ĐIỀU KIỆN ĐỂ DẤU HIỆU ĐƯỢC XEM LÀ NHÃN HIỆU THEO HIỆP ĐỊNH TPP
Xin chào các thành viên của Dân Luật ! Tôi có một vấn đề mong mọi người có thể giải đáp giúp Theo hiệp định TPP thì điều kiện để một dấu hiệu là nhãn hiệu là như thế nào? Điều kiện để đăng ký nhãn hiệu theo hiệp định TPP ? Trân Trọng !
Gia nhập TPP: phải sửa 10 Bộ luật và Luật, 22 Nghị định và 2 Quyết định của Thủ tướng
http://www.youtube.com/watch?v=iwAQu-f1xDs Đây là một trong những nội dung quan trọng tại Hội nghị vừa được Ủy ban Đối ngoại và Ủy ban Pháp luật của Quốc hội phối hợp tổ chức sáng hôm qua 5/7. Nhiều ý kiến cho rằng Việt Nam mình sẽ phải sửa đổi, bổ sung hàng loạt các văn bản quy phạm pháp luật, mà cụ thể là 10 Bộ luật và Luật, 22 Nghị định và 2 Quyết định của Thủ tướng. Đồng thời sẽ ban hành thêm 9 văn bản quy phạm pháp luật và bãi bỏ 1 văn bản quy phạm pháp luật. Cũng tại phiên họp, các đại biểu chuyên gia cũng nhấn mạnh rằng: “Trong các nước tham gia TPP thì không có nước nào phải sửa đổi pháp luật nhiều như Việt Nam với phạm vi sửa đổi trong các lĩnh vực lớn như Lao động, Sở hữu trí tuệ, Hình sự, Hải quan…”. Tuy nhiên, đây cũng là cơ hội để Việt Nam tiến hành cải cách pháp luật, hoàn thiện thể chế để đáp ứng nhu cầu hội nhập. Nội dung tại Hội nghị này sẽ góp phần vào việc phê chuẩn Hiệp định đối tác xuyên Thái Bình Dương TPP tại phiên họp Quốc hội sắp tới. Vài thông tin muốn chia sẻ với bà con cô bác Dân Luật. Nhưng mình thắc mắc là phải sửa đổi 10 Bộ luật và Luật, 22 Nghị định và 2 Quyết định của Thủ tướng, cụ thể là Bộ luật, Luật, Nghị định, Quyết định nào nhỉ? Chắc chắn rằng sẽ sửa đổi Bộ luật lao động 2012 rồi đó, số còn lại thì mình không biết nên bác nào biết thông tin thì chia sẻ với…! Chân thành cám ơn các bạn
Dự đoán Top 4 ngành hút nhân lực trong năm 2016
Trong năm 2016, với việc ký kết các Hiệp định thương mại quốc tế, mở rộng thị trường, nhiều ngành được dự đoán sẽ rất khát và rất thu hút nhân lực. Theo khảo sát của Navigos Search, công ty chuyên về nhân sự, việc làm tại khu vực Đông Nam Á cho biết, trong năm 2015, các vị trí được tuyển nhiều nhất có thể kể đến kỹ sư điện, điện tử, kỹ sư lập trình, nghề tiếp thị và bán hàng trong các lĩnh vực sản xuất điện thoại thông minh, dệt may, hàng tiêu dùng và bán lẻ. Khảo sát trên cũng dự đoán rằng 4 ngành thu hút nhân lực nhất trong năm 2016 là dược, viễn thông, tài chính tiêu dùng và ngành bán lẻ. 1. Dược: Dược là ngành đáng lưu ý nhất trong năm 2016 do mức tăng trưởng rất cao, nhất là trong lĩnh vực thực phẩm chức năng. Các vị trí nhân sự cấp trung trong nghề tiếp thị và bán các sản phẩm dược có khả năng sẽ được tuyển dụng mạnh mẽ 2. Viễn thông: Công nghệ 4G dự kiến được triển khai vào đầu năm 2016 là bước đệm để cơn khát nhân lực trong ngành viễn thông tăng mạnh. Các nhà cung cấp trong lĩnh vực công nghệ này cũng đã có sự chuẩn bị cho việc tuyển dụng nhân sự phục vụ cho các dự án này. 3. Tài chính, tiêu dùng: Tài chính tiêu dùng có thể có nhu cầu tuyển dụng mạnh trong năm 2016 khi có làn sóng các ngân hàng thương mại mua lại các công ty tài chính nhằm thúc đẩy các hoạt động tiêu dùng cá nhân. 4. Ngành bán lẻ: Xu hướng thành lập cửa hàng tiện ích sẽ nhiều hơn so với các siêu thị lớn. Do vậy, cơ hội dành cho các vị trí mới tốt nghiệp đại học cũng sẽ dồi dào hơn. Những vị trí quản lý trong ngành hàng tiêu dùng nhanh tiếp tục được tìm kiếm vì nhân sự trong ngành này vẫn luôn thiếu. Ngoài 4 ngành được dự đoán trên, có thể nhận thấy trong bối cảnh đất nước hội nhập, một ngành cũng khát nhân lực nữa là ngành Luật. Và yêu cầu đối với nhận lực ở lĩnh vực này ngày càng cao, không chỉ am hiểu Luật pháp trong nước mà còn phải am hiểu Luật pháp quốc tế, biết linh hoạt và có tầm nhìn xa.
[Infography] TPP - Các thành viên cam kết gì với Việt Nam
Hiệp định TPP hôm nay đã được ký kết, theo đó các nước thành viên sẽ cam kết xóa bỏ hầu hết các thuế suất đánh vào hàng hóa nhập khẩu từ Việt Nam. Vậy họ đã cam kết gì?
Hiệp định TPP - Việt Nam chính thức ký kết
Theo múi giờ tại Auckland, New Zealand, thời điểm diễn ra lễ ký kết để xác thực lời văn Hiệp định TPP là 11h sáng ngày 4/2. Bộ trưởng các nước đã lần lượt ký kết hiệp định sau 10 năm đàm phán dưới sự chứng kiến của Thủ tướng New Zealand John Key. Việt Nam đã chính thức ký vào bản cam kết Bộ trưởng Bộ Công Thương Vũ Huy Hoàng đại diện Việt Nam tham gia lễ ký kết, cho biết: “Sau lễ ký, văn bản hoàn chỉnh sẽ được đệ trình lên Quốc hội Việt Nam để phê chuẩn. Sau khi ký kết,12 quốc gia có thể bắt đầu quá trình phê chuẩn trong nước và có hai năm để hoàn thành trước khi hiệp định có hiệu lực.” Nguồn: VietnamNet
Phái đoàn Việt Nam đã sang New Zealand
Hôm nay, ngày 30/1, phái đoàn Việt Nam do Đại diện Chính phủ Việt Nam, Bộ trưởng Công Thương - Vũ Huy Hoàng dẫn đầu đã lên đường sang Neư Zealand tham gia ký kết Hiệp định TPP. Thứ trưởng Công Thương - Đỗ Thắng Hải. Ảnh: Internet Thứ trưởng Công Thương - Đỗ Thắng Hải cho biết về cơ bản, văn bản cuối cùng của hiệp định các bên thống nhất sẽ không thay đổi nhiều, "Nội dung hiệp định vẫn giữ được những lợi ích cho các đối tượng tham gia, trong đó người dân, doanh nghiệp Việt Nam cũng được hưởng lợi”. Các nước cũng kỳ vọng thỏa thuận này sẽ giúp nâng cao mức sống của người dân, giảm nghèo, khuyên khích sự minh bạch, hiệu quả điều hành cũng như cải thiện việc bảo vệ người lao động, môi trường. Hiệp định cũng được xem là bước quan trong việc tiến gần tới mục tiêu thúc đẩy thương mại tự do trong khu vực châu Á – Thái Bình Dương. Nguồn: Vnexpress
Re:Hiệp định TPP - Còn điểm nào bạn chưa rõ?
4. Những quyền con người quan trọng nào được quan tâm trong TPP? Như đã mô tả ở trên, hiệu lực của TPP sẽ kích hoạt những yêu cầu về pháp lý và chính sách và trong một số trường hợp, sẽ yêu cầu cả việc thực thi trong pháp luật quốc gia. TPP sẽ yêu cầu các nước tham gia phải giảm thuế quan hàng hóa và dịch vụ. Hầu hết các thành viên cũng cần cải cáh một phần luật quố gia và chính sách liên quan đến quyền lao động, dịch vụ tài hính, sở hữu trí tuệ và bằng sáng chế cũng nhưng các lĩnh vực liên quan khác. - Quyền lao động cơ bản: Chương lao động yêu cầu tất cả các thành viên phải đi đến những tiêu chuẩn chung về lao động theo quy định của Tổ chức lao động thế giới (ILO). Đáng chú ý có: + Công nhận quyền tự do thương lượng tập thể của người lao động. + Xóa bỏ lao động cưỡng bức hoặc bắt buộc. + Xóa bỏ lao động trẻ em. + Không phân biệt đối xử trong lao động và nghề nghiệp. Đặc biệt nghiêm cấm sự phân biệt đối xử về giới tính, sắc tộc, tôn giáo, màu da… Các điều kiện về mức lương tối thiểu, giờ làm việc, an toàn và sức khỏe lao động, phải đảm bảo tốt nhất cho người lao động. Tuy nhiên, sự chênh lệch về trình độ lao động ở các nước đang phát triển đang là một vấn đề được dư luận quan tâm nhiều; ví dụ như đối với các nước Việt Nam, Malaysia và Brunei, một số nhà nghiên cứu dự đoán nhân lực ở các quốc gia này có khả năng sẽ không theo kịp đối với những yêu cầu của TPP. Hiện tại, Hoa Kỳ đang đàm phán bổ sung các thỏa thuận song phương (còn gọi là” Kế hoạch thống nhất”) với Việt Nam, Malaysia và Brunei, yêu cầu phải thực hiện các nguyên tắc để bảo vệ lợi ích TPP của các bên tham gia. - Quyền về sức khỏe: Sự giảm thiểu các vấn đề về tiếp cận thuốc giúp ích rất nhiều cho các thành viên TPP, tuy nhiên nó cũng đặt ra nhiều vấn đề về việc bảo vệ bằng sáng chế và bản quyền cho thuốc. Đồng thời điều khoản quy định về sức khỏe sẽ cho phép các thành viên TPP duy trì sự linh hoạt trong thoả thuận theo Hiệp định TRIPS để bảo vệ sức khỏe cộng đồng các nước TPP thành viên cũng miễn áp dụng quy tắc đối với một số địa phương dựa trên điều kiện kinh tế và tình trạng của hệ thống y tế công cộng của họ. - Tự do thông tin trực tuyến cũng như vấn đề về quyền riêng tư: Thỏa thuận về vấn đề này được các chuyên gia đánh giá là thân thiện khi có biện pháp bảo vệ từ xa mạnh mẽ hơn cho một số quyền liên quan đến Internet, bao gồm yêu cầu các thành viên TPP tạo ra ngoại lệ và hạn chế đối với quyền tác giả và loại bỏ những hình phạt nước ngoài trong các biện pháp bảo vệ công nghệ. Nhằm bảo vệ người tieu, dung, TPP cũng quy định này cũng được đánh giá có thể có thể tăng cường các yêu cầu đối với chế độ bảo vệ thông tin cá nhân và đảm bảo rằng các quy định thúc đẩy các luồng dữ liệu xuyên biên giới không phá hoại, cản trở chế độ bảo vệ này. Nguồn: - Wikipedia Việt Nam; - Toàn văn Hiệp định TPP; - Những điều cần biết về Lao động trong Hiệp định TPP, Dân luật; - TPP được ví như nồi cơm Thạch Sanh, Trung tâm WTO; - Hiệp định TPP: nội dung về thương mại điện tử, Cục công nghệ thông, Bộ Y tế.
Lễ kí kết hiệp định TPP đang đến rất gần nên mình tổng hợp và giới thiệu lại một số thông tin cơ bản cho các cư dân diễn đàn Dân Luật cùng tham khảo. Mọi người, ai có thắc mắc vấn đề gì thì đưa lên thảo luận luôn nhé. >>>>> Cập nhật tin tức trước thềm ký kết Hiệp định TPP (04/02/2016) >>>>> Những điều cần biết về Lao động trong Hiệp định TPP 1. TPP là gì? - TPP là từ viết tắt của Trans-Pacific Partnership - Hiệp định Đối tác Kinh tế Chiến lược xuyên Thái Bình Dương, một thỏa thuận kinh tế và thương mại giữa 12 nước Thái Bình Dương, gồm 30 chương và phụ lục. 2. Mục đích của TPP? Nhằm giảm bớt và xóa bỏ hoàn toàn thuế quan và những rào cản thị trường cho hầu hết các hàng háo, dịch vụ và nông nghiệp.Điều này cũng hướng đến giải quyết một số lĩnh vực chưa được giải quyết một cách toàn diện bởi hệ thống thưong mại đa phương của Tổ chức Thương mại Thế giới. Ví dụ: Đầu tư trực tiếp, lao động và tiêu chuẩn môi trường, và các doanh nghiệp nhà nước. 3. Hiệu lực và thành viên? - Các quốc gia tham gia: Australia, Brunei, Canada, Chile, Nhật Bản, Malaysia, Mexico, New Zealand, Peru, Singapore, Vietnam, and Hoa Kỳ. - TPP sẽ bắt đầu có hiệu lực sau 60 ngày kể từ khi 12 nước kí kết thỏa thuận (hoặc, có thể chỉ cần 06 nước thành viên phê chuẩn với điều kiện GDP - tổng sản phẩm quốc nội – của 06 nước này bằng 85% GDP 12 nước cộng lại). - Kể từ ngày có Hiệp định TPP có hiệu lực, các quốc gia có 02 năm để nội luật hóa các vấn đề trong TPP; và khi đó, Hiệp định TPP sẽ có hiệu lực áp dụng đối với từng nước. Chú ý: Các bạn lưu ý phân biệt giữa hiệu lực pháp luật của Hiệp định TPP (nếu 04/02/2016 được thông qua thì khoảng đầu tháng 4 có hiệu lực) với hiệu lực áp dụng, thi hành ở từng quốc gia thành viên (năm 2018, tùy mỗi quốc gia). Nguồn: - Wikipedia Việt Nam; - Toàn văn Hiệp định TPP; - Những điều cần biết về Lao động trong Hiệp định TPP, Dân luật; - TPP được ví như nồi cơm Thạch Sanh, Trung tâm WTO; - Hiệp định TPP: nội dung về thương mại điện tử, Cục công nghệ thông, Bộ Y tế.
Mẫu thuẫn nội bộ - Hiệp định TPP vẫn được Malaysia thông qua
Sau nhiều ngày thảo luận, Quốc hội Malaysia tối 27/1 đã bỏ phiếu thông qua dự luật cho phép nước này tham gia Hiệp định Đối tác Kinh tế Chiến lược xuyên Thái Bình Dương (TPP). Channel News Asia cho biết, dù có sự tranh cãi gay gắt, nhưng Hiệp định TPP đã được thông qua với 127 phiếu thuận và 84 phiếu chống. Bộ trưởng Công nghiệp và Thương mại quốc tế Mustapha Mohamed Phát biểu tại phiên kết thúc cuộc họp Quốc hội, Bộ trưởng Công nghiệp và Thương mại quốc tế Malaysia Mustapha Mohamed khẳng định về quyết định của hạ viện: "Đó là bước khởi đầu cho một hành trình dài". Đồng thời, Malaysia cũng đã tham gia vào việc chuẩn bị các dự thảo của TPP, trong đó có Chương 6, 21 và 24 liên quan đến hợp tác và xây dựng năng lực và phát triển các doanh nghiệp vừa và nhỏ cũng như các chương quan trọng khác. Về quan điểm Malaysia sẽ sử dụng khuôn mẫu của Mỹ trong dự thảo thỏa thuận, ông Mustapa khẳng định điều đó là không đúng sự thật, Malaysia sẽ không bị ảnh hưởng bởi hệ thống tư bản chủ nghĩa nếu ký TPP cũng như không thay đổi hệ thống kinh tế quốc gia. Trước đó, hôm 23/01, hàng ngàn người đã xuống đường ở thủ đô Kuala Lumpur, kêu gọi không thông qua TPP. Những người phản đối TPP tại Malaysia lo ngại rằng giá thuốc tăng, chủ quyền đất nước sẽ bị xói mòn và tạo ra một loạt ảnh hưởng tiêu cực khác. Nguồn: Doanh nhân Sài Gòn Online
Nhật Bản - Trưởng đoàn đàm phán TPP từ chức do cáo buộc nhận hối lộ
Hôm qua, ngày 28/01/2016, ông Akira Amari, trưởng đoàn đàm phán đối tác xuyên Thái Bình Dương, đồng thời là Bộ trưởng Chính sách kinh tế và tài chính của Nhật Bản đã tổ chức họp báo tuyên bố từ chức do những cáo buộc ông này đã nhận hối lộ từ một công ty xây dựng. Tại cuộc họp báo được truyền hình tại Tokyo, Amari thừa nhận rằng một phụ tá đã nhận được 5 triệu yên (42.000 $) từ các công ty và đã được sử dụng 3 triệu cho mục đích cá nhân. Amari sẽ từ chức để chịu trách nhiệm cho hành động phụ tá của ông. Các chính trị gia cũng thừa nhận để cá nhân nhận được 500.000 Yên trong hai dịp, nhưng cho biết các khoản tiền này đã được báo cáo "theo đúng luật". Ông Amari gần đây thường nhận được sự chú ý của quốc tế bởi ông đã tham gia đàm phán thành công Hiệp định TPP, một hiệp ước thương mại tự do đề xuất liên quan đến Nhật Bản, Mỹ và 10 nền kinh tế Thái Bình Dương khác. Ông Amari cho biết tại buổi họp báo: "Nhật Bản cuối cùng đã nổi lên từ tình trạng giảm phát. Chúng tôi cần phải được quốc hội thông qua về mặt pháp lý các bước để “đánh bại” sự giảm phát và tạo ra một nền kinh tế mạnh hơn càng sớm càng tốt. Bất cứ điều gì cản trở việc này cần phải được loại bỏ, sớm và tôi cũng không ngoại lệ. Vì vậy, tôi muốn từ chức Bộ trưởng và chịu trách nhiệm trước hành vi trái pháp luật trên." Nguồn: Asia.nikkei, (Dân Luật dịch)
Auckland - Bạn biết gì về nơi tổ chức lễ ký kết Hiệp định TPP?
Thành phố Auckland, New Zealand là nơi được lựa chọn ký kết những thỏa thuận cuối cùng trong Hiệp định TPP. Vậy bạn đã biết gì về Auckland? Thành phố Auckland (tên không chính thức Central Auckland) là một thành phố thuộc New Zealand, nằm trên eo đất Auckland và các đảo của vịnh Hauraki. Vùng đô thị Auckland bao gồm các vùng đô thị của thành phố này và các thành phố lân cận, đó là North Shore,Waitakere và Manukau, Papakura, Rodney,Franklin District. Thông tin nhanh về Auckland: - Diện tích: 1.086 km2 - Dân số: 1,5 triệu người - Ngôn ngữ: tiếng Anh và tiếng Maori - Tiền tệ: $ NZD Không có gì đáng ngạc nhiên khi Auckland được chôn là nơi kí kết cuối cùng cho Hiệp định TPP, khi Auckland là một trong những thành phố đáng sống nhất thế giới; đồng thời, Auckland cũng là một thành phố cảng hiện đại với vị trí thuận tiện nằm trong cửa ngõ giao thương của thế giới. Auckland nổi tiếng với các ngành kinh doanh tiên tiến, ngành công nghiệp công nghệ cao, cạnh tranh và lực lượng lao động lành nghề. Bên cạnh đó, thành phố này cũng là nơi tập trung nhiều nền văn hóa nhất New Zealand với 66% châu Âu/ Pakeha, 19% châu Á và 25% người Maori và đảo Thái Bình Dương. Theo thống kê “Khảo sát chất lượng sống” của Merces hàng năm, Auckland được xếp hạng thứ tư đồng hạng cho chất lượng cuộc sống trong 215 thành phố trên thế giới. Chi phí sinh hoạt tại Auckand hợp lý hơn so với nhiều thành phố khác trên thế giới, trong số 143 thành phố có chi phí đắt nhất thế giới, Auckland được xếp hạng thứ 138, thuộc nhóm những thành phố có sinh hoạt thấp nhất. Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP) sẽ được chính thức ký kết vào ngày 4/2/2016 tại thành phố Auckland xinh đẹp này đánh dấu kết thúc thắng lợi của các cuộc đàm phán suốt 5 năm qua. Bộ trưởng Thương mại New Zealand Todd McClay cho biết, "Sau khi ký kết, 12 quốc gia có thể bắt đầu quá trình phê chuẩn trong nước và có hai năm để hoàn thành trước khi hiệp định có hiệu lực". Như vậy, TPP có thể có hiệu lực vào năm 2018. Nguồn: - Wikipeida; - Eduviet Golbal; - Vietnamplus; - Ảnh: Internet.
Ngày 26/1, Quốc hội Malaysia đang thảo luận và bỏ phiếu thông qua việc ký kết Hiệp định TPP. Kyodo đưa tin , trong kì họp mới của Quốc hội Malaysia, bộ trưởng Thương mại Quốc tế và Công nghiệp Malaysia, ông Mustapa Mohamed đang kêu gọi Quốc hội nước này nhanh chóng thông qua Hiệp định TPP, và cảnh báo nước này sẽ tụt lại khi so sánh với Việt Nam nếu không phê chuẩn Hiệp định. Phát biểu khi đệ trình kiến nghị về TPP, ông Mohamed nói: "30 năm trước đây, Maylaysia, Hàn Quốc, Singapore và Đài Loan cùng có tốc độ phát triển như nhau. Giờ đây, 3 nước và vùng lãnh thổ kia đã trở thành những nước và vùng lãnh thổ phát triển, trong khi Maylaysia vẫn giậm chân trong nhóm nước thu nhập trung bình. Việt Nam đang thực hiện một chính sách mở cửa và ngày càng tích cực trong việc thu hút vốn đầu tư nước ngoài. Tôi lo ngại rằng Maylaysia sẽ phải hối tiếc nếu không phê chuẩn TPP trong bối cảnh các nhà đầu tư sẽ coi các quốc gia như Việt Nam là một điểm thu hút đầu tư nước ngoài hấp dẫn hơn." Các bạn có thể xem chi tiết Toàn văn hiệp định TPP tại đây. Nguồn: Vietnam+; Ảnh: Internet.
