, đại diện là việc cá nhân, pháp nhân (gọi là người đại diện) nhân danh và vì lợi ích của cá nhân hoặc pháp nhân khác (gọi là người được đại diện) để xác lập, thực hiện giao dịch dân sự. Về căn cứ xác lập quyền đại diện, Điều 135 Bộ luật Dân sự 2015 có quy định rằng: “Quyền đại diện được xác lập theo ủy quyền giữa người được đại diện và người đại diện (sau đây gọi là đại diện theo ủy quyền); theo quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền, theo điều lệ của pháp nhân hoặc theo quy định của pháp luật (sau đây gọi chung là đại diện theo pháp luật)”. Các loại đại diện theo pháp luật dân sự? Đại diện theo pháp luật của cá nhân được quy định tại Điều 136 Bộ luật Dân sự 2015 với các nội dung như sau: - Cha, mẹ đối với con chưa thành niên. - Người giám hộ đối với người được giám hộ. Người giám hộ của người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi là người đại diện theo pháp luật nếu được Tòa án chỉ định. - Người do Tòa án chỉ định trong trường hợp không xác định được người đại diện quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều 136 Bộ luật Dân sự 2015 này. - Người do Tòa án chỉ định đối với người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự. Đại diện theo pháp luật của pháp nhân được quy định tại Điều 137 Bộ luật Dân sự 2015 với các nội dung cụ thể như sau: - Người đại diện theo pháp luật của pháp nhân bao gồm: +) Người được pháp nhân chỉ định theo điều lệ; +) Người có thẩm quyền đại diện theo quy định của pháp luật; +) Người do Tòa án chỉ định trong quá trình tố tụng tại Tòa án. - Một pháp nhân có thể có nhiều người đại diện theo pháp luật và mỗi người đại diện có quyền đại diện cho pháp nhân theo quy định tại Điều 140 và Điều 141 của Bộ luật Dân sự 2015. Đại diện theo ủy quyền được quy định tại Điều 138 Bộ luật Dân sự 2015 với các nội dung cụ thể như sau: - Cá nhân, pháp nhân có thể ủy quyền cho cá nhân, pháp nhân khác xác lập, thực hiện giao dịch dân sự. - Các thành viên hộ gia đình, tổ hợp tác, tổ chức khác không có tư cách pháp nhân có thể thỏa thuận cử cá nhân, pháp nhân khác đại diện theo ủy quyền xác lập, thực hiện giao dịch dân sự liên quan đến tài sản chung của các thành viên hộ gia đình, tổ hợp tác, tổ chức khác không có tư cách pháp nhân. - Người từ đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi có thể là người đại diện theo ủy quyền, trừ trường hợp pháp luật quy định giao dịch dân sự phải do người từ đủ mười tám tuổi trở lên xác lập, thực hiện. Hậu quả pháp lý của hành vi đại diện? Điều 139 Bộ luật Dân sự 2015 có quy định về hậu quả pháp lý của hành vi đại diện như sau: - Giao dịch dân sự do người đại diện xác lập, thực hiện với người thứ ba phù hợp với phạm vi đại diện làm phát sinh quyền, nghĩa vụ đối với người được đại diện. - Người đại diện có quyền xác lập, thực hiện hành vi cần thiết để đạt được mục đích của việc đại diện. - Trường hợp người đại diện biết hoặc phải biết việc xác lập hành vi đại diện là do bị nhầm lẫn, bị lừa dối, bị đe dọa, cưỡng ép mà vẫn xác lập, thực hiện hành vi thì không làm phát sinh quyền, nghĩa vụ đối với người được đại diện, trừ trường hợp người được đại diện biết hoặc phải biết về việc này mà không phản đối.
Hậu quả của giao dịch dân sự do người đại diện xác lập, thực hiện vượt quá phạm vi đại diện?
Hoạt động đại diện được pháp luật quy định như thế nào? Giao dịch dân sự do người đại diện xác lập, thực hiện vượt quá phạm vi đại diện thì hậu quả pháp lý sẽ ra sao? Quy định pháp luật về hoạt động đại diện? Theo quy định tại Điều 134 Bộ luật Dân sự 2015, đại diện là việc cá nhân, pháp nhân (người đại diện) nhân danh và vì lợi ích của cá nhân hoặc pháp nhân khác (người được đại diện) xác lập, thực hiện giao dịch dân sự. Về nguyên tắc chung, cá nhân hay pháp nhân đều có thể xác lập, thực hiện giao dịch dân sự thông qua người đại diện. Tuy nhiên trong một số trường hợp ngoại lệ, cá nhân không được để người khác đại diện cho mình nếu pháp luật quy định họ phải tự mình xác lập, thực hiện giao dịch đó. Lưu ý, trong trường hợp pháp luật có quy định thì người đại diện phải có năng lực pháp luật dân sự, năng lực hành vi dân sự phù hợp với giao dịch dân sự được xác lập, thực hiện. Phạm vi đại diện và hậu quả của giao dịch dân sự do người đại diện xác lập, thực hiện vượt quá phạm vi đại diện? Điều 141 Bộ luật Dân sự 2015 có quy định về phạm vi đại diện như sau: - Người đại diện chỉ được xác lập, thực hiện giao dịch dân sự trong phạm vi đại diện theo căn cứ sau đây: +) Quyết định của cơ quan có thẩm quyền; +) Điều lệ của pháp nhân; +) Nội dung ủy quyền; +) Quy định khác của pháp luật. - Trường hợp không xác định được cụ thể phạm vi đại diện theo quy định trên thì người đại diện theo pháp luật có quyền xác lập, thực hiện mọi giao dịch dân sự vì lợi ích của người được đại diện, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác. - Một cá nhân, pháp nhân có thể đại diện cho nhiều cá nhân hoặc pháp nhân khác nhau nhưng không được nhân danh người được đại diện để xác lập, thực hiện giao dịch dân sự với chính mình hoặc với bên thứ ba mà mình cũng là người đại diện của người đó, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác. - Về trách nhiệm, người đại diện phải thông báo cho bên giao dịch biết về phạm vi đại diện của mình. Điều 143 Bộ luật Dân sự 2015 có quy định về hậu quả của giao dịch dân sự do người đại diện xác lập, thực hiện vượt quá phạm vi đại diện như sau: - Giao dịch dân sự do người đại diện xác lập, thực hiện vượt quá phạm vi đại diện không làm phát sinh quyền, nghĩa vụ của người được đại diện đối với phần giao dịch được thực hiện vượt quá phạm vi đại diện, trừ một trong các trường hợp sau đây: +) Người được đại diện đồng ý; +) Người được đại diện biết mà không phản đối trong một thời hạn hợp lý; +) Người được đại diện có lỗi dẫn đến việc người đã giao dịch không biết hoặc không thể biết về việc người đã xác lập, thực hiện giao dịch dân sự với mình vượt quá phạm vi đại diện. - Trường hợp giao dịch dân sự do người đại diện xác lập, thực hiện vượt quá phạm vi đại diện không làm phát sinh quyền, nghĩa vụ của người được đại diện đối với phần giao dịch được xác lập, thực hiện vượt quá phạm vi đại diện thì người đại diện phải thực hiện nghĩa vụ đối với người đã giao dịch với mình về phần giao dịch vượt quá phạm vi đại diện, trừ trường hợp người đã giao dịch biết hoặc phải biết về việc vượt quá phạm vi đại diện mà vẫn giao dịch. - Người đã giao dịch với người đại diện có quyền đơn phương chấm dứt thực hiện hoặc hủy bỏ giao dịch dân sự đối với phần vượt quá phạm vi đại diện hoặc toàn bộ giao dịch dân sự và yêu cầu bồi thường thiệt hại, trừ trường hợp người đó biết hoặc phải biết về việc vượt quá phạm vi đại diện mà vẫn giao dịch hoặc trường hợp quy định tại điểm a khoản 1 Điều 143 Bộ luật Dân sự 2015 này. - Trường hợp người đại diện và người giao dịch với người đại diện cố ý xác lập, thực hiện giao dịch dân sự vượt quá phạm vi đại diện mà gây thiệt hại cho người được đại diện thì phải chịu trách nhiệm liên đới bồi thường thiệt hại.
Tòa án ra quyết định tạm đình chỉ giải quyết vụ án dân sự trong trường hợp nào?
