Người làm chứng không có mặt theo giấy triệu tập có bị dẫn giải lên tòa như tội phạm không?
Tại Điều 127 Bộ luật tố tụng hình sự 2015 quy định áp giải, dẫn giải, theo đó: 1. Áp giải có thể áp dụng đối với người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, người bị buộc tội. 2. Dẫn giải có thể áp dụng đối với: a) Người làm chứng trong trường hợp họ không có mặt theo giấy triệu tập mà không vì lý do bất khả kháng hoặc không do trở ngại khách quan; b) Người bị hại trong trường hợp họ từ chối việc giám định theo quyết định trưng cầu của cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng mà không vì lý do bất khả kháng hoặc không do trở ngại khách quan; c) Người bị tố giác, người bị kiến nghị khởi tố mà qua kiểm tra, xác minh có đủ căn cứ xác định người đó liên quan đến hành vi phạm tội được khởi tố vụ án, đã được triệu tập mà vẫn vắng mặt không vì lý do bất khả kháng hoặc không do trở ngại khách quan. 3. Điều tra viên, cấp trưởng của cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra, Kiểm sát viên, Thẩm phán chủ tọa phiên tòa, Hội đồng xét xử có quyền ra quyết định áp giải, dẫn giải. 4. Quyết định áp giải, quyết định dẫn giải phải ghi rõ họ tên, ngày, tháng, năm sinh, nơi cư trú của người bị áp giải, dẫn giải; thời gian, địa điểm người bị áp giải, dẫn giải phải có mặt và các nội dung quy định tại khoản 2 Điều 132 của Bộ luật này. 5. Người thi hành quyết định áp giải, dẫn giải phải đọc, giải thích quyết định và lập biên bản về việc áp giải, dẫn giải theo quy định tại Điều 133 của Bộ luật này. Cơ quan Công an nhân dân, Quân đội nhân dân có thẩm quyền có trách nhiệm tổ chức thi hành quyết định áp giải, dẫn giải. 6. Không được bắt đầu việc áp giải, dẫn giải người vào ban đêm; không được áp giải, dẫn giải người già yếu, người bị bệnh nặng có xác nhận của cơ quan y tế. Như vậy, nếu người làm chứng không muốn có mặt theo giấy triệu tập của Tòa án nhưng không vì lý do bất khả kháng hoặc không do trở ngại khách quan thì sẽ được Tòa án cử người dẫn giải lên Tòa để làm người làm chứng cho vụ án.
Dẫn giải và áp giải khác nhau thế nào?
Dẫn giải, áp giải là hai khái niệm hoàn toàn khác nhau. Tuy nhiên trên thực tế khi sử dụng vẫn còn có sự nhầm lẫn giữa 2 thuật ngữ pháp lý này. Pháp luật hiện hành có quy định như thế nào về 2 khái niệm này? * Dẫn giải Điểm l Khoản 1 Điều 4 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 quy định: “Dẫn giải là việc cơ quan có thẩm quyền cưỡng chế người làm chứng, người bị tố giác hoặc bị kiến nghị khởi tố đến địa điểm tiến hành điều tra, truy tố, xét xử hoặc người bị hại từ chối giám định.” Ngoài ra, theo Khoản 2 Điều 127 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015, dẫn giải có thể áp dụng đối với các trường hợp sau: - Người làm chứng trong trường hợp họ không có mặt theo giấy triệu tập mà không vì lý do bất khả kháng hoặc không do trở ngại khách quan; - Người bị hại trong trường hợp họ từ chối việc giám định theo quyết định trưng cầu của cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng mà không vì lý do bất khả kháng hoặc không do trở ngại khách quan; - Người bị tố giác, người bị kiến nghị khởi tố mà qua kiểm tra, xác minh có đủ căn cứ xác định người đó liên quan đến hành vi phạm tội được khởi tố vụ án, đã được triệu tập mà vẫn vắng mặt không vì lý do bất khả kháng hoặc không do trở ngại khách quan. * Áp giải Theo Điểm k Khoản 2 Điều 4 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015: "Áp giải là việc cơ quan có thẩm quyền cưỡng chế