Canada nhận định trước thềm lễ kí kết Hiệp định TPP
Trước thềm lễ kí kết cuồi cùng của Hiệp định TPP diễn ra ngày vào 04/02/2016, các nước thành viên cũng đã có những nhận định riêng của mình. Bộ trưởng thương mại quốc tế Canada, bà Chrystia Freeland nhận định về lễ kí tại New Zealand sẽ đánh dấu sự kết thúc của quá trình đàm phán TPP. Để chuẩn bị cho sự kiện này, các văn bản liên quan đã được đệ trình lên Quốc hội Canada ngày 25-1 để các nghị sĩ xem xét trước khi chính phủ đưa ra quyết định cuối cùng. Bộ trưởng thương mại quốc tế Canada Chrystia Freeland. Ảnh: Reuters Đối với Canada, xuất khẩu thịt bò là ngành được hưởng lợi nhiều nhất từ TPP. - Năm 2015, xuất khẩu thịt bò của Canada xấp xỉ 2 tỉ đô la Mỹ với gần 80 thị trường toàn cầu, trong đó tại Việt Nam ước đạt 25 triệu đô la và Nhật Bản 100 triệu đô la. Tuy nhiên, đồng thời mặt hàng này phải chịu mức thuế cao - Việt Nam là 34% và Nhật là 38,5%. - Việc ký kết TPP sẽ giúp hạ thấp mức thuế nhập khẩu thịt bò vào các thị trường thành viên trong vòng 15 năm. Nhật Bản sẽ giảm thuế nhập khẩu xuống 9%, trong khi Việt Nam sẽ xóa bỏ thuế này trong vòng 3-8 năm. Nguồn: Thesaigontimes
Cập nhật tin tức trước thềm ký kết Hiệp định TPP (04/02/2016)
Bên lề diễn ra Đại hội Đảng lần thứ XII, chủ đề được dư luận quan tâm hiện nay chính là Hiệp định TPP sẽ được đưa ra thảo luận trong kỳ họp này như thế nào? Những lãnh đạo tương lai đất nước, họ sẽ định hướng “lèo lái” Việt Nam trong “cuộc chơi” nhiều cơ hội nhưng đầy thách thức như thế nào? Theo đó, việc ký kết thỏa thuận cuối cùng vào ngày 04/02/2016 này là một bước kỹ thuật trong toàn bộ quy trình, đánh dấu sự kết thúc của quá trình đàm phán TPP. Sau lễ ký, 12 nước tham gia bao gồm Mỹ, Australia, Brunei, Canada, Chile, Nhật Bản, Malaysia, Mexico, New Zealand, Peru, Singapore và Việt Nam sẽ phải thảo luận về quá trình nội luật hóa Hiệp định TPP đối với từng thành viên, dự đoán sẽ mất khoảng 2 năm để thoả thuận có hiệu lực. TPP được đàm phán từ tháng 3/2010 và hoàn tất vào tháng 10/2015. Nếu được hình thành, Hiệp định này sẽ bao phủ 40% kinh tế toàn cầu và bổ sung cho GDP thế giới thêm gần 300 tỷ USD mỗi năm. TPP sẽ hạ thấp hàng rào thuế quan ở các nước thành viên, đồng thời tạo ra các tiêu chuẩn chung cho các vấn đề như quyền lợi công nhân, bảo vệ môi trường. Theo thỏa thuận, khoảng 18.000 chủng loại hàng hóa xuất nhập khẩu sẽ được giảm hoặc xóa bỏ thuế quan. Đối với Việt Nam, các ngành Dệt may, thủy sản, gỗ, khu công nghiệp, phân phối ô tô và logistics sẽ được hưởng lợi rất nhiều từ|Hiệp định TPP. Các bạn có thể xem chi tiết Toàn văn hiệp định TPP tại đây. Nguồn: Vietstock.vn
Hiệp định TPP: Thông cáo báo chí tóm tắt cam kết thuế quan
Kết thúc đàm phán Hiệp định TPP, Bộ Tài chính đã tổ chức họp báo trong đó tóm tắt cam kết thuế quan trong trọng Hiệp định TPP. I. Giới thiệu chung Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương (gọi tắt là TPP) được khởi xướng từ năm 2005 bởi 4 nước thành viên ban đầu là Brunei, Chilê, Niuzilân và Xinh-ga-po. TPP chính thức khởi động vào tháng 3/2010. Việt Nam tham gia TPP vào tháng 11/2010. Đến nay, TPP bao gồm 12 thành viên gồm: Hoa Kỳ, Úc, Niu Di-lân, Xin-ga-po, Nhật Bản, Ma-lai-xi-a, Bru-nây, Pêru, Chi-lê, Ca-na-đa, Mê-xi-cô và Việt Nam. Với sự tham gia của Nhật Bản (tháng 7/2013), TPP trở thành Khu vực mậu dịch tự do (FTA) lớn nhất thế giới, chiếm khoảng 40% tổng GDP toàn cầu và khoảng 1/3 tổng kim ngạch thương mại thế giới. Ngày 5/10/2015, 12 nước TPP đã tuyên bố kết thúc đàm phán Hiệp định và sẽ tiến hành rà soát pháp lý và hoàn tất các công việc kỹ thuật. Ngày 6/11/2015, các nước TPP đã công bố các văn bản cam kết của các nước TPP đã thống nhất. Nội dung toàn văn bản Hiệp định được đăng tải tại trang web của Bộ Tài chính. II. Cam kết về thuế Nhập khẩu của các nước dành cho Việt Nam Các nước cam kết xóa bỏ thuế nhập khẩu dành cho hàng hóa của Việt Nam ngay khi Hiệp định có hiệu lực khoảng từ 78-95% số dòng thuế và xóa bỏ hoàn toàn từ 97-100% dòng thuế. Các mặt hàng còn lại sẽ có lộ trình xóa bỏ thuế trong vòng 5-10 năm, trừ một số mặt hàng nhạy cảm có lộ trình trên 10 năm hoặc áp dụng biện pháp hạn ngạch thuế quan. Nhiều mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam vào thị trường TPP được hưởng thuế suất 0% ngay sau khi Hiệp định có hiệu lực hoặc sau 3-5 năm như nông sản, thủy sản, một số mặt hàng dệt may, giày dép, đồ gỗ, hàng điện, điện tử, cao su… Hầu hết các nước có biểu thuế áp dụng chung cho tất cả các nước còn lại, trừ Hoa Kỳ áp dụng riêng lộ trình giảm thuế với hàng hóa của từng thành viên TPP. 1. Cam kết của Hoa Kỳ Hoa Kỳ cam kết xóa bỏ gần 100% số dòng thuế, trừ một số sản phẩm đường áp dụng hạn ngạch thuế quan. a) Về nông nghiệp: - Hoa Kỳ sẽ xóa bỏ ngay 55,4% số dòng thuế nông nghiệp (tương đương 97,7% kim ngạch nhập khẩu từ Việt Nam đạt 0,95 tỷ USD) ngay khi Hiệp định có hiệu lực. Các mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam như gạo, mật ong, cà phê, chè, hạt tiêu, điều, rau quả đều được xóa bỏ thuế ngay. - Vào năm thứ 10, tổng số dòng thuế nông nghiệp được xóa bỏ là 97,4%. Hoa kỳ áp dụng hạn ngạch thuế quan đối với 35 dòng thuế đường và sản phẩm chứa đường. b) Về công nghiệp (trừ dệt may): - 85,6% tổng số dòng thuế công nghiệp được xóa bỏ ngay khi Hiệp định có hiệu lực (74,2% kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang Hoa Kỳ tương đương với 6 tỷ USD). Vào năm thứ 10, Hoa Kỳ sẽ xóa bỏ xấp xỉ 100% số dòng thuế công nghiệp. - Thủy sản: Xóa bỏ ngay hoặc vào năm thứ 3 kể từ khi Hiệp định có hiệu lực (riêng cá ngừ chế biến xóa bỏ vào năm thứ 10). - Giày dép: 85% số dòng thuế giày dép được xóa bỏ ngay (tương đương 39,7% kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang Hoa Kỳ đạt 1,15 tỷ USD), đồng thời 3,2% số dòng thuế có kim ngạch lớn (58% kim ngạch xuất khẩu đạt 1,7 tỷ USD) Hoa Kỳ cam kết giảm ngay từ 40% - 55% mức hiện hành và xóa bỏ hoàn toàn thuế suất vào năm thứ 12. - Đồ gỗ, cao su, dây cáp điện: Xóa bỏ ngay thuế nhập khẩu trừ lốp ô tô (xóa bỏ thuế vào năm thứ 10) và 2 dòng thuế dây cáp điện (xóa bỏ thuế vào năm thứ 5). - Sản phẩm nhựa: 50% số dòng thuế được xóa bỏ ngay khi Hiệp định có hiệu lực, còn lại xóa bỏ sau tối đa vào năm thứ 5 kể từ khi Hiệp định có hiệu lực. - Điện, điện tử: khoảng 80% số dòng thuế sẽ được xóa bỏ ngay, một số mặt hàng còn lại được xóa bỏ vào năm thứ 3 đến năm thứ 5 và chỉ một số ít sản phẩm được xóa bỏ vào năm thứ 10. c) Về dệt may: - 73,1% số dòng thuế (1.182 dòng) được xóa bỏ thuế ngay khi Hiệp định có hiệu lực, chiếm 46,1% kim ngạch (tương đương 3,5 tỷ USD). - Thêm 7% số dòng thuế dệt may sẽ được xóa bỏ thuế vào năm thứ 5. - Ngay tại thời điểm bắt đầu thực hiện Hiệp định, 19,7% số dòng thuế có kim ngạch lớn, chiếm tổng số 51,3% xuất khẩu dệt may của Việt Nam sang Hoa Kỳ sẽ được giảm thuế suất từ 35-50% so với mức hiện hành và được xóa bỏ hoàn toàn vào năm thứ 12 kể từ khi Hiệp định có hiệu lực. 2. Cam kết của Ca-na-đa - Ca-na-đa cam kết xóa bỏ ngay 94,9% số dòng thuế, tương đương 77,9% kim ngạch nhập khẩu từ Việt Nam (0,88 tỷ USD) ngay khi Hiệp định có hiệu lực và tổng số dòng thuế được xóa bỏ lên tới 96,3% số dòng thuế, tương đương với 93,4% kim ngạch nhập khẩu từ Việt Nam vào năm thứ 4. - Ca-na-đa duy trì hạn ngạch thuế đối với 96 dòng thuế của 3 nhóm mặt hàng: (i) thịt gà; (ii) trứng và (iii) bơ sữa và sản phẩm bơ sữa. - Nông sản, điện, điện tử của Việt Nam được xóa bỏ phần lớn thuế quan ngay thời điểm bắt đầu triển khai cam kết. Mặt hàng đồ nội thất, cao su sẽ được xóa bỏ hoàn toàn ngay từ khi Hiệp định có hiệu lực hoặc vào năm thứ 5. - Các mặt hàng dệt may sẽ được xóa bỏ 100% thuế vào năm thứ 4, trong đó 42,9% kim ngạch xuất khẩu dệt may được hưởng thuế 0% ngay khi Hiệp định có hiệu lực. - Giày dép: Đa số xóa bỏ ngay khi Hiệp định có hiệu lực (chiếm 67% kim ngạch xuất khẩu giày dép), 12% kim ngạch xuất khẩu sẽ xóa bỏ thuế vào năm thứ 7, 01 dòng thuế có có kim ngạch lớn (10,7% kim ngạch giày dép) sẽ được cắt giảm 75% so với mức hiện hành và 09 dòng cam kết xóa bỏ vào năm thứ 12 (9,5% kim ngạch xuất khẩu giày dép). 3. Cam kết của Nhật Bản Nhật Bản cam kết xóa bỏ ngay thuế nhập khẩu đối với 86% số dòng thuế (chiếm 93,6% kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang Nhật Bản(tương đương 10,5 tỷ USD) và vào năm thứ 11 xóa bỏ đối với khoảng 95,6% số dòng thuế. - Đối với nông sản từ Việt Nam, Nhật bản không cam kết mặt hàng gạo và áp dụng hạn ngạch thuế quan hoặc cắt giảm một phần hoặc cam kết kèm theo các biện pháp phòng vệ thương mại đối với một số mặt hàng nhạy cảm như thịt trâu bò, thịt lợn, sữa, sản phẩm sữa, lúa mỳ, lúa gạo và các chế phẩm phẩm của chúng. - Nhiều mặt hàng ưu tiên của Việt Nam được rút ngắn đáng kể lộ trình so với cam kết tại Hiệp định FTA Việt Nam – Nhật Bản như đa số mặt hàng thủy sản có thế mạnh của VN được hưởng thuế suất 0% ngay sau khi Hiệp định có hiệu lực như các mặt hàng cá ngừ vây vàng, cá ngừ sọc dưa, cá kiếm, một số loài cá tuyết, surimi, tôm, cua ghẹ.... Toàn bộ các dòng hàng thủy sản không cam kết xóa bỏ thuế trong FTA Việt Nam – Nhật Bản sẽ được xóa bỏ trong TPP với lộ trình xóa bỏ vào năm thứ 6, năm thứ 11 hoặc năm thứ 16 kể từ khi Hiệp định có hiệu lực. - Mặt hàng rau quả, Nhật Bản cam kết mức thuế 0% vào năm thứ 3 hoặc năm thứ 5 kể từ khi Hiệp định có hiệu lực. - Mặt hàng mật ong: Xóa bỏ thuế vào năm thứ 8. - Mặt hàng giày dép: 79,5 % kim ngạch các xóa bỏ thuế vào năm thứ 10 và các mặt hàng còn lại (giày da) sẽ xóa bỏ thuế suất vào năm thứ 16. - Mặt hàng vali, túi xách bằng da: Xóa bỏ thuế vào năm thứ 16. - Dệt may: 98,8% số dòng thuế sẽ xóa bỏ thuế ngay khi Hiệp định có hiệu lực, tương đương 97,2% kim ngạch xuất khẩu mặt hàng này của Việt Nam sang Nhật Bản. Những mặt hàng còn lại sẽ có lộ trình xóa bỏ thuế vào năm thứ 10. 4. Cam kết của Mê-xi-cô Tại thời điểm bắt đầu thực thi cam kết, tổng số 77,2% số dòng thuế sẽ được xóa bỏ thuế ngay (chiếm 36,5% kim ngạch XK của Việt Nam sang Mê-xi-cô, tương ứng với 282 triệu USD). Vào năm thứ 10, 98% số dòng thuế sẽ được xóa bỏ thuế nhập khẩu, tương ứng với 440 triệu USD. Mê-xi-cô không cam kết xóa bỏ thuế đối với mặt hàng đường và áp dụng hạn ngạch thuế đối với sữa kem và sản phẩm; dầu cọ. - Thủy sản: Cá tra, basa, xóa bỏ thuế vào năm thứ 3 kể từ khi Hiệp định có hiệu lực; Tôm đông lạnh xóa bỏ vào năm thứ 13; Tôm chế biến xóa bỏ vào năm thứ 12. Cá ngừ chế biến xóa bỏ thuế vào năm thứ 16, trong đó giữ nguyên mức thuế cơ sở trong 5 năm đầu tiên rồi giảm dần về 0%. - Gạo: Thóc, gạo lứt và gạo tấm xóa bỏ thuê ngay khi Hiệp định có hiệu lực; các mặt hàng gạo xay xát sẽ giảm về 0% vào năm thứ 10. - Dệt may: Xóa bỏ thuế theo lộ trình và tối đa vào năm thứ 16. - Giày dép: Xóa bỏ thuế theo lộ trình và tối đa vào năm thứ 13. - Túi xách: Xóa bỏ thuế vào năm thứ 10. - Cà phê: Xóa bỏ thuế cà phê hạt Robusta vào năm thứ 16, cà phê hạt Arabica và cà phê chế biến giảm mức thuế suất 50% so với mức thuế hiện hành vào năm thứ 5 và năm thứ 10 kể từ khi Hiệp định có hiệu lực. - Gạo: Xóa bỏ thuế vào năm thứ 11. 5. Cam kết của Pê-ru Pê-ru cam kết xóa bỏ tới 80,7% số dòng thuế ngay khi Hiệp định có hiệu lực, tương đương 62,1% kim ngạch nhập khẩu từ VN (15,6 triệu USD) và sẽ xóa bỏ thuế quan đối với 99,4% tổng số dòng thuế vào năm thứ 17. Pê-ru duy trì thuế theo biến động giá đối với 47 dòng thuế gồm sữa, ngô, gạo, đường. Các mặt hàng nông sản có thế mạnh xuất khẩu của Việt Nam như điều, chè, tiêu, rau quả, một số loại cà phê đều được xóa bỏ thuế quan ngay khi Hiệp định có hiệu lực. Nhóm mặt hàng dệt may, giày dép lại có lộ trình cắt giảm dài, xóa bỏ thuế nhập khẩu vào năm thứ 10 đến năm thứ 16 kể từ khi Hiệp định có hiệu lực. 6. Cam kết của Úc Tổng số 93% số dòng thuế của Úc, tương đương 95,8% kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang thị trường này (2,9 tỷ USD) sẽ được xóa bỏ thuế ngay khi thực hiện Hiệp định. Các sản phẩm còn lại sẽ được xóa bỏ thuế với lộ trình cắt giảm cuối cùng tối đa vào năm thứ 4. 7. Cam kết của Niu-di-lân Niu-di-lân sẽ xóa bỏ 94,6% số dòng thuế cho Việt Nam ngay khi Hiệp định có hiệu lực, tương đương 69% kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang thị trường này (101 triệu USD). vào năm thứ 7 năm kể từ khi thực hiện Hiệp định, các dòng thuế còn lại sẽ dần được xóa bỏ hoàn toàn. 8. Cam kết của Xinh-ga-po Xinh-ga-po xóa bỏ hoàn toàn thuế quan đối với tất cả các mặt hàng ngay khi thực hiện Hiệp định. 9. Cam kết của Ma-lai-xi-a Ma-lai-xi-a cam kết xóa bỏ ngay đối với 84,7% số dòng thuế khi Hiệp định có hiệu lực và xóa bỏ dần có lộ trình đối với các dòng thuế còn lại. Vào năm thứ 11, tổng số dòng hàng cam kết xóa bỏ thuế nhập khẩu của Ma-lai-xi-a lên tới 99,9%. Ma-lay-xi-a áp dụng hạn ngạch thuế đối với 15 dòng thuế trứng gia cầm, thị gà, thịt lợn và thịt bò. 10. Cam kết của Chi-lê Chi - lê cam kết xóa bỏ đối với 95,1% số dòng thuế ngay khi Hiệp định có hiệu lực, tương đương 60,2% kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang Chi-lê (76 triệu USD). Vào năm thứ 8, Chi-lê sẽ xóa bỏ 99,9% số dòng thuế, tương ứng với 100% kim ngạch nhập khẩu từ Việt Nam. Các mặt hàng nông sản, thủy sản có thế mạnh xuất khẩu của Việt Nam đều được xóa bỏ thuế ngay khi Hiệp định có hiệu lực. Giày dép, cao su sẽ được xóa bỏ thuế theo lộ trình tối đa vào năm thứ 4. Mặt hàng dệt may sẽ được xóa bỏ tối đa vào năm thứ 8. 11. Cam kết của Bru-nây Ngay tại thời điểm bắt đầu thực hiện Hiệp định, Bru-nây sẽ xóa bỏ 92% số dòng thuế đối với hàng hóa nhập khẩu từ Việt Nam (tương đương 7.639 dòng) và sẽ xóa bỏ tới 99,9% vào năm thứ 7 và sẽ xóa bỏ hoàn toàn thuế nhập khẩu vào năm thứ 11. III. Cam kết về thuế Nhập khẩu của Việt Nam dành cho các nước Việt Nam cam kết xóa bỏ gần 100% số dòng thuế trong Hiệp định TPP, theo đó: - 65,8% số dòng thuế có thuế suất 0% ngay khi Hiệp định có hiệu lực; - 86,5% số dòng thuế có thuế suất 0% vào năm thứ 4 kể từ khi Hiệp định có hiệu lực; - 97,8% số dòng thuế có thuế suất 0% vào năm thứ 11kể từ khi Hiệp định có hiệu lực; - Các mặt hàng còn lại cam kết xoá bỏ thuế nhập khẩu với lộ trình xóa bỏ thuế tối đa vào năm thứ 16 hoặc theo hạn ngạch thuế quan. Cam kết về thuế nhập khẩu của Việt Nam đối với một số nhóm mặt hàng cụ thể như sau: 1. Sản phẩm công nghiệp - Ô tô: xóa bỏ thuế vào năm thứ 13 đối với các loại ô tô mới, riêng ô tô con có dung tích xi lanh từ 3000cc trở lên có lộ trình xóa bỏ vào năm thứ 10;. Áp dụng hạn ngạch thuế quan đối với ô tô cũ với lượng hạn ngạch ban đầu là 66 chiếc, lượng hạn ngạch sẽ tăng dần và đạt 150 chiếc kể từ năm thứ 16. Thuế trong hạn ngạch giảm về 0% vào năm thứ 16, thuế ngoài hạn ngạch thực hiện theo mức thuế suất MFN. - Sắt thép, xăng dầu: chủ yếu xóa bỏ thuế vào năm thứ 11. - Nhựa và sản phẩm nhựa; Hóa chất và sản phẩm hóa chất; Giấy, đồ gỗ; Máy móc, thiết bị: phần lớn xóa bỏ thuế ngay khi Hiệp định có hiệu lực, một số loại xóa bỏ vào năm thứ 4. - Dệt may, giày dép: xóa bỏ thuế ngay khi Hiệp định có hiệu lực. - Rượu bia: xoá bỏ thuế nhập khẩu vào năm thứ 3 đối với rượu sake, các mặt hàng còn lại xóa bỏ thuế vào năm thứ 11, một số loại vào năm thứ 12. 