Tòa án ra quyết định tạm đình chỉ giải quyết vụ án dân sự trong trường hợp nào theo quy định pháp luật? Hậu quả pháp lý của việc tạm đình chỉ giải quyết vụ án dân sự là gì? Tòa án ra quyết định tạm đình chỉ giải quyết vụ án dân sự trong trường hợp nào? Theo căn cứ tại Điều 214 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015 thì Tòa án ra quyết định tạm đình chỉ giải quyết vụ án dân sự khi có một trong các căn cứ sau đây: - Đương sự là cá nhân đã chết, cơ quan, tổ chức đã hợp nhất, sáp nhập, chia, tách, giải thể mà chưa có cơ quan, tổ chức, cá nhân kế thừa quyền và nghĩa vụ tố tụng của cơ quan, tổ chức, cá nhân đó; - Đương sự là cá nhân mất năng lực hành vi dân sự, người chưa thành niên mà chưa xác định được người đại diện theo pháp luật; - Chấm dứt đại diện hợp pháp của đương sự mà chưa có người thay thế; - Cần đợi kết quả giải quyết vụ án khác có liên quan hoặc sự việc được pháp luật quy định là phải do cơ quan, tổ chức khác giải quyết trước mới giải quyết được vụ án; - Cần đợi kết quả thực hiện ủy thác tư pháp, ủy thác thu thập chứng cứ hoặc đợi cơ quan, tổ chức cung cấp tài liệu, chứng cứ theo yêu cầu của Tòa án mới giải quyết được vụ án; - Cần đợi kết quả xử lý văn bản quy phạm pháp luật có liên quan đến việc giải quyết vụ án có dấu hiệu trái với Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết của Ủy ban thường vụ Quốc hội, văn bản quy phạm pháp luật của cơ quan nhà nước cấp trên mà Tòa án đã có văn bản kiến nghị cơ quan nhà nước có thẩm quyền xem xét sửa đổi, bổ sung hoặc bãi bỏ; - Theo quy định tại Điều 41 của Luật phá sản; - Các trường hợp khác theo quy định của pháp luật. Lưu ý: Trong thời hạn 03 ngày làm việc, kể từ ngày ra quyết định tạm đình chỉ giải quyết vụ án dân sự, Tòa án phải gửi quyết định đó cho đương sự, cơ quan, tổ chức, cá nhân khởi kiện và Viện kiểm sát cùng cấp. Hậu quả pháp lý của việc tạm đình chỉ giải quyết vụ án dân sự là gì? Theo căn cứ tại Điều 215 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015 thì hậu quả pháp lý của việc tạm đình chỉ giải quyết vụ án dân sự như sau: (1) Tòa án không xóa tên vụ án dân sự bị tạm đình chỉ giải quyết trong sổ thụ lý mà chỉ ghi chú vào sổ thụ lý số và ngày, tháng, năm của quyết định tạm đình chỉ giải quyết vụ án dân sự đó. (2) Tiền tạm ứng án phí, lệ phí mà đương sự đã nộp được gửi tại kho bạc nhà nước và được xử lý khi Tòa án tiếp tục giải quyết vụ án dân sự. (3) Trường hợp tạm đình chỉ theo quy định tại điểm e khoản 1 Điều 214 của Bộ luật Tố tụng dân sự 2015. thì trước khi tạm đình chỉ, Chánh án Tòa án đang giải quyết vụ án phải có văn bản đề nghị Chánh án Tòa án nhân dân tối cao kiến nghị cơ quan nhà nước có thẩm quyền xem xét sửa đổi, bổ sung hoặc bãi bỏ văn bản quy phạm pháp luật có dấu hiệu trái với Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết của Ủy ban thường vụ Quốc hội, văn bản quy phạm pháp luật của cơ quan nhà nước cấp trên theo quy định tại Điều 221 của Bộ luật Tố tụng dân sự 2015. Trong thời hạn 01 tháng, kể từ ngày nhận được văn bản kiến nghị của Tòa án, cơ quan có thẩm quyền phải có văn bản trả lời. Hết thời hạn này mà cơ quan có thẩm quyền không có văn bản trả lời thì Tòa án tiếp tục giải quyết vụ án theo thủ tục chung. (4) Trong thời gian tạm đình chỉ giải quyết vụ án, Thẩm phán được phân công giải quyết vụ án vẫn phải có trách nhiệm về việc giải quyết vụ án. Sau khi có quyết định tạm đình chỉ giải quyết vụ án quy định tại khoản 1 Điều 214 của Bộ luật Tố tụng dân sự 2015, Thẩm phán được phân công giải quyết vụ án có trách nhiệm theo dõi, đôn đốc cơ quan, tổ chức, cá nhân nhằm khắc phục trong thời gian ngắn nhất những lý do dẫn tới vụ án bị tạm đình chỉ để kịp thời đưa vụ án ra giải quyết. (5) Quyết định tạm đình chỉ giải quyết vụ án dân sự có thể bị kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm. Tóm lại: Tòa án ra quyết định tạm đình chỉ vụ án khi có một trong các căn cứ trên và có 05 hậu quả pháp lý khi Tòa án tạm đình chỉ giải quyết vụ án dân sự.
Người đã được tuyên bố chết trở về thì giải quyết thế nào?
Chết là tình trạng một người không còn sống trên đời này nữa và được kiểm chứng dưới góc độ y học sau khi đã khám nghiệm. Tuy nhiên, dưới góc pháp lý sau khi được Tòa án tuyên bố chết sẽ làm ảnh hưởng khá nhiều đến quyền lợi và nghĩa vụ của họ. Mặc dù một người đã được Tòa án ra quyết định tuyên bố chết nhưng không có nghĩa là người đó không còn sống. Trong trường hợp người đã được tuyên bố chết nhưng trở về thì giải quyết sẽ được thực hiện thế nào? 1. Khi nào một người được Tòa án tuyên bố chết? Hiện nay, vẫn chưa có văn bản nào giải thích thuật ngữ tuyến bố chết là gì. Nhưng có thể hiểu đơn giản, tuyên bố chết là việc một người bị mất liên lạc trong một khoảng thời gian dài mà không thể liên lạc được. Qua đó, cơ quan có thẩm quyền sẽ ra quyết định tuyên bố chết nhằm xác thực sự tồn tại của người này. Cụ thể, Điều 71 Bộ luật Dân sự 2015 quy định tuyên bố chết là việc người có quyền, lợi ích liên quan có thể yêu cầu Tòa án ra quyết định tuyên bố một người là đã chết trong trường hợp sau đây: (1) Sau 03 năm, kể từ ngày quyết định tuyên bố mất tích của Tòa án có hiệu lực pháp luật mà vẫn không có tin tức xác thực là còn sống. (2) Biệt tích trong chiến tranh sau 05 năm, kể từ ngày chiến tranh kết thúc mà vẫn không có tin tức xác thực là còn sống. (3) Bị tai nạn hoặc thảm họa, thiên tai mà sau 02 năm, kể từ ngày tai nạn hoặc thảm họa, thiên tai đó chấm dứt vẫn không có tin tức xác thực là còn sống, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác. (4) Biệt tích 05 năm liền trở lên và không có tin tức xác thực là còn sống; thời hạn này được tính theo quy định tại khoản 1 Điều 68 Bộ luật Dân sự 2015. Căn cứ vào 04 trường hợp được nêu như trên, Tòa án xác định ngày chết của người bị tuyên bố là đã chết. Đây là cơ sở để xác định ngày mở thừa kế đối với di sản của người đó và là ngày để xác định các quan hệ khác mà người đó tham gia được coi là chấm dứt. Quyết định của Tòa án tuyên bố một người là đã chết phải được gửi cho UBND cấp xã nơi cư trú của người bị tuyên bố là đã chết để ghi chú theo quy định của pháp luật về hộ tịch. 2. Hậu quả pháp lý của việc tuyên bố chết Như đã nhắc đến ở trên, việc tuyên bố chết sẽ ảnh hưởng rất nhiều về quyền lợi và nghĩa vụ của người đó. Việc một người đã được tuyên bố chết xem như tất cả mọi thứ có liên quan đến họ sẽ chấm dứt. Căn cứ Điều 72 Bộ luật Dân sự 2015 quy định Quan hệ nhân thân và quan hệ tài sản của người bị Tòa án tuyên bố là đã chết sẽ được thực hiện như sau: Đầu tiên là quan hệ nhân thân: Khi quyết định của Tòa án tuyên bố một người là đã chết có hiệu lực pháp luật thì quan hệ về hôn nhân, gia đình và các quan hệ nhân thân khác của người đó được giải quyết như đối với người đã chết. Thứ hai là quan hệ tài sản: Khi Tòa án tuyên bố là đã chết thì thì tài sản của người được tuyên bố giải quyết như đối với người đã chết; tài sản