người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, bị bắt, bị tạm giữ, bị can, bị cáo đến địa điểm tiến hành điều tra, truy tố hoặc xét xử.” Theo Khoản 1 điều 127 Bộ luật này, áp giải có thể áp dụng đối với người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, người bị buộc tội. Trường hợp khẩn cấp được hiểu là những tình huống cần được giải quyết ngay lập tức mà không chậm trễ. Đối với pháp luật hình sự thì đó được coi là việc áp dụng những biện pháp ngăn chặn kịp thời, ngay tức khắc nếu không sẽ để lại những hậu quả, ảnh hưởng tới xã hội. Ví dụ như bắt giữ, kịp thời ngăn chặn tội phạm, không để đối tượng phạm thêm tội,... * Sự khác nhau giữa áp giải và dẫn giải Về bản chất, đây đều là hoạt động cưỡng chế của cơ quan có thẩm quyền, tuy nhiên có thể thấy "dẫn giải" có mức độ nhẹ hơn so với "áp giải". - Dẫn giải được áp dụng trong trường hợp: người có lệnh gọi của cơ quan có thẩm quyền nhưng không đến mà không có lý do chính đáng và việc vắng mặt của họ gây trở ngại cho việc điều tra, truy tố, xét xử. - Áp giải áp dụng trong trường hợp người được cơ quan có thẩm quyền triệu tập nhưng không đến hoặc có cơ sở để nghi ngờ họ sẽ bỏ trốn. Đối tượng áp dụng ở đây là bị can, bị cáo và người bị kết án. Ví dụ: Bị can được tại ngoại, cơ quan điều tra triệu tập nhưng không đến trình diện. Nghi ngờ bị can sẽ bỏ trốn, cơ quan điều tra sẽ điều động cán bộ đến tại nơi cư trú để áp giải.
Áp giải và Dẫn giải - Áp dụng thế nào mới đúng?
“Áp giải” và “dẫn giải” đều là biện pháp cưỡng chế cần thiết trong hoạt động tố tụng và tùy theo đối tượng áp dụng, trường hợp cụ thể mà cơ quan nhà nước sẽ áp dụng biện pháp phù hợp, vừa phục vụ công tác tư pháp diễn ra nhanh chóng, vừa đảm bảo quyền, lợi ích hợp pháp cho người bị áp dụng. Qua quá trình nghiên cứu BLTTHS 2003 và BLHS 2015, mình tổng hợp được một số điểm sau đây. Mọi người cùng xem và thảo luận nhé! Dẫn giải Áp giải Định nghĩa Khi được triệu tập nhưng đối tượng không đến mà không có lý do chính đáng và việc họ vắng mặt gây trở ngại cho việc điều tra, truy tố thì cơ quan có thẩm quyền quyết định áp dụng biện pháp cưỡng chế đối tượng trên đến địa điểm quy định. Áp giải là dẫn giải có vũ trang được áp dụng để buộc đối tượng đi đến một địa điểm đã định theo lệnh của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền hoặc trong trường hợp khác do pháp luật quy định. Đối tượng áp dụng Người có lệnh gọi của cơ quan có thẩm quyền nhưng không tự đến mà không có lý do chính đáng và việc vắng mặt của họ gây trở ngại cho việc điều tra, truy tố, xét xử. Biện pháp này thường áp dụng cho người làm chứng. Khoản 4 Điều 55, Điều 134 BLTTHS 2003 Người được cơ quan có thẩm quyền triệu tập nhưng không tự đến hoặc có cơ sở để nghi ngờ họ sẽ bỏ trốn. Thực tế, đối tượng áp dụng ở đây là bị can, bị cáo và người bị kết án. Khoản 3 Điều 49, Khoản 3 Điều 50, Điều 129, Khoản 2 Điều 260 BLTTHS 2003 Cơ quan ban hành quyết định - Điều tra viên; - Viện kiểm sát - Điều tra viên; - Viện kiểm sát. Không được áp giải bị can vào ban đêm. - Công an trong trường hợp chấp hành án; Các trường hợp áp dụng Trường hợp người làm chứng đã được Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát triệu tập nhưng cố ý không đến mà không có lý do chính đáng và việc họ vắng mặt gây trở ngại cho việc điều tra, truy tố. - Bị can, bị cáo vắng mặt không có lý do chính đáng khi nhận được lệnh triệu tập của cơ quan có thẩm quyền thì có thể bị áp giải; nếu bỏ trốn thì bị truy nã. - Trong trường hợp người bị kết