2. Sản phẩm nông nghiệp và thuỷ sản - Thịt gà: xóa bỏ thuế nhập khẩu sau vào năm thứ 11/12. - Thịt lợn: xóa bỏ thuế nhập khẩu vào năm thứ 10 đối với thịt lợn tươi vào năm thứ 8 năm đối với thịt lợn đông lạnh. - Gạo: xóa bỏ ngay khi Hiệp định có hiệu lực. - Ngô: xóa bỏ sau vào năm thứ 5 một số loại xoá bỏ vào năm thứ 6. - Sữa và sản phẩm sữa: xóa bỏ ngay khi Hiệp định có hiệu lực, một số loại xoá bỏ vào năm thứ 3. - Thực phẩm chế biến từ thịt: xóa bỏ vào năm thứ 8 đến năm thứ 11, chế biến từ thủy sản xóa bỏ vào năm thứ 5. - Mặt hàng đường, trứng, muối: xóa bỏ thuế trong hạn ngạch của WTO vào năm thứ 6 đối với mặt hàng trứng và vào năm thứ 11 đối với mặt hàng đường, muối. Thuế ngoài hạn ngạch giữ như mức MFN. - Lá thuốc lá: xóa bỏ thuế trong hạn ngạch vào năm thứ 11 đối với lượng hạn ngạch 500 tấn, mỗi năm tăng thêm 5% trong vòng 20 năm. Thuế suất ngoài hạn ngạch duy trì ở mức MFN đến năm thứ 20, đến năm 21 thuế nhập khẩu về về 0%. - Thuốc lá điếu: xoá bỏ thuế nhập khẩu vào năm thứ 16. - Phân bón: xóa bỏ thuế nhập khẩu ngay khi Hiệp định có hiệu lực. IV. Cam kết về thuế xuất khẩu của Việt Nam Trong TPP có 3 nước áp dụng thuế xuất khẩu là Việt Nam, Malaysia và Canada. Cả 3 nước cam kết xoá bỏ thuế xuất khẩu, ngoại trừ các nhóm mặt hàng được bảo lưu. Việt Nam cam kết xóa bỏ thuế xuất khẩu đối với phần lớn các mặt hàng hiện đang áp dụng thuế xuất khẩu, cơ bản theo lộ trình từ 5-15 năm sau khi Hiệp định có hiệu lực. Một số nhóm mặt hàng quan trọng như than đá, dầu mỏ và một số loại quặng, khoáng sản (70 mặt hàng) được tiếp tục duy trì thuế xuất khẩu, cụ thể: - Nhóm khoáng sản: cát (Ch.25), đá phiến (2514), đá làm tượng đài hoặc xây dựng (2516), quặng dolomite (2518), quặng amiăng (2524), đá vôi (2521), quặng steatit (2526). - Nhóm quặng: quặng đồng (2603), cô ban (2605), quặng nhôm (2606), quặng chì (2607), quặng kẽm (2608), quặng urani (2612), quặng thori (2612), quặng titan (2614), quặng zircon (2615), quặng vàng (2616) và quặng antimon (2617). - Nhóm than: than đá (2701), than non (2702), than bùn (2703), và dầu thô (2709). - Nhóm vàng (7108) và vàng trang sức (7113-7115). V. Cam kết trong lĩnh vực dịch vụ tài chính của Việt Nam Hiệp định TPP là một Hiệp định theo mô hình FTA thế hệ mới không chỉ tập trung vào tự do hóa đối với lĩnh vực thương mại hàng hóa mà còn mở rộng đối với lĩnh vực dịch vụ và đầu tư, trong đó có các ngành dịch vụ tài chính. Các nước TPP phải cam kết tuân thủ các nghĩa vụ mở cửa thị trường dịch vụ theo cách tiếp cận chọn bỏ, ngoại trừ những lĩnh vực được đưa vào danh mục bảo lưu có chọn lọc. Trong lĩnh vực dịch vụ tài chính, Bộ Tài chính chịu trách nhiệm cam kết đối với dịch vụ chứng khoán và bảo hiểm Các cam kết thuộc Chương dịch vụ tài chính của Hiệp định TPP tạo ra 3 thành tố cơ bản hướng tới đẩy mạnh sự phát triển của thị trường dịch vụ tài chính ở Việt Nam gồm: (i) Mở rộng cam kết về mở cửa thị trường đi kèm với cơ chế minh bạch hóa tạo cơ hội tiếp cận thị trường tốt hơn cho các nhà đầu tư nước ngoài; (ii) Áp dụng cơ chế bảo hộ đầu tư nhằm đảm bảo đầy đủ lợi ích của các nhà đầu tư; (iii) Đảm bảo không gian chính sách để thực hiện các biện pháp quản lý thận trọng nhằm xây dựng một nền tài chính vĩ mô ổn định. Cụ thể như sau: - Về mở rộng cam kết về mở cửa thị trường đi kèm với cơ chế minh bạch hóa: So với cam kết WTO, Việt Nam cam kết mở cửa bổ sung đối với một số loại hình dịch vụ mới nhằm tạo cơ hội tiếp cận thị trường cho các nhà cung cấp dịch vụ nước ngoài như: (i) mở cửa dịch vụ nhượng tái bảo hiểm qua biên giới; (ii) dành đối xử quốc gia cho các nhà cung cấp dịch vụ chứng khoán nước ngoài đối với một số dịch vụ như xử lý dữ liệu tài chính qua biên giới; dịch vụ tư vấn và các dịch vụ phụ trợ qua biên giới liên quan tới giao dịch tài khoản tự doanh hoặc tài khoản của khách hàng; (iii) mở cửa dịch vụ quản lý danh mục đầu tư qua biên giới. - Về cơ chế bảo hộ nhà đầu tư nước ngoài: mở cửa thị trường dịch vụ tài chính kết hợp với nghĩa vụ bảo hộ đầu tư thông qua việc bổ sung các nghĩa vụ cam kết liên quan đến bảo hộ đầu tư như cơ chế giải quyết tranh chấp, nguyên tắc đối xử tối thiểu MST. Trong đó, cơ chế giải quyết tranh chấp được quy định chi tiết theo các cấp độ: Nhà nước và Nhà nước và Nhà đầu tư và Nhà nước, đặc biệt cơ chế Nhà đầu tư với Nhà nước cho phép đảm bảo đầy đủ quyền lợi của các nhà đầu tư khi tham gia thị trường. Quy trình giải quyết tranh chấp được quy định rõ ràng, cụ thể đảm bảo tính minh bạch, có hiệu quả. - Về việc đảm bảo không gian chính sách để thực hiện các biện pháp quản lý thận trọng cho các nước: TPP cho phép các nước áp dụng các ngoại lệ cần thiết, tạo ra không gian chính sách gồm các biện pháp thận trọng, các biện pháp bảo vệ an ninh quốc gia, quyền lợi và thông tin cá nhân; chính sách về tỷ giá, tiền tệ nhằm đảm bảo một môi trường đầu tư ổn định, an toàn. Bên cạnh đó, TPP ràng buộc nghĩa vụ các nước thành viên phải tuân thủ nguyên tắc “chỉ tiến không lùi” trong việc điều hành chính sách đối với các ngành dịch vụ, theo đó nếu Việt Nam điều chỉnh, sửa đổi quy định pháp luật trong nước theo hướng tự do hóa hơn, thông thoáng hơn so với mức cam kết ban đầu thì sẽ tự động trở thành nghĩa vụ ràng buộc, không được ban hành chính sách quay trở lại mức cam kết ban đầu. Bên cạnh đó, các nước TPP phải đảm bảo thực hiện các quy trình thủ tục cấp phép nhanh chóng và thuận tiện, tuân thủ thời gian phê duyệt hồ sơ cấp phép cho các nhà đầu tư nước ngoài không quá 120 ngày. Các cam kết trong lĩnh vực bảo hiểm, chứng khoán được kỳ vọng sẽ tạo điều kiện thúc đẩy các cơ hội đầu tư, góp phần đẩy mạnh sự phát triển của thị trường dịch vụ tài chính ở Việt Nam. VI. Cam kết trong lĩnh vực Hải quan Chương cam kết về Hải quan bao gồm 12 Điều, trong đó quy định các cam kết về nghiệp vụ chính như: Quy định về thời gian giải phóng hàng chuyển phát nhanh trong vòng 6 tiếng; quy định về cơ chế ban hành xác định trước đối với các lĩnh vực mã số, phương pháp xác định trị giá và xuất xứ hàng hóa, cơ chế giám sát đối với xuất xứ hàng hóa; quy định cụ thể về thời gian giải phóng hàng hóa trong vòng 48 tiếng khi hàng hóa nhập cảnh hải quan và có cơ chế cho phép thông tin được xử lý bằng phương thức điện tử trước khi hàng đến nhằm nhanh chóng giải phóng hàng; quy định quản lý rủi ro... Riêng đối với quy định về trị giá tối thiểu vẫn thực hiện theo luật của quốc gia. Một vấn đề mà Hiệp định TPP tác động lớn đến công tác quản lý hải quan là quy định cơ chế tự chứng nhận xuất xứ trong thủ tục kiểm tra và xác định xuất xứ cho hàng hóa xuất nhập khẩu với thời gian chuyển đổi tối đa 10 năm. Cơ chế này cho phép doanh nghiệp tự khai báo xuất xứ cho hàng hóa của mình thay cho cách thức quản lý hiện tại là doanh nghiệp phải nộp cho cơ quan hải quan giấy chứng nhận xuất xứ do cơ quan có thẩm quyền của nước xuất khẩu cấp. Điều này tạo thuận lợi tối đa cho doanh nghiệp xuất nhập khẩu và đơn giản hóa thủ tục hải quan. Hiện nay trong khuôn khổ ASEAN, Việt Nam đang tham gia thực hiện thí điểm cơ chế tự chứng nhận xuất xứ là một bước quan trọng chuẩn bị cho công tác triển khai sau này./. Nguồn: Trung tâm WTO
Cách đây một thời gian, Luật Nông trại Mĩ (Farm Bill) gây lo lắng cho người nông dân Việt Nam khi đặt ra hàng loạt tiêu chuẩn đối với mặt hàng cá tra khi xuất khẩu sang thị trường Mĩ. Giờ đây khi Farm Bill sắp có hiệu lực thì liệu TPP có “cứu nổi” cá tra Việt Nam. Farm Bill – nổi lo người nông dân Việt Vài tháng trước đây, Farm Bill vấp phải sự tranh cãi dữ dội của cộng đồng quốc tế nói chung và người nông dân Việt Nam nói riêng khi đặt ra những tiêu chuẩn hết sức khắc khe đối với mặt hàng cá tra. Yêu cầu của đạo luật này là môi trường nuôi tại Việt Nam phải có sự tương đồng với môi trường nuôi tại Mĩ thì mặt hàng cá tra mới thỏa mãn điều kiện xuất khẩu. Tưởng chừng mọi chuyện sẽ lắng xuống, nhưng chỉ ít tháng nữa thôi, tháng 3/2016 Luật Farm Bill sẽ chính thức có hiệu lực khi đó Mỹ sẽ thiết lập chương trình giám sát đối với loài cá Siluriformes và đương nhiên có cả cá tra Việt Nam. Ban đầu, Trong luật Farm Fill không có tên cá tra (pangasius) trong danh mục quản lý của Bộ Nông nghiệp Mỹ. Tuy nhiên đến 2014, sau khi Hạ viện Mỹ chính thức thông qua Luật Nông trại, loài cá tra được nêu tên trong mục nhỏ của Luật, kéo theo bộ Siluriformes ( cá da trơn ) trên toàn thế giới, bao gồm tại các nước Châu Á như Indonesia, Ấn Độ và cá nheo của Mỹ. Việc quản lý cá tra (pangasius) thay vì thuộc về FDA thì sẽ chuyển sang USDA (Bộ Nông nghiệp Mỹ). Theo Luật này, FSIS ( ban quản lý thực phẩm nông nghiệp an toàn và dịch vụ kiểm soát của Mỹ) sẽ tổ chức một quy trình giám sát chặt chẽ từ khâu sản xuất, chế biến đối với cá tra, cá basa của tất cả các nước nhập khẩu vào Mỹ và các mặt hàng này phải thỏa mãn tiêu chuẩn tương đương tiêu chuẩn Mỹ áp dụng. Vậy có thể hiểu đơn giản rằng, nếu muốn nhập khẩu cá tra, cá basa Việt Nam vào Mỹ thì phải chứng minh được sự tương đồng trong môi trường nuôi tại Việt Nam và tại Mỹ là một. Nói thêm về tiêu chuẩn nuôi cá tra, cá basa tại Mỹ: Do điều kiện địa hình, khí hậu, luật pháp mỗi quốc gia khác nhau nên tại Mỹ người nông dân phải nuôi cá tra trong giếng khoang, còn ao nuôi do không được đào sâu nên không dùng để nuôi. Tuy nhiên tại Việt Nam, với lưu lượng nước lớn, dồi dào từ hệ thống sông Mekong đem lại nên người dân nuôi cá trong các ao hồ. Do đó, xét về môi trường nuôi tại Việt Nam và tại Mĩ là hoàn toàn khác nhau và khó lòng thống nhất chung như nhau. Đối đầu cùng TPP Có thể thấy ngay rằng, những tiêu chuẩn mà luật Nông trại nước Mĩ đưa ra là mang tính áp đặt, khắt khe cao đối với các mặt hàng xuất khẩu nói chung và mặt hàng cá da trơn nói riêng. Hay nói đúng hơn thì họ sử dụng những tiêu chí phù hợp với chính nước họ để áp dụng cho một quốc gia khác, gây ra sự chênh lệch về tiêu chuẩn, khó khăn trong khâu sản xuất, chế biến, xuất nhập khẩu. Không bàn thêm về Luật Farm Bill nói gì, nhưng trước mắt ta thấy rằng Hiệp định TPP đã được đạt được thỏa thuận với 30 chương, ngay tại Chương 7 Hiệp định TPP có nói về vấn đề Biện pháp vệ sinh và kiểm dịch. Theo đó, TPP không quy định cụ thể một tiêu chuẩn nào để đánh giá một mặt hàng, nhưng hiệp định có ghi rõ tất cả các khâu sẽ sử dụng nguyên tắc khoa học tức một mặt hàng được coi là an toàn cho đến khi nó được chứng minh là có độc. Vậy tức mặt hàng cá tra, cá basa Việt Nam vốn là một mặt hàng an toàn và nếu Mĩ muốn đặt ra quy định theo Farm Bill thì phải chứng minh mặt hàng cá da trơn này không an toàn, không thỏa mãn điều kiện. Thứ hai: Tiêu chuẩn mà Hiệp định TPP muốn đề cập là Tiêu chuẩn quốc tế của Ủy ban Codex CAC cấp, chứ không phải tiêu chuẩn của riêng một quốc gia nào. Theo đó, nếu mặt hàng cá da trơn Việt Nam thỏa mãn các tiêu chí được đặt ra theo quy định về tiêu chuẩn an toàn của CAC thì cũng đồng nghĩa thỏa mãn các tiêu chuẩn của Hiệp định TPP. Do đó, Mĩ phải áp dụng tiêu chí kiểm tra vệ sinh theo tiêu chí quốc tế chứ không phải tiêu chí của riêng Mĩ đặt ra. Thứ ba: Điều 7.9 Hiệp định TPP có quy định về biện phá vệ sinh, kiểm dịch: Mỗi Bên bảo đảm rằng các biện pháp vệ sinh và kiểm dịch của mình hoặc tuân thủ với các tiêu chuẩn quốc tế, hướng dẫn hay khuyến nghị có liên quan hoặc, trong trường hợp không tuân thủ các tiêu chuẩn quốc tế, hướng dẫn hay khuyến nghị, được dựa trên bằng chứng khoa học khách quan và có tài liệu hướng dẫn có liên quan một cách hợp lý đến các biện pháp,... Do vậy, mặt hàng cá da trơn Việt Nam khi xuất khẩu sẽ được xem là an toàn, nếu Mĩ muốn loại trừ khả năng nhập khẩu vào nước này thì Mĩ phải có sự chứng minh khoa học rằng mặt hàng cá da trơn không thỏa mãn các tiêu chí thuộc tiêu chuẩn quốc tế của CAC chứ không được tự tiện sử dụng tiêu chí trong Farm Bill. Lối thoát Farm Bill Tháng 3/2016 Luật Nông trại Mỹ sẽ có hiệu lực, có lẽ đây là điểm khó khăn cho người nông dân Việt Nam. Tuy nhiên vẫn còn cách giải quyết mới đó là khi Hiệp định TPP chính thức có hiệu lực, khi Mĩ buộc phải tuân theo những quy định chung của TPP. Khi đó giữa Việt Nam và Mĩ có thể đạt được hướng giải quyết chung thông qua sự thỏa thuận, đàm phán giữa hai bên. Tuy nhiên trong trường hợp không đạt được thỏa thuận thì Việt Nam có quyền kiện Mỹ ra Tòa án tư pháp quốc tế theo Điều 28 Hiệp định TPP. Tuy nhiên, nếu thật sự kiện tụng xảy ra thì chẳng khác nào Việt Nam đang "tát" vào mặt Mỹ bởi lẽ cách đây một thời gian Mỹ đã từng kiện Nhật lên WTO về SPS ( mặt hàng táo). Qua vụ kiện này, WTO công nhận các nước không được phép sử dụng các biện pháp SPS khác mà không được cộng đồng quốc tế công nhận, trừ khi có bằng chứng khoa học khác.
Re:Tham gia Hiệp định TPP hàng Việt khó sống ?!
Hiệp định TPP: Nếu hàng hóa ồ ạt? Với những thỏa thuận trong Hiệp định thương mại đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP), điều mà hầu hết các nhà xuất khẩu mong muốn chính là vấn đề giảm, miễn thuế quan và đó không chỉ riêng các nhà xuất khẩu mà còn là sự mong muốn của người dân thuộc Bên nhập khẩu, cũng như là sự lo lắng của các nhà nhập khẩu. Thuế giảm, cạnh tranh tăng: Nhìn nhận chung phải nó rằng Hiệp định TPP luôn tạo sự cân bằng giữa hai Bên Xuất - Nhập khẩu, khi mà Bên xuất khẩu sẽ được miễn, giảm, nhận được ưu đãi thuế quan còn Bên Nhập khẩu sẽ nhận được một lượng lớn hàng hóa chất lượng, theo một quy trình chuẩn mực nhập vào. Điều đó không những thúc đẩy phát triển một nền kinh tế hàng hóa, thị trường năng động mà còn nâng cao chất lượng cuộc sống người dân. Có thể nói rằng, Hiệp định TPP như một nguồn gió mới thổi vào thị trường của mỗi quốc gia, nó buộc mỗi doanh nghiệp phải tự mình vận động nhiều hơn nữa trước khi "sức ì" quá lớn, đè bẹp danh nghiệp đó trong nền kinh tế TPP. Tuy nhiên song hành cùng lợi ích là những bất cập, khi một lượng hàng hóa được đánh thuế rẻ, tạo nhiều điều kiện xuất khẩu, nhập vào các quốc gia thì cũng đồng nghĩa tăng tỷ lệ cung vượt quá cầu, hàng hóa ế thừa. Chính khi ấy sự cạnh tranh càng trở nên quyết liệt hơn bao giờ hết, khi mà lần lượt các doanh nghiệp không đủ "sức bật, sức vươn" lần lượt phá sản, vỡ nợ, sát nhập... còn các doanh nghiệp xuyên quốc gia thì không ngừng mở rộng phạm vi, quy mô ảnh hưởng lớn hơn, tạo thành một tập đoàn lớn mạnh đôi khi còn chi phối cả nền kinh tế của một khu vực. Hiệp định TPP - rào chắn bảo vệ: Nếu tồn tại trong môi trường do TPP đem lại buộc bạn phải tự mình đứng lên, chạy theo cùng thời gian để phát triển hoặc tuột lại mãi mãi. Nhưng cũng không thể nói rằng TPP sẽ luôn bỏ rơi bạn, bởi lẽ những thỏa thuận trong TPP không những tạo ra cơ chế thúc đẩy mà còn kìm hãm nếu sự phát triển đó vượt qua xa sự kiểm soát và đi lệch mục đích bạn đầu. Tại điều 4.3 Hiệp định TPP về Hành động khẩn cấp có ghi rõ quyền hạn của Bên Nhập khẩu trong trường hợp chịu ảnh hưởng quá lớn từ Bên xuất khẩu, chẳng hạn nếu việc giảm hoặc xóa bỏ thuế quan mà làm tăng đột biến số lượng nhập khẩu một mặt hàng dệt may vào lãnh thổ một Bên, gây ảnh hưởng, thiệt hại ngiêm trọng đến thị trường của một Bên, khiến ngành công nghiệp trong nước đang sản xuất mặt hàng gặp phải khó khăn cạnh tranh thì Bên nhập khẩu có quyền hành động khẩn cấp trong phạm vi quyền hạn, thời gian cho phép để ngăn chặn hoặc khắc phục thiệt hại. Cụ thể quyền hạn đó chính là khả năng tăng thuế suất đối đối mặt hàng của một hoặc nhiều Bên xuất khẩu nhưng không vượt quá hai giá trị sau: + Thuế suất tối huệ quốc có hiệu lực tại thời điểm thực hiện hành động; + Thuế suất tối huệ quốc có hiệu lực vào ngày liền trước ngày Hiệp định này có hiệu lực đối với Bên đó. Cần lưu ý rằng quy định về quyền hạn này của Bên nhập khẩu hông hề vi phạm giới hạn quyền, nghĩa vụ một Bên theo Điều XIX GATT 1994, Hiệp định WTO ( về vấn đề biện pháp tự vệ), Chương 6 Hiệp định TPP về Biện pháp khắc phục thương mại. Trong trường hợp sau khi xác định được thiệt hại nghiêm trọng, nguy cơ gây thiệt hại ngiêm trọng. Bên nhập khẩu phải tiến hành các hoạt động sau: + Xem xét khả năng ảnh hưởng tăng số lượng nhập khẩu các mặt hàng dệt may của Bên xuất khẩu từ việc ưu đãi thuế quan, điều đó được phản ánh thông qua việc thay đổi các biến kinh tế liên quan như sản lượng, năng suất, tận dụng công suất, hàng tồn kho, thị phần, xuất khẩu, tiền lượng, việc làm, giá cả trong nước, lợi nhuận và đầu tư, trong đó không có yếu tố nào, dù đứng một mình hay đi kèm với các yếu tố khác, nhất thiết phải có tính quyết định; + Các thay đổi về công nghệ, xu hướng tiêu dùng trong Bện nhập khẩu không được xem như yếu tố hỗ trợ cho việc xác định thiệt hại nghiêm trọng hoặc nguy cơ gây thiệt hại nghiêm trọng. Điều kiện tiến hành hoạt động khẩn cấp: Bên nhập khẩu chỉ được tiến hành thực hiện hoạt động khẩn cấp sau khi công bố thủ tục. Thủ tục phải nêu rõ tiêu chí xác định thiệt hại nghiêm trọng và sau khi cơ quan có thẩm quyền của Bên nhập khẩu điều tra. + Cuộc điều tra phải sử dụng dữ liệu dựa trên yếu tố miêu tả trong điểm 3a Hiệp định TPP nhằm chứng minh thiệt hại ngiêm trọng hoặc nguy cơ gây thiệt hại do tăng số lượng nhập khẩu của sản phẩm liên quan từ việc thực hiện Hiệp định này. Nghĩa vụ Bên nhập khẩu: Nộp cho Bên xuất khẩu thông báo bằng văn bản về việc tiến hành điều tra theo quy định tại khoản 4 TPP, bao gồm cả ý định trong việc thực hiện hành động khẩn cấp, tham vấn với các Bên xuất khẩu về vấn đề này theo yêu cầu. Bên nhập khẩu phải cung cấp cho Bên xuất khẩu chi tiết hành động khẩn cấp dự định thực hiện. Trừ trường hợp có quyết định khác, các Bên liên quan phải bất đầu tham vấn ngay nhằm hoàn thành cuộc tham vấn trong 60 ngày kể từ ngày nhận được yêu cầu. Sau khi các cuộc tham vấn hoàn thành, Bên nhập khẩu phải thông báo cho Bên xuất khẩu các quyết định. Nếu quyết định áp dụng một biện pháp tự vệ, thông bảo phải bao gồm các chi tiết về biện pháp đó và thời điểm biện pháp đó có hiệu lực. Khi tiến hành HĐKC: +Bên tiến hành phải bồi thường tự do hóa thương mại cho một hoặc nhiều Bên xuất khẩu có hàng hóa bị áp dụng biện pháp khẩn cấp. Bồi thường dưới dạng thuế suất ưu đãi có tác động thương mại tương đương giá trị các loại thuế bổ sung được cho là kêt quả của hành động khẩn cấp. + Thuế suất ưu đãi phải trong giới hạn phạm vi hàng dệt may, trừ trường hợp các Bên có thỏa thuận khác. + Nếu không đạt được thỏa thuẫn giữa các Bên về bồi thường trong vòng 60 ngày hoặc một thời hạn dài hơn do các Bên liên quan thỏa thuận, các Bên có hàng hóa bị áp dụng HĐKC có quyền thực hiện biện pháp thuế quan đối có tác động thương mại tương đương với tác động thương mại của HĐKC. + Nghĩa vụ đền bù thương mại của Bên nhập khẩu, quyền thực hiện biện pháp thuế quan của Bên xuất khẩu chấm dứt khi hành động khẩn cấp chấm dứt. Điều kiện, giới hạn áp dụng: + Hành động khẩn cấp (HĐKC) không kéo dài quá 2 năm, có thể gia hạn tối đa 2 năm; + Bên nhập khẩu không thực hiện HĐKC với một mặt hàng cụ thể của một hoặc nhiều Bên nhiều hơn một lần; + Khi chấm dứt HĐKC, Bên nhập khẩu phải cho mặt hàng bị áp dụng HĐKC hưởng ưu đãi thuế quan mà mặt hàng đó đáng lẽ ra được hưởng trong thời gian thực hiện HĐKC. Trường hợp ngoại lệ: Các bên không được thực hiện, duy trì hành động khẩn cấp nếu hàng hóa dệt may là đối tượng của một biện pháp tự vệ chuyển tiếp theo Chương 6 TPP hoặc một biện pháp tự vệ do một Bên thực hiện theo Điều XIX GATT 1994, Hiệp định WTO về các biện pháp tự vệ. Thủ tục tiến hành do mỗi Bên ban hành. Khi Hiệp định này có hiệu lực hoặc trước khi tiến hành một cuộc điều tra, mỗi Bên phải thông báo cho các Bên khác về các thủ tục. Trên đây là những quyền hạn mà Hiệp định TPP cho phép Bên nhập khẩu thực hiện khi đứng trước sức ép từ hàng hóa ồ ạt của Bên xuất khẩu. Tuy nhiên mọi hoạt động phải tuân theo những quy định từ thủ tục, yêu cầu, nghĩa vụ, thời gian, phạm vi… nhằm đảm bảo quyền lợi cao nhất cho mỗi Bên.
