Hoãn phiên toà phúc thẩm mẹ "nữ sinh giao gà"
Sáng 19.3, TAND cấp cao tại Hà Nội mở lại phiên tòa phúc thẩm xét xử bị cáo Trần Thị Hiền (49 tuổi, trú tại Điện Biên) về tội mua bán trái phép chất ma túy. Bà Hiền được biết đến là mẹ của "nữ sinh giao gà" - nạn nhân trong vụ án giết người từng gây chấn động dư luận tại tỉnh Điện Biên. Tuy nhiên, tại phiên tòa bà Hiền tiếp tục kêu oan và đề nghị hoãn nhưng không được HĐXX chấp nhận. Qua quá trình xét hỏi, bà bị ngất và đã được hoãn phiên tòa. Như vậy, thẩm quyền xét xử phúc thẩm vụ án hình sự là của toà nào và các trường hợp nào sẽ được hoãn phiên tòa hình sự? Thẩm quyền xét xử phúc thẩm vụ án hình sự Tòa án có thẩm quyền xét xử phúc thẩm theo Điều 344 Bộ luật TTHS 2015 quy định như sau: - Tòa án nhân dân cấp tỉnh có thẩm quyền xét xử phúc thẩm bản án, quyết định của Tòa án nhân dân cấp huyện bị kháng cáo, kháng nghị. - Tòa án nhân dân cấp cao có thẩm quyền xét xử phúc thẩm bản án, quyết định của Tòa án nhân dân cấp tỉnh thuộc phạm vi thẩm quyền theo lãnh thổ bị kháng cáo, kháng nghị. - Tòa án quân sự cấp quân khu có thẩm quyền xét xử phúc thẩm bản án, quyết định của Tòa án quân sự khu vực bị kháng cáo, kháng nghị. - Tòa án quân sự trung ương có thẩm quyền xét xử phúc thẩm bản án, quyết định của Tòa án quân sự cấp quân khu bị kháng cáo, kháng nghị. Trong vụ án trên, năm 2019, bà Trần Thị Hiền bị xét xử sơ thẩm, TAND tỉnh Điện Biên tuyên 20 năm tù về tội mua bán trái phép chất ma túy. Bà bị cáo buộc mua 2 bánh heroin từ Bùi Văn Công, với giá 320 triệu đồng. Tháng 5/2022, TAND cấp cao tại Hà Nội mở phiên tòa phúc thẩm, xét đơn kháng cáo kêu oan của bà Hiền. Tòa phúc thẩm tuyên hủy một phần bản án sơ thẩm liên quan đến phần tội danh và hình phạt của bị cáo này, chuyển hồ sơ cho Viện KSND tỉnh Điện Biên điều tra lại. 1 năm sau, Chánh án TAND tối cao ban hành quyết định kháng nghị giám đốc thẩm, đề nghị Hội đồng Thẩm phán TAND tối cao xét xử giám đốc thẩm theo hướng hủy một phần bản án phúc thẩm của TAND cấp cao tại Hà Nội về trách nhiệm hình sự của bị cáo Trần Thị Hiền, để xét xử phúc thẩm lại. Sau khi được kháng nghị, Hội đồng Thẩm phán TAND tối cao ra quyết định giám đốc thẩm, tuyên hủy một phần bản án phúc thẩm của TAND cấp cao tại Hà Nội, yêu cầu xét xử phúc thẩm lại đối với bị cáo Hiền. Như vậy, bản án phúc thẩm của TAND cấp cao tại Hà Nội đã được hủy để xét xử lại theo Điều 391 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015. Cụ thể quy định này như sau: Hội đồng giám đốc thẩm hủy một phần hoặc toàn bộ bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật để điều tra lại hoặc xét xử lại nếu có một trong các căn cứ quy định tại Điều 371 của Bộ luật này. Nếu hủy để xét xử lại thì tùy trường hợp, Hội đồng giám đốc thẩm có thể quyết định xét xử lại từ cấp sơ thẩm hoặc cấp phúc thẩm. Hội đồng Thẩm phán TAND tối cao đã yêu cầu TAND cấp cao tại Hà Nội xét xử lại sau phiên toà phúc thẩm tháng 5/2022, nên thẩm quyền xét xử phúc thẩm lại thuộc về TAND cấp cao tại Hà Nội. Các trường hợp được hoãn phiên tòa Hình sự Trong vụ án trên, theo Báo Thanh Niên đưa tin bị cáo Trần Thị Hiền trước đó đề nghị hoãn phiên tòa do vắng mặt tất cả các luật sư bào chữa cho mình và sức khỏe của bị cáo không được tốt. Các luật sư của bà Hiền trước đó đều có đơn xin vắng mặt và đề nghị hoãn phiên tòa. Sau khi hội ý, hội đồng xét xử không đồng ý với các lý do đề nghị hoãn phiên tòa và vẫn tiến hành xét hỏi. Quá trình xét hỏi, mẹ nữ sinh giao gà bị ngất xỉu, được kiểm tra y tế. Do các điều kiện không đảm bảo, cuối cùng vị chủ tọa đã phải thông báo hoãn phiên xử và chưa ấn định thời gian mở lại. Quy định của pháp luật về hoãn phiên toà hình sự Theo Điều 297 Bộ luật TTHS 2015, Tòa án hoãn phiên tòa và xét xử lại từ đầu khi thuộc một trong các