của người đó được giải quyết theo quy định của pháp luật về thừa kế. 3. Khi người đã tuyên bố chết trở về thì xử lý thế nào? Không loại trừ trường hợp này, để giải quyết vấn đề này thì Điều 73 Bộ luật Dân sự 2015 quy định trường hợp Tòa án sẽ hủy bỏ quyết định tuyên bố chết như sau: Khi một người bị tuyên bố là đã chết trở về hoặc có tin tức xác thực là người đó còn sống thì theo yêu cầu của người đó hoặc của người có quyền, lợi ích liên quan, Tòa án ra quyết định hủy bỏ quyết định tuyên bố người đó là đã chết. (1) Khôi phục quan hệ nhân thân khi Tòa án ra quyết định hủy bỏ quyết định tuyên bố người đó là đã chết, trừ trường hợp sau đây: - Vợ hoặc chồng của người bị tuyên bố là đã chết đã được Tòa án cho ly hôn theo quy định thì quyết định cho ly hôn vẫn có hiệu lực pháp luật. - Vợ hoặc chồng của người bị tuyên bố là đã chết đã kết hôn với người khác thì việc kết hôn đó vẫn có hiệu lực pháp luật. Như vậy, quan hệ vợ chồng sẽ không được khôi phục mối quan hệ khi thuộc 02 trường hợp là đã được được ly hôn theo tuyến bố chết hoặc vợ, chồng kết hôn mới. (2) Có quyền yêu cầu những người đã nhận tài sản thừa kế trả lại tài sản, giá trị tài sản hiện còn. Trường hợp người thừa kế của người bị tuyên bố là đã chết biết người này còn sống mà cố tình giấu giếm nhằm hưởng thừa kế thì người đó phải hoàn trả toàn bộ tài sản đã nhận, kể cả hoa lợi, lợi tức; nếu gây thiệt hại thì phải bồi thường. Theo quy định trên, có quy định mối quan hệ vợ chồng không được khôi phục nhưng người thừa kế tài sản phải có nghĩa vụ trả lại. Vậy Trong trường tài sản chung giữa vợ và chồng thì sẽ được giải quyết theo quy định Bộ luật Dân sự 2015, Luật hôn nhân và gia đình 2014. Quyết định của Tòa án hủy bỏ quyết định tuyên bố một người là đã chết phải được gửi cho UBND cấp xã nơi cư trú của người bị tuyên bố là đã chết để ghi chú theo quy định của pháp luật về hộ tịch. 4. Đơn yêu cầu hủy bỏ quyết định tuyên bố chết Khi người đã tuyên bố chết đã trở về hoặc có thông tin xác thực còn sống thì người đó hoặc người thân có thể làm đơn yêu cầu hủy bỏ quyết định tuyên bố một người là đã chết theo Điều 394 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015 như sau: Người còn sống hoặc người có quyền, lợi ích liên quan có quyền yêu cầu Tòa án ra quyết định hủy bỏ quyết định tuyên bố một người là đã chết. Kèm theo đơn yêu cầu, người yêu cầu phải gửi tài liệu, chứng cứ để chứng minh người bị tuyên bố là đã chết trở về hoặc chứng minh xác thực là người đó còn sống. Sau khi có đầy đủ căn cứ xác thực chính xác thì Tòa án chấp nhận đơn yêu cầu hủy bỏ tuyên bố chết. Trong quyết định này, Tòa án phải quyết định về hậu quả pháp lý của việc hủy bỏ quyết định tuyên bố một người là đã chết theo quy định của Bộ luật Dân sự 2015. 5. Thông báo thay đổi hộ tịch Khi có quyết định của Tòa án về việc hủy bỏ tuyên bố chết của một người thì cơ quan có liên quan đến hộ tịch công dân phải có trách nhiệm thông báo khi có sự thay đổi theo khoản 1 Điều 30 Luật Hộ tịch 2014 như sau: Trong thời hạn 05 ngày làm việc kể từ ngày bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật liên quan đến thay đổi hộ tịch của cá nhân, TAND, cơ quan nhà nước có thẩm quyền có trách nhiệm thông báo bằng văn bản kèm theo trích lục bản án, bản sao quyết định đến UBND nơi đã đăng ký hộ tịch của cá nhân để ghi vào Sổ hộ tịch. Trường hợp nơi đăng ký hộ tịch là Cơ quan đại diện thì thông báo cho Bộ Ngoại giao để chuyển đến Cơ quan đại diện ghi vào Sổ hộ tịch. Ngay sau khi nhận được thông báo theo quy định trên, công chức tư pháp - hộ tịch ghi nội dung thay đổi vào Sổ hộ tịch theo bản án, quyết định của TAND, cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Như vậy, trong trường hợp mà một người đã được Tòa án tuyên bố chết nhưng quay về thì có quyền tuyên bố hủy quyết định đó với họ và khôi phục quan hệ nhân thân cũng như quyền đối với tài sản đã chia theo thừa kế.
Vụ việc dân sự có dấu hiệu hình sự: Chỉ khởi kiện dân sự được không?
Mình vô tình đọc được thắc mắc từ một tài khoản trên mạng xã hội về vấn đề cá nhân nhận 50.000.000 đồng để “hứa chạy việc vào biên chế” (có viết giấy nhận tiền) nhưng không có kết quả. Sau đó, “bên nhờ vả” muốn đòi lại tiền nhưng cá nhân nhận tiền hẹn lần lượt không trả. Vậy có thể khởi kiện dân sự được không? Câu hỏi đặt ra trong tình huống này là cá nhân nhận tiền để “chạy biên chế” kia có thể bị khởi kiện dân sự thay vì truy cứu trách nhiệm hình sự được không? Xét riêng về hành vi “nhận tiền chạy việc”, tùy vào các tình tiết thực tế để xác định hành vi này đủ khả năng cấu thành tội phạm hoặc chỉ bị xử lý dân sự. Về nguyên tắc, nguyên đơn khi bị xâm hại về quyền lợi khởi kiện dân sự; tuy nhiên, căn cứ vào điểm d khoản 1 Bộ luật tố tụng dân sự 2015 quy định về một trong những lý do để tạm đình chỉ giải quyết vụ án dân sự, cụ thể như sau: Cần đợi kết quả giải quyết vụ án khác có liên quan hoặc sự việc được pháp luật quy định là phải do cơ quan, tổ chức khác giải quyết trước mới giải quyết được vụ án Như vậy, bạn có thể khởi kiện theo án dân sự; tuy nhiên, Tòa án có thể tạm đình chỉ giải quyết nếu có đủ căn cứ cho rằng hành vi vi phạm này đủ yếu tố cấu thành một tội khác theo quy định pháp luật, cụ thể ở đây là có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Riêng đối với trường hợp “nhận tiền chạy việc” nhưng không thành công, sau đó không chịu hoàn trả tiền có thể bị xử lý theo các hướng sau đây: *Truy cứu trách nhiệm hình sự Hành vi “nhận tiền chạy việc” có thể bị truy cứu theo các tội phạm quy định tại Điều 174, Điều 175, Điều 354 Bộ luật hình sự 2015, xem chi tiết TẠI ĐÂY Bên cạnh đó, người nào trực tiếp hay qua trung gian đã đưa hoặc sẽ đưa cho người có chức vụ, quyền hạn hoặc người khác bất kỳ lợi ích nào để người có chức vụ, quyền hạn tiến hành “chạy biên chế” thì có thể bị truy cứu tội Đưa hối lộ theo quy định tại Điều 364 Bộ luật hình sự 2015. *Xử lý dưới góc độ pháp luật dân sự Xét ở góc độ tình huống này là một giao dịch dân sự bình thường, có thế thấy, giao dịch dân sự này là vô hiệu theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 117 Bộ luật dân sự 2015. Hậu quả pháp lý của giao dịch dân sự vô hiệu được quy định tại Điều 131 Bộ luật dân sự 2015, cụ thể như sau: 1. Giao dịch dân sự vô hiệu không làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự của các bên kể từ thời điểm giao dịch được xác lập. 2. Khi giao dịch dân sự vô hiệu thì các bên khôi phục lại tình trạng ban đầu, hoàn trả cho nhau những gì đã nhận. Như vậy có thể thấy, khi giao dịch dân sự vô hiệu thì các bên khôi phục lại tình trạng ban đầu, hoàn trả cho nhau những gì đã nhận; có nghĩa là bên nhận tiền có nghĩa vụ phải hoàn trả số tiền đã nhận lại cho bên đưa tiền. Nếu bên nhận tiền từ chối hoàn trả, có thể bị khởi kiện vụ án dân sự kèm theo đó là các giấy tờ chứng minh việc giao nhận tiền, cụ thể trong tình huống trên là Giấy nhận tiền mà hai bên đã ký kết.