Re:Tham gia Hiệp định TPP hàng Việt khó sống ?!
TPP VÀ SỨC ÉP VỚI RCEP Hiệp định TPP đã đi đến những thống nhất chung về các thỏa thuận, đây là tín hiệu đáng mừng cho 12 quốc gia là các nước thành viên TPP song cũng là điều đáng lo ngại đối với các nước vừa tham gia TPP lẫn RCEP, bởi lẽ dưới những tác động của Hiệp định thế kỷ TPP này thì RCEP sẽ chịu không ít ảnh hưởng. Sức ép từ TPP Trước tiên về vấn đề thời gian, Hiệp định TPP đã thống nhất các thỏa thuận chung giữa 12 quốc gia và chỉ chờ Quốc hội các nước phê chuẩn, ngay cả những vấn đề khó thống nhất như: sở hữu sinh dược, tỷ lệ % phụ tùng ô tô, sản phẩm bơ, sửa... cũng đã thống nhất. Trong khi đó các sản phẩm đó cũng liên quan đến các nước tham gia RCEP, đặc biệt là với 7 nước tham gia cả 2 hiệp định. Bên cạnh đó cạnh tranh xuất khẩu khá lớn từ phía TPP, dẫu rằng những quy định từ TPP trong khâu xuất nhập khẩu là hết sức khắt khe, từ nguyên liệu hàng hóa, quy trình sản xuất, thuế quan, vận chuyển,... song không một quốc gia nào dám phủ nhận cái giá mà TPP sẽ trả cho họ là quá hấp dẫn, vì thế dẫu có yêu cầu phức tạp thế nào đi nữa thì các nước thành viên TPP cũng sẽ cố hưởng được cái lợi này, song với RCEP thì khác khi mà các nước thành viên chỉ chú trọng tập trung đầu tư cho TPP thì RCEP sẽ thế nào, liệu họ sẽ chỉn chu như thế không? Ngoài ra là tiêu chuẩn, như đã nói thì tiêu chuẩn từ TPP luôn song hành từ giá trị mà nó đem lại, trong khi đó RCEP có vẻ "nhẹ nhàng" hơn với các nước thành viên, nhưng liệu một hiệp định khá lớn như RCEP sẽ chấp nhận duy trì tiêu chí thấp để dần hạ đi giá trị của chính mình. Theo một số chuyên gia, nếu RCEP nâng tiêu chí lên cao ngang ngữa TPP thì sẽ có một số nước mất đi chỗ đứng trong cạnh tranh, đặc biệt là ngành chế tạo sản phẩm công nghiệp. Gia tăng cạnh tranh. RCEP có lẽ khá hùng hậu hơn so với TPP về số lượng thành viên, đặc biệt là với sự tham gia của Trung Quốc - một cường quốc đang thu hút sự chú ý của cộng đồng quốc tế trong những thập kỷ gần đây. Việc Trung Quốc tham gia RCEP không chỉ xuất phát từ lợi ích thương mại của chính nước này mà còn là "sự đấu đá" trên chính trường thế giới, khi mà Hoa Kỳ là một điểm nhấn của TPP thì chính Trung Quốc là trụ cột đem RCEP đối đầu. Tuy nhiên theo giới quan sát cho biết, cách tiếp cận của hai Hiệp định có sự khác nhau, TPP nghiên về mô hình ưu tiên chất lượng, tiêu chuẩn rất cao từ vấn đề lao động, môi trường, sở hữu trí tuệ; còn RCEP thì nhẹ nhàng hơn, tiêu chuẩn chỉ cần phù hợp, hạn chế rào cản thương mại với từng quốc gia nhất là các nước chậm và đang phát triển. Do đó nếu tham gia TPP thì bạn như phải chạy theo một cách điên cuồng cùng nó, hoặc là bạn sẽ nhảy một bước thật xa hoặc là bạn sẽ bị nó bỏ lại một cách thê thảm; còn với RCEP nó như mộng cách cửa rộng mở với các nước còn khó khăn, nhưng cũng vì cánh cửa nó "rộng" quá nên tạo ra một sư so sánh khập khiển mỗi khi nhắc đến TPP. Dẫu có chung những mục tiêu nhưng tính cạnh tranh của TPP và RCEP là quá lớn, do đó nó sẽ là một nguy cơ lớn đối với quan hệ giữa các quốc gia, trước tiên là hai cường quốc Mỹ - Trung, bên cạnh còn có thể ảnh hưởng đến cả ASEAn và các nước thành viên khác, khiến cho vấn đề đối thoại khu vực không thể không quan tâm, nhất là với các nước tham gia cả hai hiệp định. Ngoài ra cũng chính vì tiêu chí được xem là quá mẫu mực của Hiệp định TPP mà nhiều chuyên gia đ1nh giá rằng RCEP sẽ vấp phải sự so sánh tiêu chí cùng TPP. Trong khi TPP đã khiến các nước châu Âu mất hàng chục năm thảo luận mới đạt đến sự thống nhất. Thời gian hoàn thành Những thông tin bên lề tại cuộc họp ở Busan (Hàn Quốc) cho biết thì 16 nước đối tác RCEP đang cố gắng hoàn tất quá trình đám phán vào cuối năm như kế hoạch đã định. Nhưng có thể do áp lực thời gian nên 16 nước phải có sự nổ lực hơn nữa, càng chậm thì càng chịu nhiều thiệt thòi. Nhưng có thể thấy trước mắt RCEP sẽ phải gặp khá nhiều khó khăn khi đàm phán song phương giữa các nước lớn như Ấn Độ, Trung Quốc, Nhật Bản. Ngoài ra do tiến hành sau TPP nhưng RCEP nảy sinh nhiều vấn đề hơn, chính áp lực thời gian khiến các nước đàm phán nhanh, nhưng càng nhanh thì khó lòng đảm bảo các tiêu chí chất lượng. Do đó nhiều luồng thông tin cho rằng RCEP khó có thể hoàn thành vào cuối năm. Là một quốc gia tham gia cả 2 hiệp định, Việt Nam cần phải nâng cao sự cẩn trọng trong đàm phán nhằm hóa giải các nguy cơ, đi đến thỏa thuận cuối cùng có lợi nhất cho các bên đàm phán cũng như cho cả khối. Với kinh nghiệm đàm phán qua nhiều hiệp định FTA khác nhau, các nhà hoạch định chính sách và đàm phán hội nhập kinh tế của Việt Nam đã được dự báo và trù liệu về vấn đề này. Kết quả cuối cùng của RCEP như thế nào vẫn còn đang là điều trông chờ từ dư luận.
Re:Tham gia Hiệp định TPP hàng Việt khó sống ?!
HIỆP ĐỊNH TPP: NGHĨA VỤ KHI XUẤT, NHẬP KHẨU Tham gia hiệp định TPP là cơ hội lớn cho mỗi nước thành viên trong việc tạo ra sức bật đưa nền kinh tế đi lên. Song để có thể hưởng được những lợi ích từ TPP đem lại, những là trong khâu xuất, nhập khẩu hàng hóa thì đòi hỏi mỗi nước thành viên phải có những nghĩa vụ nhất định Nghĩa vụ khi xuất khẩu Tại điều 3.24 Hiệp định TPP có quy định về nghĩa vụ của các nhà nhập khẩu, theo đó nếu nhà nhập khẩu muốn yêu cầu nhận được ưu đãi thuế quan phải thỏa mãn các điều kiện sau: + Lập tờ khai các hàng hóa thỏa mãn yêu cầu hàng hóa có xuất: Đối với một hàng hóa được xem là có xuất xứ đòi hỏi những quy định hết sức nghiêm ngặt, từ khâu sử dụng nguyên vật liệu sản xuất, quy trình sản xuất, đóng gói, quá trình vận chuyển...; + Sở hữu giấy chứng nhận xuất xứ hợp lệ tại thời điểm lập tờ khai; + Nếu Bên nhập khẩu yêu cầu thì nhà nhập khẩu phải cung cấp một bản sao giấy chứng nhận xuất xứ; + Nếu một Bên yêu cầu thì nhà nhập khẩu phải cung cấp các tài liệu có liên quan như chứng từ vận tải, chứng từ hải quan hoặc lưu trữ để chứng minh các yêu cầu trong quá cảnh và trung chuyển (Điều 3.18). Ngoài ra nếu nhà nhập khẩu lý do chính đáng về việc giấy chứng nhận xuất xứ được lập dựa trên những thông tin sai lệch có thể ảnh hưởng đến tính chính xác, hợp lệ của giấy chứng nhận xuất xứ, nhà nhập khẩu phải đính chính tài liệu nhập khẩu, nộp thuế hải quan và tiền phạt còn nợ (nếu có). Bên nhập khẩu không được xử phạt một nhà nhập khẩu chỉ vì lập một yêu cầu hưởng ưu đãi thuế quan không hợp lệ nếu nhà nhập khẩu đó tự phát hiện yêu cầu đó không hợp lệ trước khi Bên nhập khẩu phát hiện, tự giác điều chỉnh yêu cầu và nộp các loại thếu áp dụng trong các trường hợp quy định tại pháp luật của Bên nhập khẩu. Nghĩa vụ khi xuất khẩu: Nhà xuất khẩu, nhà sản xuất trong lãnh thổ của mình sau khi lập xong giấy chứng nhận xuất xứ phải nộp bản sao giấy chứng nhận xuất xứ đó cho Bên xuất khẩu theo yêu cầu của Bên xuất khẩu. Một giấy chứng nhận xuất xứ không đúng sự thật hoặc thông tin không đúng sự thật khác do một nhà xuất khẩu hoặc một Bên khác là có xuất xứ có những hậu quả pháp lý tương tự như nhà nhập khẩu trong lãnh thổ của Bên đó (với một số điều chỉnh phù hợp) khi kê khai hoặc trình bày không đúng sự thật liên quan đến việc nhập khẩu. Nếu một nhà xuất khẩu hoặc nhà sản xuất trong lãnh thổ của mình đã cung cấp một giấy chứng nhận xuất xứ và có lý do để tin rằng giấy chứng nhận đó có hoặc được lập dựa vào những thông tin không chính xác, nhà xuất khẩu hoặc nhà sản xuất phải thông báo ngay bằng văn bản cho những người và những Bên đã được nhà xuất khẩu hoặc nhà sản xuất cung cấp giấy chứng nhận xuất xứ đó về mọi thay đổi có thể ảnh hưởng đến tính chính xác hoặc tính hợp lệ của giấy chứng nhận xuất xứ.
Re:Tham gia Hiệp định TPP hàng Việt khó sống ?!
HIỆP ĐỊNH TPP: VẤN ĐỀ LƯU TRỮ HỒ SƠ VÀ XÁC NHẬN XUẤT XỨ Có thể nói rằng Hiệp định TPP khá khắt khe trong việc định ra chỉ tiêu chất lượng sản phẩm cũng như khắt khe trong khâu thủ tục giấy tờ, để đảm bảo có được lợi ích từ TPP đem lại, các nước tham gia phải tuân thủ nghiêm ngặt các quy định của TPP, nếu ở bài trước là những quy định để một hàng hóa được xem là có xuất xứ thì ở bài này sẽ là những quy định liên quan đến lưu trữ hồ sơ, xác nhận xuất xứ nhằm đảm bảo cho hàng hóa được xem là có xuất xứ. Yêu cầu lưu trữ hồ sơ Tại điều 3.26 Chương III Hiệp định TPP quy định nếu một nhà nhập khẩu có yêu cầu hưởng ưu đãi thuế quan cho hàng hóa nhập khẩu vào lãnh của Bên mình thì cần phải lưu trừ các tài liêu theo yêu cầu ít nhất 5 năm kể từ ngày nhập khẩu. Các tài liệu yêu cầu bao gồm: các tài liệu liên quan đến nhập khẩu, bao gồm cả giấy chứng nhận xuất xứ là cơ sở cho yêu cầu hưởng ưu đãi thuế quan; tất cả hồ sơ cần thiết nhằm chứng minh hàng hóa có xuất xứ, thỏa mãn các điều kiện ưu đãi thuế quan, nếu yêu cầu được dựa trên một giấy chứng nhận xuất xứ do nhà nhập khẩu lập. Ngoài ra khi cấp giấy chứng nhận xuất xứ thì nhà sản xuất, nhà xuất khẩu trong lãnh thổ của Bên xuất khẩu cũng phải lưu trữ lại tất cả hồ sơ cần thiết nhằm chứng minh hàng háo được cấp giấy chứng nhận xuất xứ là có ít nhất 5 năm kể từ ngay cấp giấy chứng nhận xuất xứ. Mỗi bên phải nổ lực để công khai thông tin về các loại hồ sơ mà có thể được sử dụng để chứng minh hàng hóa có xuất xứ. Các nhà nhập khẩu xuất khẩu, nhà sản xuất trong lãnh thổ của Bên nhập khẩu có thể lựa chọn hồ sơ quy định tại khoản 1 và 2 điều 3.26 Hiệp định TPP dưới bất kỳ hi2nht hức nào, miễn có thể truy xuất kịp thời, bao gồm định dạng điện tử, quang học, từ tính hoặc bằng văn bản quy định pháp luật của mình. Xác nhận xuất xứ: Nhằm xác định hàng hóa nhập vào lãnh thổ có xuất xứ hay không, Bên nhập khẩu có quyền tiến hành xác minh yêu cầu hưởng ưu đãi thuế quan theo bất kỳ hình thức nào sau đây: Văn bản yêu cầu cung cấp thông tin từ nhà nhập khẩu hàng hóa; Văn bản yêu cầu cung cấp thông tin từ nhà xuất khẩu hoặc nhà sản xuất hàng hoá; Xác nhận trực tiếp tại cơ sở của nhà xuất khẩu hoặc nhà sản xuất hàng hoá; Đối với hàng dệt may, là các thủ tục quy định tại Điều 4.6 (Xác minh); hoặc Các thủ tục khác do Bên nhập khẩu và Bên có trụ sở của nhà xuất khẩu hoặc nhà sản xuất quyết định. Văn bản đề nghị cung cấp thông tin, xác minh tại trụ sở bao gồm: yêu cầu cung cấp thông tin từ nhà nhập khẩu hàng hóa, yêu cầu cung cấp thông tin từ nhà xuất khẩu hoặc nhà sản xuất hàng hóa; xác nhận trực tiếp tại cơ sở của nhà sản xuất hoặc nhà sản xuất hàng hóa phải thỏa mãn các yêu cầu sau + Được lập bằng tiếng Anh hoặc ngôn ngữ chính thức của quốc gia của người nhận yêu cầu; + Bao gồm danh tính của cơ quan nhà nước lập yêu cầu; nêu rõ lý do yêu cầu, bao gồm các vấn đề cụ thể mà Bên yêu cầu đang tìm cách giải quyết thông qua việc xác minh; + Bao gồm đầy đủ thông tin để nhận dạng hàng hóa đang được xác minh; + Bao gồm một bản sao của thông tin liên quan đến hàng hóa được cung cấp, bao gồm giấy chứng nhận xuất xứ; và + Trong trường hợp xác minh tại trụ sở, yêu cầu có sự đồng ý bằng văn bản của nhà xuất khẩu hoặc nhà sản xuất sở hữu trụ sở nơi việc xác minh được tiến hành, và nêu rõ ngày và địa điểm dự kiến, và mục đích cụ thể của việc xác minh tại trụ sở. Trước khi ra quyết định bằng văn bản, Bên nhập khẩu có trách nhiệm thông báo kết quả kiểm tra cho nhà nhập khẩu, nhà sản xuất đã cung cấp thông tin trực tiếp cho mình, nếu Bên nhập khẩu có ý từ chối cho hưởng ưu đãi thuế quan, cho phép những đối tượng này ít nhất 30 ngày để cung cấp thông tin bổ sung liên quan đến xuất xứ của hàng hóa. Trách nhiệm Bên nhập khẩu: + Cung cấp nhà nhập khẩu quyết định bằng văn bản về việc hàng hóa có xuất xứ hay không ( có cơ sở ra quyết định) + Cung cấp nhà nhập khẩu, nhà xuất khẩu hoặc nhà sản xuất đã cung cấp thông tin trong quá trình xác minh hoặc đã xác nhận hàng hóa có xuất xứ kết quả xác minh và lý do. Trong quá trình xác minh, Bên nhập khẩu phải cho phép giải phóng hàng hóa tùy thuộc vào tình hình nộp thuế hoặc cung cấp bảo đảm theo quy định pháp luật của mình. Nếu sau khi xác minh, Bên nhập khẩu xác định rằng hàng hóa có xuất xứ, Bên nhập khẩu sẽ cho hàng hóa hưởng ưu đãi thuế quan và hoàn trả các khoản thuế nộp thừa hoặc các khoản đảm bảo, trừ trường hợp khoản bảo đảm có liên quan đến các nghĩa vụ khác. Nếu việc xác minh các hàng hoá giống hệt do một Bên tiến hành cho thấy các tuyên bố của một nhà nhập khẩu, nhà xuất khẩu hoặc nhà sản xuất rằng hàng hóa nhập khẩu vào Bên đó là có xuất xứ có xu hướng sai sự thật hoặc không có cơ sở, Bên đó có quyền không áp dụng ưu đãi thuế quan cho hàng hoá giống hệt được nhập khẩu, xuất khẩu hoặc sản xuất bởi đối tượng đó cho đến khi đối tượng đó chứng mình rằng hàng hoá giống hệt cũng thỏa điều kiện có xuất xứ. Trong phạm vi khoản này, "hàng hoá giống hệt" là những hàng hoá giống nhau về mọi mặt theo một quy tắc xuất xứ cụ thể nhằm xác định hàng hoá thỏa điều kiện có xuất xứ. Trong phạm vi một yêu cầu xác minh, thông tin liên hệ của nhà xuất khẩu, nhà sản xuất hoặc nhà nhập khẩu tại một Bên trong một giấy chứng nhận xuất xứ được xem là đầy đủ.