trường hợp: 1) Có một trong những căn cứ quy định tại các điều 52, 53, 288, 289, 290, 291, 292, 293, 294 và 295 của Bộ luật TTHS 2015, cụ thể như sau: - Trường hợp phải thay đổi Kiểm sát viên tại phiên tòa thì Hội đồng xét xử ra quyết định hoãn phiên tòa. - Trường hợp phải thay đổi Thẩm phán, Hội thẩm tại phiên tòa thì Hội đồng xét xử ra quyết định hoãn phiên tòa. - Trường hợp không có Thẩm phán, Hội thẩm dự khuyết để thay thế hoặc phải thay đổi chủ tọa phiên tòa mà không có Thẩm phán để thay thế theo quy định thì phải hoãn phiên tòa. - Trường hợp Kiểm sát viên bị thay đổi hoặc không thể tiếp tục thực hành quyền công tố, kiểm sát xét xử mà không có Kiểm sát viên dự khuyết để thay thế thì Hội đồng xét xử hoãn phiên tòa. - Nếu bị cáo vắng mặt vì lý do bất khả kháng hoặc do trở ngại khách quan thì phải hoãn phiên tòa. - Sự có mặt của người bào chữa: + Trường hợp người bào chữa vắng mặt lần thứ nhất vì lý do bất khả kháng hoặc do trở ngại khách quan thì Tòa án phải hoãn phiên tòa, trừ trường hợp bị cáo đồng ý xét xử vắng mặt người bào chữa. + Trường hợp chỉ định người bào chữa quy định tại khoản 1 Điều 76 của Bộ luật này mà người bào chữa vắng mặt thì Hội đồng xét xử phải hoãn phiên tòa, trừ trường hợp bị cáo hoặc người đại diện của bị cáo đồng ý xét xử vắng mặt người bào chữa. - Nếu bị hại, đương sự hoặc người đại diện của họ vắng mặt thì tùy trường hợp, Hội đồng xét xử quyết định hoãn phiên tòa hoặc vẫn tiến hành xét xử - Nếu người làm chứng về những vấn đề quan trọng của vụ án vắng mặt thì tùy trường hợp, Hội đồng xét xử quyết định hoãn phiên tòa hoặc vẫn tiến hành xét xử. - Nếu người giám định, người định giá tài sản vắng mặt thì tùy trường hợp, Hội đồng xét xử quyết định hoãn phiên tòa hoặc vẫn tiến hành xét xử. - Trường hợp người phiên dịch, người dịch thuật vắng mặt mà không có người khác thay thế thì Hội đồng xét xử quyết định hoãn phiên tòa. 2) Cần phải xác minh, thu thập bổ sung chứng cứ, tài liệu, đồ vật mà không thể thực hiện ngay tại phiên tòa; 3) Cần tiến hành giám định bổ sung, giám định lại; 4) Cần định giá tài sản, định giá lại tài sản. Như vậy, việc hoãn phiên toà hình sự cần phải đảm bảo đúng quy định pháp luật để đảm báo quá trình tố tụng được diễn ra một cách công bằng, khách quan nhất.
Về nguyên tắc, phiên toà phải được diễn ra liên tục kể từ khi bắt đầu cho tới khi kết thúc. Tuy nhiên sẽ có những trường hợp bất khả kháng hay vì lý do khách quan mà phiên toà có thể kéo dài đến gần 09 tháng hoặc hoãn đến hơn 08 lần trên thực tế. Trường hợp đương sự bị sức khoẻ kém như bạn gái trên thì có thể sẽ xảy ra trường hợp: - Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ nhất, đương sự hoặc người đại diện của họ, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự phải có mặt tại phiên tòa; nếu có người vắng mặt thì Hội đồng xét xử phải hoãn phiên tòa, trừ trường hợp người đó có đơn đề nghị xét xử vắng mặt (khoản 1 Điều 227 Bộ Luật Tố tụng dân sự 2015). - Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai, đương sự hoặc người đại diện của họ, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự phải có mặt tại phiên tòa, trừ trường hợp họ có đơn đề nghị xét xử vắng mặt; nếu vắng mặt vì sự kiện bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan thì Tòa án có thể hoãn phiên tòa, nếu không vì sự kiện bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự (khoản 2 Điều 227 của Bộ luật Tố tụng dân sự 2015). Vậy nếu bạn gái trên lấy lý do sức khoẻ thì có thể hoãn đến 2 lần. Ngoài ra, nếu có sự thay đổi về phân công Thẩm phán, Hội đồng nhân dân, Kiểm sát viên hay có đơn xin hoãn phiên toà, xin vắng mặt của các nhân chứng hay đương sự khác nếu hợp lệ thì phiên toà cũng sẽ bị hoãn thêm. Xem thêm thông tin chi tiết tại Bộ Luật Tố tụng Dân sự 2015.
