Đời cha ăn mặn, đời con khát nước là gì? Con cái có phải trả nợ thay cho cha mẹ hay không?
Khi nói đến quy luật nhân quả thì ông bà ta thường có câu tục ngữ "Đời cha ăn mặn, đời con khát nước" - Vậy câu nói này có ý nghĩa gì? Ta sẽ tìm hiểu về vấn đề này thông qua bài viết sau. Đời cha ăn mặn, đời con khát nước là gì? Trước hết, theo nghĩa đen câu tục ngữ có nghĩa là khi một người có thói quen ăn uống không lành mạnh, ăn quá mặn sẽ làm hại sức khỏe con cái, làm đứa con khát nước. Tuy nhiên, nếu hiểu theo nghĩa bóng thì câu tục ngữ "Đời cha ăn mặn, đời con khát nước" sẽ có nghĩa là khi đời cha mẹ làm điều xấu xa, thất đức thì đời con cháu sẽ gặp phải điều không may mắn, cuộc sống khó khăn. Câu tục ngữ như một lời nhắc nhở mọi người không nên làm những điều thất đức, những điều ác, điều xấu. Nếu chúng ta làm những điều xấu xa, ác độc thì những điều xấu ấy sẽ ảnh hưởng đến chính chúng ta và con cháu chúng ta sau này. Con cái có nghĩa vụ phải trả nợ thay cho cha mẹ hay không? Tại Điều 70 Luật Hôn nhân và gia đình 2014 có nêu rõ về quyền và nghĩa vụ của con cái đối với cha mẹ của mình như sau: - Được cha mẹ thương yêu, tôn trọng, thực hiện các quyền, lợi ích hợp pháp về nhân thân và tài sản theo quy định của pháp luật; được học tập và giáo dục; được phát triển lành mạnh về thể chất, trí tuệ và đạo đức. - Có bổn phận yêu quý, kính trọng, biết ơn, hiếu thảo, phụng dưỡng cha mẹ, giữ gìn danh dự, truyền thống tốt đẹp của gia đình. - Con chưa thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự hoặc không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình thì có quyền sống chung với cha mẹ, được cha mẹ trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc. Con chưa thành niên tham gia công việc gia đình phù hợp với lứa tuổi và không trái với quy định của pháp luật về bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em. - Con đã thành niên có quyền tự do lựa chọn nghề nghiệp, nơi cư trú, học tập, nâng cao trình độ văn hóa, chuyên môn, nghiệp vụ; tham gia hoạt động chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội theo nguyện vọng và khả năng của mình. Khi sống cùng với cha mẹ, con có nghĩa vụ tham gia công việc gia đình, lao động, sản xuất, tạo thu nhập nhằm bảo đảm đời sống chung của gia đình; đóng góp thu nhập vào việc đáp ứng nhu cầu của gia đình phù hợp với khả năng của mình. - Được hưởng quyền về tài sản tương xứng với công sức đóng góp vào tài sản của gia đình. Như vậy, theo quy định pháp luật vừa nêu thì con cái không có nghĩa vụ phải trả nợ thay cho cha hoặc mẹ của mình. Con cái nhận di sản thừa kế từ cha mẹ thì có nghĩa vụ phải trả nợ thay cho cha mẹ của mình không? Tại Điều 615 Bộ luật Dân sự 2015 có quy định về việc thực hiện nghĩa vụ tài sản do người chết để lại như sau: - Những người hưởng thừa kế có trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ tài sản trong phạm vi di sản do người chết để lại, trừ trường hợp có thỏa thuận khác. - Trường hợp di sản chưa được chia thì nghĩa vụ tài sản do người chết để lại được người quản lý di sản thực hiện theo thỏa thuận của những người thừa kế trong phạm vi di sản do người chết để lại. - Trường hợp di sản đã được chia thì mỗi người thừa kế thực hiện nghĩa vụ tài sản do người chết để lại tương ứng nhưng không vượt quá phần tài sản mà mình đã nhận, trừ trường hợp có thỏa thuận khác. - Trường hợp người thừa kế không phải là cá nhân hưởng di sản theo di chúc thì cũng phải thực hiện nghĩa vụ tài sản do người chết để lại như người thừa kế là cá nhân. Như vậy, trong trường hợp con cái đã nhận di sản thừa kế từ bố mẹ thì phải có trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ tài sản do cha mẹ để lại, trong đó có bao gồm cả việc trả nợ thay cho cha me. Con cái sẽ dùng chính tài sản mình nhận được từ phần di sản thừa kế để trả nợ trong phạm vi di sản mà cha, mẹ để lại. Tóm lại, câu tục ngữ "Đời cha ăn mặn, đời con khát nước" là câu nói dùng để nhắc nhở mọi người phải suy nghĩ thật kỹ trong từng việc mà mình làm. Nếu hiện tại chúng ta làm những điều xấu xa thì con cháu chúng ta chính là những người phải hứng chịu hậu quả về sau.
Tiền bồi thường do xâm phạm sức khỏe có thể được xem là di sản thừa kế không?