ĐIỀU KIỆN ĐỂ DẤU HIỆU ĐƯỢC XEM LÀ NHÃN HIỆU THEO HIỆP ĐỊNH TPP
Xin chào các thành viên của Dân Luật ! Tôi có một vấn đề mong mọi người có thể giải đáp giúp Theo hiệp định TPP thì điều kiện để một dấu hiệu là nhãn hiệu là như thế nào? Điều kiện để đăng ký nhãn hiệu theo hiệp định TPP ? Trân Trọng !
Gia nhập TPP: phải sửa 10 Bộ luật và Luật, 22 Nghị định và 2 Quyết định của Thủ tướng
http://www.youtube.com/watch?v=iwAQu-f1xDs Đây là một trong những nội dung quan trọng tại Hội nghị vừa được Ủy ban Đối ngoại và Ủy ban Pháp luật của Quốc hội phối hợp tổ chức sáng hôm qua 5/7. Nhiều ý kiến cho rằng Việt Nam mình sẽ phải sửa đổi, bổ sung hàng loạt các văn bản quy phạm pháp luật, mà cụ thể là 10 Bộ luật và Luật, 22 Nghị định và 2 Quyết định của Thủ tướng. Đồng thời sẽ ban hành thêm 9 văn bản quy phạm pháp luật và bãi bỏ 1 văn bản quy phạm pháp luật. Cũng tại phiên họp, các đại biểu chuyên gia cũng nhấn mạnh rằng: “Trong các nước tham gia TPP thì không có nước nào phải sửa đổi pháp luật nhiều như Việt Nam với phạm vi sửa đổi trong các lĩnh vực lớn như Lao động, Sở hữu trí tuệ, Hình sự, Hải quan…”. Tuy nhiên, đây cũng là cơ hội để Việt Nam tiến hành cải cách pháp luật, hoàn thiện thể chế để đáp ứng nhu cầu hội nhập. Nội dung tại Hội nghị này sẽ góp phần vào việc phê chuẩn Hiệp định đối tác xuyên Thái Bình Dương TPP tại phiên họp Quốc hội sắp tới. Vài thông tin muốn chia sẻ với bà con cô bác Dân Luật. Nhưng mình thắc mắc là phải sửa đổi 10 Bộ luật và Luật, 22 Nghị định và 2 Quyết định của Thủ tướng, cụ thể là Bộ luật, Luật, Nghị định, Quyết định nào nhỉ? Chắc chắn rằng sẽ sửa đổi Bộ luật lao động 2012 rồi đó, số còn lại thì mình không biết nên bác nào biết thông tin thì chia sẻ với…! Chân thành cám ơn các bạn
Dự đoán Top 4 ngành hút nhân lực trong năm 2016
Trong năm 2016, với việc ký kết các Hiệp định thương mại quốc tế, mở rộng thị trường, nhiều ngành được dự đoán sẽ rất khát và rất thu hút nhân lực. Theo khảo sát của Navigos Search, công ty chuyên về nhân sự, việc làm tại khu vực Đông Nam Á cho biết, trong năm 2015, các vị trí được tuyển nhiều nhất có thể kể đến kỹ sư điện, điện tử, kỹ sư lập trình, nghề tiếp thị và bán hàng trong các lĩnh vực sản xuất điện thoại thông minh, dệt may, hàng tiêu dùng và bán lẻ. Khảo sát trên cũng dự đoán rằng 4 ngành thu hút nhân lực nhất trong năm 2016 là dược, viễn thông, tài chính tiêu dùng và ngành bán lẻ. 1. Dược: Dược là ngành đáng lưu ý nhất trong năm 2016 do mức tăng trưởng rất cao, nhất là trong lĩnh vực thực phẩm chức năng. Các vị trí nhân sự cấp trung trong nghề tiếp thị và bán các sản phẩm dược có khả năng sẽ được tuyển dụng mạnh mẽ 2. Viễn thông: Công nghệ 4G dự kiến được triển khai vào đầu năm 2016 là bước đệm để cơn khát nhân lực trong ngành viễn thông tăng mạnh. Các nhà cung cấp trong lĩnh vực công nghệ này cũng đã có sự chuẩn bị cho việc tuyển dụng nhân sự phục vụ cho các dự án này. 3. Tài chính, tiêu dùng: Tài chính tiêu dùng có thể có nhu cầu tuyển dụng mạnh trong năm 2016 khi có làn sóng các ngân hàng thương mại mua lại các công ty tài chính nhằm thúc đẩy các hoạt động tiêu dùng cá nhân. 4. Ngành bán lẻ: Xu hướng thành lập cửa hàng tiện ích sẽ nhiều hơn so với các siêu thị lớn. Do vậy, cơ hội dành cho các vị trí mới tốt nghiệp đại học cũng sẽ dồi dào hơn. Những vị trí quản lý trong ngành hàng tiêu dùng nhanh tiếp tục được tìm kiếm vì nhân sự trong ngành này vẫn luôn thiếu. Ngoài 4 ngành được dự đoán trên, có thể nhận thấy trong bối cảnh đất nước hội nhập, một ngành cũng khát nhân lực nữa là ngành Luật. Và yêu cầu đối với nhận lực ở lĩnh vực này ngày càng cao, không chỉ am hiểu Luật pháp trong nước mà còn phải am hiểu Luật pháp quốc tế, biết linh hoạt và có tầm nhìn xa.
[Infography] TPP - Các thành viên cam kết gì với Việt Nam
Hiệp định TPP hôm nay đã được ký kết, theo đó các nước thành viên sẽ cam kết xóa bỏ hầu hết các thuế suất đánh vào hàng hóa nhập khẩu từ Việt Nam. Vậy họ đã cam kết gì?
Hiệp định TPP - Việt Nam chính thức ký kết
Theo múi giờ tại Auckland, New Zealand, thời điểm diễn ra lễ ký kết để xác thực lời văn Hiệp định TPP là 11h sáng ngày 4/2. Bộ trưởng các nước đã lần lượt ký kết hiệp định sau 10 năm đàm phán dưới sự chứng kiến của Thủ tướng New Zealand John Key. Việt Nam đã chính thức ký vào bản cam kết Bộ trưởng Bộ Công Thương Vũ Huy Hoàng đại diện Việt Nam tham gia lễ ký kết, cho biết: “Sau lễ ký, văn bản hoàn chỉnh sẽ được đệ trình lên Quốc hội Việt Nam để phê chuẩn. Sau khi ký kết,12 quốc gia có thể bắt đầu quá trình phê chuẩn trong nước và có hai năm để hoàn thành trước khi hiệp định có hiệu lực.” Nguồn: VietnamNet
Phái đoàn Việt Nam đã sang New Zealand
Hôm nay, ngày 30/1, phái đoàn Việt Nam do Đại diện Chính phủ Việt Nam, Bộ trưởng Công Thương - Vũ Huy Hoàng dẫn đầu đã lên đường sang Neư Zealand tham gia ký kết Hiệp định TPP. Thứ trưởng Công Thương - Đỗ Thắng Hải. Ảnh: Internet Thứ trưởng Công Thương - Đỗ Thắng Hải cho biết về cơ bản, văn bản cuối cùng của hiệp định các bên thống nhất sẽ không thay đổi nhiều, "Nội dung hiệp định vẫn giữ được những lợi ích cho các đối tượng tham gia, trong đó người dân, doanh nghiệp Việt Nam cũng được hưởng lợi”. Các nước cũng kỳ vọng thỏa thuận này sẽ giúp nâng cao mức sống của người dân, giảm nghèo, khuyên khích sự minh bạch, hiệu quả điều hành cũng như cải thiện việc bảo vệ người lao động, môi trường. Hiệp định cũng được xem là bước quan trong việc tiến gần tới mục tiêu thúc đẩy thương mại tự do trong khu vực châu Á – Thái Bình Dương. Nguồn: Vnexpress
Re:Hiệp định TPP - Còn điểm nào bạn chưa rõ?
4. Những quyền con người quan trọng nào được quan tâm trong TPP? Như đã mô tả ở trên, hiệu lực của TPP sẽ kích hoạt những yêu cầu về pháp lý và chính sách và trong một số trường hợp, sẽ yêu cầu cả việc thực thi trong pháp luật quốc gia. TPP sẽ yêu cầu các nước tham gia phải giảm thuế quan hàng hóa và dịch vụ. Hầu hết các thành viên cũng cần cải cáh một phần luật quố gia và chính sách liên quan đến quyền lao động, dịch vụ tài hính, sở hữu trí tuệ và bằng sáng chế cũng nhưng các lĩnh vực liên quan khác. - Quyền lao động cơ bản: Chương lao động yêu cầu tất cả các thành viên phải đi đến những tiêu chuẩn chung về lao động theo quy định của Tổ chức lao động thế giới (ILO). Đáng chú ý có: + Công nhận quyền tự do thương lượng tập thể của người lao động. + Xóa bỏ lao động cưỡng bức hoặc bắt buộc. + Xóa bỏ lao động trẻ em. + Không phân biệt đối xử trong lao động và nghề nghiệp. Đặc biệt nghiêm cấm sự phân biệt đối xử về giới tính, sắc tộc, tôn giáo, màu da… Các điều kiện về mức lương tối thiểu, giờ làm việc, an toàn và sức khỏe lao động, phải đảm bảo tốt nhất cho người lao động. Tuy nhiên, sự chênh lệch về trình độ lao động ở các nước đang phát triển đang là một vấn đề được dư luận quan tâm nhiều; ví dụ như đối với các nước Việt Nam, Malaysia và Brunei, một số nhà nghiên cứu dự đoán nhân lực ở các quốc gia này có khả năng sẽ không theo kịp đối với những yêu cầu của TPP. Hiện tại, Hoa Kỳ đang đàm phán bổ sung các thỏa thuận song phương (còn gọi là” Kế hoạch thống nhất”) với Việt Nam, Malaysia và Brunei, yêu cầu phải thực hiện các nguyên tắc để bảo vệ lợi ích TPP của các bên tham gia. - Quyền về sức khỏe: Sự giảm thiểu các vấn đề về tiếp cận thuốc giúp ích rất nhiều cho các thành viên TPP, tuy nhiên nó cũng đặt ra nhiều vấn đề về việc bảo vệ bằng sáng chế và bản quyền cho thuốc. Đồng thời điều khoản quy định về sức khỏe sẽ cho phép các thành viên TPP duy trì sự linh hoạt trong thoả thuận theo Hiệp định TRIPS để bảo vệ sức khỏe cộng đồng các nước TPP thành viên cũng miễn áp dụng quy tắc đối với một số địa phương dựa trên điều kiện kinh tế và tình trạng của hệ thống y tế công cộng của họ. - Tự do thông tin trực tuyến cũng như vấn đề về quyền riêng tư: Thỏa thuận về vấn đề này được các chuyên gia đánh giá là thân thiện khi có biện pháp bảo vệ từ xa mạnh mẽ hơn cho một số quyền liên quan đến Internet, bao gồm yêu cầu các thành viên TPP tạo ra ngoại lệ và hạn chế đối với quyền tác giả và loại bỏ những hình phạt nước ngoài trong các biện pháp bảo vệ công nghệ. Nhằm bảo vệ người tieu, dung, TPP cũng quy định này cũng được đánh giá có thể có thể tăng cường các yêu cầu đối với chế độ bảo vệ thông tin cá nhân và đảm bảo rằng các quy định thúc đẩy các luồng dữ liệu xuyên biên giới không phá hoại, cản trở chế độ bảo vệ này. Nguồn: - Wikipedia Việt Nam; - Toàn văn Hiệp định TPP; - Những điều cần biết về Lao động trong Hiệp định TPP, Dân luật; - TPP được ví như nồi cơm Thạch Sanh, Trung tâm WTO; - Hiệp định TPP: nội dung về thương mại điện tử, Cục công nghệ thông, Bộ Y tế.
Lễ kí kết hiệp định TPP đang đến rất gần nên mình tổng hợp và giới thiệu lại một số thông tin cơ bản cho các cư dân diễn đàn Dân Luật cùng tham khảo. Mọi người, ai có thắc mắc vấn đề gì thì đưa lên thảo luận luôn nhé. >>>>> Cập nhật tin tức trước thềm ký kết Hiệp định TPP (04/02/2016) >>>>> Những điều cần biết về Lao động trong Hiệp định TPP 1. TPP là gì? - TPP là từ viết tắt của Trans-Pacific Partnership - Hiệp định Đối tác Kinh tế Chiến lược xuyên Thái Bình Dương, một thỏa thuận kinh tế và thương mại giữa 12 nước Thái Bình Dương, gồm 30 chương và phụ lục. 2. Mục đích của TPP? Nhằm giảm bớt và xóa bỏ hoàn toàn thuế quan và những rào cản thị trường cho hầu hết các hàng háo, dịch vụ và nông nghiệp.Điều này cũng hướng đến giải quyết một số lĩnh vực chưa được giải quyết một cách toàn diện bởi hệ thống thưong mại đa phương của Tổ chức Thương mại Thế giới. Ví dụ: Đầu tư trực tiếp, lao động và tiêu chuẩn môi trường, và các doanh nghiệp nhà nước. 3. Hiệu lực và thành viên? - Các quốc gia tham gia: Australia, Brunei, Canada, Chile, Nhật Bản, Malaysia, Mexico, New Zealand, Peru, Singapore, Vietnam, and Hoa Kỳ. - TPP sẽ bắt đầu có hiệu lực sau 60 ngày kể từ khi 12 nước kí kết thỏa thuận (hoặc, có thể chỉ cần 06 nước thành viên phê chuẩn với điều kiện GDP - tổng sản phẩm quốc nội – của 06 nước này bằng 85% GDP 12 nước cộng lại). - Kể từ ngày có Hiệp định TPP có hiệu lực, các quốc gia có 02 năm để nội luật hóa các vấn đề trong TPP; và khi đó, Hiệp định TPP sẽ có hiệu lực áp dụng đối với từng nước. Chú ý: Các bạn lưu ý phân biệt giữa hiệu lực pháp luật của Hiệp định TPP (nếu 04/02/2016 được thông qua thì khoảng đầu tháng 4 có hiệu lực) với hiệu lực áp dụng, thi hành ở từng quốc gia thành viên (năm 2018, tùy mỗi quốc gia). Nguồn: - Wikipedia Việt Nam; - Toàn văn Hiệp định TPP; - Những điều cần biết về Lao động trong Hiệp định TPP, Dân luật; - TPP được ví như nồi cơm Thạch Sanh, Trung tâm WTO; - Hiệp định TPP: nội dung về thương mại điện tử, Cục công nghệ thông, Bộ Y tế.
Mẫu thuẫn nội bộ - Hiệp định TPP vẫn được Malaysia thông qua
Sau nhiều ngày thảo luận, Quốc hội Malaysia tối 27/1 đã bỏ phiếu thông qua dự luật cho phép nước này tham gia Hiệp định Đối tác Kinh tế Chiến lược xuyên Thái Bình Dương (TPP). Channel News Asia cho biết, dù có sự tranh cãi gay gắt, nhưng Hiệp định TPP đã được thông qua với 127 phiếu thuận và 84 phiếu chống. Bộ trưởng Công nghiệp và Thương mại quốc tế Mustapha Mohamed Phát biểu tại phiên kết thúc cuộc họp Quốc hội, Bộ trưởng Công nghiệp và Thương mại quốc tế Malaysia Mustapha Mohamed khẳng định về quyết định của hạ viện: "Đó là bước khởi đầu cho một hành trình dài". Đồng thời, Malaysia cũng đã tham gia vào việc chuẩn bị các dự thảo của TPP, trong đó có Chương 6, 21 và 24 liên quan đến hợp tác và xây dựng năng lực và phát triển các doanh nghiệp vừa và nhỏ cũng như các chương quan trọng khác. Về quan điểm Malaysia sẽ sử dụng khuôn mẫu của Mỹ trong dự thảo thỏa thuận, ông Mustapa khẳng định điều đó là không đúng sự thật, Malaysia sẽ không bị ảnh hưởng bởi hệ thống tư bản chủ nghĩa nếu ký TPP cũng như không thay đổi hệ thống kinh tế quốc gia. Trước đó, hôm 23/01, hàng ngàn người đã xuống đường ở thủ đô Kuala Lumpur, kêu gọi không thông qua TPP. Những người phản đối TPP tại Malaysia lo ngại rằng giá thuốc tăng, chủ quyền đất nước sẽ bị xói mòn và tạo ra một loạt ảnh hưởng tiêu cực khác. Nguồn: Doanh nhân Sài Gòn Online
Nhật Bản - Trưởng đoàn đàm phán TPP từ chức do cáo buộc nhận hối lộ
Hôm qua, ngày 28/01/2016, ông Akira Amari, trưởng đoàn đàm phán đối tác xuyên Thái Bình Dương, đồng thời là Bộ trưởng Chính sách kinh tế và tài chính của Nhật Bản đã tổ chức họp báo tuyên bố từ chức do những cáo buộc ông này đã nhận hối lộ từ một công ty xây dựng. Tại cuộc họp báo được truyền hình tại Tokyo, Amari thừa nhận rằng một phụ tá đã nhận được 5 triệu yên (42.000 $) từ các công ty và đã được sử dụng 3 triệu cho mục đích cá nhân. Amari sẽ từ chức để chịu trách nhiệm cho hành động phụ tá của ông. Các chính trị gia cũng thừa nhận để cá nhân nhận được 500.000 Yên trong hai dịp, nhưng cho biết các khoản tiền này đã được báo cáo "theo đúng luật". Ông Amari gần đây thường nhận được sự chú ý của quốc tế bởi ông đã tham gia đàm phán thành công Hiệp định TPP, một hiệp ước thương mại tự do đề xuất liên quan đến Nhật Bản, Mỹ và 10 nền kinh tế Thái Bình Dương khác. Ông Amari cho biết tại buổi họp báo: "Nhật Bản cuối cùng đã nổi lên từ tình trạng giảm phát. Chúng tôi cần phải được quốc hội thông qua về mặt pháp lý các bước để “đánh bại” sự giảm phát và tạo ra một nền kinh tế mạnh hơn càng sớm càng tốt. Bất cứ điều gì cản trở việc này cần phải được loại bỏ, sớm và tôi cũng không ngoại lệ. Vì vậy, tôi muốn từ chức Bộ trưởng và chịu trách nhiệm trước hành vi trái pháp luật trên." Nguồn: Asia.nikkei, (Dân Luật dịch)
Auckland - Bạn biết gì về nơi tổ chức lễ ký kết Hiệp định TPP?
Thành phố Auckland, New Zealand là nơi được lựa chọn ký kết những thỏa thuận cuối cùng trong Hiệp định TPP. Vậy bạn đã biết gì về Auckland? Thành phố Auckland (tên không chính thức Central Auckland) là một thành phố thuộc New Zealand, nằm trên eo đất Auckland và các đảo của vịnh Hauraki. Vùng đô thị Auckland bao gồm các vùng đô thị của thành phố này và các thành phố lân cận, đó là North Shore,Waitakere và Manukau, Papakura, Rodney,Franklin District. Thông tin nhanh về Auckland: - Diện tích: 1.086 km2 - Dân số: 1,5 triệu người - Ngôn ngữ: tiếng Anh và tiếng Maori - Tiền tệ: $ NZD Không có gì đáng ngạc nhiên khi Auckland được chôn là nơi kí kết cuối cùng cho Hiệp định TPP, khi Auckland là một trong những thành phố đáng sống nhất thế giới; đồng thời, Auckland cũng là một thành phố cảng hiện đại với vị trí thuận tiện nằm trong cửa ngõ giao thương của thế giới. Auckland nổi tiếng với các ngành kinh doanh tiên tiến, ngành công nghiệp công nghệ cao, cạnh tranh và lực lượng lao động lành nghề. Bên cạnh đó, thành phố này cũng là nơi tập trung nhiều nền văn hóa nhất New Zealand với 66% châu Âu/ Pakeha, 19% châu Á và 25% người Maori và đảo Thái Bình Dương. Theo thống kê “Khảo sát chất lượng sống” của Merces hàng năm, Auckland được xếp hạng thứ tư đồng hạng cho chất lượng cuộc sống trong 215 thành phố trên thế giới. Chi phí sinh hoạt tại Auckand hợp lý hơn so với nhiều thành phố khác trên thế giới, trong số 143 thành phố có chi phí đắt nhất thế giới, Auckland được xếp hạng thứ 138, thuộc nhóm những thành phố có sinh hoạt thấp nhất. Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP) sẽ được chính thức ký kết vào ngày 4/2/2016 tại thành phố Auckland xinh đẹp này đánh dấu kết thúc thắng lợi của các cuộc đàm phán suốt 5 năm qua. Bộ trưởng Thương mại New Zealand Todd McClay cho biết, "Sau khi ký kết, 12 quốc gia có thể bắt đầu quá trình phê chuẩn trong nước và có hai năm để hoàn thành trước khi hiệp định có hiệu lực". Như vậy, TPP có thể có hiệu lực vào năm 2018. Nguồn: - Wikipeida; - Eduviet Golbal; - Vietnamplus; - Ảnh: Internet.
Ngày 26/1, Quốc hội Malaysia đang thảo luận và bỏ phiếu thông qua việc ký kết Hiệp định TPP. Kyodo đưa tin , trong kì họp mới của Quốc hội Malaysia, bộ trưởng Thương mại Quốc tế và Công nghiệp Malaysia, ông Mustapa Mohamed đang kêu gọi Quốc hội nước này nhanh chóng thông qua Hiệp định TPP, và cảnh báo nước này sẽ tụt lại khi so sánh với Việt Nam nếu không phê chuẩn Hiệp định. Phát biểu khi đệ trình kiến nghị về TPP, ông Mohamed nói: "30 năm trước đây, Maylaysia, Hàn Quốc, Singapore và Đài Loan cùng có tốc độ phát triển như nhau. Giờ đây, 3 nước và vùng lãnh thổ kia đã trở thành những nước và vùng lãnh thổ phát triển, trong khi Maylaysia vẫn giậm chân trong nhóm nước thu nhập trung bình. Việt Nam đang thực hiện một chính sách mở cửa và ngày càng tích cực trong việc thu hút vốn đầu tư nước ngoài. Tôi lo ngại rằng Maylaysia sẽ phải hối tiếc nếu không phê chuẩn TPP trong bối cảnh các nhà đầu tư sẽ coi các quốc gia như Việt Nam là một điểm thu hút đầu tư nước ngoài hấp dẫn hơn." Các bạn có thể xem chi tiết Toàn văn hiệp định TPP tại đây. Nguồn: Vietnam+; Ảnh: Internet.