Hậu quả pháp lý khi người thân mượn thẻ BHYT đi khám, chữa bệnh
Thẻ bảo hiểm y tế được cấp cho người tham gia bảo hiểm y tế và làm căn cứ để được hưởng các quyền lợi về bảo hiểm y tế theo quy định và mỗi người chỉ được cấp một thẻ bảo hiểm y tế. Vậy có được cho người thân mượn thẻ BHYT để khám, chữa bệnh hay không? nếu không thì hậu quả pháp lý của hành vi này nếu phát hiện thì bị xử lý như thế nào? mời các bạn tham khảo bài viết sau: 1. Có được cho người thân mượn thẻ BHYT để tham gia khám bệnh không? Căn cứ Điều 37 Luật BHYT 2008 quy định như sau: “Điều 37. Nghĩa vụ của người tham gia bảo hiểm y tế 1. Đóng bảo hiểm y tế đầy đủ, đúng thời hạn. 2. Sử dụng thẻ bảo hiểm y tế đúng mục đích, không cho người khác mượn thẻ bảo hiểm y tế. ….” Như vậy, Luật đã quy định rất rõ thẻ BHYT được cấp cho người tham gia và đủ điều kiện hưởng. Do đó, phải sử dụng đúng mục đích không cho người khác mượn thẻ BHYT (Người khác ở đây bao gồm cả người thân) 2. Hậu quả pháp lý khi cho người thân mượn thẻ BHYT để khám bệnh. * Về hành chính: Căn cứ khoản 2 Điều 65 Nghị định 176/2013/NĐ-CP quy định như sau: “2. Phạt tiền đối với hành vi cho người khác mượn thẻ bảo hiểm y tế hoặc sử dụng thẻ bảo hiểm y tế của người khác trong khám bệnh, chữa bệnh theo một trong các mức sau đây: a) Từ 500.000 đồng đến 1.000.000 đồng đối với trường hợp vi phạm nhưng chưa làm thiệt hại đến quỹ bảo hiểm y tế; b) Từ 1.000.000 đồng đến 2.000.000 đồng đối với trường hợp vi phạm làm thiệt hại đến quỹ bảo hiểm y tế” Theo đó, hành vi cho người khác mượn thẻ bảo hiểm để đi khám chữa bệnh là trái với quy định của pháp luật nếu vi phạm có thể sẽ bị xử phạt vi phạm hành chính từ 500.000 đồng đến 2.000.000 đồng. Ngoài ra, người vi phạm phải thực hiện việc khắc phục hậu quả như sau: - Buộc hoàn trả số tiền đã được quỹ bảo hiểm y tế chi trả vào tài khoản thu của quỹ bảo hiểm y tế đối với hành vi làm thiệt hại đến quỹ bảo hiểm y tế; - Buộc người sử dụng thẻ bảo hiểm y tế hoàn trả toàn bộ chi phí khám bệnh, chữa bệnh đã được quỹ bảo hiểm y tế chi trả vào tài khoản thu của quỹ bảo hiểm y tế đối với hành vi quy định tại làm thiệt hại đến quỹ bảo hiểm y tế; * Về Hình sự: Căn cứ Điều 215 Bộ luật hình sự 2015 quy định thì người nào sử dụng thẻ BHYT của người khác trong khám chữa bệnh hưởng chế độ BHYT trái quy định thì bị phạt từ 20 đến 100 triệu đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 2 năm hoặc phạt tù từ 3 tháng đến 2 năm. Bên cạnh đó, nếu phạm tội có tổ chức, tính chuyên nghiệp hoặc sử dụng thủ đoạn tinh vi xảo quyệt thì người phạm tội cũng có thể bị phạt tiền từ 100 đến 200 triệu đồng hoặc phạt tù từ 1 đến 5 năm. - Chiếm đoạt hoặc gây thiệt hại từ 500 triệu đồng trở lên người vi phạm có thể bị phạt tù từ 5 đến 10 năm. - Ngoài ra, Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 10 đến 100 triệu đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm. Cụ thể quy định như sau: "1. Người nào thực hiện một trong các hành vi sau đây, chiếm đoạt tiền bảo hiểm y tế từ 10.000.000 đồng đến dưới 100.000.000 đồng hoặc gây thiệt hại từ 20.000.000 đồng đến dưới 200.000.000 đồng mà không thuộc trường hợp quy định tại một trong các điều 174, 353 và 355 của Bộ luật này, thì bị phạt tiền từ 20.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 02 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 02 năm: a) Lập hồ sơ bệnh án, kê đơn thuốc khống hoặc kê tăng số lượng hoặc thêm loại thuốc, vật tư y tế, dịch vụ kỹ thuật, chi phí giường bệnh và các chi phí khác mà thực tế người bệnh không sử dụng; b) Giả mạo hồ sơ, thẻ bảo hiểm y tế hoặc sử dụng thẻ bảo hiểm y tế được cấp khống, thẻ bảo hiểm y tế giả, thẻ đã bị thu hồi, thẻ bị sửa chữa, thẻ bảo hiểm y tế của người khác trong khám chữa bệnh hưởng chế độ bảo hiểm y tế trái quy định" 2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tiền từ 100.000.000 đồng đến 200.000.000 đồng hoặc phạt tù từ 01 năm đến 05 năm: a) Có tổ chức; b) Có tính chất chuyên nghiệp; c) Chiếm đoạt tiền bảo hiểm y tế từ 100.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng; d) Gây thiệt hại từ 200.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng; đ) Dùng thủ đoạn tinh vi, xảo quyệt; e) Tái phạm nguy hiểm. 3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 05 năm đến 10 năm: a) Chiếm đoạt tiền bảo hiểm y tế 500.000.000 đồng trở lên; b) Gây thiệt hại 500.000.000 đồng trở lên. 4. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm.
Hậu quả pháp lý khi ký kết hợp đồng
Trong công ty Luật hợp danh A có thành viên hợp danh D.Tại công ty này có xảy ra các sự kiện pháp lý sau: Luật sư D (thành viên hợp danh của công ty) đã ký kết hai hợp đồng tư vấn pháp luật: một hợp đồng ký nhân danh công ty với mức phí là 500 triệu đồng và một hợp đồng ký với tư cách cá nhân luật sư D với mức phí 300 triệu đồng. Hai hợp đồng này luật sư D đều tự mình ký và thực hiện. cho biết hậu quả pháp lý đối với hai hợp đồng trên?
Tìm hiểu quy định pháp luật về hợp đồng vô hiệu do có đối tượng không thể thực hiện được?
Quy định pháp luật dân sự về hợp đồng vô hiệu do có đối tượng không thể thực hiện được? Căn cứ áp dụng, trách nhiệm thông báo và hậu quả pháp lý? Trách nhiệm thông báo khi hợp đồng có đối tượng không thể thực hiện được? Khoản 2 Điều 408 Bộ luật Dân sự 2015 quy định một nghĩa vụ quan trọng trong quá trình giao kết hợp đồng, đó là nghĩa vụ thông báo. Cụ thể, nếu một bên biết hoặc phải biết rằng đối tượng của hợp đồng không thể thực hiện được nhưng lại cố tình không thông báo cho bên kia, thì bên đó sẽ phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại cho bên kia. Việc thông báo khi hợp đồng có đối tượng không thể thực hiện được này được thực hiện với các lý do sau đây: - Bảo vệ nguyên tắc thiện chí: Khi tham gia vào một giao dịch, các bên phải tuân thủ nguyên tắc thiện chí, nghĩa là phải thành thật và trung thực với nhau. Việc cố tình giấu thông tin quan trọng là vi phạm nguyên tắc này. - Đảm bảo tính công bằng: Quy định này giúp đảm bảo rằng các bên tham gia hợp đồng có đủ thông tin để đưa ra quyết định đúng đắn, từ đó tránh tình trạng một bên bị thiệt hại do thiếu thông tin. Lưu ý: Mặc dù nghĩa vụ thông báo là rất quan trọng, nhưng pháp luật cũng quy định một ngoại lệ, đó là trường hợp bên kia cũng biết hoặc phải biết về việc đối tượng hợp đồng không thể thực hiện được. Trong trường hợp này, nếu cả hai bên đều biết về vấn đề này mà vẫn đồng ý ký kết hợp đồng thì không bên nào có thể yêu cầu bên kia bồi thường thiệt hại. Nghĩa là, dù không được thông báo, họ vẫn có thể nhận thức rõ về vấn đề này. Trong trường hợp này, nếu họ vẫn chấp nhận ký kết hợp đồng, pháp luật coi rằng đã có sự đồng thuận giữa các bên, và trách nhiệm của bên không thông báo sẽ được miễn trừ. Quy định này có ý nghĩa rất quan trọng trong việc bảo vệ quyền lợi của các bên tham gia hợp đồng và đảm bảo tính công bằng của các giao dịch dân sự. Đồng thời, quy định này cũng khuyến khích các bên tham gia hợp đồng phải thành thật và trung thực với nhau. Hậu quả pháp lý của hợp đồng vô hiệu do đối tượng không thể thực hiện được? Mặc dù Điều 408 Bộ luật Dân sự 2015 không quy định cụ thể hậu quả pháp lý khi hợp đồng bị vô hiệu do đối tượng không thể thực hiện được, nhưng chúng ta có thể suy ra từ các quy định khác trong Bộ luật này. Cụ thể: - Không làm phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự: Theo Điều 131 Bộ luật Dân sự 2015, hợp đồng vô hiệu sẽ không tạo ra bất kỳ quyền lợi hoặc nghĩa vụ pháp lý nào cho các bên. Điều này có nghĩa là hợp đồng đó như chưa từng tồn tại. - Khôi phục tình trạng ban đầu: Các bên có nghĩa vụ phải trả lại cho nhau những gì đã nhận được trước đó. Tuy nhiên, nếu việc trả lại bằng hiện vật là không khả thi, các bên có thể lựa chọn cách thức khác như bồi thường bằng tiền. - Không phải hoàn trả lợi tức: Bên nào đã thu được lợi ích từ hợp đồng vô hiệu thì không phải hoàn trả lại lợi ích đó. - Trách nhiệm bồi thường vẫn tồn tại: Nếu một bên có lỗi trong việc gây ra thiệt hại cho bên kia, thì bên đó vẫn phải chịu trách nhiệm bồi thường. - Hợp đồng có nhiều phần: Nếu chỉ một phần của hợp đồng có đối tượng không thể thực hiện được, thì phần còn lại của hợp đồng vẫn có hiệu lực. Hậu quả pháp lý của hợp đồng vô hiệu do đối tượng không thể thực hiện được là một vấn đề quan trọng trong thực tiễn. Việc hiểu rõ các quy định pháp luật liên quan sẽ giúp các bên tham gia hợp đồng có thể bảo vệ quyền lợi của mình một cách tốt nhất. Cụ thể: - Bảo vệ quyền lợi của các bên: Các quy định nhằm mục tiêu bảo vệ quyền lợi của các bên tham gia hợp đồng, đặc biệt là bên bị thiệt hại. - Đảm bảo tính công bằng: Việc khôi phục tình trạng ban đầu giúp đảm bảo tính công bằng giữa các bên. - Nâng cao tính minh bạch của pháp luật: Các quy định này làm cho hậu quả pháp lý của hợp đồng vô hiệu trở nên rõ ràng và dễ hiểu hơn. (Bài viết được tham khảo từ một số bài báo, công trình khoa học liên quan)
Điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự? GDDS vô hiệu và hậu quả pháp ký khi GDDS vô hiệu?