Dấu hiệu phân biệt "hoãn phiên toà" và "tạm ngừng phiên toà" theo BLTTHS 2015
Hoãn và tạm ngừng phiên toà là hai khả năng khác nhau có thể xảy ra tại phiên toà nhưng việc hiểu và áp dụng hai trường hợp này trong thực tiễn không được phân biệt rõ ràng. Bản chất của hai khái niệm này là khác nhau, tuy nhiên về mặt hệ quả pháp lý thì giống nhau, nghĩa là là đều làm cho vụ án không được xét xử trong một thời hạn nhất định. Do vậy, trong nhiều trường hợp còn gây nhầm lẫn nên việc phân biệt hai thuật ngữ này vô cùng quan trọng trong hoạt động tố tụng, nhất là trong tố tụng hình sự. Dấu hiệu Hoãn phiên toà Tạm ngừng phiên toà về căn cứ phát sinh Về xét xử sơ thẩm, tại Điều 297 BLTTHS năm 2015 quy định Tòa án hoãn phiên tòa khi thuộc một trong các trường hợp sau: - Phải thay đổi Kiểm sát viên tại phiên tòa thì Hội đồng xét xử ra quyết định hoãn phiên tòa ( khoản 2 Điều 52); phải thay đổi Thẩm phán, Hội thẩm tại phiên tòa thì Hội đồng xét xử ra quyết định hoãn phiên tòa (khoản 2 Điều 53); không có Thẩm phán, Hội thẩm dự khuyết để thay thế hoặc phải thay đổi chủ tọa phiên tòa mà không có Thẩm phán để thay thế theo quy định tại khoản 2 Điều 288 BLTTHS thì phải hoãn phiên tòa (khoản 3 Điều 288); Kiểm sát viên bị thay đổi hoặc không thể tiếp tục thực hành quyền công tố, kiểm sát xét xử mà không có Kiểm sát viên dự khuyết để thay thế thì Hội đồng xét xử hoãn phiên tòa (khoản 2 Điều 289); bị cáo vắng mặt vì lý do bất khả kháng hoặc do trở ngại khách quan thì phải hoãn phiên tòa (khoản 1 Điều 290); người bào chữa vắng mặt lần thứ nhất vì lý do bất khả kháng hoặc do trở ngại khách quan thì Tòa án phải hoãn phiên tòa, trừ trường hợp bị cáo đồng ý xét xử vắng mặt người bào chữa (Điều 291); bị hại, đương sự hoặc người đại diện của họ vắng mặt thì tùy trường hợp, Hội đồng xét xử quyết định hoãn phiên tòa hoặc vẫn tiến hành xét xử (Điều 292); người làm chứng về những vấn đề quan trọng của vụ án vắng mặt thì tùy trường hợp, Hội đồng xét xử quyết định hoãn phiên tòa hoặc vẫn tiến hành xét xử (khoản 1 Điều 293); người giám định, người định giá tài sản vắng mặt thì tùy trường hợp, Hội đồng xét xử quyết định hoãn phiên tòa hoặc vẫn tiến hành xét xử (khoản 2 Điều 294); người phiên dịch, người dịch thuật vắng mặt mà không có người khác thay thế thì Hội đồng xét xử quyết định hoãn phiên tòa (khoản 2 Điều 295); - Cần phải xác minh, thu thập bổ sung chứng cứ, tài liệu, đồ vật mà không thể thực hiện ngay tại phiên tòa (điểm b khoản 1 Điều 297); - Cần tiến hành giám định bổ sung, giám định lại (điểm c khoản 1 Điều 297); - Cần định giá tài sản, định giá lại tài sản. Trường hợp hoãn phiên tòa thì vụ án phải được xét xử lại từ đầu (điểm d khoản 1 Điều 297). Về xét xử phúc thẩm, tại Điều 352 BLTTHS năm 2015 quy định Tòa án cấp phúc thẩm chỉ được hoãn phiên tòa khi thuộc một trong các trường hợp sau: - Phải thay đổi Kiểm sát viên tại phiên tòa thì Hội đồng xét xử ra quyết định hoãn phiên tòa ( khoản 2 Điều 52); phải thay đổi Thẩm phán, Hội thẩm tại phiên tòa thì Hội đồng xét xử ra quyết định hoãn phiên tòa (khoản 2 Điều 53); không có Thẩm phán dự khuyết hoặc phải thay đổi chủ tọa phiên tòa mà không có Thẩm phán để thay thế thì phải hoãn phiên tòa (khoản 3 Điều 349); Kiểm sát viên bị thay đổi hoặc không thể tiếp tục thực hành quyền công tố, kiểm