Canada nhận định trước thềm lễ kí kết Hiệp định TPP
Trước thềm lễ kí kết cuồi cùng của Hiệp định TPP diễn ra ngày vào 04/02/2016, các nước thành viên cũng đã có những nhận định riêng của mình. Bộ trưởng thương mại quốc tế Canada, bà Chrystia Freeland nhận định về lễ kí tại New Zealand sẽ đánh dấu sự kết thúc của quá trình đàm phán TPP. Để chuẩn bị cho sự kiện này, các văn bản liên quan đã được đệ trình lên Quốc hội Canada ngày 25-1 để các nghị sĩ xem xét trước khi chính phủ đưa ra quyết định cuối cùng. Bộ trưởng thương mại quốc tế Canada Chrystia Freeland. Ảnh: Reuters Đối với Canada, xuất khẩu thịt bò là ngành được hưởng lợi nhiều nhất từ TPP. - Năm 2015, xuất khẩu thịt bò của Canada xấp xỉ 2 tỉ đô la Mỹ với gần 80 thị trường toàn cầu, trong đó tại Việt Nam ước đạt 25 triệu đô la và Nhật Bản 100 triệu đô la. Tuy nhiên, đồng thời mặt hàng này phải chịu mức thuế cao - Việt Nam là 34% và Nhật là 38,5%. - Việc ký kết TPP sẽ giúp hạ thấp mức thuế nhập khẩu thịt bò vào các thị trường thành viên trong vòng 15 năm. Nhật Bản sẽ giảm thuế nhập khẩu xuống 9%, trong khi Việt Nam sẽ xóa bỏ thuế này trong vòng 3-8 năm. Nguồn: Thesaigontimes
Cập nhật tin tức trước thềm ký kết Hiệp định TPP (04/02/2016)
Bên lề diễn ra Đại hội Đảng lần thứ XII, chủ đề được dư luận quan tâm hiện nay chính là Hiệp định TPP sẽ được đưa ra thảo luận trong kỳ họp này như thế nào? Những lãnh đạo tương lai đất nước, họ sẽ định hướng “lèo lái” Việt Nam trong “cuộc chơi” nhiều cơ hội nhưng đầy thách thức như thế nào? Theo đó, việc ký kết thỏa thuận cuối cùng vào ngày 04/02/2016 này là một bước kỹ thuật trong toàn bộ quy trình, đánh dấu sự kết thúc của quá trình đàm phán TPP. Sau lễ ký, 12 nước tham gia bao gồm Mỹ, Australia, Brunei, Canada, Chile, Nhật Bản, Malaysia, Mexico, New Zealand, Peru, Singapore và Việt Nam sẽ phải thảo luận về quá trình nội luật hóa Hiệp định TPP đối với từng thành viên, dự đoán sẽ mất khoảng 2 năm để thoả thuận có hiệu lực. TPP được đàm phán từ tháng 3/2010 và hoàn tất vào tháng 10/2015. Nếu được hình thành, Hiệp định này sẽ bao phủ 40% kinh tế toàn cầu và bổ sung cho GDP thế giới thêm gần 300 tỷ USD mỗi năm. TPP sẽ hạ thấp hàng rào thuế quan ở các nước thành viên, đồng thời tạo ra các tiêu chuẩn chung cho các vấn đề như quyền lợi công nhân, bảo vệ môi trường. Theo thỏa thuận, khoảng 18.000 chủng loại hàng hóa xuất nhập khẩu sẽ được giảm hoặc xóa bỏ thuế quan. Đối với Việt Nam, các ngành Dệt may, thủy sản, gỗ, khu công nghiệp, phân phối ô tô và logistics sẽ được hưởng lợi rất nhiều từ|Hiệp định TPP. Các bạn có thể xem chi tiết Toàn văn hiệp định TPP tại đây. Nguồn: Vietstock.vn
Hiệp định TPP: Thông cáo báo chí tóm tắt cam kết thuế quan
Kết thúc đàm phán Hiệp định TPP, Bộ Tài chính đã tổ chức họp báo trong đó tóm tắt cam kết thuế quan trong trọng Hiệp định TPP. I. Giới thiệu chung Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương (gọi tắt là TPP) được khởi xướng từ năm 2005 bởi 4 nước thành viên ban đầu là Brunei, Chilê, Niuzilân và Xinh-ga-po. TPP chính thức khởi động vào tháng 3/2010. Việt Nam tham gia TPP vào tháng 11/2010. Đến nay, TPP bao gồm 12 thành viên gồm: Hoa Kỳ, Úc, Niu Di-lân, Xin-ga-po, Nhật Bản, Ma-lai-xi-a, Bru-nây, Pêru, Chi-lê, Ca-na-đa, Mê-xi-cô và Việt Nam. Với sự tham gia của Nhật Bản (tháng 7/2013), TPP trở thành Khu vực mậu dịch tự do (FTA) lớn nhất thế giới, chiếm khoảng 40% tổng GDP toàn cầu và khoảng 1/3 tổng kim ngạch thương mại thế giới. Ngày 5/10/2015, 12 nước TPP đã tuyên bố kết thúc đàm phán Hiệp định và sẽ tiến hành rà soát pháp lý và hoàn tất các công việc kỹ thuật. Ngày 6/11/2015, các nước TPP đã công bố các văn bản cam kết của các nước TPP đã thống nhất. Nội dung toàn văn bản Hiệp định được đăng tải tại trang web của Bộ Tài chính. II. Cam kết về thuế Nhập khẩu của các nước dành cho Việt Nam Các nước cam kết xóa bỏ thuế nhập khẩu dành cho hàng hóa của Việt Nam ngay khi Hiệp định có hiệu lực khoảng từ 78-95% số dòng thuế và xóa bỏ hoàn toàn từ 97-100% dòng thuế. Các mặt hàng còn lại sẽ có lộ trình xóa bỏ thuế trong vòng 5-10 năm, trừ một số mặt hàng nhạy cảm có lộ trình trên 10 năm hoặc áp dụng biện pháp hạn ngạch thuế quan. Nhiều mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam vào thị trường TPP được hưởng thuế suất 0% ngay sau khi Hiệp định có hiệu lực hoặc sau 3-5 năm như nông sản, thủy sản, một số mặt hàng dệt may, giày dép, đồ gỗ, hàng điện, điện tử, cao su… Hầu hết các nước có biểu thuế áp dụng chung cho tất cả các nước còn lại, trừ Hoa Kỳ áp dụng riêng lộ trình giảm thuế với hàng hóa của từng thành viên TPP. 1. Cam kết của Hoa Kỳ Hoa Kỳ cam kết xóa bỏ gần 100% số dòng thuế, trừ một số sản phẩm đường áp dụng hạn ngạch thuế quan. a) Về nông nghiệp: - Hoa Kỳ sẽ xóa bỏ ngay 55,4% số dòng thuế nông nghiệp (tương đương 97,7% kim ngạch nhập khẩu từ Việt Nam đạt 0,95 tỷ USD) ngay khi Hiệp định có hiệu lực. Các mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam như gạo, mật ong, cà phê, chè, hạt tiêu, điều, rau quả đều được xóa bỏ thuế ngay. - Vào năm thứ 10, tổng số dòng thuế nông nghiệp được xóa bỏ là 97,4%. Hoa kỳ áp dụng hạn ngạch thuế quan đối với 35 dòng thuế đường và sản phẩm chứa đường. b) Về công nghiệp (trừ dệt may): - 85,6% tổng số dòng thuế công nghiệp được xóa bỏ ngay khi Hiệp định có hiệu lực (74,2% kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang Hoa Kỳ tương đương với 6 tỷ USD). Vào năm thứ 10, Hoa Kỳ sẽ xóa bỏ xấp xỉ 100% số dòng thuế công nghiệp. - Thủy sản: Xóa bỏ ngay hoặc vào năm thứ 3 kể từ khi Hiệp định có hiệu lực (riêng cá ngừ chế biến xóa bỏ vào năm thứ 10). - Giày dép: 85% số dòng thuế giày dép được xóa bỏ ngay (tương đương 39,7% kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang Hoa Kỳ đạt 1,15 tỷ USD), đồng thời 3,2% số dòng thuế có kim ngạch lớn (58% kim ngạch xuất khẩu đạt 1,7 tỷ USD) Hoa Kỳ cam kết giảm ngay từ 40% - 55% mức hiện hành và xóa bỏ hoàn toàn thuế suất vào năm thứ 12. - Đồ gỗ, cao su, dây cáp điện: Xóa bỏ ngay thuế nhập khẩu trừ lốp ô tô (xóa bỏ thuế vào năm thứ 10) và 2 dòng thuế dây cáp điện (xóa bỏ thuế vào năm thứ 5). - Sản phẩm nhựa: 50% số dòng thuế được xóa bỏ ngay khi Hiệp định có hiệu lực, còn lại xóa bỏ sau tối đa vào năm thứ 5 kể từ khi Hiệp định có hiệu lực. - Điện, điện tử: khoảng 80% số dòng thuế sẽ được xóa bỏ ngay, một số mặt hàng còn lại được xóa bỏ vào năm thứ 3 đến năm thứ 5 và chỉ một số ít sản phẩm được xóa bỏ vào năm thứ 10. c) Về dệt may: - 73,1% số dòng thuế (1.182 dòng) được xóa bỏ thuế ngay khi Hiệp định có hiệu lực, chiếm 46,1% kim ngạch (tương đương 3,5 tỷ USD). - Thêm 7% số dòng thuế dệt may sẽ được xóa bỏ thuế vào năm thứ 5. - Ngay tại thời điểm bắt đầu thực hiện Hiệp định, 19,7% số dòng thuế có kim ngạch lớn, chiếm tổng số 51,3% xuất khẩu dệt may của Việt Nam sang Hoa Kỳ sẽ được giảm thuế suất từ 35-50% so với mức hiện hành và được xóa bỏ hoàn toàn vào năm thứ 12 kể từ khi Hiệp định có hiệu lực. 2. Cam kết của Ca-na-đa - Ca-na-đa cam kết xóa bỏ ngay 94,9% số dòng thuế, tương đương 77,9% kim ngạch nhập khẩu từ Việt Nam (0,88 tỷ USD) ngay khi Hiệp định có hiệu lực và tổng số dòng thuế được xóa bỏ lên tới 96,3% số dòng thuế, tương đương với 93,4% kim ngạch nhập khẩu từ Việt Nam vào năm thứ 4. - Ca-na-đa duy trì hạn ngạch thuế đối với 96 dòng thuế của 3 nhóm mặt hàng: (i) thịt gà; (ii) trứng và (iii) bơ sữa và sản phẩm bơ sữa. - Nông sản, điện, điện tử của Việt Nam được xóa bỏ phần lớn thuế quan ngay thời điểm bắt đầu triển khai cam kết. Mặt hàng đồ nội thất, cao su sẽ được xóa bỏ hoàn toàn ngay từ khi Hiệp định có hiệu lực hoặc vào năm thứ 5. - Các mặt hàng dệt may sẽ được xóa bỏ 100% thuế vào năm thứ 4, trong đó 42,9% kim ngạch xuất khẩu dệt may được hưởng thuế 0% ngay khi Hiệp định có hiệu lực. - Giày dép: Đa số xóa bỏ ngay khi Hiệp định có hiệu lực (chiếm 67% kim ngạch xuất khẩu giày dép), 12% kim ngạch xuất khẩu sẽ xóa bỏ thuế vào năm thứ 7, 01 dòng thuế có có kim ngạch lớn (10,7% kim ngạch giày dép) sẽ được cắt giảm 75% so với mức hiện hành và 09 dòng cam kết xóa bỏ vào năm thứ 12 (9,5% kim ngạch xuất khẩu giày dép). 3. Cam kết của Nhật Bản Nhật Bản cam kết xóa bỏ ngay thuế nhập khẩu đối với 86% số dòng thuế (chiếm 93,6% kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang Nhật Bản(tương đương 10,5 tỷ USD) và vào năm thứ 11 xóa bỏ đối với khoảng 95,6% số dòng thuế. - Đối với nông sản từ Việt Nam, Nhật bản không cam kết mặt hàng gạo và áp dụng hạn ngạch thuế quan hoặc cắt giảm một phần hoặc cam kết kèm theo các biện pháp phòng vệ thương mại đối với một số mặt hàng nhạy cảm như thịt trâu bò, thịt lợn, sữa, sản phẩm sữa, lúa mỳ, lúa gạo và các chế phẩm phẩm của chúng. - Nhiều mặt hàng ưu tiên của Việt Nam được rút ngắn đáng kể lộ trình so với cam kết tại Hiệp định FTA Việt Nam – Nhật Bản như đa số mặt hàng thủy sản có thế mạnh của VN được hưởng thuế suất 0% ngay sau khi Hiệp định có hiệu lực như các mặt hàng cá ngừ vây vàng, cá ngừ sọc dưa, cá kiếm, một số loài cá tuyết, surimi, tôm, cua ghẹ.... Toàn bộ các dòng hàng thủy sản không cam kết xóa bỏ thuế trong FTA Việt Nam – Nhật Bản sẽ được xóa bỏ trong TPP với lộ trình xóa bỏ vào năm thứ 6, năm thứ 11 hoặc năm thứ 16 kể từ khi Hiệp định có hiệu lực. - Mặt hàng rau quả, Nhật Bản cam kết mức thuế 0% vào năm thứ 3 hoặc năm thứ 5 kể từ khi Hiệp định có hiệu lực. - Mặt hàng mật ong: Xóa bỏ thuế vào năm thứ 8. - Mặt hàng giày dép: 79,5 % kim ngạch các xóa bỏ thuế vào năm thứ 10 và các mặt hàng còn lại (giày da) sẽ xóa bỏ thuế suất vào năm thứ 16. - Mặt hàng vali, túi xách bằng da: Xóa bỏ thuế vào năm thứ 16. - Dệt may: 98,8% số dòng thuế sẽ xóa bỏ thuế ngay khi Hiệp định có hiệu lực, tương đương 97,2% kim ngạch xuất khẩu mặt hàng này của Việt Nam sang Nhật Bản. Những mặt hàng còn lại sẽ có lộ trình xóa bỏ thuế vào năm thứ 10. 4. Cam kết của Mê-xi-cô Tại thời điểm bắt đầu thực thi cam kết, tổng số 77,2% số dòng thuế sẽ được xóa bỏ thuế ngay (chiếm 36,5% kim ngạch XK của Việt Nam sang Mê-xi-cô, tương ứng với 282 triệu USD). Vào năm thứ 10, 98% số dòng thuế sẽ được xóa bỏ thuế nhập khẩu, tương ứng với 440 triệu USD. Mê-xi-cô không cam kết xóa bỏ thuế đối với mặt hàng đường và áp dụng hạn ngạch thuế đối với sữa kem và sản phẩm; dầu cọ. - Thủy sản: Cá tra, basa, xóa bỏ thuế vào năm thứ 3 kể từ khi Hiệp định có hiệu lực; Tôm đông lạnh xóa bỏ vào năm thứ 13; Tôm chế biến xóa bỏ vào năm thứ 12. Cá ngừ chế biến xóa bỏ thuế vào năm thứ 16, trong đó giữ nguyên mức thuế cơ sở trong 5 năm đầu tiên rồi giảm dần về 0%. - Gạo: Thóc, gạo lứt và gạo tấm xóa bỏ thuê ngay khi Hiệp định có hiệu lực; các mặt hàng gạo xay xát sẽ giảm về 0% vào năm thứ 10. - Dệt may: Xóa bỏ thuế theo lộ trình và tối đa vào năm thứ 16. - Giày dép: Xóa bỏ thuế theo lộ trình và tối đa vào năm thứ 13. - Túi xách: Xóa bỏ thuế vào năm thứ 10. - Cà phê: Xóa bỏ thuế cà phê hạt Robusta vào năm thứ 16, cà phê hạt Arabica và cà phê chế biến giảm mức thuế suất 50% so với mức thuế hiện hành vào năm thứ 5 và năm thứ 10 kể từ khi Hiệp định có hiệu lực. - Gạo: Xóa bỏ thuế vào năm thứ 11. 5. Cam kết của Pê-ru Pê-ru cam kết xóa bỏ tới 80,7% số dòng thuế ngay khi Hiệp định có hiệu lực, tương đương 62,1% kim ngạch nhập khẩu từ VN (15,6 triệu USD) và sẽ xóa bỏ thuế quan đối với 99,4% tổng số dòng thuế vào năm thứ 17. Pê-ru duy trì thuế theo biến động giá đối với 47 dòng thuế gồm sữa, ngô, gạo, đường. Các mặt hàng nông sản có thế mạnh xuất khẩu của Việt Nam như điều, chè, tiêu, rau quả, một số loại cà phê đều được xóa bỏ thuế quan ngay khi Hiệp định có hiệu lực. Nhóm mặt hàng dệt may, giày dép lại có lộ trình cắt giảm dài, xóa bỏ thuế nhập khẩu vào năm thứ 10 đến năm thứ 16 kể từ khi Hiệp định có hiệu lực. 6. Cam kết của Úc Tổng số 93% số dòng thuế của Úc, tương đương 95,8% kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang thị trường này (2,9 tỷ USD) sẽ được xóa bỏ thuế ngay khi thực hiện Hiệp định. Các sản phẩm còn lại sẽ được xóa bỏ thuế với lộ trình cắt giảm cuối cùng tối đa vào năm thứ 4. 7. Cam kết của Niu-di-lân Niu-di-lân sẽ xóa bỏ 94,6% số dòng thuế cho Việt Nam ngay khi Hiệp định có hiệu lực, tương đương 69% kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang thị trường này (101 triệu USD). vào năm thứ 7 năm kể từ khi thực hiện Hiệp định, các dòng thuế còn lại sẽ dần được xóa bỏ hoàn toàn. 8. Cam kết của Xinh-ga-po Xinh-ga-po xóa bỏ hoàn toàn thuế quan đối với tất cả các mặt hàng ngay khi thực hiện Hiệp định. 9. Cam kết của Ma-lai-xi-a Ma-lai-xi-a cam kết xóa bỏ ngay đối với 84,7% số dòng thuế khi Hiệp định có hiệu lực và xóa bỏ dần có lộ trình đối với các dòng thuế còn lại. Vào năm thứ 11, tổng số dòng hàng cam kết xóa bỏ thuế nhập khẩu của Ma-lai-xi-a lên tới 99,9%. Ma-lay-xi-a áp dụng hạn ngạch thuế đối với 15 dòng thuế trứng gia cầm, thị gà, thịt lợn và thịt bò. 10. Cam kết của Chi-lê Chi - lê cam kết xóa bỏ đối với 95,1% số dòng thuế ngay khi Hiệp định có hiệu lực, tương đương 60,2% kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang Chi-lê (76 triệu USD). Vào năm thứ 8, Chi-lê sẽ xóa bỏ 99,9% số dòng thuế, tương ứng với 100% kim ngạch nhập khẩu từ Việt Nam. Các mặt hàng nông sản, thủy sản có thế mạnh xuất khẩu của Việt Nam đều được xóa bỏ thuế ngay khi Hiệp định có hiệu lực. Giày dép, cao su sẽ được xóa bỏ thuế theo lộ trình tối đa vào năm thứ 4. Mặt hàng dệt may sẽ được xóa bỏ tối đa vào năm thứ 8. 11. Cam kết của Bru-nây Ngay tại thời điểm bắt đầu thực hiện Hiệp định, Bru-nây sẽ xóa bỏ 92% số dòng thuế đối với hàng hóa nhập khẩu từ Việt Nam (tương đương 7.639 dòng) và sẽ xóa bỏ tới 99,9% vào năm thứ 7 và sẽ xóa bỏ hoàn toàn thuế nhập khẩu vào năm thứ 11. III. Cam kết về thuế Nhập khẩu của Việt Nam dành cho các nước Việt Nam cam kết xóa bỏ gần 100% số dòng thuế trong Hiệp định TPP, theo đó: - 65,8% số dòng thuế có thuế suất 0% ngay khi Hiệp định có hiệu lực; - 86,5% số dòng thuế có thuế suất 0% vào năm thứ 4 kể từ khi Hiệp định có hiệu lực; - 97,8% số dòng thuế có thuế suất 0% vào năm thứ 11kể từ khi Hiệp định có hiệu lực; - Các mặt hàng còn lại cam kết xoá bỏ thuế nhập khẩu với lộ trình xóa bỏ thuế tối đa vào năm thứ 16 hoặc theo hạn ngạch thuế quan. Cam kết về thuế nhập khẩu của Việt Nam đối với một số nhóm mặt hàng cụ thể như sau: 1. Sản phẩm công nghiệp - Ô tô: xóa bỏ thuế vào năm thứ 13 đối với các loại ô tô mới, riêng ô tô con có dung tích xi lanh từ 3000cc trở lên có lộ trình xóa bỏ vào năm thứ 10;. Áp dụng hạn ngạch thuế quan đối với ô tô cũ với lượng hạn ngạch ban đầu là 66 chiếc, lượng hạn ngạch sẽ tăng dần và đạt 150 chiếc kể từ năm thứ 16. Thuế trong hạn ngạch giảm về 0% vào năm thứ 16, thuế ngoài hạn ngạch thực hiện theo mức thuế suất MFN. - Sắt thép, xăng dầu: chủ yếu xóa bỏ thuế vào năm thứ 11. - Nhựa và sản phẩm nhựa; Hóa chất và sản phẩm hóa chất; Giấy, đồ gỗ; Máy móc, thiết bị: phần lớn xóa bỏ thuế ngay khi Hiệp định có hiệu lực, một số loại xóa bỏ vào năm thứ 4. - Dệt may, giày dép: xóa bỏ thuế ngay khi Hiệp định có hiệu lực. - Rượu bia: xoá bỏ thuế nhập khẩu vào năm thứ 3 đối với rượu sake, các mặt hàng còn lại xóa bỏ thuế vào năm thứ 11, một số loại vào năm thứ 12. 