Phạm vi kinh doanh bất động sản của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài?
Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài được đầu tư xây dựng nhà ở để cho thuê; đầu tư xây dựng nhà, công trình xây dựng không phải là nhà ở để bán, cho thuê, cho thuê mua? Theo quy định tại điểm a khoản 3 và điểm d khoản 1 Điều 11 Luật Kinh doanh bất động sản 2014 thì DNCVĐTNN được kinh doanh bất động sản dưới hình thức: “Đối với đất được Nhà nước cho thuê thì được đầu tư xây dựng nhà ở để cho thuê; đầu tư xây dựng nhà, công trình xây dựng không phải là nhà ở để bán, cho thuê, cho thuê mua”. Theo đó, đối với đất có nguồn gốc được Nhà nước cho thuê thì DNCVĐTNN được hoạt động kinh doanh bất động sản theo các nội dung sau đây: Thứ nhất: DNCVĐTNN được đầu tư xây dựng nhà ở để cho thuê. Khác với hình thức được Nhà nước giao đất khi mà DNCVĐTNN sẽ được hoạt động đầu tư xây dựng nhà ở để bán, cho thuê, cho thuê mua. Việc Nhà nước cho thuê đất (có thời hạn) đã giới hạn quyền sử dụng của DNCVĐTNN thông qua một thời gian sử dụng xác định. Trong khi đó, nhà ở là một dạng bất động sản có thời gian sử dụng một cách lâu dài, vì vậy thời hạn thuê đất có thể sẽ ngắn hơn thời hạn sử dụng nhà ở, và khi kết thúc thời hạn thuê đất sẽ dẫn đến tình trạng tranh chấp khi xử lý nhà ở là tài sản gắn liền với đất. Do vậy, pháp luật chỉ cho phép DNCVĐTNN thuê đất để thực hiện đầu tư xây dựng nhà ở để cho thuê mà không được phép mua bán, chuyển nhượng. Lưu ý, thực hiện theo cơ chế được quy định tại khoản 5 Điều 60 Luật Đất đai 2013 và Khoản 4 Điều 31 Nghị định 46/2014/NĐ-CP: DNCVĐTNN được Nhà nước cho thuê đất trả tiền thuê đất một lần cho cả thời gian thuê để thực hiện dự án đầu tư xây dựng nhà ở để bán hoặc bán kết hợp cho thuê trước ngày Luật Đất đai năm 2013 có hiệu lực thi hành, nếu có nhu cầu chuyển sang giao đất có thu tiền sử dụng đất thì thực hiện theo chính sách giao đất có thu tiền sử dụng đất. Theo đó, trong trường hợp này, DNCVĐTNN sẽ được tiếp tục thực hiện dự án đầu tư xây dựng nhà ở để bán hoặc bán kết hợp cho thuê mà không bị giới hạn chỉ có quyền cho thuê nhà ở theo nội dung trên. Thứ hai: DNCVĐTNN được đầu tư xây dựng nhà, công trình xây dựng không phải là nhà ở để bán, cho thuê, cho thuê mua. Theo quy định tại khoản 1 Điều 3 Luật Nhà ở 2014 thì “Nhà ở là công trình xây dựng với mục đích để ở và phục vụ các nhu cầu sinh hoạt của hộ gia đình, cá nhân”. Theo đó, chúng ta có thể hiểu rằng nhà, công trình xây dựng không phải là nhà ở là loại công trình xây dựng không nhằm mục đích để ở hoặc phục vụ các nhu cầu sinh hoạt của hộ gia đình, cá nhân. Nói cách khác, nếu thỏa mãn điều kiện là “không dùng để ở” hoặc “không phục vụ nhu cầu sinh hoạt” thì sẽ được xác định là nhà, công trình xây dựng không phải là nhà ở. Và đối với loại công trình này, DNCVĐTNN sẽ được hoạt động kinh doanh dưới hình thức bán, cho thuê, cho thuê mua. Hiện nay, trong Luật Nhà ở 2023 có đưa ra định nghĩa về nhà ở như sau: “Nhà ở là công trình xây dựng với mục đích để ở và phục vụ nhu cầu sinh hoạt của gia đình, cá nhân. Nhà ở được sử dụng vào mục đích để ở và mục đích không phải để ở mà pháp luật không cấm là nhà ở có mục đích sử dụng hỗn hợp”. Như vậy, xét về tổng thể thì không có nhiều khác biệt so với Luật Nhà ở 2014 khi vẫn quy định hai điều kiện nói trên. Tuy nhiên, có thay đổi từ chủ thể là hộ gia đình sang gia đình – vốn là một nội dung cần điều chỉnh để phù hợp với Bộ luật Dân sự 2015. Đồng thời, bổ sung thêm quy định về khái niệm “nhà ở có mục đích sử dụng hỗn hợp” là nhà ở được sử dụng vào mục đích để ở và mục đích không phải để ở mà pháp luật không cấm. Liên quan đến hoạt động thuê mua, khoản 7 Điều 3 Luật kinh doanh bất động sản 2014 có quy định: “Thuê mua nhà, công trình xây dựng là thỏa thuận giữa các bên, theo đó bên thuê mua thanh toán trước cho bên cho thuê mua một khoản tiền và được sử dụng nhà, công trình xây dựng đó; số tiền còn lại được tính thành tiền thuê; sau khi đã thanh toán đủ số