sát xét xử mà không có Kiểm sát viên dự khuyết để thay thế thì Hội đồng xét xử hoãn phiên tòa (khoản 2 Điều 350); người bào chữa vắng mặt lần thứ nhất vì lý do bất khả kháng hoặc do trở ngại khách quan thì phải hoãn phiên tòa, trừ trường hợp bị cáo đồng ý xét xử vắng mặt người bào chữa (Điều 351); - Cần phải xác minh, thu thập bổ sung chứng cứ, tài liệu, đồ vật mà không thể thực hiện được ngay tại phiên tòa. Trường hợp hoãn phiên tòa thì vụ án phải được xét xử lại từ đầu (điểm b khoản 1 Điều 352). Về xử xử sơ thẩm, tại Điều 251 của BLTTHS năm 2015 quy định việc xét xử có thể tạm ngừng khi thuộc một trong các trường hợp: - Cần phải xác minh, thu thập, bổ sung chứng cứ, tài liệu, đồ vật mà không thể thực hiện ngay tại phiên tòa và có thể thực hiện trong thời hạn 05 ngày, kể từ ngày tạm ngừng phiên tòa (điểm a khoản 1 Điều 251); - Do tình trạng sức khỏe, sự kiện bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan mà người có thẩm quyền tiến hành tố tụng hoặc người tham gia tố tụng không thể tiếp tục tham gia phiên tòa nhưng họ có thể tham gia lại phiên tòa trong thời gian 05 ngày, kể từ ngày tạm ngừng phiên tòa (điểm b khoản 1 Điều 251); - Vắng mặt Thư ký Tòa án tại phiên tòa (điểm c khoản 1 Điều 251). Còn trong xét xử phúc thẩm, tạm ngừng phiên tòa chỉ phát sinh trong trường hợp Thư ký Tòa án bị thay đổi hoặc không thể tiếp tục tham gia phiên tòa, nếu không có người thay thế thì tạm ngừng phiên tòa (khoản 4 Điều 349 BLTTHS năm 2015). Về thời điểm Phát sinh vào thời điểm trước khi bắt đầu phiên tòa sơ thẩm hoặc phúc thẩm. Tòa án chỉ có thể hoãn phiên tòa khi có những căn cứ được quy định tại Điều 297 và Điều 352 BLTTHS năm 2015 như đã nêu ở phần căn cứ phát sinh nói trên. Chỉ phát sinh vào thời điểm phiên tòa đang được xét xử và trong các trường hợp được quy định tại khoản 1 Điều 251 BLTTHS năm 2015. Về thời hạn Thời hạn “hoãn phiên tòa” sơ thẩm và phúc thẩm không được quá 30 ngày kể từ ngày ra quyết định hoãn phiên tòa (khoản 2 Điều 297 BLTTHS năm 2015). “tạm ngừng phiên tòa” có thời hạn ngắn hơn, không quá 05 ngày kể từ ngày quyết định tạm ngừng phiên tòa. Hết thời hạn tạm ngừng phiên tòa, việc xét xử vụ án được tiếp tục. Trường hợp không thể tiếp tục xét xử vụ án thì phải hoãn phiên tòa. Về hình thức Phải ra Quyết định hoãn phiên tòa băng văn bản và Quyết định hoãn phiên tòa phải được chủ tọa phiên tòa thay mặt Hội đồng xét xử ký tên. Trường hợp chủ tọa phiên tòa vắng mặt hoặc bị thay đổi thì Chánh án Tòa án ra quyết định hoãn phiên tòa (khoản 4 Điều 297). Quyết định hoãn phiên tòa phải được thông báo ngay cho những người tham gia tố tụng có mặt tại phiên tòa; gửi cho Viện kiểm sát cùng cấp và những người vắng mặt tại phiên tòa trong thời hạn 02 ngày kể từ ngày ra quyết định. Quyết định hoãn phiên tòa có các nội dung chính sau: Ngày, tháng, năm ra quyết định; Tên Tòa án và họ tên Thẩm phán, Hội thẩm, Thư ký Tòa án; Họ tên Kiểm sát viên thực hành quyền công tố, kiểm sát xét xử tại phiên tòa; Vụ án được đưa ra xét xử; Lý do của việc hoãn phiên tòa; Thời gian, địa điểm mở lại phiên tòa (khoản 3 Điều 297 BLTTHS năm 2015). Hội đồng Thẩm phán không ra quyết định tạm ngừng phiên tòa bằng văn bản mà việc tạm ngừng phiên tòa chỉ phải ghi vào biên bản phiên tòa và thông báo cho những người tham gia tố tụng biết.