2. Sản phẩm nông nghiệp và thuỷ sản - Thịt gà: xóa bỏ thuế nhập khẩu sau vào năm thứ 11/12. - Thịt lợn: xóa bỏ thuế nhập khẩu vào năm thứ 10 đối với thịt lợn tươi vào năm thứ 8 năm đối với thịt lợn đông lạnh. - Gạo: xóa bỏ ngay khi Hiệp định có hiệu lực. - Ngô: xóa bỏ sau vào năm thứ 5 một số loại xoá bỏ vào năm thứ 6. - Sữa và sản phẩm sữa: xóa bỏ ngay khi Hiệp định có hiệu lực, một số loại xoá bỏ vào năm thứ 3. - Thực phẩm chế biến từ thịt: xóa bỏ vào năm thứ 8 đến năm thứ 11, chế biến từ thủy sản xóa bỏ vào năm thứ 5. - Mặt hàng đường, trứng, muối: xóa bỏ thuế trong hạn ngạch của WTO vào năm thứ 6 đối với mặt hàng trứng và vào năm thứ 11 đối với mặt hàng đường, muối. Thuế ngoài hạn ngạch giữ như mức MFN. - Lá thuốc lá: xóa bỏ thuế trong hạn ngạch vào năm thứ 11 đối với lượng hạn ngạch 500 tấn, mỗi năm tăng thêm 5% trong vòng 20 năm. Thuế suất ngoài hạn ngạch duy trì ở mức MFN đến năm thứ 20, đến năm 21 thuế nhập khẩu về về 0%. - Thuốc lá điếu: xoá bỏ thuế nhập khẩu vào năm thứ 16. - Phân bón: xóa bỏ thuế nhập khẩu ngay khi Hiệp định có hiệu lực. IV. Cam kết về thuế xuất khẩu của Việt Nam Trong TPP có 3 nước áp dụng thuế xuất khẩu là Việt Nam, Malaysia và Canada. Cả 3 nước cam kết xoá bỏ thuế xuất khẩu, ngoại trừ các nhóm mặt hàng được bảo lưu. Việt Nam cam kết xóa bỏ thuế xuất khẩu đối với phần lớn các mặt hàng hiện đang áp dụng thuế xuất khẩu, cơ bản theo lộ trình từ 5-15 năm sau khi Hiệp định có hiệu lực. Một số nhóm mặt hàng quan trọng như than đá, dầu mỏ và một số loại quặng, khoáng sản (70 mặt hàng) được tiếp tục duy trì thuế xuất khẩu, cụ thể: - Nhóm khoáng sản: cát (Ch.25), đá phiến (2514), đá làm tượng đài hoặc xây dựng (2516), quặng dolomite (2518), quặng amiăng (2524), đá vôi (2521), quặng steatit (2526). - Nhóm quặng: quặng đồng (2603), cô ban (2605), quặng nhôm (2606), quặng chì (2607), quặng kẽm (2608), quặng urani (2612), quặng thori (2612), quặng titan (2614), quặng zircon (2615), quặng vàng (2616) và quặng antimon (2617). - Nhóm than: than đá (2701), than non (2702), than bùn (2703), và dầu thô (2709). - Nhóm vàng (7108) và vàng trang sức (7113-7115). V. Cam kết trong lĩnh vực dịch vụ tài chính của Việt Nam Hiệp định TPP là một Hiệp định theo mô hình FTA thế hệ mới không chỉ tập trung vào tự do hóa đối với lĩnh vực thương mại hàng hóa mà còn mở rộng đối với lĩnh vực dịch vụ và đầu tư, trong đó có các ngành dịch vụ tài chính. Các nước TPP phải cam kết tuân thủ các nghĩa vụ mở cửa thị trường dịch vụ theo cách tiếp cận chọn bỏ, ngoại trừ những lĩnh vực được đưa vào danh mục bảo lưu có chọn lọc. Trong lĩnh vực dịch vụ tài chính, Bộ Tài chính chịu trách nhiệm cam kết đối với dịch vụ chứng khoán và bảo hiểm Các cam kết thuộc Chương dịch vụ tài chính của Hiệp định TPP tạo ra 3 thành tố cơ bản hướng tới đẩy mạnh sự phát triển của thị trường dịch vụ tài chính ở Việt Nam gồm: (i) Mở rộng cam kết về mở cửa thị trường đi kèm với cơ chế minh bạch hóa tạo cơ hội tiếp cận thị trường tốt hơn cho các nhà đầu tư nước ngoài; (ii) Áp dụng cơ chế bảo hộ đầu tư nhằm đảm bảo đầy đủ lợi ích của các nhà đầu tư; (iii) Đảm bảo không gian chính sách để thực hiện các biện pháp quản lý thận trọng nhằm xây dựng một nền tài chính vĩ mô ổn định. Cụ thể như sau: - Về mở rộng cam kết về mở cửa thị trường đi kèm với cơ chế minh bạch hóa: So với cam kết WTO, Việt Nam cam kết mở cửa bổ sung đối với một số loại hình dịch vụ mới nhằm tạo cơ hội tiếp cận thị trường cho các nhà cung cấp dịch vụ nước ngoài như: (i) mở cửa dịch vụ nhượng tái bảo hiểm qua biên giới; (ii) dành đối xử quốc gia cho các nhà cung cấp dịch vụ chứng khoán nước ngoài đối với một số dịch vụ như xử lý dữ liệu tài chính qua biên giới; dịch vụ tư vấn và các dịch vụ phụ trợ qua biên giới liên quan tới giao dịch tài khoản tự doanh hoặc tài khoản của khách hàng; (iii) mở cửa dịch vụ quản lý danh mục đầu tư qua biên giới. - Về cơ chế bảo hộ nhà đầu tư nước ngoài: mở cửa thị trường dịch vụ tài chính kết hợp với nghĩa vụ bảo hộ đầu tư thông qua việc bổ sung các nghĩa vụ cam kết liên quan đến bảo hộ đầu tư như cơ chế giải quyết tranh chấp, nguyên tắc đối xử tối thiểu MST. Trong đó, cơ chế giải quyết tranh chấp được quy định chi tiết theo các cấp độ: Nhà nước và Nhà nước và Nhà đầu tư và Nhà nước, đặc biệt cơ chế Nhà đầu tư với Nhà nước cho phép đảm bảo đầy đủ quyền lợi của các nhà đầu tư khi tham gia thị trường. Quy trình giải quyết tranh chấp được quy định rõ ràng, cụ thể đảm bảo tính minh bạch, có hiệu quả. - Về việc đảm bảo không gian chính sách để thực hiện các biện pháp quản lý thận trọng cho các nước: TPP cho phép các nước áp dụng các ngoại lệ cần thiết, tạo ra không gian chính sách gồm các biện pháp thận trọng, các biện pháp bảo vệ an ninh quốc gia, quyền lợi và thông tin cá nhân; chính sách về tỷ giá, tiền tệ nhằm đảm bảo một môi trường đầu tư ổn định, an toàn. Bên cạnh đó, TPP ràng buộc nghĩa vụ các nước thành viên phải tuân thủ nguyên tắc “chỉ tiến không lùi” trong việc điều hành chính sách đối với các ngành dịch vụ, theo đó nếu Việt Nam điều chỉnh, sửa đổi quy định pháp luật trong nước theo hướng tự do hóa hơn, thông thoáng hơn so với mức cam kết ban đầu thì sẽ tự động trở thành nghĩa vụ ràng buộc, không được ban hành chính sách quay trở lại mức cam kết ban đầu. Bên cạnh đó, các nước TPP phải đảm bảo thực hiện các quy trình thủ tục cấp phép nhanh chóng và thuận tiện, tuân thủ thời gian phê duyệt hồ sơ cấp phép cho các nhà đầu tư nước ngoài không quá 120 ngày. Các cam kết trong lĩnh vực bảo hiểm, chứng khoán được kỳ vọng sẽ tạo điều kiện thúc đẩy các cơ hội đầu tư, góp phần đẩy mạnh sự phát triển của thị trường dịch vụ tài chính ở Việt Nam. VI. Cam kết trong lĩnh vực Hải quan Chương cam kết về Hải quan bao gồm 12 Điều, trong đó quy định các cam kết về nghiệp vụ chính như: Quy định về thời gian giải phóng hàng chuyển phát nhanh trong vòng 6 tiếng; quy định về cơ chế ban hành xác định trước đối với các lĩnh vực mã số, phương pháp xác định trị giá và xuất xứ hàng hóa, cơ chế giám sát đối với xuất xứ hàng hóa; quy định cụ thể về thời gian giải phóng hàng hóa trong vòng 48 tiếng khi hàng hóa nhập cảnh hải quan và có cơ chế cho phép thông tin được xử lý bằng phương thức điện tử trước khi hàng đến nhằm nhanh chóng giải phóng hàng; quy định quản lý rủi ro... Riêng đối với quy định về trị giá tối thiểu vẫn thực hiện theo luật của quốc gia. Một vấn đề mà Hiệp định TPP tác động lớn đến công tác quản lý hải quan là quy định cơ chế tự chứng nhận xuất xứ trong thủ tục kiểm tra và xác định xuất xứ cho hàng hóa xuất nhập khẩu với thời gian chuyển đổi tối đa 10 năm. Cơ chế này cho phép doanh nghiệp tự khai báo xuất xứ cho hàng hóa của mình thay cho cách thức quản lý hiện tại là doanh nghiệp phải nộp cho cơ quan hải quan giấy chứng nhận xuất xứ do cơ quan có thẩm quyền của nước xuất khẩu cấp. Điều này tạo thuận lợi tối đa cho doanh nghiệp xuất nhập khẩu và đơn giản hóa thủ tục hải quan. Hiện nay trong khuôn khổ ASEAN, Việt Nam đang tham gia thực hiện thí điểm cơ chế tự chứng nhận xuất xứ là một bước quan trọng chuẩn bị cho công tác triển khai sau này./. Nguồn: Trung tâm WTO
Cách đây một thời gian, Luật Nông trại Mĩ (Farm Bill) gây lo lắng cho người nông dân Việt Nam khi đặt ra hàng loạt tiêu chuẩn đối với mặt hàng cá tra khi xuất khẩu sang thị trường Mĩ. Giờ đây khi Farm Bill sắp có hiệu lực thì liệu TPP có “cứu nổi” cá tra Việt Nam. Farm Bill – nổi lo người nông dân Việt Vài tháng trước đây, Farm Bill vấp phải sự tranh cãi dữ dội của cộng đồng quốc tế nói chung và người nông dân Việt Nam nói riêng khi đặt ra những tiêu chuẩn hết sức khắc khe đối với mặt hàng cá tra. Yêu cầu của đạo luật này là môi trường nuôi tại Việt Nam phải có sự tương đồng với môi trường nuôi tại Mĩ thì mặt hàng cá tra mới thỏa mãn điều kiện xuất khẩu. Tưởng chừng mọi chuyện sẽ lắng xuống, nhưng chỉ ít tháng nữa thôi, tháng 3/2016 Luật Farm Bill sẽ chính thức có hiệu lực khi đó Mỹ sẽ thiết lập chương trình giám sát đối với loài cá Siluriformes và đương nhiên có cả cá tra Việt Nam. Ban đầu, Trong luật Farm Fill không có tên cá tra (pangasius) trong danh mục quản lý của Bộ Nông nghiệp Mỹ. Tuy nhiên đến 2014, sau khi Hạ viện Mỹ chính thức thông qua Luật Nông trại, loài cá tra được nêu tên trong mục nhỏ của Luật, kéo theo bộ Siluriformes ( cá da trơn ) trên toàn thế giới, bao gồm tại các nước Châu Á như Indonesia, Ấn Độ và cá nheo của Mỹ. Việc quản lý cá tra (pangasius) thay vì thuộc về FDA thì sẽ chuyển sang USDA (Bộ Nông nghiệp Mỹ). Theo Luật này, FSIS ( ban quản lý thực phẩm nông nghiệp an toàn và dịch vụ kiểm soát của Mỹ) sẽ tổ chức một quy trình giám sát chặt chẽ từ khâu sản xuất, chế biến đối với cá tra, cá basa của tất cả các nước nhập khẩu vào Mỹ và các mặt hàng này phải thỏa mãn tiêu chuẩn tương đương tiêu chuẩn Mỹ áp dụng. Vậy có thể hiểu đơn giản rằng, nếu muốn nhập khẩu cá tra, cá basa Việt Nam vào Mỹ thì phải chứng minh được sự tương đồng trong môi trường nuôi tại Việt Nam và tại Mỹ là một. Nói thêm về tiêu chuẩn nuôi cá tra, cá basa tại Mỹ: Do điều kiện địa hình, khí hậu, luật pháp mỗi quốc gia khác nhau nên tại Mỹ người nông dân phải nuôi cá tra trong giếng khoang, còn ao nuôi do không được đào sâu nên không dùng để nuôi. Tuy nhiên tại Việt Nam, với lưu lượng nước lớn, dồi dào từ hệ thống sông Mekong đem lại nên người dân nuôi cá trong các ao hồ. Do đó, xét về môi trường nuôi tại Việt Nam và tại Mĩ là hoàn toàn khác nhau và khó lòng thống nhất chung như nhau. Đối đầu cùng TPP Có thể thấy ngay rằng, những tiêu chuẩn mà luật Nông trại nước Mĩ đưa ra là mang tính áp đặt, khắt khe cao đối với các mặt hàng xuất khẩu nói chung và mặt hàng cá da trơn nói riêng. Hay nói đúng hơn thì họ sử dụng những tiêu chí phù hợp với chính nước họ để áp dụng cho một quốc gia khác, gây ra sự chênh lệch về tiêu chuẩn, khó khăn trong khâu sản xuất, chế biến, xuất nhập khẩu. Không bàn thêm về Luật Farm Bill nói gì, nhưng trước mắt ta thấy rằng Hiệp định TPP đã được đạt được thỏa thuận với 30 chương, ngay tại Chương 7 Hiệp định TPP có nói về vấn đề Biện pháp vệ sinh và kiểm dịch. Theo đó, TPP không quy định cụ thể một tiêu chuẩn nào để đánh giá một mặt hàng, nhưng hiệp định có ghi rõ tất cả các khâu sẽ sử dụng nguyên tắc khoa học tức một mặt hàng được coi là an toàn cho đến khi nó được chứng minh là có độc. Vậy tức mặt hàng cá tra, cá basa Việt Nam vốn là một mặt hàng an toàn và nếu Mĩ muốn đặt ra quy định theo Farm Bill thì phải chứng minh mặt hàng cá da trơn này không an toàn, không thỏa mãn điều kiện. Thứ hai: Tiêu chuẩn mà Hiệp định TPP muốn đề cập là Tiêu chuẩn quốc tế của Ủy ban Codex CAC cấp, chứ không phải tiêu chuẩn của riêng một quốc gia nào. Theo đó, nếu mặt hàng cá da trơn Việt Nam thỏa mãn các tiêu chí được đặt ra theo quy định về tiêu chuẩn an toàn của CAC thì cũng đồng nghĩa thỏa mãn các tiêu chuẩn của Hiệp định TPP. Do đó, Mĩ phải áp dụng tiêu chí kiểm tra vệ sinh theo tiêu chí quốc tế chứ không phải tiêu chí của riêng Mĩ đặt ra. Thứ ba: Điều 7.9 Hiệp định TPP có quy định về biện phá vệ sinh, kiểm dịch: Mỗi Bên bảo đảm rằng các biện pháp vệ sinh và kiểm dịch của mình hoặc tuân thủ với các tiêu chuẩn quốc tế, hướng dẫn hay khuyến nghị có liên quan hoặc, trong trường hợp không tuân thủ các tiêu chuẩn quốc tế, hướng dẫn hay khuyến nghị, được dựa trên bằng chứng khoa học khách quan và có tài liệu hướng dẫn có liên quan một cách hợp lý đến các biện pháp,... Do vậy, mặt hàng cá da trơn Việt Nam khi xuất khẩu sẽ được xem là an toàn, nếu Mĩ muốn loại trừ khả năng nhập khẩu vào nước này thì Mĩ phải có sự chứng minh khoa học rằng mặt hàng cá da trơn không thỏa mãn các tiêu chí thuộc tiêu chuẩn quốc tế của CAC chứ không được tự tiện sử dụng tiêu chí trong Farm Bill. Lối thoát Farm Bill Tháng 3/2016 Luật Nông trại Mỹ sẽ có hiệu lực, có lẽ đây là điểm khó khăn cho người nông dân Việt Nam. Tuy nhiên vẫn còn cách giải quyết mới đó là khi Hiệp định TPP chính thức có hiệu lực, khi Mĩ buộc phải tuân theo những quy định chung của TPP. Khi đó giữa Việt Nam và Mĩ có thể đạt được hướng giải quyết chung thông qua sự thỏa thuận, đàm phán giữa hai bên. Tuy nhiên trong trường hợp không đạt được thỏa thuận thì Việt Nam có quyền kiện Mỹ ra Tòa án tư pháp quốc tế theo Điều 28 Hiệp định TPP. Tuy nhiên, nếu thật sự kiện tụng xảy ra thì chẳng khác nào Việt Nam đang "tát" vào mặt Mỹ bởi lẽ cách đây một thời gian Mỹ đã từng kiện Nhật lên WTO về SPS ( mặt hàng táo). Qua vụ kiện này, WTO công nhận các nước không được phép sử dụng các biện pháp SPS khác mà không được cộng đồng quốc tế công nhận, trừ khi có bằng chứng khoa học khác.
Re:Tham gia Hiệp định TPP hàng Việt khó sống ?!
Hiệp định TPP: Nếu hàng hóa ồ ạt? Với những thỏa thuận trong Hiệp định thương mại đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP), điều mà hầu hết các nhà xuất khẩu mong muốn chính là vấn đề giảm, miễn thuế quan và đó không chỉ riêng các nhà xuất khẩu mà còn là sự mong muốn của người dân thuộc Bên nhập khẩu, cũng như là sự lo lắng của các nhà nhập khẩu. Thuế giảm, cạnh tranh tăng: Nhìn nhận chung phải nó rằng Hiệp định TPP luôn tạo sự cân bằng giữa hai Bên Xuất - Nhập khẩu, khi mà Bên xuất khẩu sẽ được miễn, giảm, nhận được ưu đãi thuế quan còn Bên Nhập khẩu sẽ nhận được một lượng lớn hàng hóa chất lượng, theo một quy trình chuẩn mực nhập vào. Điều đó không những thúc đẩy phát triển một nền kinh tế hàng hóa, thị trường năng động mà còn nâng cao chất lượng cuộc sống người dân. Có thể nói rằng, Hiệp định TPP như một nguồn gió mới thổi vào thị trường của mỗi quốc gia, nó buộc mỗi doanh nghiệp phải tự mình vận động nhiều hơn nữa trước khi "sức ì" quá lớn, đè bẹp danh nghiệp đó trong nền kinh tế TPP. Tuy nhiên song hành cùng lợi ích là những bất cập, khi một lượng hàng hóa được đánh thuế rẻ, tạo nhiều điều kiện xuất khẩu, nhập vào các quốc gia thì cũng đồng nghĩa tăng tỷ lệ cung vượt quá cầu, hàng hóa ế thừa. Chính khi ấy sự cạnh tranh càng trở nên quyết liệt hơn bao giờ hết, khi mà lần lượt các doanh nghiệp không đủ "sức bật, sức vươn" lần lượt phá sản, vỡ nợ, sát nhập... còn các doanh nghiệp xuyên quốc gia thì không ngừng mở rộng phạm vi, quy mô ảnh hưởng lớn hơn, tạo thành một tập đoàn lớn mạnh đôi khi còn chi phối cả nền kinh tế của một khu vực. Hiệp định TPP - rào chắn bảo vệ: Nếu tồn tại trong môi trường do TPP đem lại buộc bạn phải tự mình đứng lên, chạy theo cùng thời gian để phát triển hoặc tuột lại mãi mãi. Nhưng cũng không thể nói rằng TPP sẽ luôn bỏ rơi bạn, bởi lẽ những thỏa thuận trong TPP không những tạo ra cơ chế thúc đẩy mà còn kìm hãm nếu sự phát triển đó vượt qua xa sự kiểm soát và đi lệch mục đích bạn đầu. Tại điều 4.3 Hiệp định TPP về Hành động khẩn cấp có ghi rõ quyền hạn của Bên Nhập khẩu trong trường hợp chịu ảnh hưởng quá lớn từ Bên xuất khẩu, chẳng hạn nếu việc giảm hoặc xóa bỏ thuế quan mà làm tăng đột biến số lượng nhập khẩu một mặt hàng dệt may vào lãnh thổ một Bên, gây ảnh hưởng, thiệt hại ngiêm trọng đến thị trường của một Bên, khiến ngành công nghiệp trong nước đang sản xuất mặt hàng gặp phải khó khăn cạnh tranh thì Bên nhập khẩu có quyền hành động khẩn cấp trong phạm vi quyền hạn, thời gian cho phép để ngăn chặn hoặc khắc phục thiệt hại. Cụ thể quyền hạn đó chính là khả năng tăng thuế suất đối đối mặt hàng của một hoặc nhiều Bên xuất khẩu nhưng không vượt quá hai giá trị sau: + Thuế suất tối huệ quốc có hiệu lực tại thời điểm thực hiện hành động; + Thuế suất tối huệ quốc có hiệu lực vào ngày liền trước ngày Hiệp định này có hiệu lực đối với Bên đó. Cần lưu ý rằng quy định về quyền hạn này của Bên nhập khẩu hông hề vi phạm giới hạn quyền, nghĩa vụ một Bên theo Điều XIX GATT 1994, Hiệp định WTO ( về vấn đề biện pháp tự vệ), Chương 6 Hiệp định TPP về Biện pháp khắc phục thương mại. Trong trường hợp sau khi xác định được thiệt hại nghiêm trọng, nguy cơ gây thiệt hại ngiêm trọng. Bên nhập khẩu phải tiến hành các hoạt động sau: + Xem xét khả năng ảnh hưởng tăng số lượng nhập khẩu các mặt hàng dệt may của Bên xuất khẩu từ việc ưu đãi thuế quan, điều đó được phản ánh thông qua việc thay đổi các biến kinh tế liên quan như sản lượng, năng suất, tận dụng công suất, hàng tồn kho, thị phần, xuất khẩu, tiền lượng, việc làm, giá cả trong nước, lợi nhuận và đầu tư, trong đó không có yếu tố nào, dù đứng một mình hay đi kèm với các yếu tố khác, nhất thiết phải có tính quyết định; + Các thay đổi về công nghệ, xu hướng tiêu dùng trong Bện nhập khẩu không được xem như yếu tố hỗ trợ cho việc xác định thiệt hại nghiêm trọng hoặc nguy cơ gây thiệt hại nghiêm trọng. Điều kiện tiến hành hoạt động khẩn cấp: Bên nhập khẩu chỉ được tiến hành thực hiện hoạt động khẩn cấp sau khi công bố thủ tục. Thủ tục phải nêu rõ tiêu chí xác định thiệt hại nghiêm trọng và sau khi cơ quan có thẩm quyền của Bên nhập khẩu điều tra. + Cuộc điều tra phải sử dụng dữ liệu dựa trên yếu tố miêu tả trong điểm 3a Hiệp định TPP nhằm chứng minh thiệt hại ngiêm trọng hoặc nguy cơ gây thiệt hại do tăng số lượng nhập khẩu của sản phẩm liên quan từ việc thực hiện Hiệp định này. Nghĩa vụ Bên nhập khẩu: Nộp cho Bên xuất khẩu thông báo bằng văn bản về việc tiến hành điều tra theo quy định tại khoản 4 TPP, bao gồm cả ý định trong việc thực hiện hành động khẩn cấp, tham vấn với các Bên xuất khẩu về vấn đề này theo yêu cầu. Bên nhập khẩu phải cung cấp cho Bên xuất khẩu chi tiết hành động khẩn cấp dự định thực hiện. Trừ trường hợp có quyết định khác, các Bên liên quan phải bất đầu tham vấn ngay nhằm hoàn thành cuộc tham vấn trong 60 ngày kể từ ngày nhận được yêu cầu. Sau khi các cuộc tham vấn hoàn thành, Bên nhập khẩu phải thông báo cho Bên xuất khẩu các quyết định. Nếu quyết định áp dụng một biện pháp tự vệ, thông bảo phải bao gồm các chi tiết về biện pháp đó và thời điểm biện pháp đó có hiệu lực. Khi tiến hành HĐKC: +Bên tiến hành phải bồi thường tự do hóa thương mại cho một hoặc nhiều Bên xuất khẩu có hàng hóa bị áp dụng biện pháp khẩn cấp. Bồi thường dưới dạng thuế suất ưu đãi có tác động thương mại tương đương giá trị các loại thuế bổ sung được cho là kêt quả của hành động khẩn cấp. + Thuế suất ưu đãi phải trong giới hạn phạm vi hàng dệt may, trừ trường hợp các Bên có thỏa thuận khác. + Nếu không đạt được thỏa thuẫn giữa các Bên về bồi thường trong vòng 60 ngày hoặc một thời hạn dài hơn do các Bên liên quan thỏa thuận, các Bên có hàng hóa bị áp dụng HĐKC có quyền thực hiện biện pháp thuế quan đối có tác động thương mại tương đương với tác động thương mại của HĐKC. + Nghĩa vụ đền bù thương mại của Bên nhập khẩu, quyền thực hiện biện pháp thuế quan của Bên xuất khẩu chấm dứt khi hành động khẩn cấp chấm dứt. Điều kiện, giới hạn áp dụng: + Hành động khẩn cấp (HĐKC) không kéo dài quá 2 năm, có thể gia hạn tối đa 2 năm; + Bên nhập khẩu không thực hiện HĐKC với một mặt hàng cụ thể của một hoặc nhiều Bên nhiều hơn một lần; + Khi chấm dứt HĐKC, Bên nhập khẩu phải cho mặt hàng bị áp dụng HĐKC hưởng ưu đãi thuế quan mà mặt hàng đó đáng lẽ ra được hưởng trong thời gian thực hiện HĐKC. Trường hợp ngoại lệ: Các bên không được thực hiện, duy trì hành động khẩn cấp nếu hàng hóa dệt may là đối tượng của một biện pháp tự vệ chuyển tiếp theo Chương 6 TPP hoặc một biện pháp tự vệ do một Bên thực hiện theo Điều XIX GATT 1994, Hiệp định WTO về các biện pháp tự vệ. Thủ tục tiến hành do mỗi Bên ban hành. Khi Hiệp định này có hiệu lực hoặc trước khi tiến hành một cuộc điều tra, mỗi Bên phải thông báo cho các Bên khác về các thủ tục. Trên đây là những quyền hạn mà Hiệp định TPP cho phép Bên nhập khẩu thực hiện khi đứng trước sức ép từ hàng hóa ồ ạt của Bên xuất khẩu. Tuy nhiên mọi hoạt động phải tuân theo những quy định từ thủ tục, yêu cầu, nghĩa vụ, thời gian, phạm vi… nhằm đảm bảo quyền lợi cao nhất cho mỗi Bên.