tiền thuê mua thì bên thuê mua trở thành chủ sở hữu đối với nhà, công trình xây dựng đó”. Khác với hoạt động cho thuê thuần túy, cho thuê mua là một hoạt động kinh doanh bất động sản giao thoa giữa việc cho thuê và chuyển nhượng. Nói cách khác, việc cho thuê vẫn có mục đích cuối cùng là sự chuyển giao tài sản sau thời hạn thuê, do vậy có thể thấy nét tương đồng trong phạm vi hoạt động cho thuê mua với hoạt động mua bán bất động sản. Theo đó, nếu DNCVĐTNN được phép kinh doanh bất động sản dưới hình thức mua bán, chuyển nhượng thì được phép thực hiện cả hoạt động kinh doanh là cho thuê mua bất động sản. Đối chiếu với quy định mới tại khoản 6 Điều 3 Luật Kinh doanh bất động sản 2023: “huê mua nhà ở, công trình xây dựng là việc bên thuê mua thanh toán trước cho bên cho thuê mua một tỷ lệ phần trăm nhất định của giá trị nhà ở, công trình xây dựng thuê mua theo thỏa thuận nhưng không quá 50% giá trị hợp đồng thuê mua nhà ở, công trình xây dựng, phần diện tích sàn xây dựng trong công trình xây dựng; số tiền còn lại được tính thành tiền thuê để trả hằng tháng cho bên cho thuê mua trong một thời hạn nhất định, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác; sau khi hết thời hạn thuê mua nhà ở, công trình xây dựng, phần diện tích sàn xây dựng trong công trình xây dựng và khi đã trả hết số tiền còn lại thì bên thuê mua có quyền sở hữu đối với nhà ở, công trình xây dựng, phần diện tích sàn xây dựng trong công trình xây dựng đó.”. So sánh với luật cũ, về bản chất hoạt động thuê mua vẫn không thay đổi, nhưng luật mới quy định cụ thể về tỷ lệ số tiền bên thuê mua thanh toán trước cho bên cho thuê mua, quy định cụ thể về các khoảng thời gian bên thuê mua thanh toán cho bên cho thuê mua. Lưu ý chung, theo quy định tại khoản 3 Điều 126 Luật Đất đai 2013 thì thời hạn thuê đất của DNCVĐTNN sẽ không quá 50 năm đối với dự án đầu tư và không quá 70 đối dự án có vốn đầu tư lớn nhưng thu hồi vốn chậm, dự án đầu tư vào địa bàn có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn, địa bàn có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn.
Vay vốn của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài có phải là khoản vay nước ngoài không?
Doanh nghiệp Việt Nam vay vốn của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (công ty mẹ ở nước ngoài) thì có áp dụng các quy định đối với khoản vay nước ngoài không? (1) Khoản vay nước ngoài là gì? Theo khoản 1 Điều 3 Nghị định 219/2013/NĐ-CP giải thích, vay nước ngoài là việc bên đi vay nhận khoản tín dụng từ người không cư trú thông qua việc ký kết và thực hiện các thỏa thuận vay nước ngoài dưới hình thức hợp đồng vay, hợp đồng mua bán hàng trả chậm, hợp đồng ủy thác cho vay, hợp đồng cho thuê tài chính hoặc phát hành công cụ nợ của bên đi vay. Theo khoản 2 Điều 1 Nghị định 219/2013/NĐ-CP thì bên đi vay trong việc vay nước ngoài bao gồm: - Doanh nghiệp được thành lập và hoạt động theo quy định của Luật Doanh nghiệp; - Tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài được thành lập và hoạt động theo quy định của Luật Các tổ chức tín dụng; - Hợp tác xã, liên minh hợp tác xã được thành lập và hoạt động theo quy định của Luật Hợp tác xã. (2) Vay vốn của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài có phải là khoản vay nước ngoài không? Theo định nghĩa của khoản vay nước ngoài, việc vay nước ngoài là việc bên đi vay nhận khoản tín dụng từ người không cư trú thông qua việc ký kết và thực hiện các thỏa thuận vay. Theo khoản 2 Điều 4 Pháp lệnh 28/2005/PL-UBTVQH11 được sửa đổi bởi khoản 1 Điều 1 Pháp lệnh 06/2013/PL-UBTVQH13, người cư trú là các đối tượng sau: - Tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài được thành lập, hoạt động tại Việt Nam theo quy định của Luật Các tổ chức tín dụng; - Tổ chức kinh tế không phải là tổ chức tín dụng được thành lập, hoạt động kinh doanh tại Việt Nam (sau đây gọi là tổ chức kinh tế); - Cơ quan nhà nước, đơn vị lực lượng vũ trang, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức chính trị xã hội - nghề nghiệp, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp, quỹ xã hội, quỹ từ thiện của Việt Nam hoạt động tại Việt Nam; - Văn phòng đại diện tại nước ngoài của các tổ chức quy định tại các điểm a, b và c khoản này; - Cơ quan đại diện ngoại giao, cơ quan đại diện lãnh sự, cơ quan đại diện tại tổ chức quốc tế của Việt Nam ở nước ngoài; - Công dân Việt Nam cư trú tại Việt Nam; công dân Việt Nam cư trú ở nước ngoài có thời hạn dưới 12 tháng; công dân Việt Nam làm việc tại các tổ chức quy định tại điểm d và điểm đ khoản này và cá nhân đi theo họ; - Công dân Việt Nam đi du lịch, học tập, chữa bệnh và thăm viếng ở nước ngoài; - Người nước ngoài được phép cư trú tại Việt Nam với thời hạn từ 12 tháng trở lên. Đối với người nước ngoài học tập, chữa bệnh, du lịch hoặc làm việc cho cơ quan đại diện ngoại giao, lãnh sự, cơ quan đại diện của tổ chức quốc tế tại Việt Nam, văn phòng đại diện của các tổ chức nước ngoài tại Việt Nam không kể thời hạn là những trường hợp không thuộc đối tượng người cư trú; - Chi nhánh tại Việt Nam của tổ chức kinh tế nước ngoài, các hình thức hiện diện tại Việt Nam của bên nước ngoài tham gia hoạt động đầu tư theo quy định của pháp luật về đầu tư, văn phòng điều hành của nhà thầu nước ngoài tại Việt Nam. Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (hay còn gọi là doanh nghiệp FDI) là chi nhánh tại Việt Nam của tổ chức kinh tế nước ngoài, tham gia hoạt động đầu tư theo quy định của pháp luật về đầu tư. Do đó, việc vay vốn của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài là việc vay của người cư trú, không phải việc vay vốn của người không cư trú theo quy định của Nghị định 219/2013/NĐ-CP. Từ đó có thể kết luận, việc vay vốn của doanh nghiệp của nước ngoài không phải áp dụng các quy định về khoản vay nước ngoài, không thuộc đối tượng điều chỉnh của việc vay, trả nợ nước ngoài của doanh nghiệp.
Năm 2024 doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài có được cấp biển số “LD”
Biển số có ký hiệu “LD” là gì? Màu sắc, sêri biển số xe của cơ quan, tổ chức, cá nhân trong nước? Năm 2024 doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài có được cấp, sử dụng biển số có ký hiệu “LD” nữa không? Biển số có ký hiệu “LD” là gì? Tại phụ lục 4 ban hành kèm theo Thông tư 58/2020/TT-BCA (đã hết hiệu lực từ15/08/2023) quy định: Biển số có ký hiệu “LD” là biển cấp cho xe của các doanh nghiệp có vốn nước ngoài, xe thuê của nước ngoài, xe của công ty nước ngoài trúng thầu. Màu sắc, sêri biển số xe của cơ quan, tổ chức, cá nhân trong nước? Tại khoản 5 Điều 37 Thông tư 24/2023/TT-BCA quy định: - Biển số xe ô tô nền màu xanh, chữ và số màu trắng, sêri biển số sử dụng lần lượt một trong 11 chữ cái sau đây: A, B, C, D, E, F, G, H, K, L, M cấp cho xe của các cơ quan của Đảng; Văn phòng Chủ tịch nước; Văn phòng Quốc hội và các cơ quan của Quốc hội; Văn phòng Đoàn đại biểu Quốc hội, Hội đồng nhân dân các cấp; các Ban chỉ đạo Trung ương; Công an nhân dân, Tòa án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân; các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ; Ủy ban an toàn giao thông quốc gia; Ủy ban nhân dân các cấp và các cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, cấp huyện; tổ chức chính trị - xã hội (gồm Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Công đoàn Việt Nam, Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Hội liên hiệp Phụ nữ Việt Nam, Hội Cựu chiến binh Việt Nam, Hội Nông dân Việt Nam); đơn vị sự nghiệp công lập, trừ Trung tâm đào tạo sát hạch lái xe công lập; Ban quản lý dự án có chức năng quản lý nhà nước; - Biển số xe mô tô nền màu xanh, chữ và số màu trắng, sêri biển số sử dụng lần lượt một trong 11 chữ cái sau đây: A, B, C, D, E, F, G, H, K, L, M kết hợp với 1 chữ số tự nhiên từ 1 đến 9, cấp cho xe của các đối tượng quy định tại điểm a khoản này; - Biển số xe ô tô nền màu trắng, chữ và số màu đen, sêri biển số sử dụng lần lượt một trong 20 chữ cái sau đây: A, B, C, D, E, F, G, H, K, L, M, N, P, S, T, U, V, X, Y, Z cấp cho xe của các tổ chức, cá nhân trong nước, không thuộc đối tượng quy định tại điểm a khoản này; - Biển số xe mô tô nền màu trắng, chữ và số màu đen, sêri biển số sử dụng lần lượt một trong 20 chữ cái sau đây: A, B, C, D, E, F, G, H, K, L, M, N, P, S, T, U, V, X, Y, Z kết hợp với một trong 20 chữ cái A, B, C, D, E, F, G, H, K, L, M, N, P, S, T, U, V, X, Y, Z cấp cho xe của các tổ chức, cá nhân trong nước, không thuộc đối tượng quy định tại điểm a khoản này; - Biển số xe ô tô nền màu vàng, chữ và số màu đen cấp cho xe hoạt động kinh doanh vận tải bằng ô tô, sử dụng lần lượt một trong 20 chữ cái sau đây: A, B, C, D, E, F, G, H, K, L, M, N, P, S, T, U, V, X, Y, Z; - Biển số xe ô tô, xe mô tô nền màu vàng, chữ và số màu đỏ, có ký hiệu địa phương đăng ký và hai chữ cái viết tắt của khu kinh tế theo quy định của Chính phủ; - Một số trường hợp có ký hiệu sêri riêng, gồm: Biển số xe có ký hiệu “CD” cấp cho xe ô tô chuyên dùng, kể cả xe máy chuyên dùng của lực lượng Công an nhân dân sử dụng vào mục đích an ninh; Biển số có ký hiệu “KT” cấp cho xe của doanh nghiệp quân đội, theo đề nghị của Cục Xe - Máy; Biển số có ký hiệu “RM” cấp cho rơ moóc, sơ mi rơ moóc; Biển số có ký hiệu “MK” cấp cho máy kéo; Biển số có ký hiệu “TĐ” cấp cho xe sản xuất, lắp ráp trong nước, được Thủ tướng Chính phủ cho phép triển khai thí điểm, kể cả xe chở người 4 bánh có gắn động cơ, xe chở hàng 4 bánh có gắn động cơ; Biển số có ký hiệu “HC” cấp cho xe ô tô phạm vi hoạt động hạn chế; Xe có kết cấu tương tự loại xe nào thì cấp biển số đăng ký của loại xe đó. Màu sắc biển số của các sêri thực hiện theo quy định tại điểm a, điểm c khoản 5 Điều này. Như vậy, hiện tại biển cấp cho xe của các doanh nghiệp có vốn nước ngoài, xe thuê của nước ngoài, xe của công ty nước ngoài trúng thầu không còn quy định ký hiệu “LD”. Năm 2024 doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài có được cấp, sử dụng biển số có ký hiệu “LD” nữa không? Tại Điều 39 Thông tư 24/2023/TT-BCA quy định: - Đối với xe đã đăng ký biển 5 số trước ngày Thông tư này có hiệu lực thi hành mà chưa làm thủ tục thu hồi thì số biển số đó được xác định là biển số định danh của chủ xe. - Đối với xe đã đăng ký biển 5 số, nếu chủ xe đã làm thủ tục thu hồi trước ngày Thông tư này có hiệu lực thi hành thì số biển số đó được chuyển vào kho biển số để cấp biển số theo quy định. - Đối với xe đã đăng ký biển 5 số có ký hiệu “LD”, “DA”, “MĐ”, “R” thì tiếp tục được phép tham gia giao thông, kể cả khi cấp đổi, cấp lại biển số, trừ trường hợp chủ xe có nhu cầu cấp sang biển số theo quy định của Thông tư này. - Đối với xe đã đăng ký biển 3 hoặc 4 số thì tiếp tục được phép tham gia giao thông, trừ trường hợp chủ xe có nhu cầu cấp sang biển số định danh hoặc khi chủ xe thực hiện thủ tục cấp đổi chứng nhận đăng ký xe, cấp đổi biển số xe, cấp lại chứng nhận đăng ký xe, cấp lại biển số xe hoặc đăng ký sang tên, di chuyển xe theo quy định của Thông tư này thì thực hiện thu hồi biển 3 hoặc 4 số đó và cấp đổi sang biển số định danh theo quy định. Như vậy, Đối với xe đã đăng ký biển 5 số có ký hiệu “LD” thì tiếp tục được phép tham gia giao thông, kể cả khi cấp đổi, cấp lại biển số, trừ trường hợp chủ xe có nhu cầu cấp sang biển số theo quy định của Thông tư này. Trường hợp, cấp biển mới sẽ không được cấp biển theo ký hiệu “LD”.
Cần bản soạn thảo mẫu về các vấn đề liên quan tới Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài
Xin chào các bạn Mình hiện tại đang tìm hiểu và học về thủ tục liên quan tới thành lâp - thay đổi - vốn ..... cho các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Nếu đk mọi người giúp mình với Nếu ko thì dạy và chi phí bao nhiêu thì PM mình qua email: lenam3919993@gmail.com Hỗ trợ mình với. Hoặc cần trao đổi về các ngành nghề khác như Thiết kế, Dịch, Nhà Hàng khách sạn... mình hỗ trợ
Phạm vi kinh doanh bất động sản của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài?
Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài được đầu tư xây dựng nhà ở để cho thuê; đầu tư xây dựng nhà, công trình xây dựng không phải là nhà ở để bán, cho thuê, cho thuê mua? Theo quy định tại điểm a khoản 3 và điểm d khoản 1 Điều 11 Luật Kinh doanh bất động sản 2014 thì DNCVĐTNN được kinh doanh bất động sản dưới hình thức: “Đối với đất được Nhà nước cho thuê thì được đầu tư xây dựng nhà ở để cho thuê; đầu tư xây dựng nhà, công trình xây dựng không phải là nhà ở để bán, cho thuê, cho thuê mua”. Theo đó, đối với đất có nguồn gốc được Nhà nước cho thuê thì DNCVĐTNN được hoạt động kinh doanh bất động sản theo các nội dung sau đây: Thứ nhất: DNCVĐTNN được đầu tư xây dựng nhà ở để cho thuê. Khác với hình thức được Nhà nước giao đất khi mà DNCVĐTNN sẽ được hoạt động đầu tư xây dựng nhà ở để bán, cho thuê, cho thuê mua. Việc Nhà nước cho thuê đất (có thời hạn) đã giới hạn quyền sử dụng của DNCVĐTNN thông qua một thời gian sử dụng xác định. Trong khi đó, nhà ở là một dạng bất động sản có thời gian sử dụng một cách lâu dài, vì vậy thời hạn thuê đất có thể sẽ ngắn hơn thời hạn sử dụng nhà ở, và khi kết thúc thời hạn thuê đất sẽ dẫn đến tình trạng tranh chấp khi xử lý nhà ở là tài sản gắn liền với đất. Do vậy, pháp luật chỉ cho phép DNCVĐTNN thuê đất để thực hiện đầu tư xây dựng nhà ở để cho thuê mà không được phép mua bán, chuyển nhượng. Lưu ý, thực hiện theo cơ chế được quy định tại khoản 5 Điều 60 Luật Đất đai 2013 và Khoản 4 Điều 31 Nghị định 46/2014/NĐ-CP: DNCVĐTNN được Nhà nước cho thuê đất trả tiền thuê đất một lần cho cả thời gian thuê để thực hiện dự án đầu tư xây dựng nhà ở để bán hoặc bán kết hợp cho thuê trước ngày Luật Đất đai năm 2013 có hiệu lực thi hành, nếu có nhu cầu chuyển sang giao đất có thu tiền sử dụng đất thì thực hiện theo chính sách giao đất có thu tiền sử dụng đất. Theo đó, trong trường hợp này, DNCVĐTNN sẽ được tiếp tục thực hiện dự án đầu tư xây dựng nhà ở để bán hoặc bán kết hợp cho thuê mà không bị giới hạn chỉ có quyền cho thuê nhà ở theo nội dung trên. Thứ hai: DNCVĐTNN được đầu tư xây dựng nhà, công trình xây dựng không phải là nhà ở để bán, cho thuê, cho thuê mua. Theo quy định tại khoản 1 Điều 3 Luật Nhà ở 2014 thì “Nhà ở là công trình xây dựng với mục đích để ở và phục vụ các nhu cầu sinh hoạt của hộ gia đình, cá nhân”. Theo đó, chúng ta có thể hiểu rằng nhà, công trình xây dựng không phải là nhà ở là loại công trình xây dựng không nhằm mục đích để ở hoặc phục vụ các nhu cầu sinh hoạt của hộ gia đình, cá nhân. Nói cách khác, nếu thỏa mãn điều kiện là “không dùng để ở” hoặc “không phục vụ nhu cầu sinh hoạt” thì sẽ được xác định là nhà, công trình xây dựng không phải là nhà ở. Và đối với loại công trình này, DNCVĐTNN sẽ được hoạt động kinh doanh dưới hình thức bán, cho thuê, cho thuê mua. Hiện nay, trong Luật Nhà ở 2023 có đưa ra định nghĩa về nhà ở như sau: “Nhà ở là công trình xây dựng với mục đích để ở và phục vụ nhu cầu sinh hoạt của gia đình, cá nhân. Nhà ở được sử dụng vào mục đích để ở và mục đích không phải để ở mà pháp luật không cấm là nhà ở có mục đích sử dụng hỗn hợp”. Như vậy, xét về tổng thể thì không có nhiều khác biệt so với Luật Nhà ở 2014 khi vẫn quy định hai điều kiện nói trên. Tuy nhiên, có thay đổi từ chủ thể là hộ gia đình sang gia đình – vốn là một nội dung cần điều chỉnh để phù hợp với Bộ luật Dân sự 2015. Đồng thời, bổ sung thêm quy định về khái niệm “nhà ở có mục đích sử dụng hỗn hợp” là nhà ở được sử dụng vào mục đích để ở và mục đích không phải để ở mà pháp luật không cấm. Liên quan đến hoạt động thuê mua, khoản 7 Điều 3 Luật kinh doanh bất động sản 2014 có quy định: “Thuê mua nhà, công trình xây dựng là thỏa thuận giữa các bên, theo đó bên thuê mua thanh toán trước cho bên cho thuê mua một khoản tiền và được sử dụng nhà, công trình xây dựng đó; số tiền còn lại được tính thành tiền thuê; sau khi đã thanh toán đủ số tiền thuê mua thì bên thuê mua trở thành chủ sở