Giao dịch dân sự là gì? Điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự? Giao dịch dân sự vô hiệu và hậu quả pháp lý của giao dịch dân sự vô hiệu? Điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự? Theo quy định tại Điều 116 Bộ luật Dân sự 2015 thì Giao dịch dân sự (“GDDS”) là hợp đồng hoặc hành vi pháp lý đơn phương làm phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự. Trong đó, điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự được quy định tại Điều 117 Bộ luật Dân sự 2015 với nội dung như sau: - Giao dịch dân sự có hiệu lực khi có đủ các điều kiện sau đây: +) Chủ thể có năng lực pháp luật dân sự, năng lực hành vi dân sự phù hợp với giao dịch dân sự được xác lập. +) Chủ thể tham gia giao dịch dân sự hoàn toàn tự nguyện. Sư tự nguyện ở đây được hiểu là sự tự do định đoạt ý chí, không bị ép buộc, dọa nạt, lừa dối và không bị người khác áp đặt ý chí. +) Mục đích và nội dung của giao dịch dân sự không vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo đức xã hội. Mục đích của giao dịch dân sự được xác định là lợi ích mà chủ thể mong muốn đạt được khi xác lập giao dịch đó (Điều 118 Bộ luật Dân sự 2015). Trong đó, điều cấm của luật được hiểu là những quy định của luật không cho phép chủ thể thực hiện những hành vi nhất định; Đạo đức xã hội được hiểu là những chuẩn mực ứng xử chung trong đời sống xã hội, được cộng đồng thừa nhận và tôn trọng. - Hình thức của giao dịch dân sự là điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự trong trường hợp luật có quy định. Về nguyên tắc, giao dịch dân sự có thể được thể hiện bằng lời nói, bằng văn bản hoặc bằng hành vi cụ thể. Trường hợp luật quy định giao dịch dân sự phải được thể hiện bằng văn bản có công chứng, chứng thực, đăng ký thì phải tuân theo quy định đó (theo quy định tại Điều 119 Bộ luật Dân sự 2015). Bên cạnh đó, Điều 120 Bộ luật Dân sự 2015 có quy định về giao dịch dân sự có điều kiện như sau: - Trường hợp các bên có thỏa thuận về điều kiện phát sinh hoặc hủy bỏ giao dịch dân sự thì khi điều kiện đó xảy ra, giao dịch dân sự phát sinh hoặc hủy bỏ. - Trường hợp điều kiện làm phát sinh hoặc hủy bỏ giao dịch dân sự không thể xảy ra được do hành vi cố ý cản trở trực tiếp hoặc gián tiếp của một bên thì coi như điều kiện đó đã xảy ra; trường hợp có sự tác động trực tiếp hoặc gián tiếp của một bên cố ý thúc đẩy cho điều kiện xảy ra thì coi như điều kiện đó không xảy ra. Giao dịch dân sự vô hiệu và hậu quả pháp lý của giao dịch dân sự vô hiệu? Theo quy định tại Điều 122 Bộ luật Dân sự 2015 thì Giao dịch dân sự không có một trong các điều kiện được quy định tại Điều 117 của Bộ luật Dân sự 2015 (như đã phân tích cụ thể bên trên) thì sẽ được xác định là giao dịch dân sự vô hiệu, trừ trường hợp pháp luật có đưa ra quy định khác. Lưu ý, Giao dịch dân sự cũng có thể vô hiệu từng phần khi một phần nội dung của giao dịch dân sự vô hiệu nhưng không ảnh hưởng đến hiệu lực của phần còn lại của giao dịch (Theo quy định tại Điều 130 Bộ luật Dân sự 2015). Khi giao dịch dân sự vô hiệu thì hậu quả pháp lý của giao dịch dân sự vô hiệu được hướng dẫn giải quyết tại Điều 131 Bộ luật Dân sự 2015 với nội dung như sau: - Giao dịch dân sự vô hiệu không làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự của các bên kể từ thời điểm giao dịch được xác lập. - Khi giao dịch dân sự vô hiệu thì các bên khôi phục lại tình trạng ban đầu, hoàn trả cho nhau những gì đã nhận. Trường hợp không thể hoàn trả được bằng hiện vật thì trị giá thành tiền để hoàn trả. - Bên ngay tình trong việc thu hoa lợi, lợi tức không phải hoàn trả lại hoa lợi, lợi tức đó. - Bên có lỗi gây thiệt hại thì phải bồi thường. - Việc giải quyết hậu quả của giao dịch dân sự vô hiệu liên quan đến quyền nhân thân do Bộ luật Dân sự 2015, luật khác có liên quan quy định.
Quy định về căn cứ xác lập quyền đại diện và hậu quả pháp lý của hành vi đại diện?
Quy định pháp luật về căn cứ xác lập quyền đại diện? Các loại đại diện? Và hậu quả pháp lý của hành vi đại diện? Quy định về đại diện và căn cứ xác lập quyền đại diện? Theo quy định tại khoản 1 Điều 134 Bộ luật Dân sự 2015, đại diện là việc cá nhân, pháp nhân (gọi là người đại diện) nhân danh và vì lợi ích của cá nhân hoặc pháp nhân khác (gọi là người được đại diện) để xác lập, thực hiện giao dịch dân sự. Về căn cứ xác lập quyền đại diện, Điều 135 Bộ luật Dân sự 2015 có quy định rằng: “Quyền đại diện được xác lập theo ủy quyền giữa người được đại diện và người đại diện (sau đây gọi là đại diện theo ủy quyền); theo quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền, theo điều lệ của pháp nhân hoặc theo quy định của pháp luật (sau đây gọi chung là đại diện theo pháp luật)”. Các loại đại diện theo pháp luật dân sự? Đại diện theo pháp luật của cá nhân được quy định tại Điều 136 Bộ luật Dân sự 2015 với các nội dung như sau: - Cha, mẹ đối với con chưa thành niên. - Người giám hộ đối với người được giám hộ. Người giám hộ của người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi là người đại diện theo pháp luật nếu được Tòa án chỉ định. - Người do Tòa án chỉ định trong trường hợp không xác định được người đại diện quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều 136 Bộ luật Dân sự 2015 này. - Người do Tòa án chỉ định đối với người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự. Đại diện theo pháp luật của pháp nhân được quy định tại Điều 137 Bộ luật Dân sự 2015 với các nội dung cụ thể như sau: - Người đại diện theo pháp luật của pháp nhân bao gồm: +) Người được pháp nhân chỉ định theo điều lệ; +) Người có thẩm quyền đại diện theo quy định của pháp luật; +) Người do Tòa án chỉ định trong quá trình tố tụng tại Tòa án. - Một pháp nhân có thể có nhiều người đại diện theo pháp luật và mỗi người đại diện có quyền đại diện cho pháp nhân theo quy định tại Điều 140 và Điều 141 của Bộ luật Dân sự 2015. Đại diện theo ủy quyền được quy định tại Điều 138 Bộ luật Dân sự 2015 với các nội dung cụ thể như sau: - Cá nhân, pháp nhân có thể ủy quyền cho cá nhân, pháp nhân khác xác lập, thực hiện giao dịch dân sự. - Các thành viên hộ gia đình, tổ hợp tác, tổ chức khác không có tư cách pháp nhân có thể thỏa thuận cử cá nhân, pháp nhân khác đại diện theo ủy quyền xác lập, thực hiện giao dịch dân sự liên quan đến tài sản chung của các thành viên hộ gia đình, tổ hợp tác, tổ chức khác không có tư cách pháp nhân. - Người từ đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi có thể là người đại diện theo ủy quyền, trừ trường hợp pháp luật quy định giao dịch dân sự phải do người từ đủ mười tám tuổi trở lên xác lập, thực hiện. Hậu quả pháp lý của hành vi đại diện? Điều 139 Bộ luật Dân sự 2015 có quy định về hậu quả pháp lý của hành vi đại diện như sau: - Giao dịch dân sự do người đại diện xác lập, thực hiện với người thứ ba phù hợp với phạm vi đại diện làm phát sinh quyền, nghĩa vụ đối với người được đại diện. - Người đại diện có quyền xác lập, thực hiện hành vi cần thiết để đạt được mục đích của việc đại diện. - Trường hợp người đại diện biết hoặc phải biết việc xác lập hành vi đại diện là do bị nhầm lẫn, bị lừa dối, bị đe dọa, cưỡng ép mà vẫn xác lập, thực hiện hành vi thì không làm phát sinh quyền, nghĩa vụ đối với người được đại diện, trừ trường hợp người được đại diện biết hoặc phải biết về việc này mà không phản đối.
Hậu quả của giao dịch dân sự do người đại diện xác lập, thực hiện vượt quá phạm vi đại diện?