Re:Tham gia Hiệp định TPP hàng Việt khó sống ?!
TPP VÀ SỨC ÉP VỚI RCEP Hiệp định TPP đã đi đến những thống nhất chung về các thỏa thuận, đây là tín hiệu đáng mừng cho 12 quốc gia là các nước thành viên TPP song cũng là điều đáng lo ngại đối với các nước vừa tham gia TPP lẫn RCEP, bởi lẽ dưới những tác động của Hiệp định thế kỷ TPP này thì RCEP sẽ chịu không ít ảnh hưởng. Sức ép từ TPP Trước tiên về vấn đề thời gian, Hiệp định TPP đã thống nhất các thỏa thuận chung giữa 12 quốc gia và chỉ chờ Quốc hội các nước phê chuẩn, ngay cả những vấn đề khó thống nhất như: sở hữu sinh dược, tỷ lệ % phụ tùng ô tô, sản phẩm bơ, sửa... cũng đã thống nhất. Trong khi đó các sản phẩm đó cũng liên quan đến các nước tham gia RCEP, đặc biệt là với 7 nước tham gia cả 2 hiệp định. Bên cạnh đó cạnh tranh xuất khẩu khá lớn từ phía TPP, dẫu rằng những quy định từ TPP trong khâu xuất nhập khẩu là hết sức khắt khe, từ nguyên liệu hàng hóa, quy trình sản xuất, thuế quan, vận chuyển,... song không một quốc gia nào dám phủ nhận cái giá mà TPP sẽ trả cho họ là quá hấp dẫn, vì thế dẫu có yêu cầu phức tạp thế nào đi nữa thì các nước thành viên TPP cũng sẽ cố hưởng được cái lợi này, song với RCEP thì khác khi mà các nước thành viên chỉ chú trọng tập trung đầu tư cho TPP thì RCEP sẽ thế nào, liệu họ sẽ chỉn chu như thế không? Ngoài ra là tiêu chuẩn, như đã nói thì tiêu chuẩn từ TPP luôn song hành từ giá trị mà nó đem lại, trong khi đó RCEP có vẻ "nhẹ nhàng" hơn với các nước thành viên, nhưng liệu một hiệp định khá lớn như RCEP sẽ chấp nhận duy trì tiêu chí thấp để dần hạ đi giá trị của chính mình. Theo một số chuyên gia, nếu RCEP nâng tiêu chí lên cao ngang ngữa TPP thì sẽ có một số nước mất đi chỗ đứng trong cạnh tranh, đặc biệt là ngành chế tạo sản phẩm công nghiệp. Gia tăng cạnh tranh. RCEP có lẽ khá hùng hậu hơn so với TPP về số lượng thành viên, đặc biệt là với sự tham gia của Trung Quốc - một cường quốc đang thu hút sự chú ý của cộng đồng quốc tế trong những thập kỷ gần đây. Việc Trung Quốc tham gia RCEP không chỉ xuất phát từ lợi ích thương mại của chính nước này mà còn là "sự đấu đá" trên chính trường thế giới, khi mà Hoa Kỳ là một điểm nhấn của TPP thì chính Trung Quốc là trụ cột đem RCEP đối đầu. Tuy nhiên theo giới quan sát cho biết, cách tiếp cận của hai Hiệp định có sự khác nhau, TPP nghiên về mô hình ưu tiên chất lượng, tiêu chuẩn rất cao từ vấn đề lao động, môi trường, sở hữu trí tuệ; còn RCEP thì nhẹ nhàng hơn, tiêu chuẩn chỉ cần phù hợp, hạn chế rào cản thương mại với từng quốc gia nhất là các nước chậm và đang phát triển. Do đó nếu tham gia TPP thì bạn như phải chạy theo một cách điên cuồng cùng nó, hoặc là bạn sẽ nhảy một bước thật xa hoặc là bạn sẽ bị nó bỏ lại một cách thê thảm; còn với RCEP nó như mộng cách cửa rộng mở với các nước còn khó khăn, nhưng cũng vì cánh cửa nó "rộng" quá nên tạo ra một sư so sánh khập khiển mỗi khi nhắc đến TPP. Dẫu có chung những mục tiêu nhưng tính cạnh tranh của TPP và RCEP là quá lớn, do đó nó sẽ là một nguy cơ lớn đối với quan hệ giữa các quốc gia, trước tiên là hai cường quốc Mỹ - Trung, bên cạnh còn có thể ảnh hưởng đến cả ASEAn và các nước thành viên khác, khiến cho vấn đề đối thoại khu vực không thể không quan tâm, nhất là với các nước tham gia cả hai hiệp định. Ngoài ra cũng chính vì tiêu chí được xem là quá mẫu mực của Hiệp định TPP mà nhiều chuyên gia đ1nh giá rằng RCEP sẽ vấp phải sự so sánh tiêu chí cùng TPP. Trong khi TPP đã khiến các nước châu Âu mất hàng chục năm thảo luận mới đạt đến sự thống nhất. Thời gian hoàn thành Những thông tin bên lề tại cuộc họp ở Busan (Hàn Quốc) cho biết thì 16 nước đối tác RCEP đang cố gắng hoàn tất quá trình đám phán vào cuối năm như kế hoạch đã định. Nhưng có thể do áp lực thời gian nên 16 nước phải có sự nổ lực hơn nữa, càng chậm thì càng chịu nhiều thiệt thòi. Nhưng có thể thấy trước mắt RCEP sẽ phải gặp khá nhiều khó khăn khi đàm phán song phương giữa các nước lớn như Ấn Độ, Trung Quốc, Nhật Bản. Ngoài ra do tiến hành sau TPP nhưng RCEP nảy sinh nhiều vấn đề hơn, chính áp lực thời gian khiến các nước đàm phán nhanh, nhưng càng nhanh thì khó lòng đảm bảo các tiêu chí chất lượng. Do đó nhiều luồng thông tin cho rằng RCEP khó có thể hoàn thành vào cuối năm. Là một quốc gia tham gia cả 2 hiệp định, Việt Nam cần phải nâng cao sự cẩn trọng trong đàm phán nhằm hóa giải các nguy cơ, đi đến thỏa thuận cuối cùng có lợi nhất cho các bên đàm phán cũng như cho cả khối. Với kinh nghiệm đàm phán qua nhiều hiệp định FTA khác nhau, các nhà hoạch định chính sách và đàm phán hội nhập kinh tế của Việt Nam đã được dự báo và trù liệu về vấn đề này. Kết quả cuối cùng của RCEP như thế nào vẫn còn đang là điều trông chờ từ dư luận.
Re:Tham gia Hiệp định TPP hàng Việt khó sống ?!
HIỆP ĐỊNH TPP: NGHĨA VỤ KHI XUẤT, NHẬP KHẨU Tham gia hiệp định TPP là cơ hội lớn cho mỗi nước thành viên trong việc tạo ra sức bật đưa nền kinh tế đi lên. Song để có thể hưởng được những lợi ích từ TPP đem lại, những là trong khâu xuất, nhập khẩu hàng hóa thì đòi hỏi mỗi nước thành viên phải có những nghĩa vụ nhất định Nghĩa vụ khi xuất khẩu Tại điều 3.24 Hiệp định TPP có quy định về nghĩa vụ của các nhà nhập khẩu, theo đó nếu nhà nhập khẩu muốn yêu cầu nhận được ưu đãi thuế quan phải thỏa mãn các điều kiện sau: + Lập tờ khai các hàng hóa thỏa mãn yêu cầu hàng hóa có xuất: Đối với một hàng hóa được xem là có xuất xứ đòi hỏi những quy định hết sức nghiêm ngặt, từ khâu sử dụng nguyên vật liệu sản xuất, quy trình sản xuất, đóng gói, quá trình vận chuyển...; + Sở hữu giấy chứng nhận xuất xứ hợp lệ tại thời điểm lập tờ khai; + Nếu Bên nhập khẩu yêu cầu thì nhà nhập khẩu phải cung cấp một bản sao giấy chứng nhận xuất xứ; + Nếu một Bên yêu cầu thì nhà nhập khẩu phải cung cấp các tài liệu có liên quan như chứng từ vận tải, chứng từ hải quan hoặc lưu trữ để chứng minh các yêu cầu trong quá cảnh và trung chuyển (Điều 3.18). Ngoài ra nếu nhà nhập khẩu lý do chính đáng về việc giấy chứng nhận xuất xứ được lập dựa trên những thông tin sai lệch có thể ảnh hưởng đến tính chính xác, hợp lệ của giấy chứng nhận xuất xứ, nhà nhập khẩu phải đính chính tài liệu nhập khẩu, nộp thuế hải quan và tiền phạt còn nợ (nếu có). Bên nhập khẩu không được xử phạt một nhà nhập khẩu chỉ vì lập một yêu cầu hưởng ưu đãi thuế quan không hợp lệ nếu nhà nhập khẩu đó tự phát hiện yêu cầu đó không hợp lệ trước khi Bên nhập khẩu phát hiện, tự giác điều chỉnh yêu cầu và nộp các loại thếu áp dụng trong các trường hợp quy định tại pháp luật của Bên nhập khẩu. Nghĩa vụ khi xuất khẩu: Nhà xuất khẩu, nhà sản xuất trong lãnh thổ của mình sau khi lập xong giấy chứng nhận xuất xứ phải nộp bản sao giấy chứng nhận xuất xứ đó cho Bên xuất khẩu theo yêu cầu của Bên xuất khẩu. Một giấy chứng nhận xuất xứ không đúng sự thật hoặc thông tin không đúng sự thật khác do một nhà xuất khẩu hoặc một Bên khác là có xuất xứ có những hậu quả pháp lý tương tự như nhà nhập khẩu trong lãnh thổ của Bên đó (với một số điều chỉnh phù hợp) khi kê khai hoặc trình bày không đúng sự thật liên quan đến việc nhập khẩu. Nếu một nhà xuất khẩu hoặc nhà sản xuất trong lãnh thổ của mình đã cung cấp một giấy chứng nhận xuất xứ và có lý do để tin rằng giấy chứng nhận đó có hoặc được lập dựa vào những thông tin không chính xác, nhà xuất khẩu hoặc nhà sản xuất phải thông báo ngay bằng văn bản cho những người và những Bên đã được nhà xuất khẩu hoặc nhà sản xuất cung cấp giấy chứng nhận xuất xứ đó về mọi thay đổi có thể ảnh hưởng đến tính chính xác hoặc tính hợp lệ của giấy chứng nhận xuất xứ.
Re:Tham gia Hiệp định TPP hàng Việt khó sống ?!
HIỆP ĐỊNH TPP: VẤN ĐỀ LƯU TRỮ HỒ SƠ VÀ XÁC NHẬN XUẤT XỨ Có thể nói rằng Hiệp định TPP khá khắt khe trong việc định ra chỉ tiêu chất lượng sản phẩm cũng như khắt khe trong khâu thủ tục giấy tờ, để đảm bảo có được lợi ích từ TPP đem lại, các nước tham gia phải tuân thủ nghiêm ngặt các quy định của TPP, nếu ở bài trước là những quy định để một hàng hóa được xem là có xuất xứ thì ở bài này sẽ là những quy định liên quan đến lưu trữ hồ sơ, xác nhận xuất xứ nhằm đảm bảo cho hàng hóa được xem là có xuất xứ. Yêu cầu lưu trữ hồ sơ Tại điều 3.26 Chương III Hiệp định TPP quy định nếu một nhà nhập khẩu có yêu cầu hưởng ưu đãi thuế quan cho hàng hóa nhập khẩu vào lãnh của Bên mình thì cần phải lưu trừ các tài liêu theo yêu cầu ít nhất 5 năm kể từ ngày nhập khẩu. Các tài liệu yêu cầu bao gồm: các tài liệu liên quan đến nhập khẩu, bao gồm cả giấy chứng nhận xuất xứ là cơ sở cho yêu cầu hưởng ưu đãi thuế quan; tất cả hồ sơ cần thiết nhằm chứng minh hàng hóa có xuất xứ, thỏa mãn các điều kiện ưu đãi thuế quan, nếu yêu cầu được dựa trên một giấy chứng nhận xuất xứ do nhà nhập khẩu lập. Ngoài ra khi cấp giấy chứng nhận xuất xứ thì nhà sản xuất, nhà xuất khẩu trong lãnh thổ của Bên xuất khẩu cũng phải lưu trữ lại tất cả hồ sơ cần thiết nhằm chứng minh hàng háo được cấp giấy chứng nhận xuất xứ là có ít nhất 5 năm kể từ ngay cấp giấy chứng nhận xuất xứ. Mỗi bên phải nổ lực để công khai thông tin về các loại hồ sơ mà có thể được sử dụng để chứng minh hàng hóa có xuất xứ. Các nhà nhập khẩu xuất khẩu, nhà sản xuất trong lãnh thổ của Bên nhập khẩu có thể lựa chọn hồ sơ quy định tại khoản 1 và 2 điều 3.26 Hiệp định TPP dưới bất kỳ hi2nht hức nào, miễn có thể truy xuất kịp thời, bao gồm định dạng điện tử, quang học, từ tính hoặc bằng văn bản quy định pháp luật của mình. Xác nhận xuất xứ: Nhằm xác định hàng hóa nhập vào lãnh thổ có xuất xứ hay không, Bên nhập khẩu có quyền tiến hành xác minh yêu cầu hưởng ưu đãi thuế quan theo bất kỳ hình thức nào sau đây: Văn bản yêu cầu cung cấp thông tin từ nhà nhập khẩu hàng hóa; Văn bản yêu cầu cung cấp thông tin từ nhà xuất khẩu hoặc nhà sản xuất hàng hoá; Xác nhận trực tiếp tại cơ sở của nhà xuất khẩu hoặc nhà sản xuất hàng hoá; Đối với hàng dệt may, là các thủ tục quy định tại Điều 4.6 (Xác minh); hoặc Các thủ tục khác do Bên nhập khẩu và Bên có trụ sở của nhà xuất khẩu hoặc nhà sản xuất quyết định. Văn bản đề nghị cung cấp thông tin, xác minh tại trụ sở bao gồm: yêu cầu cung cấp thông tin từ nhà nhập khẩu hàng hóa, yêu cầu cung cấp thông tin từ nhà xuất khẩu hoặc nhà sản xuất hàng hóa; xác nhận trực tiếp tại cơ sở của nhà sản xuất hoặc nhà sản xuất hàng hóa phải thỏa mãn các yêu cầu sau + Được lập bằng tiếng Anh hoặc ngôn ngữ chính thức của quốc gia của người nhận yêu cầu; + Bao gồm danh tính của cơ quan nhà nước lập yêu cầu; nêu rõ lý do yêu cầu, bao gồm các vấn đề cụ thể mà Bên yêu cầu đang tìm cách giải quyết thông qua việc xác minh; + Bao gồm đầy đủ thông tin để nhận dạng hàng hóa đang được xác minh; + Bao gồm một bản sao của thông tin liên quan đến hàng hóa được cung cấp, bao gồm giấy chứng nhận xuất xứ; và + Trong trường hợp xác minh tại trụ sở, yêu cầu có sự đồng ý bằng văn bản của nhà xuất khẩu hoặc nhà sản xuất sở hữu trụ sở nơi việc xác minh được tiến hành, và nêu rõ ngày và địa điểm dự kiến, và mục đích cụ thể của việc xác minh tại trụ sở. Trước khi ra quyết định bằng văn bản, Bên nhập khẩu có trách nhiệm thông báo kết quả kiểm tra cho nhà nhập khẩu, nhà sản xuất đã cung cấp thông tin trực tiếp cho mình, nếu Bên nhập khẩu có ý từ chối cho hưởng ưu đãi thuế quan, cho phép những đối tượng này ít nhất 30 ngày để cung cấp thông tin bổ sung liên quan đến xuất xứ của hàng hóa. Trách nhiệm Bên nhập khẩu: + Cung cấp nhà nhập khẩu quyết định bằng văn bản về việc hàng hóa có xuất xứ hay không ( có cơ sở ra quyết định) + Cung cấp nhà nhập khẩu, nhà xuất khẩu hoặc nhà sản xuất đã cung cấp thông tin trong quá trình xác minh hoặc đã xác nhận hàng hóa có xuất xứ kết quả xác minh và lý do. Trong quá trình xác minh, Bên nhập khẩu phải cho phép giải phóng hàng hóa tùy thuộc vào tình hình nộp thuế hoặc cung cấp bảo đảm theo quy định pháp luật của mình. Nếu sau khi xác minh, Bên nhập khẩu xác định rằng hàng hóa có xuất xứ, Bên nhập khẩu sẽ cho hàng hóa hưởng ưu đãi thuế quan và hoàn trả các khoản thuế nộp thừa hoặc các khoản đảm bảo, trừ trường hợp khoản bảo đảm có liên quan đến các nghĩa vụ khác. Nếu việc xác minh các hàng hoá giống hệt do một Bên tiến hành cho thấy các tuyên bố của một nhà nhập khẩu, nhà xuất khẩu hoặc nhà sản xuất rằng hàng hóa nhập khẩu vào Bên đó là có xuất xứ có xu hướng sai sự thật hoặc không có cơ sở, Bên đó có quyền không áp dụng ưu đãi thuế quan cho hàng hoá giống hệt được nhập khẩu, xuất khẩu hoặc sản xuất bởi đối tượng đó cho đến khi đối tượng đó chứng mình rằng hàng hoá giống hệt cũng thỏa điều kiện có xuất xứ. Trong phạm vi khoản này, "hàng hoá giống hệt" là những hàng hoá giống nhau về mọi mặt theo một quy tắc xuất xứ cụ thể nhằm xác định hàng hoá thỏa điều kiện có xuất xứ. Trong phạm vi một yêu cầu xác minh, thông tin liên hệ của nhà xuất khẩu, nhà sản xuất hoặc nhà nhập khẩu tại một Bên trong một giấy chứng nhận xuất xứ được xem là đầy đủ.