án đang tại ngoại, nếu quá thời hạn mà không có mặt tại cơ quan Công an để chấp hành án thì người bị kết án sẽ bị áp giải. - Người bị kết án đang tại ngoại, nếu quá thời hạn mà không có mặt tại cơ quan Công an để chấp hành án thì người bị kết án sẽ bị áp giải. Nội dung quyết định - Quyết định áp giải, quyết định dẫn giải phải ghi rõ họ tên, ngày, tháng, năm sinh, nơi cư trú của người bị áp giải, dẫn giải; thời gian, địa điểm người bị áp giải, dẫn giải phải có mặt và các nội dung quy định. - Người thi hành quyết định áp giải, dẫn giải phải đọc, giải thích quyết định và lập biên bản về việc áp giải, dẫn giải theo quy định - Cơ quan Công an nhân dân, Quân đội nhân dân có thẩm quyền có trách nhiệm tổ chức thi hành quyết định áp giải, dẫn giải. - Không được bắt đầu việc áp giải, dẫn giải người vào ban đêm; không được áp giải, dẫn giải người già yếu, người bị bệnh nặng có xác nhận của cơ quan y tế. Trên thực tế, việc áp giải bị can, bị cáo đang tại ngoại, dẫn giải người làm chứng là vấn đề phức tạp, nhạy cảm và rất dễ bị phản ứng, vì vậy, cầnphải xem xét rất thận trọng, chỉ nên áp dụng khi thật cần thiết để làm rõ các nội dung quan trọng của vụ án và trong các trường hợp họ cố tình vắng mặt không có lý do chính đáng. Người có thẩm quyền áp giải, dẫn giải phải phối hợp chặt chẽ với cảnh sát bảo vệ và hỗ trợ tư pháp cùng cấp để thủ trưởng đơn vị này để thực hiện việc áp giải bị can tại ngoại đến địa điểm cụ thể.
Người làm chứng không có mặt theo giấy triệu tập có bị dẫn giải lên tòa như tội phạm không?
Tại Điều 127 Bộ luật tố tụng hình sự 2015 quy định áp giải, dẫn giải, theo đó: 1. Áp giải có thể áp dụng đối với người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, người bị buộc tội. 2. Dẫn giải có thể áp dụng đối với: a) Người làm chứng trong trường hợp họ không có mặt theo giấy triệu tập mà không vì lý do bất khả kháng hoặc không do trở ngại khách quan; b) Người bị hại trong trường hợp họ từ chối việc giám định theo quyết định trưng cầu của cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng mà không vì lý do bất khả kháng hoặc không do trở ngại khách quan; c) Người bị tố giác, người bị kiến nghị khởi tố mà qua kiểm tra, xác minh có đủ căn cứ xác định người đó liên quan đến hành vi phạm tội được khởi tố vụ án, đã được triệu tập mà vẫn vắng mặt không vì lý do bất khả kháng hoặc không do trở ngại khách quan. 3. Điều tra viên, cấp trưởng của cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra, Kiểm sát viên, Thẩm phán chủ tọa phiên tòa, Hội đồng xét xử có quyền ra quyết định áp giải, dẫn giải. 4. Quyết định áp giải, quyết định dẫn giải phải ghi rõ họ tên, ngày, tháng, năm sinh, nơi cư trú của người bị áp giải, dẫn giải; thời gian, địa điểm người bị áp giải, dẫn giải phải có mặt và các nội dung quy định tại khoản 2 Điều 132 của Bộ luật này. 5. Người thi hành quyết định áp giải, dẫn giải phải đọc, giải thích quyết định và lập biên bản về việc áp giải, dẫn giải theo quy định tại Điều 133 của Bộ luật này. Cơ quan Công an nhân dân, Quân đội nhân dân có thẩm quyền có trách nhiệm tổ chức thi hành quyết định áp giải, dẫn giải. 6. Không được bắt đầu việc áp giải, dẫn giải người vào ban đêm; không được áp giải, dẫn giải người già yếu, người bị bệnh nặng có xác nhận của cơ quan y tế. Như vậy, nếu người làm chứng không muốn có mặt theo giấy triệu tập của Tòa án nhưng không vì lý do bất khả kháng hoặc không do trở ngại khách quan thì sẽ được Tòa án cử người dẫn giải lên Tòa để làm người làm chứng cho vụ án.