Hoạt động đại diện được pháp luật quy định như thế nào? Giao dịch dân sự do người đại diện xác lập, thực hiện vượt quá phạm vi đại diện thì hậu quả pháp lý sẽ ra sao? Quy định pháp luật về hoạt động đại diện? Theo quy định tại Điều 134 Bộ luật Dân sự 2015, đại diện là việc cá nhân, pháp nhân (người đại diện) nhân danh và vì lợi ích của cá nhân hoặc pháp nhân khác (người được đại diện) xác lập, thực hiện giao dịch dân sự. Về nguyên tắc chung, cá nhân hay pháp nhân đều có thể xác lập, thực hiện giao dịch dân sự thông qua người đại diện. Tuy nhiên trong một số trường hợp ngoại lệ, cá nhân không được để người khác đại diện cho mình nếu pháp luật quy định họ phải tự mình xác lập, thực hiện giao dịch đó. Lưu ý, trong trường hợp pháp luật có quy định thì người đại diện phải có năng lực pháp luật dân sự, năng lực hành vi dân sự phù hợp với giao dịch dân sự được xác lập, thực hiện. Phạm vi đại diện và hậu quả của giao dịch dân sự do người đại diện xác lập, thực hiện vượt quá phạm vi đại diện? Điều 141 Bộ luật Dân sự 2015 có quy định về phạm vi đại diện như sau: - Người đại diện chỉ được xác lập, thực hiện giao dịch dân sự trong phạm vi đại diện theo căn cứ sau đây: +) Quyết định của cơ quan có thẩm quyền; +) Điều lệ của pháp nhân; +) Nội dung ủy quyền; +) Quy định khác của pháp luật. - Trường hợp không xác định được cụ thể phạm vi đại diện theo quy định trên thì người đại diện theo pháp luật có quyền xác lập, thực hiện mọi giao dịch dân sự vì lợi ích của người được đại diện, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác. - Một cá nhân, pháp nhân có thể đại diện cho nhiều cá nhân hoặc pháp nhân khác nhau nhưng không được nhân danh người được đại diện để xác lập, thực hiện giao dịch dân sự với chính mình hoặc với bên thứ ba mà mình cũng là người đại diện của người đó, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác. - Về trách nhiệm, người đại diện phải thông báo cho bên giao dịch biết về phạm vi đại diện của mình. Điều 143 Bộ luật Dân sự 2015 có quy định về hậu quả của giao dịch dân sự do người đại diện xác lập, thực hiện vượt quá phạm vi đại diện như sau: - Giao dịch dân sự do người đại diện xác lập, thực hiện vượt quá phạm vi đại diện không làm phát sinh quyền, nghĩa vụ của người được đại diện đối với phần giao dịch được thực hiện vượt quá phạm vi đại diện, trừ một trong các trường hợp sau đây: +) Người được đại diện đồng ý; +) Người được đại diện biết mà không phản đối trong một thời hạn hợp lý; +) Người được đại diện có lỗi dẫn đến việc người đã giao dịch không biết hoặc không thể biết về việc người đã xác lập, thực hiện giao dịch dân sự với mình vượt quá phạm vi đại diện. - Trường hợp giao dịch dân sự do người đại diện xác lập, thực hiện vượt quá phạm vi đại diện không làm phát sinh quyền, nghĩa vụ của người được đại diện đối với phần giao dịch được xác lập, thực hiện vượt quá phạm vi đại diện thì người đại diện phải thực hiện nghĩa vụ đối với người đã giao dịch với mình về phần giao dịch vượt quá phạm vi đại diện, trừ trường hợp người đã giao dịch biết hoặc phải biết về việc vượt quá phạm vi đại diện mà vẫn giao dịch. - Người đã giao dịch với người đại diện có quyền đơn phương chấm dứt thực hiện hoặc hủy bỏ giao dịch dân sự đối với phần vượt quá phạm vi đại diện hoặc toàn bộ giao dịch dân sự và yêu cầu bồi thường thiệt hại, trừ trường hợp người đó biết hoặc phải biết về việc vượt quá phạm vi đại diện mà vẫn giao dịch hoặc trường hợp quy định tại điểm a khoản 1 Điều 143 Bộ luật Dân sự 2015 này. - Trường hợp người đại diện và người giao dịch với người đại diện cố ý xác lập, thực hiện giao dịch dân sự vượt quá phạm vi đại diện mà gây thiệt hại cho người được đại diện thì phải chịu trách nhiệm liên đới bồi thường thiệt hại.
Tòa án ra quyết định tạm đình chỉ giải quyết vụ án dân sự trong trường hợp nào?
Tòa án ra quyết định tạm đình chỉ giải quyết vụ án dân sự trong trường hợp nào theo quy định pháp luật? Hậu quả pháp lý của việc tạm đình chỉ giải quyết vụ án dân sự là gì? Tòa án ra quyết định tạm đình chỉ giải quyết vụ án dân sự trong trường hợp nào? Theo căn cứ tại Điều 214 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015 thì Tòa án ra quyết định tạm đình chỉ giải quyết vụ án dân sự khi có một trong các căn cứ sau đây: - Đương sự là cá nhân đã chết, cơ quan, tổ chức đã hợp nhất, sáp nhập, chia, tách, giải thể mà chưa có cơ quan, tổ chức, cá nhân kế thừa quyền và nghĩa vụ tố tụng của cơ quan, tổ chức, cá nhân đó; - Đương sự là cá nhân mất năng lực hành vi dân sự, người chưa thành niên mà chưa xác định được người đại diện theo pháp luật; - Chấm dứt đại diện hợp pháp của đương sự mà chưa có người thay thế; - Cần đợi kết quả giải quyết vụ án khác có liên quan hoặc sự việc được pháp luật quy định là phải do cơ quan, tổ chức khác giải quyết trước mới giải quyết được vụ án; - Cần đợi kết quả thực hiện ủy thác tư pháp, ủy thác thu thập chứng cứ hoặc đợi cơ quan, tổ chức cung cấp tài liệu, chứng cứ theo yêu cầu của Tòa án mới giải quyết được vụ án; - Cần đợi kết quả xử lý văn bản quy phạm pháp luật có liên quan đến việc giải quyết vụ án có dấu hiệu trái với Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết của Ủy ban thường vụ Quốc hội, văn bản quy phạm pháp luật của cơ quan nhà nước cấp trên mà Tòa án đã có văn bản kiến nghị cơ quan nhà nước có thẩm quyền xem xét sửa đổi, bổ sung hoặc bãi bỏ; - Theo quy định tại Điều 41 của Luật phá sản; - Các trường hợp khác theo quy định của pháp luật. Lưu ý: Trong thời hạn 03 ngày làm việc, kể từ ngày ra quyết định tạm đình chỉ giải quyết vụ án dân sự, Tòa án phải gửi quyết định đó cho đương sự, cơ quan, tổ chức, cá nhân khởi kiện và Viện kiểm sát cùng cấp. Hậu quả pháp lý của việc tạm đình chỉ giải quyết vụ án dân sự là gì? Theo căn cứ tại Điều 215 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015 thì hậu quả pháp lý của việc tạm đình chỉ giải quyết vụ án dân sự như sau: (1) Tòa án không xóa tên vụ án dân sự bị tạm đình chỉ giải quyết trong sổ thụ lý mà chỉ ghi chú vào sổ thụ lý số và ngày, tháng, năm của quyết định tạm đình chỉ giải quyết vụ án dân sự đó. (2) Tiền tạm ứng án phí, lệ phí mà đương sự đã nộp được gửi tại kho bạc nhà nước và được xử lý khi Tòa án tiếp tục giải quyết vụ án dân sự. (3) Trường hợp tạm đình chỉ theo quy định tại điểm e khoản 1 Điều 214 của Bộ luật Tố tụng dân sự 2015. thì trước khi tạm đình chỉ, Chánh án Tòa án đang giải quyết vụ án phải có văn bản đề nghị Chánh án Tòa án nhân dân tối cao kiến nghị cơ quan nhà nước có thẩm quyền xem xét sửa đổi, bổ sung hoặc bãi bỏ văn bản quy phạm pháp luật có dấu hiệu trái với Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết của Ủy ban thường vụ Quốc hội, văn bản quy phạm pháp luật của cơ quan nhà nước cấp trên theo quy định tại Điều 221 của Bộ luật Tố tụng dân sự 2015. Trong thời hạn 01 tháng, kể từ ngày nhận được văn bản kiến nghị của Tòa án, cơ quan có thẩm quyền phải có văn bản trả lời. Hết thời hạn này mà cơ quan có thẩm quyền không có văn bản trả lời thì Tòa án tiếp tục giải quyết vụ án theo thủ tục chung. (4) Trong thời gian tạm đình chỉ giải quyết vụ án, Thẩm phán được phân công giải quyết vụ án vẫn phải có trách nhiệm về việc giải quyết vụ án. Sau khi có quyết định tạm đình chỉ giải quyết vụ án quy định tại khoản 1 Điều 214 của Bộ luật Tố tụng dân sự 2015, Thẩm phán được phân công giải quyết vụ án có trách nhiệm theo dõi, đôn đốc cơ quan, tổ chức, cá nhân nhằm khắc phục trong thời gian ngắn nhất những lý do dẫn tới vụ án bị tạm đình chỉ để kịp thời đưa vụ án ra giải quyết. (5) Quyết định tạm đình chỉ giải quyết vụ án dân sự có thể bị kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm. Tóm lại: Tòa án ra quyết định tạm đình chỉ vụ án khi có một trong các căn cứ trên và có 05 hậu quả pháp lý khi Tòa án tạm đình chỉ giải quyết vụ án dân sự.
Người đã được tuyên bố chết trở về thì giải quyết thế nào?