hữu đối với nhà, công trình xây dựng đó”. Khác với hoạt động cho thuê thuần túy, cho thuê mua là một hoạt động kinh doanh bất động sản giao thoa giữa việc cho thuê và chuyển nhượng. Nói cách khác, việc cho thuê vẫn có mục đích cuối cùng là sự chuyển giao tài sản sau thời hạn thuê, do vậy có thể thấy nét tương đồng trong phạm vi hoạt động cho thuê mua với hoạt động mua bán bất động sản. Theo đó, nếu DNCVĐTNN được phép kinh doanh bất động sản dưới hình thức mua bán, chuyển nhượng thì được phép thực hiện cả hoạt động kinh doanh là cho thuê mua bất động sản. Đối chiếu với quy định mới tại khoản 6 Điều 3 Luật Kinh doanh bất động sản 2023: “huê mua nhà ở, công trình xây dựng là việc bên thuê mua thanh toán trước cho bên cho thuê mua một tỷ lệ phần trăm nhất định của giá trị nhà ở, công trình xây dựng thuê mua theo thỏa thuận nhưng không quá 50% giá trị hợp đồng thuê mua nhà ở, công trình xây dựng, phần diện tích sàn xây dựng trong công trình xây dựng; số tiền còn lại được tính thành tiền thuê để trả hằng tháng cho bên cho thuê mua trong một thời hạn nhất định, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác; sau khi hết thời hạn thuê mua nhà ở, công trình xây dựng, phần diện tích sàn xây dựng trong công trình xây dựng và khi đã trả hết số tiền còn lại thì bên thuê mua có quyền sở hữu đối với nhà ở, công trình xây dựng, phần diện tích sàn xây dựng trong công trình xây dựng đó.”. So sánh với luật cũ, về bản chất hoạt động thuê mua vẫn không thay đổi, nhưng luật mới quy định cụ thể về tỷ lệ số tiền bên thuê mua thanh toán trước cho bên cho thuê mua, quy định cụ thể về các khoảng thời gian bên thuê mua thanh toán cho bên cho thuê mua. Lưu ý chung, theo quy định tại khoản 3 Điều 126 Luật Đất đai 2013 thì thời hạn thuê đất của DNCVĐTNN sẽ không quá 50 năm đối với dự án đầu tư và không quá 70 đối dự án có vốn đầu tư lớn nhưng thu hồi vốn chậm, dự án đầu tư vào địa bàn có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn, địa bàn có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn.
Vay vốn của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài có phải là khoản vay nước ngoài không?
Doanh nghiệp Việt Nam vay vốn của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (công ty mẹ ở nước ngoài) thì có áp dụng các quy định đối với khoản vay nước ngoài không? (1) Khoản vay nước ngoài là gì? Theo khoản 1 Điều 3 Nghị định 219/2013/NĐ-CP giải thích, vay nước ngoài là việc bên đi vay nhận khoản tín dụng từ người không cư trú thông qua việc ký kết và thực hiện các thỏa thuận vay nước ngoài dưới hình thức hợp đồng vay, hợp đồng mua bán hàng trả chậm, hợp đồng ủy thác cho vay, hợp đồng cho thuê tài chính hoặc phát hành công cụ nợ của bên đi vay. Theo khoản 2 Điều 1 Nghị định 219/2013/NĐ-CP thì bên đi vay trong việc vay nước ngoài bao gồm: - Doanh nghiệp được thành lập và hoạt động theo quy định của Luật Doanh nghiệp; - Tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài được thành lập và hoạt động theo quy định của Luật Các tổ chức tín dụng; - Hợp tác xã, liên minh hợp tác xã được thành lập và hoạt động theo quy định của Luật Hợp tác xã. (2) Vay vốn của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài có phải là khoản vay nước ngoài không? Theo định nghĩa của khoản vay nước ngoài, việc vay nước ngoài là việc bên đi vay nhận khoản tín dụng từ người không cư trú thông qua việc ký kết và thực hiện các thỏa thuận vay. Theo khoản 2 Điều 4 Pháp lệnh 28/2005/PL-UBTVQH11 được sửa đổi bởi khoản 1 Điều 1 Pháp lệnh 06/2013/PL-UBTVQH13, người cư trú là các đối tượng sau: - Tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài được thành lập, hoạt động tại Việt Nam theo quy định của Luật Các tổ chức tín dụng; - Tổ chức kinh tế không phải là tổ chức tín dụng được thành lập, hoạt động kinh doanh tại Việt Nam (sau đây gọi là tổ chức kinh tế); - Cơ quan nhà nước, đơn vị lực lượng vũ trang, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức chính trị xã hội - nghề nghiệp, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp, quỹ xã hội, quỹ từ thiện của Việt Nam hoạt động tại Việt Nam; - Văn phòng đại diện tại nước ngoài của các tổ chức quy định tại các điểm a, b và c khoản này; - Cơ quan đại diện ngoại giao, cơ quan đại diện lãnh sự, cơ quan đại diện tại tổ chức quốc tế của Việt Nam ở nước ngoài; - Công dân Việt Nam cư trú tại Việt Nam; công dân Việt Nam cư trú ở nước ngoài có thời hạn dưới 12 tháng; công dân Việt Nam làm việc tại các tổ chức quy định tại điểm d và điểm đ khoản này và cá nhân đi theo họ; - Công dân Việt Nam đi du lịch, học tập, chữa bệnh và thăm viếng ở nước ngoài; - Người nước ngoài được phép cư trú tại Việt Nam với thời hạn từ 12 tháng trở lên. Đối với người nước ngoài học tập, chữa bệnh, du lịch hoặc làm việc cho cơ quan đại diện ngoại giao, lãnh sự, cơ quan đại diện của tổ chức quốc tế tại Việt Nam, văn phòng đại diện của các tổ chức nước ngoài tại Việt Nam không kể thời hạn là những trường hợp không thuộc đối tượng người cư trú; - Chi nhánh tại Việt Nam của tổ chức kinh tế nước ngoài, các hình thức hiện diện tại Việt Nam của bên nước ngoài tham gia hoạt động đầu tư theo quy định của pháp luật về đầu tư, văn phòng điều hành của nhà thầu nước ngoài tại Việt Nam. Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (hay còn gọi là doanh nghiệp FDI) là chi nhánh tại Việt Nam của tổ chức kinh tế nước ngoài, tham gia hoạt động đầu tư theo quy định của pháp luật về đầu tư. Do đó, việc vay vốn của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài là việc vay của người cư trú, không phải việc vay vốn của người không cư trú theo quy định của Nghị định 219/2013/NĐ-CP. Từ đó có thể kết luận, việc vay vốn của doanh nghiệp của nước ngoài không phải áp dụng các quy định về khoản vay nước ngoài, không thuộc đối tượng điều chỉnh của việc vay, trả nợ nước ngoài của doanh nghiệp.
Năm 2024 doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài có được cấp biển số “LD”
Biển số có ký hiệu “LD” là gì? Màu sắc, sêri biển số xe của cơ quan, tổ chức, cá nhân trong nước? Năm 2024 doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài có được cấp, sử dụng biển số có ký hiệu “LD” nữa không? Biển số có ký hiệu “LD” là gì? Tại phụ lục 4 ban hành kèm theo Thông tư 58/2020/TT-BCA (đã hết hiệu lực từ15/08/2023) quy định: Biển số có ký hiệu “LD” là biển cấp cho xe của các doanh nghiệp có vốn nước ngoài, xe thuê của nước ngoài, xe của công ty nước ngoài trúng thầu. Màu sắc, sêri biển số xe của cơ quan, tổ chức, cá nhân trong nước? Tại khoản 5 Điều 37 Thông tư 24/2023/TT-BCA quy định: - Biển số xe ô tô nền màu xanh, chữ và số màu trắng, sêri biển số sử dụng lần lượt một trong 11 chữ cái sau đây: A, B, C, D, E, F, G, H, K, L, M cấp cho xe của các cơ quan của Đảng; Văn phòng Chủ tịch nước; Văn phòng Quốc hội và các cơ quan của Quốc hội; Văn phòng Đoàn đại biểu Quốc hội, Hội đồng nhân dân các cấp; các Ban chỉ đạo Trung ương; Công an nhân dân, Tòa án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân; các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ; Ủy ban an toàn giao thông quốc gia; Ủy ban nhân dân các cấp và các cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, cấp huyện; tổ chức chính trị - xã hội (gồm Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Công đoàn Việt Nam, Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Hội liên hiệp Phụ nữ Việt Nam, Hội Cựu chiến binh Việt Nam, Hội Nông dân Việt Nam); đơn vị sự nghiệp công lập, trừ Trung tâm đào tạo sát hạch lái xe công lập; Ban quản lý dự án có chức năng quản lý nhà nước; - Biển số xe mô tô nền màu xanh, chữ và số màu trắng, sêri biển số sử dụng lần lượt một trong 11 chữ cái sau đây: A, B, C, D, E, F, G, H, K, L, M kết hợp với 1 chữ số tự nhiên từ 1 đến 9, cấp cho xe của các đối tượng quy định tại điểm a khoản này; - Biển số xe ô tô nền màu trắng, chữ và số màu đen, sêri biển số