Dẫn giải và áp giải khác nhau thế nào?
Dẫn giải, áp giải là hai khái niệm hoàn toàn khác nhau. Tuy nhiên trên thực tế khi sử dụng vẫn còn có sự nhầm lẫn giữa 2 thuật ngữ pháp lý này. Pháp luật hiện hành có quy định như thế nào về 2 khái niệm này? * Dẫn giải Điểm l Khoản 1 Điều 4 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 quy định: “Dẫn giải là việc cơ quan có thẩm quyền cưỡng chế người làm chứng, người bị tố giác hoặc bị kiến nghị khởi tố đến địa điểm tiến hành điều tra, truy tố, xét xử hoặc người bị hại từ chối giám định.” Ngoài ra, theo Khoản 2 Điều 127 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015, dẫn giải có thể áp dụng đối với các trường hợp sau: - Người làm chứng trong trường hợp họ không có mặt theo giấy triệu tập mà không vì lý do bất khả kháng hoặc không do trở ngại khách quan; - Người bị hại trong trường hợp họ từ chối việc giám định theo quyết định trưng cầu của cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng mà không vì lý do bất khả kháng hoặc không do trở ngại khách quan; - Người bị tố giác, người bị kiến nghị khởi tố mà qua kiểm tra, xác minh có đủ căn cứ xác định người đó liên quan đến hành vi phạm tội được khởi tố vụ án, đã được triệu tập mà vẫn vắng mặt không vì lý do bất khả kháng hoặc không do trở ngại khách quan. * Áp giải Theo Điểm k Khoản 2 Điều 4 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015: "Áp giải là việc cơ quan có thẩm quyền cưỡng chế người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, bị bắt, bị tạm giữ, bị can, bị cáo đến địa điểm tiến hành điều tra, truy tố hoặc xét xử.” Theo Khoản 1 điều 127 Bộ luật này, áp giải có thể áp dụng đối với người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, người bị buộc tội. Trường hợp khẩn cấp được hiểu là những tình huống cần được giải quyết ngay lập tức mà không chậm trễ. Đối với pháp luật hình sự thì đó được coi là việc áp dụng những biện pháp ngăn chặn kịp thời, ngay tức khắc nếu không sẽ để lại những hậu quả, ảnh hưởng tới xã hội. Ví dụ như bắt giữ, kịp thời ngăn chặn tội phạm, không để đối tượng phạm thêm tội,... * Sự khác nhau giữa áp giải và dẫn giải Về bản chất, đây đều là hoạt động cưỡng chế của cơ quan có thẩm quyền, tuy nhiên có thể thấy "dẫn giải" có mức độ nhẹ hơn so với "áp giải". - Dẫn giải được áp dụng trong trường hợp: người có lệnh gọi của cơ quan có thẩm quyền nhưng không đến mà không có lý do chính đáng và việc vắng mặt của họ gây trở ngại cho việc điều tra, truy tố, xét xử. - Áp giải áp dụng trong trường hợp người được cơ quan có thẩm quyền triệu tập nhưng không đến hoặc có cơ sở để nghi ngờ họ sẽ bỏ trốn. Đối tượng áp dụng ở đây là bị can, bị cáo và người bị kết án. Ví dụ: Bị can được tại ngoại, cơ quan điều tra triệu tập nhưng không đến trình diện. Nghi ngờ bị can sẽ bỏ trốn, cơ quan điều tra sẽ điều động cán bộ đến tại nơi cư trú để áp giải.
Áp giải và Dẫn giải - Áp dụng thế nào mới đúng?