Chết là tình trạng một người không còn sống trên đời này nữa và được kiểm chứng dưới góc độ y học sau khi đã khám nghiệm. Tuy nhiên, dưới góc pháp lý sau khi được Tòa án tuyên bố chết sẽ làm ảnh hưởng khá nhiều đến quyền lợi và nghĩa vụ của họ. Mặc dù một người đã được Tòa án ra quyết định tuyên bố chết nhưng không có nghĩa là người đó không còn sống. Trong trường hợp người đã được tuyên bố chết nhưng trở về thì giải quyết sẽ được thực hiện thế nào? 1. Khi nào một người được Tòa án tuyên bố chết? Hiện nay, vẫn chưa có văn bản nào giải thích thuật ngữ tuyến bố chết là gì. Nhưng có thể hiểu đơn giản, tuyên bố chết là việc một người bị mất liên lạc trong một khoảng thời gian dài mà không thể liên lạc được. Qua đó, cơ quan có thẩm quyền sẽ ra quyết định tuyên bố chết nhằm xác thực sự tồn tại của người này. Cụ thể, Điều 71 Bộ luật Dân sự 2015 quy định tuyên bố chết là việc người có quyền, lợi ích liên quan có thể yêu cầu Tòa án ra quyết định tuyên bố một người là đã chết trong trường hợp sau đây: (1) Sau 03 năm, kể từ ngày quyết định tuyên bố mất tích của Tòa án có hiệu lực pháp luật mà vẫn không có tin tức xác thực là còn sống. (2) Biệt tích trong chiến tranh sau 05 năm, kể từ ngày chiến tranh kết thúc mà vẫn không có tin tức xác thực là còn sống. (3) Bị tai nạn hoặc thảm họa, thiên tai mà sau 02 năm, kể từ ngày tai nạn hoặc thảm họa, thiên tai đó chấm dứt vẫn không có tin tức xác thực là còn sống, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác. (4) Biệt tích 05 năm liền trở lên và không có tin tức xác thực là còn sống; thời hạn này được tính theo quy định tại khoản 1 Điều 68 Bộ luật Dân sự 2015. Căn cứ vào 04 trường hợp được nêu như trên, Tòa án xác định ngày chết của người bị tuyên bố là đã chết. Đây là cơ sở để xác định ngày mở thừa kế đối với di sản của người đó và là ngày để xác định các quan hệ khác mà người đó tham gia được coi là chấm dứt. Quyết định của Tòa án tuyên bố một người là đã chết phải được gửi cho UBND cấp xã nơi cư trú của người bị tuyên bố là đã chết để ghi chú theo quy định của pháp luật về hộ tịch. 2. Hậu quả pháp lý của việc tuyên bố chết Như đã nhắc đến ở trên, việc tuyên bố chết sẽ ảnh hưởng rất nhiều về quyền lợi và nghĩa vụ của người đó. Việc một người đã được tuyên bố chết xem như tất cả mọi thứ có liên quan đến họ sẽ chấm dứt. Căn cứ Điều 72 Bộ luật Dân sự 2015 quy định Quan hệ nhân thân và quan hệ tài sản của người bị Tòa án tuyên bố là đã chết sẽ được thực hiện như sau: Đầu tiên là quan hệ nhân thân: Khi quyết định của Tòa án tuyên bố một người là đã chết có hiệu lực pháp luật thì quan hệ về hôn nhân, gia đình và các quan hệ nhân thân khác của người đó được giải quyết như đối với người đã chết. Thứ hai là quan hệ tài sản: Khi Tòa án tuyên bố là đã chết thì thì tài sản của người được tuyên bố giải quyết như đối với người đã chết; tài sản của người đó được giải quyết theo quy định của pháp luật về thừa kế. 3. Khi người đã tuyên bố chết trở về thì xử lý thế nào? Không loại trừ trường hợp này, để giải quyết vấn đề này thì Điều 73 Bộ luật Dân sự 2015 quy định trường hợp Tòa án sẽ hủy bỏ quyết định tuyên bố chết như sau: Khi một người bị tuyên bố là đã chết trở về hoặc có tin tức xác thực là người đó còn sống thì theo yêu cầu của người đó hoặc của người có quyền, lợi ích liên quan, Tòa án ra quyết định hủy bỏ quyết định tuyên bố người đó là đã chết. (1) Khôi phục quan hệ nhân thân khi Tòa án ra quyết định hủy bỏ quyết định tuyên bố người đó là đã chết, trừ trường hợp sau đây: - Vợ hoặc chồng của người bị tuyên bố là đã chết đã được Tòa án cho ly hôn theo quy định thì quyết định cho ly hôn vẫn có hiệu lực pháp luật. - Vợ hoặc chồng của người bị tuyên bố là đã chết đã kết hôn với người khác thì việc kết hôn đó vẫn có hiệu lực pháp luật. Như vậy, quan hệ vợ chồng sẽ không được khôi phục mối quan hệ khi thuộc 02 trường hợp là đã được được ly hôn theo tuyến bố chết hoặc vợ, chồng kết hôn mới. (2) Có quyền yêu cầu những người đã nhận tài sản thừa kế trả lại tài sản, giá trị tài sản hiện còn. Trường hợp người thừa kế của người bị tuyên bố là đã chết biết người này còn sống mà cố tình giấu giếm nhằm hưởng thừa kế thì người đó phải hoàn trả toàn bộ tài sản đã nhận, kể cả hoa lợi, lợi tức; nếu gây thiệt hại thì phải bồi thường. Theo quy định trên, có quy định mối quan hệ vợ chồng không được khôi phục nhưng người thừa kế tài sản phải có nghĩa vụ trả lại. Vậy Trong trường tài sản chung giữa vợ và chồng thì sẽ được giải quyết theo quy định Bộ luật Dân sự 2015, Luật hôn nhân và gia đình 2014. Quyết định của Tòa án hủy bỏ quyết định tuyên bố một người là đã chết phải được gửi cho UBND cấp xã nơi cư trú của người bị tuyên bố là đã chết để ghi chú theo quy định của pháp luật về hộ tịch. 4. Đơn yêu cầu hủy bỏ quyết định tuyên bố chết Khi người đã tuyên bố chết đã trở về hoặc có thông tin xác thực còn sống thì người đó hoặc người thân có thể làm đơn yêu cầu hủy bỏ quyết định tuyên bố một người là đã chết theo Điều 394 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015 như sau: Người còn sống hoặc người có quyền, lợi ích liên quan có quyền yêu cầu Tòa án ra quyết định hủy bỏ quyết định tuyên bố một người là đã chết. Kèm theo đơn yêu cầu, người yêu cầu phải gửi tài liệu, chứng cứ để chứng minh người bị tuyên bố là đã chết trở về hoặc chứng minh xác thực là người đó còn sống. Sau khi có đầy đủ căn cứ xác thực chính xác thì Tòa án chấp nhận đơn yêu cầu hủy bỏ tuyên bố chết. Trong quyết định này, Tòa án phải quyết định về hậu quả pháp lý của việc hủy bỏ quyết định tuyên bố một người là đã chết theo quy định của Bộ luật Dân sự 2015. 5. Thông báo thay đổi hộ tịch Khi có quyết định của Tòa án về việc hủy bỏ tuyên bố chết của một người thì cơ quan có liên quan đến hộ tịch công dân phải có trách nhiệm thông báo khi có sự thay đổi theo khoản 1 Điều 30 Luật Hộ tịch 2014 như sau: Trong thời hạn 05 ngày làm việc kể từ ngày bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật liên quan đến thay đổi hộ tịch của cá nhân, TAND, cơ quan nhà nước có thẩm quyền có trách nhiệm thông báo bằng văn bản kèm theo trích lục bản án, bản sao quyết định đến UBND nơi đã đăng ký hộ tịch của cá nhân để ghi vào Sổ hộ tịch. Trường hợp nơi đăng ký hộ tịch là Cơ quan đại diện thì thông báo cho Bộ Ngoại giao để chuyển đến Cơ quan đại diện ghi vào Sổ hộ tịch. Ngay sau khi nhận được thông báo theo quy định trên, công chức tư pháp - hộ tịch ghi nội dung thay đổi vào Sổ hộ tịch theo bản án, quyết định của TAND, cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Như vậy, trong trường hợp mà một người đã được Tòa án tuyên bố chết nhưng quay về thì có quyền tuyên bố hủy quyết định đó với họ và khôi phục quan hệ nhân thân cũng như quyền đối với tài sản đã chia theo thừa kế.
Vụ việc dân sự có dấu hiệu hình sự: Chỉ khởi kiện dân sự được không?