sử dụng lần lượt một trong 20 chữ cái sau đây: A, B, C, D, E, F, G, H, K, L, M, N, P, S, T, U, V, X, Y, Z cấp cho xe của các tổ chức, cá nhân trong nước, không thuộc đối tượng quy định tại điểm a khoản này; - Biển số xe mô tô nền màu trắng, chữ và số màu đen, sêri biển số sử dụng lần lượt một trong 20 chữ cái sau đây: A, B, C, D, E, F, G, H, K, L, M, N, P, S, T, U, V, X, Y, Z kết hợp với một trong 20 chữ cái A, B, C, D, E, F, G, H, K, L, M, N, P, S, T, U, V, X, Y, Z cấp cho xe của các tổ chức, cá nhân trong nước, không thuộc đối tượng quy định tại điểm a khoản này; - Biển số xe ô tô nền màu vàng, chữ và số màu đen cấp cho xe hoạt động kinh doanh vận tải bằng ô tô, sử dụng lần lượt một trong 20 chữ cái sau đây: A, B, C, D, E, F, G, H, K, L, M, N, P, S, T, U, V, X, Y, Z; - Biển số xe ô tô, xe mô tô nền màu vàng, chữ và số màu đỏ, có ký hiệu địa phương đăng ký và hai chữ cái viết tắt của khu kinh tế theo quy định của Chính phủ; - Một số trường hợp có ký hiệu sêri riêng, gồm: Biển số xe có ký hiệu “CD” cấp cho xe ô tô chuyên dùng, kể cả xe máy chuyên dùng của lực lượng Công an nhân dân sử dụng vào mục đích an ninh; Biển số có ký hiệu “KT” cấp cho xe của doanh nghiệp quân đội, theo đề nghị của Cục Xe - Máy; Biển số có ký hiệu “RM” cấp cho rơ moóc, sơ mi rơ moóc; Biển số có ký hiệu “MK” cấp cho máy kéo; Biển số có ký hiệu “TĐ” cấp cho xe sản xuất, lắp ráp trong nước, được Thủ tướng Chính phủ cho phép triển khai thí điểm, kể cả xe chở người 4 bánh có gắn động cơ, xe chở hàng 4 bánh có gắn động cơ; Biển số có ký hiệu “HC” cấp cho xe ô tô phạm vi hoạt động hạn chế; Xe có kết cấu tương tự loại xe nào thì cấp biển số đăng ký của loại xe đó. Màu sắc biển số của các sêri thực hiện theo quy định tại điểm a, điểm c khoản 5 Điều này. Như vậy, hiện tại biển cấp cho xe của các doanh nghiệp có vốn nước ngoài, xe thuê của nước ngoài, xe của công ty nước ngoài trúng thầu không còn quy định ký hiệu “LD”. Năm 2024 doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài có được cấp, sử dụng biển số có ký hiệu “LD” nữa không? Tại Điều 39 Thông tư 24/2023/TT-BCA quy định: - Đối với xe đã đăng ký biển 5 số trước ngày Thông tư này có hiệu lực thi hành mà chưa làm thủ tục thu hồi thì số biển số đó được xác định là biển số định danh của chủ xe. - Đối với xe đã đăng ký biển 5 số, nếu chủ xe đã làm thủ tục thu hồi trước ngày Thông tư này có hiệu lực thi hành thì số biển số đó được chuyển vào kho biển số để cấp biển số theo quy định. - Đối với xe đã đăng ký biển 5 số có ký hiệu “LD”, “DA”, “MĐ”, “R” thì tiếp tục được phép tham gia giao thông, kể cả khi cấp đổi, cấp lại biển số, trừ trường hợp chủ xe có nhu cầu cấp sang biển số theo quy định của Thông tư này. - Đối với xe đã đăng ký biển 3 hoặc 4 số thì tiếp tục được phép tham gia giao thông, trừ trường hợp chủ xe có nhu cầu cấp sang biển số định danh hoặc khi chủ xe thực hiện thủ tục cấp đổi chứng nhận đăng ký xe, cấp đổi biển số xe, cấp lại chứng nhận đăng ký xe, cấp lại biển số xe hoặc đăng ký sang tên, di chuyển xe theo quy định của Thông tư này thì thực hiện thu hồi biển 3 hoặc 4 số đó và cấp đổi sang biển số định danh theo quy định. Như vậy, Đối với xe đã đăng ký biển 5 số có ký hiệu “LD” thì tiếp tục được phép tham gia giao thông, kể cả khi cấp đổi, cấp lại biển số, trừ trường hợp chủ xe có nhu cầu cấp sang biển số theo quy định của Thông tư này. Trường hợp, cấp biển mới sẽ không được cấp biển theo ký hiệu “LD”.
Cần bản soạn thảo mẫu về các vấn đề liên quan tới Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài
Xin chào các bạn Mình hiện tại đang tìm hiểu và học về thủ tục liên quan tới thành lâp - thay đổi - vốn ..... cho các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Nếu đk mọi người giúp mình với Nếu ko thì dạy và chi phí bao nhiêu thì PM mình qua email: lenam3919993@gmail.com Hỗ trợ mình với. Hoặc cần trao đổi về các ngành nghề khác như Thiết kế, Dịch, Nhà Hàng khách sạn... mình hỗ trợ