Hoãn phiên toà phúc thẩm mẹ "nữ sinh giao gà"
Sáng 19.3, TAND cấp cao tại Hà Nội mở lại phiên tòa phúc thẩm xét xử bị cáo Trần Thị Hiền (49 tuổi, trú tại Điện Biên) về tội mua bán trái phép chất ma túy. Bà Hiền được biết đến là mẹ của "nữ sinh giao gà" - nạn nhân trong vụ án giết người từng gây chấn động dư luận tại tỉnh Điện Biên. Tuy nhiên, tại phiên tòa bà Hiền tiếp tục kêu oan và đề nghị hoãn nhưng không được HĐXX chấp nhận. Qua quá trình xét hỏi, bà bị ngất và đã được hoãn phiên tòa. Như vậy, thẩm quyền xét xử phúc thẩm vụ án hình sự là của toà nào và các trường hợp nào sẽ được hoãn phiên tòa hình sự? Thẩm quyền xét xử phúc thẩm vụ án hình sự Tòa án có thẩm quyền xét xử phúc thẩm theo Điều 344 Bộ luật TTHS 2015 quy định như sau: - Tòa án nhân dân cấp tỉnh có thẩm quyền xét xử phúc thẩm bản án, quyết định của Tòa án nhân dân cấp huyện bị kháng cáo, kháng nghị. - Tòa án nhân dân cấp cao có thẩm quyền xét xử phúc thẩm bản án, quyết định của Tòa án nhân dân cấp tỉnh thuộc phạm vi thẩm quyền theo lãnh thổ bị kháng cáo, kháng nghị. - Tòa án quân sự cấp quân khu có thẩm quyền xét xử phúc thẩm bản án, quyết định của Tòa án quân sự khu vực bị kháng cáo, kháng nghị. - Tòa án quân sự trung ương có thẩm quyền xét xử phúc thẩm bản án, quyết định của Tòa án quân sự cấp quân khu bị kháng cáo, kháng nghị. Trong vụ án trên, năm 2019, bà Trần Thị Hiền bị xét xử sơ thẩm, TAND tỉnh Điện Biên tuyên 20 năm tù về tội mua bán trái phép chất ma túy. Bà bị cáo buộc mua 2 bánh heroin từ Bùi Văn Công, với giá 320 triệu đồng. Tháng 5/2022, TAND cấp cao tại Hà Nội mở phiên tòa phúc thẩm, xét đơn kháng cáo kêu oan của bà Hiền. Tòa phúc thẩm tuyên hủy một phần bản án sơ thẩm liên quan đến phần tội danh và hình phạt của bị cáo này, chuyển hồ sơ cho Viện KSND tỉnh Điện Biên điều tra lại. 1 năm sau, Chánh án TAND tối cao ban hành quyết định kháng nghị giám đốc thẩm, đề nghị Hội đồng Thẩm phán TAND tối cao xét xử giám đốc thẩm theo hướng hủy một phần bản án phúc thẩm của TAND cấp cao tại Hà Nội về trách nhiệm hình sự của bị cáo Trần Thị Hiền, để xét xử phúc thẩm lại. Sau khi được kháng nghị, Hội đồng Thẩm phán TAND tối cao ra quyết định giám đốc thẩm, tuyên hủy một phần bản án phúc thẩm của TAND cấp cao tại Hà Nội, yêu cầu xét xử phúc thẩm lại đối với bị cáo Hiền. Như vậy, bản án phúc thẩm của TAND cấp cao tại Hà Nội đã được hủy để xét xử lại theo Điều 391 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015. Cụ thể quy định này như sau: Hội đồng giám đốc thẩm hủy một phần hoặc toàn bộ bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật để điều tra lại hoặc xét xử lại nếu có một trong các căn cứ quy định tại Điều 371 của Bộ luật này. Nếu hủy để xét xử lại thì tùy trường hợp, Hội đồng giám đốc thẩm có thể quyết định xét xử lại từ cấp sơ thẩm hoặc cấp phúc thẩm. Hội đồng Thẩm phán TAND tối cao đã yêu cầu TAND cấp cao tại Hà Nội xét xử lại sau phiên toà phúc thẩm tháng 5/2022, nên thẩm quyền xét xử phúc thẩm lại thuộc về TAND cấp cao tại Hà Nội. Các trường hợp được hoãn phiên tòa Hình sự Trong vụ án trên, theo Báo Thanh Niên đưa tin bị cáo Trần Thị Hiền trước đó đề nghị hoãn phiên tòa do vắng mặt tất cả các luật sư bào chữa cho mình và sức khỏe của bị cáo không được tốt. Các luật sư của bà Hiền trước đó đều có đơn xin vắng mặt và đề nghị hoãn phiên tòa. Sau khi hội ý, hội đồng xét xử không đồng ý với các lý do đề nghị hoãn phiên tòa và vẫn tiến hành xét hỏi. Quá trình xét hỏi, mẹ nữ sinh giao gà bị ngất xỉu, được kiểm tra y tế. Do các điều kiện không đảm bảo, cuối cùng vị chủ tọa đã phải thông báo hoãn phiên xử và chưa ấn định thời gian mở lại. Quy định của pháp luật về hoãn phiên toà hình sự Theo Điều 297 Bộ luật TTHS 2015, Tòa án hoãn phiên tòa và xét xử lại từ đầu khi thuộc một trong các