Mình vô tình đọc được thắc mắc từ một tài khoản trên mạng xã hội về vấn đề cá nhân nhận 50.000.000 đồng để “hứa chạy việc vào biên chế” (có viết giấy nhận tiền) nhưng không có kết quả. Sau đó, “bên nhờ vả” muốn đòi lại tiền nhưng cá nhân nhận tiền hẹn lần lượt không trả. Vậy có thể khởi kiện dân sự được không? Câu hỏi đặt ra trong tình huống này là cá nhân nhận tiền để “chạy biên chế” kia có thể bị khởi kiện dân sự thay vì truy cứu trách nhiệm hình sự được không? Xét riêng về hành vi “nhận tiền chạy việc”, tùy vào các tình tiết thực tế để xác định hành vi này đủ khả năng cấu thành tội phạm hoặc chỉ bị xử lý dân sự. Về nguyên tắc, nguyên đơn khi bị xâm hại về quyền lợi khởi kiện dân sự; tuy nhiên, căn cứ vào điểm d khoản 1 Bộ luật tố tụng dân sự 2015 quy định về một trong những lý do để tạm đình chỉ giải quyết vụ án dân sự, cụ thể như sau: Cần đợi kết quả giải quyết vụ án khác có liên quan hoặc sự việc được pháp luật quy định là phải do cơ quan, tổ chức khác giải quyết trước mới giải quyết được vụ án Như vậy, bạn có thể khởi kiện theo án dân sự; tuy nhiên, Tòa án có thể tạm đình chỉ giải quyết nếu có đủ căn cứ cho rằng hành vi vi phạm này đủ yếu tố cấu thành một tội khác theo quy định pháp luật, cụ thể ở đây là có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Riêng đối với trường hợp “nhận tiền chạy việc” nhưng không thành công, sau đó không chịu hoàn trả tiền có thể bị xử lý theo các hướng sau đây: *Truy cứu trách nhiệm hình sự Hành vi “nhận tiền chạy việc” có thể bị truy cứu theo các tội phạm quy định tại Điều 174, Điều 175, Điều 354 Bộ luật hình sự 2015, xem chi tiết TẠI ĐÂY Bên cạnh đó, người nào trực tiếp hay qua trung gian đã đưa hoặc sẽ đưa cho người có chức vụ, quyền hạn hoặc người khác bất kỳ lợi ích nào để người có chức vụ, quyền hạn tiến hành “chạy biên chế” thì có thể bị truy cứu tội Đưa hối lộ theo quy định tại Điều 364 Bộ luật hình sự 2015. *Xử lý dưới góc độ pháp luật dân sự Xét ở góc độ tình huống này là một giao dịch dân sự bình thường, có thế thấy, giao dịch dân sự này là vô hiệu theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 117 Bộ luật dân sự 2015. Hậu quả pháp lý của giao dịch dân sự vô hiệu được quy định tại Điều 131 Bộ luật dân sự 2015, cụ thể như sau: 1. Giao dịch dân sự vô hiệu không làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự của các bên kể từ thời điểm giao dịch được xác lập. 2. Khi giao dịch dân sự vô hiệu thì các bên khôi phục lại tình trạng ban đầu, hoàn trả cho nhau những gì đã nhận. Như vậy có thể thấy, khi giao dịch dân sự vô hiệu thì các bên khôi phục lại tình trạng ban đầu, hoàn trả cho nhau những gì đã nhận; có nghĩa là bên nhận tiền có nghĩa vụ phải hoàn trả số tiền đã nhận lại cho bên đưa tiền. Nếu bên nhận tiền từ chối hoàn trả, có thể bị khởi kiện vụ án dân sự kèm theo đó là các giấy tờ chứng minh việc giao nhận tiền, cụ thể trong tình huống trên là Giấy nhận tiền mà hai bên đã ký kết.
Hậu quả pháp lý khi người thân mượn thẻ BHYT đi khám, chữa bệnh
Thẻ bảo hiểm y tế được cấp cho người tham gia bảo hiểm y tế và làm căn cứ để được hưởng các quyền lợi về bảo hiểm y tế theo quy định và mỗi người chỉ được cấp một thẻ bảo hiểm y tế. Vậy có được cho người thân mượn thẻ BHYT để khám, chữa bệnh hay không? nếu không thì hậu quả pháp lý của hành vi này nếu phát hiện thì bị xử lý như thế nào? mời các bạn tham khảo bài viết sau: 1. Có được cho người thân mượn thẻ BHYT để tham gia khám bệnh không? Căn cứ Điều 37 Luật BHYT 2008 quy định như sau: “Điều 37. Nghĩa vụ của người tham gia bảo hiểm y tế 1. Đóng bảo hiểm y tế đầy đủ, đúng thời hạn. 2. Sử dụng thẻ bảo hiểm y tế đúng mục đích, không cho người khác mượn thẻ bảo hiểm y tế. ….” Như vậy, Luật đã quy định rất rõ thẻ BHYT được cấp cho người tham gia và đủ điều kiện hưởng. Do đó, phải sử dụng đúng mục đích không cho người khác mượn thẻ BHYT (Người khác ở đây bao gồm cả người thân) 2. Hậu quả pháp lý khi cho người thân mượn thẻ BHYT để khám bệnh. * Về hành chính: Căn cứ khoản 2 Điều 65 Nghị định 176/2013/NĐ-CP quy định như sau: “2. Phạt tiền đối với hành vi cho người khác mượn thẻ bảo hiểm y tế hoặc sử dụng thẻ bảo hiểm y tế của người khác trong khám bệnh, chữa bệnh theo một trong các mức sau đây: a) Từ 500.000 đồng đến 1.000.000 đồng đối với trường hợp vi phạm nhưng chưa làm thiệt hại đến quỹ bảo hiểm y tế; b) Từ 1.000.000 đồng đến 2.000.000 đồng đối với trường hợp vi phạm làm thiệt hại đến quỹ bảo hiểm y tế” Theo đó, hành vi cho người khác mượn thẻ bảo hiểm để đi khám chữa bệnh là trái với quy định của pháp luật nếu vi phạm có thể sẽ bị xử phạt vi phạm hành chính từ 500.000 đồng đến 2.000.000 đồng. Ngoài ra, người vi phạm phải thực hiện việc khắc phục hậu quả như sau: - Buộc hoàn trả số tiền đã được quỹ bảo hiểm y tế chi trả vào tài khoản thu của quỹ bảo hiểm y tế đối với hành vi làm thiệt hại đến quỹ bảo hiểm y tế; - Buộc người sử dụng thẻ bảo hiểm y tế hoàn trả toàn bộ chi phí khám bệnh, chữa bệnh đã được quỹ bảo hiểm y tế chi trả vào tài khoản thu của quỹ bảo hiểm y tế đối với hành vi quy định tại làm thiệt hại đến quỹ bảo hiểm y tế; * Về Hình sự: Căn cứ Điều 215 Bộ luật hình sự 2015 quy định thì người nào sử dụng thẻ BHYT của người khác trong khám chữa bệnh hưởng chế độ BHYT trái quy định thì bị phạt từ 20 đến 100 triệu đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 2 năm hoặc phạt tù từ 3 tháng đến 2 năm. Bên cạnh đó, nếu phạm tội có tổ chức, tính chuyên nghiệp hoặc sử dụng thủ đoạn tinh vi xảo quyệt thì người phạm tội cũng có thể bị phạt tiền từ 100 đến 200 triệu đồng hoặc phạt tù từ 1 đến 5 năm. - Chiếm đoạt hoặc gây thiệt hại từ 500 triệu đồng trở lên người vi phạm có thể bị phạt tù từ 5 đến 10 năm. - Ngoài ra, Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 10 đến 100 triệu đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm. Cụ thể quy định như sau: "1. Người nào thực hiện một trong các hành vi sau đây, chiếm đoạt tiền bảo hiểm y tế từ 10.000.000 đồng đến dưới 100.000.000 đồng hoặc gây thiệt hại từ 20.000.000 đồng đến dưới 200.000.000 đồng mà không thuộc trường hợp quy định tại một trong các điều 174, 353 và 355 của Bộ luật này, thì bị phạt tiền từ 20.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 02 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 02 năm: a) Lập hồ sơ bệnh án, kê đơn thuốc khống hoặc kê tăng số lượng hoặc thêm loại thuốc, vật tư y tế, dịch vụ kỹ thuật, chi phí giường bệnh và các chi phí khác mà thực tế người bệnh không sử dụng; b) Giả mạo hồ sơ, thẻ bảo hiểm y tế hoặc sử dụng thẻ bảo hiểm y tế được cấp khống, thẻ bảo hiểm y tế giả, thẻ đã bị thu hồi, thẻ bị sửa chữa, thẻ bảo hiểm y tế của người khác trong khám chữa bệnh hưởng chế độ bảo hiểm y tế trái quy định" 2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tiền từ 100.000.000 đồng đến 200.000.000 đồng hoặc phạt tù từ 01 năm đến 05 năm: a) Có tổ chức; b) Có tính chất chuyên nghiệp; c) Chiếm đoạt tiền bảo hiểm y tế từ 100.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng; d) Gây thiệt hại từ 200.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng; đ) Dùng thủ đoạn tinh vi, xảo quyệt; e) Tái phạm nguy hiểm. 3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 05 năm đến 10 năm: a) Chiếm đoạt tiền bảo hiểm y tế 500.000.000 đồng trở lên; b) Gây thiệt hại 500.000.000 đồng trở lên. 4. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm.
Hậu quả pháp lý khi ký kết hợp đồng
Trong công ty Luật hợp danh A có thành viên hợp danh D.Tại công ty này có xảy ra các sự kiện pháp lý sau: Luật sư D (thành viên hợp danh của công ty) đã ký kết hai hợp đồng tư vấn pháp luật: một hợp đồng ký nhân danh công ty với mức phí là 500 triệu đồng và một hợp đồng ký với tư cách cá nhân luật sư D với mức phí 300 triệu đồng. Hai hợp đồng này luật sư D đều tự mình ký và thực hiện. cho biết hậu quả pháp lý đối với hai hợp đồng trên?