“Áp giải” và “dẫn giải” đều là biện pháp cưỡng chế cần thiết trong hoạt động tố tụng và tùy theo đối tượng áp dụng, trường hợp cụ thể mà cơ quan nhà nước sẽ áp dụng biện pháp phù hợp, vừa phục vụ công tác tư pháp diễn ra nhanh chóng, vừa đảm bảo quyền, lợi ích hợp pháp cho người bị áp dụng. Qua quá trình nghiên cứu BLTTHS 2003 và BLHS 2015, mình tổng hợp được một số điểm sau đây. Mọi người cùng xem và thảo luận nhé! Dẫn giải Áp giải Định nghĩa Khi được triệu tập nhưng đối tượng không đến mà không có lý do chính đáng và việc họ vắng mặt gây trở ngại cho việc điều tra, truy tố thì cơ quan có thẩm quyền quyết định áp dụng biện pháp cưỡng chế đối tượng trên đến địa điểm quy định. Áp giải là dẫn giải có vũ trang được áp dụng để buộc đối tượng đi đến một địa điểm đã định theo lệnh của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền hoặc trong trường hợp khác do pháp luật quy định. Đối tượng áp dụng Người có lệnh gọi của cơ quan có thẩm quyền nhưng không tự đến mà không có lý do chính đáng và việc vắng mặt của họ gây trở ngại cho việc điều tra, truy tố, xét xử. Biện pháp này thường áp dụng cho người làm chứng. Khoản 4 Điều 55, Điều 134 BLTTHS 2003 Người được cơ quan có thẩm quyền triệu tập nhưng không tự đến hoặc có cơ sở để nghi ngờ họ sẽ bỏ trốn. Thực tế, đối tượng áp dụng ở đây là bị can, bị cáo và người bị kết án. Khoản 3 Điều 49, Khoản 3 Điều 50, Điều 129, Khoản 2 Điều 260 BLTTHS 2003 Cơ quan ban hành quyết định - Điều tra viên; - Viện kiểm sát - Điều tra viên; - Viện kiểm sát. Không được áp giải bị can vào ban đêm. - Công an trong trường hợp chấp hành án; Các trường hợp áp dụng Trường hợp người làm chứng đã được Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát triệu tập nhưng cố ý không đến mà không có lý do chính đáng và việc họ vắng mặt gây trở ngại cho việc điều tra, truy tố. - Bị can, bị cáo vắng mặt không có lý do chính đáng khi nhận được lệnh triệu tập của cơ quan có thẩm quyền thì có thể bị áp giải; nếu bỏ trốn thì bị truy nã. - Trong trường hợp người bị kết án đang tại ngoại, nếu quá thời hạn mà không có mặt tại cơ quan Công an để chấp hành án thì người bị kết án sẽ bị áp giải. - Người bị kết án đang tại ngoại, nếu quá thời hạn mà không có mặt tại cơ quan Công an để chấp hành án thì người bị kết án sẽ bị áp giải. Nội dung quyết định - Quyết định áp giải, quyết định dẫn giải phải ghi rõ họ tên, ngày, tháng, năm sinh, nơi cư trú của người bị áp giải, dẫn giải; thời gian, địa điểm người bị áp giải, dẫn giải phải có mặt và các nội dung quy định. - Người thi hành quyết định áp giải, dẫn giải phải đọc, giải thích quyết định và lập biên bản về việc áp giải, dẫn giải theo quy định - Cơ quan Công an nhân dân, Quân đội nhân dân có thẩm quyền có trách nhiệm tổ chức thi hành quyết định áp giải, dẫn giải. - Không được bắt đầu việc áp giải, dẫn giải người vào ban đêm; không được áp giải, dẫn giải người già yếu, người bị bệnh nặng có xác nhận của cơ quan y tế. Trên thực tế, việc áp giải bị can, bị cáo đang tại ngoại, dẫn giải người làm chứng là vấn đề phức tạp, nhạy cảm và rất dễ bị phản ứng, vì vậy, cầnphải xem xét rất thận trọng, chỉ nên áp dụng khi thật cần thiết để làm rõ các nội dung quan trọng của vụ án và trong các trường hợp họ cố tình vắng mặt không có lý do chính đáng. Người có thẩm quyền áp giải, dẫn giải phải phối hợp chặt chẽ với cảnh sát bảo vệ và hỗ trợ tư pháp cùng cấp để thủ trưởng đơn vị này để thực hiện việc áp giải bị can tại ngoại đến địa điểm cụ thể.