trường hợp: 1) Có một trong những căn cứ quy định tại các điều 52, 53, 288, 289, 290, 291, 292, 293, 294 và 295 của Bộ luật TTHS 2015, cụ thể như sau: - Trường hợp phải thay đổi Kiểm sát viên tại phiên tòa thì Hội đồng xét xử ra quyết định hoãn phiên tòa. - Trường hợp phải thay đổi Thẩm phán, Hội thẩm tại phiên tòa thì Hội đồng xét xử ra quyết định hoãn phiên tòa. - Trường hợp không có Thẩm phán, Hội thẩm dự khuyết để thay thế hoặc phải thay đổi chủ tọa phiên tòa mà không có Thẩm phán để thay thế theo quy định thì phải hoãn phiên tòa. - Trường hợp Kiểm sát viên bị thay đổi hoặc không thể tiếp tục thực hành quyền công tố, kiểm sát xét xử mà không có Kiểm sát viên dự khuyết để thay thế thì Hội đồng xét xử hoãn phiên tòa. - Nếu bị cáo vắng mặt vì lý do bất khả kháng hoặc do trở ngại khách quan thì phải hoãn phiên tòa. - Sự có mặt của người bào chữa: + Trường hợp người bào chữa vắng mặt lần thứ nhất vì lý do bất khả kháng hoặc do trở ngại khách quan thì Tòa án phải hoãn phiên tòa, trừ trường hợp bị cáo đồng ý xét xử vắng mặt người bào chữa. + Trường hợp chỉ định người bào chữa quy định tại khoản 1 Điều 76 của Bộ luật này mà người bào chữa vắng mặt thì Hội đồng xét xử phải hoãn phiên tòa, trừ trường hợp bị cáo hoặc người đại diện của bị cáo đồng ý xét xử vắng mặt người bào chữa. - Nếu bị hại, đương sự hoặc người đại diện của họ vắng mặt thì tùy trường hợp, Hội đồng xét xử quyết định hoãn phiên tòa hoặc vẫn tiến hành xét xử - Nếu người làm chứng về những vấn đề quan trọng của vụ án vắng mặt thì tùy trường hợp, Hội đồng xét xử quyết định hoãn phiên tòa hoặc vẫn tiến hành xét xử. - Nếu người giám định, người định giá tài sản vắng mặt thì tùy trường hợp, Hội đồng xét xử quyết định hoãn phiên tòa hoặc vẫn tiến hành xét xử. - Trường hợp người phiên dịch, người dịch thuật vắng mặt mà không có người khác thay thế thì Hội đồng xét xử quyết định hoãn phiên tòa. 2) Cần phải xác minh, thu thập bổ sung chứng cứ, tài liệu, đồ vật mà không thể thực hiện ngay tại phiên tòa; 3) Cần tiến hành giám định bổ sung, giám định lại; 4) Cần định giá tài sản, định giá lại tài sản. Như vậy, việc hoãn phiên toà hình sự cần phải đảm bảo đúng quy định pháp luật để đảm báo quá trình tố tụng được diễn ra một cách công bằng, khách quan nhất.
Về nguyên tắc, phiên toà phải được diễn ra liên tục kể từ khi bắt đầu cho tới khi kết thúc. Tuy nhiên sẽ có những trường hợp bất khả kháng hay vì lý do khách quan mà phiên toà có thể kéo dài đến gần 09 tháng hoặc hoãn đến hơn 08 lần trên thực tế. Trường hợp đương sự bị sức khoẻ kém như bạn gái trên thì có thể sẽ xảy ra trường hợp: - Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ nhất, đương sự hoặc người đại diện của họ, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự phải có mặt tại phiên tòa; nếu có người vắng mặt thì Hội đồng xét xử phải hoãn phiên tòa, trừ trường hợp người đó có đơn đề nghị xét xử vắng mặt (khoản 1 Điều 227 Bộ Luật Tố tụng dân sự 2015). - Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai, đương sự hoặc người đại diện của họ, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự phải có mặt tại phiên tòa, trừ trường hợp họ có đơn đề nghị xét xử vắng mặt; nếu vắng mặt vì sự kiện bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan thì Tòa án có thể hoãn phiên tòa, nếu không vì sự kiện bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự (khoản 2 Điều 227 của Bộ luật Tố tụng dân sự 2015). Vậy nếu bạn gái trên lấy lý do sức khoẻ thì có thể hoãn đến 2 lần. Ngoài ra, nếu có sự thay đổi về phân công Thẩm phán, Hội đồng nhân dân, Kiểm sát viên hay có đơn xin hoãn phiên toà, xin vắng mặt của các nhân chứng hay đương sự khác nếu hợp lệ thì phiên toà cũng sẽ bị hoãn thêm. Xem thêm thông tin chi tiết tại Bộ Luật Tố tụng Dân sự 2015.
Dấu hiệu phân biệt "hoãn phiên toà" và "tạm ngừng phiên toà" theo BLTTHS 2015
Hoãn và tạm ngừng phiên toà là hai khả năng khác nhau có thể xảy ra tại phiên toà nhưng việc hiểu và áp dụng hai trường hợp này trong thực tiễn không được phân biệt rõ ràng. Bản chất của hai khái niệm này là khác nhau, tuy nhiên về mặt hệ quả pháp lý thì giống nhau, nghĩa là là đều làm cho vụ án không được xét xử trong một thời hạn nhất định. Do vậy, trong nhiều trường hợp còn gây nhầm lẫn nên việc phân biệt hai thuật ngữ này vô cùng quan trọng trong hoạt động tố tụng, nhất là trong tố tụng hình sự. Dấu hiệu Hoãn phiên toà Tạm ngừng phiên toà về căn cứ phát sinh Về xét xử sơ thẩm, tại Điều 297 BLTTHS năm 2015 quy định Tòa án hoãn phiên tòa khi thuộc một trong các trường hợp sau: - Phải thay đổi Kiểm sát viên tại phiên tòa thì Hội đồng xét xử ra quyết định hoãn phiên tòa ( khoản 2 Điều 52); phải thay đổi Thẩm phán, Hội thẩm tại phiên tòa thì Hội đồng xét xử ra quyết định hoãn phiên tòa (khoản 2 Điều 53); không có Thẩm phán, Hội thẩm dự khuyết để thay thế hoặc phải thay đổi chủ tọa phiên tòa mà không có Thẩm phán để thay thế theo quy định tại khoản 2 Điều 288 BLTTHS thì phải hoãn phiên tòa (khoản 3 Điều 288); Kiểm sát viên bị thay đổi hoặc không thể tiếp tục thực hành quyền công tố, kiểm sát xét xử mà không có Kiểm sát viên dự khuyết để thay thế thì Hội đồng xét xử hoãn phiên tòa (khoản 2 Điều 289); bị cáo vắng mặt vì lý do bất khả kháng hoặc do trở ngại khách quan thì phải hoãn phiên tòa (khoản 1 Điều 290); người bào chữa vắng mặt lần thứ nhất vì lý do bất khả kháng hoặc do trở ngại khách quan thì Tòa án phải hoãn phiên tòa, trừ trường hợp bị cáo đồng ý xét xử vắng mặt người bào chữa (Điều 291); bị hại, đương sự hoặc người đại diện của họ vắng mặt thì tùy trường hợp, Hội đồng xét xử quyết định hoãn phiên tòa hoặc vẫn tiến hành xét xử (Điều 292); người làm chứng về những vấn đề quan trọng của vụ án vắng mặt thì tùy trường hợp, Hội đồng xét xử quyết định hoãn phiên tòa hoặc vẫn tiến hành xét xử (khoản 1 Điều 293); người giám định, người định giá tài sản vắng mặt thì tùy trường hợp, Hội đồng xét xử quyết định hoãn phiên tòa hoặc vẫn tiến hành xét xử (khoản 2 Điều 294); người phiên dịch, người dịch thuật vắng mặt mà không có người khác thay thế thì Hội đồng xét xử quyết định hoãn phiên tòa (khoản 2 Điều 295); - Cần phải xác minh, thu thập bổ sung chứng cứ, tài liệu, đồ vật mà không thể thực hiện ngay tại phiên tòa (điểm b khoản 1 Điều 297); - Cần tiến hành giám định bổ sung, giám định lại (điểm c khoản 1 Điều 297); - Cần định giá tài sản, định giá lại tài sản. Trường hợp hoãn phiên tòa thì vụ án phải được xét xử lại từ đầu (điểm d khoản 1 Điều 297). Về xét xử phúc thẩm, tại Điều 352 BLTTHS năm 2015 quy định Tòa án cấp phúc thẩm chỉ được hoãn phiên tòa khi thuộc một trong các trường hợp sau: - Phải thay đổi Kiểm sát viên tại phiên tòa thì Hội đồng xét xử ra quyết định hoãn phiên tòa ( khoản 2 Điều 52); phải thay đổi Thẩm phán, Hội thẩm tại phiên tòa thì Hội đồng xét xử ra quyết định hoãn phiên tòa (khoản 2 Điều 53); không có Thẩm phán dự khuyết hoặc phải thay đổi chủ tọa phiên tòa mà không có Thẩm phán để thay thế thì phải hoãn phiên tòa (khoản 3 Điều 349); Kiểm sát viên bị thay đổi hoặc không thể tiếp tục thực hành quyền công tố, kiểm sát xét xử mà không có Kiểm sát viên dự khuyết để thay thế thì Hội đồng xét xử hoãn phiên tòa (khoản 2 Điều 350); người bào chữa vắng mặt lần thứ nhất vì lý do bất khả kháng hoặc do trở ngại khách quan thì phải hoãn phiên tòa, trừ trường hợp bị cáo đồng ý xét xử vắng mặt người bào chữa (Điều 351); - Cần phải xác minh, thu thập bổ sung chứng cứ, tài liệu, đồ vật mà không thể thực hiện được ngay tại phiên tòa. Trường hợp hoãn phiên tòa thì vụ án phải được xét xử lại từ đầu (điểm b khoản 1 Điều 352). Về xử xử sơ thẩm, tại Điều 251 của BLTTHS năm 2015 quy định việc xét xử có thể tạm ngừng khi thuộc một trong các trường hợp: - Cần phải xác minh, thu thập, bổ sung chứng cứ, tài liệu, đồ vật mà không thể thực hiện ngay tại phiên tòa và có thể thực hiện trong thời hạn 05 ngày, kể từ ngày tạm ngừng phiên tòa (điểm a khoản 1 Điều 251); - Do tình trạng sức khỏe, sự kiện bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan mà người có thẩm quyền tiến hành tố tụng hoặc người tham gia tố tụng không thể tiếp tục tham gia phiên tòa nhưng họ có thể tham gia lại phiên tòa trong thời gian 05 ngày, kể từ ngày tạm ngừng phiên tòa (điểm b khoản 1 Điều 251); - Vắng mặt Thư ký Tòa án tại phiên tòa (điểm c khoản 1 Điều 251). Còn trong xét xử phúc thẩm, tạm ngừng phiên tòa chỉ phát sinh trong trường hợp Thư ký Tòa án bị thay đổi hoặc không thể tiếp tục tham gia phiên tòa, nếu không có người thay thế thì tạm ngừng phiên tòa (khoản 4 Điều 349 BLTTHS năm 2015). Về thời điểm Phát sinh vào thời điểm trước khi bắt đầu phiên tòa sơ thẩm hoặc phúc thẩm. Tòa án chỉ có thể hoãn phiên tòa khi có những căn cứ được quy định tại Điều 297 và Điều 352 BLTTHS năm 2015 như đã nêu ở phần căn cứ phát sinh nói trên. Chỉ phát sinh vào thời điểm phiên tòa đang được xét xử và trong các trường hợp được quy định tại khoản 1 Điều 251 BLTTHS năm 2015. Về thời hạn Thời hạn “hoãn phiên tòa” sơ thẩm và phúc thẩm không được quá 30 ngày kể từ ngày ra quyết định hoãn phiên tòa (khoản 2 Điều 297 BLTTHS năm 2015). “tạm ngừng phiên tòa” có thời hạn ngắn hơn, không quá 05 ngày kể từ ngày quyết định tạm ngừng phiên tòa. Hết thời hạn tạm ngừng phiên tòa, việc xét xử vụ án được tiếp tục. Trường hợp không thể tiếp tục xét xử vụ án thì phải hoãn phiên tòa. Về hình thức Phải ra Quyết định hoãn phiên tòa băng văn bản và Quyết định hoãn phiên tòa phải được chủ tọa phiên tòa thay mặt Hội đồng xét xử ký tên. Trường hợp chủ tọa phiên tòa vắng mặt hoặc bị thay đổi thì Chánh án Tòa án ra quyết định hoãn phiên tòa (khoản 4 Điều 297). Quyết định hoãn phiên tòa phải được thông báo ngay cho những người tham gia tố tụng có mặt tại phiên tòa; gửi cho Viện kiểm sát cùng cấp và những người vắng mặt tại phiên tòa trong thời hạn 02 ngày kể từ ngày ra quyết định. Quyết định hoãn phiên tòa có các nội dung chính sau: Ngày, tháng, năm ra quyết định; Tên Tòa án và họ tên Thẩm phán, Hội thẩm, Thư ký Tòa án; Họ tên Kiểm sát viên thực hành quyền công tố, kiểm sát xét xử tại phiên tòa; Vụ án được đưa ra xét xử; Lý do của việc hoãn phiên tòa; Thời gian, địa điểm mở lại phiên tòa (khoản 3 Điều 297 BLTTHS năm 2015). Hội đồng Thẩm phán không ra quyết định tạm ngừng phiên tòa bằng văn bản mà việc tạm ngừng phiên tòa chỉ phải ghi vào biên bản phiên tòa và thông báo cho những người tham gia tố tụng biết.