Pháp luật hiện nay có quy định về tiền bồi thường do xâm phạm sức khỏe là di sản thừa kế hay không? Tiền bồi thường do xâm phạm sức khỏe là những khoản chi phí nào? 1. Di sản thừa kế là gì? Theo quy định tại Điều 612 Bộ Luật Dân sự 2015 định nghĩa di sản bao gồm tài sản riêng của người chết, phần tài sản của người chết trong tài sản chung với người khác. Như vậy, có thể hiểu di sản thừa kế là tài sản của người chết (người để lại di sản thừa kế) để lại cho người khác sau khi người để lại di sản chết, di sản thừa kế bao gồm:Tài sản riêng của người chết; Phần tài sản của người chết trong tài sản chung với người khác. Trong đó: - Tài sản riêng của người chết là tài sản riêng của cá nhân bao gồm những tài sản hợp pháp thuộc sở hữu riêng không bị hạn chế về số lượng và giá trị. - Còn phần tài sản của người chết trong tài sản chung với người khác bao gồm: tài sản của người chết trong khối tài sản chung hợp nhất của vợ hoặc chồng; tài sản của người chết trong khối tài sản chung theo phần với chủ thể khác. 2. Tiền bồi thường do xâm phạm sức khỏe có thể được xem là di sản thừa kế không? Căn cứ theo Điều 590 Bộ Luật Dân sự 2015 quy định về các khoản tiền bồi thường thiệt hại do xâm phạm sức khỏe cũng như trách nhiệm bồi thường, cụ thể như sau: - Thiệt hại do sức khỏe bị xâm phạm bao gồm: + Chi phí hợp lý cho việc cứu chữa, bồi dưỡng, phục hồi sức khỏe và chức năng bị mất, bị giảm sút của người bị thiệt hại; + Thu nhập thực tế bị mất hoặc bị giảm sút của người bị thiệt hại; nếu thu nhập thực tế của người bị thiệt hại không ổn định và không thể xác định được thì áp dụng mức thu nhập trung bình của lao động cùng loại; + Chi phí hợp lý và phần thu nhập thực tế bị mất của người chăm sóc người bị thiệt hại trong thời gian điều trị; nếu người bị thiệt hại mất khả năng lao động và cần phải có người thường xuyên chăm sóc thì thiệt hại bao gồm cả chi phí hợp lý cho việc chăm sóc người bị thiệt hại; + Thiệt hại khác do luật quy định. - Người chịu trách nhiệm bồi thường trong trường hợp sức khỏe của người khác bị xâm phạm phải bồi thường thiệt hại theo quy định và một khoản tiền khác để bù đắp tổn thất về tinh thần mà người đó gánh chịu. Mức bồi thường bù đắp tổn thất về tinh thần do các bên thỏa thuận; nếu không thỏa thuận được thì mức tối đa cho một người có sức khỏe bị xâm phạm không quá năm mươi lần mức lương cơ sở do Nhà nước quy định. Như vậy, tiền bồi thường do xâm phạm sức khỏe sẽ bao gồm các khoản khoản trên. Theo đó, khoản thường do xâm phạm sức khỏe được xem là di sản thừa kế khi khoản bồi thường này là phần tài sản riêng của người bị hại và là di sản thừa kế khi họ mất đi. Trong trường hợp này, nếu khoản bồi thường đó là khoản bồi thường trực tiếp cho người bị thiệt hại khi họ còn sống thì đương nhiên thuộc tài sản riêng của họ và là di sản thừa kế khi họ chết.
Chứng thực văn bản khai nhận di sản mà di sản là động sản, quyền sửa dụng đất, nhà ở
Đối với trường hợp văn bản khai nhận di sản thừa kế là động sản, quyền sửa dụng đất, nhà ở người khai nhận muốn thực hiện chứng thực phải làm như thế nào? Cần chuẩn bị hồ sơ gồm những gì để có thể chứng thực được? Trình tự thực hiện chứng thực văn bản khai nhận di sản mà di sản là động sản, quyền sửa dụng đất, nhà ở Căn cứ Điều 36 Nghị định 23/2015/NĐ-CP các bước thực hiện chứng thực văn bản khai nhận di sản mà di sản là động sản, quyền sửa dụng đất, nhà ở như sau: + Người yêu cầu chứng thực nộp 01 bộ hồ sơ yêu cầu chứng thực. + Người thực hiện chứng thực (hoặc người tiếp nhận hồ sơ trong trường hợp tiếp nhận hồ sơ tại bộ phận một cửa, một cửa liên thông) kiểm tra giấy tờ trong hồ sơ yêu cầu chứng thực, nếu đầy đủ, tại thời điểm chứng thực các bên tham gia văn bản khai nhận di sản tự nguyện, minh mẫn và nhận thức, làm chủ được hành vi của mình thì tiếp nhận hồ sơ, thực hiện chứng thực. + Người khai nhận di sản phải ký trước mặt người thực hiện chứng thực, nếu văn bản khai nhận di sản có từ hai trang trở lên thì phải ký vào từng trang. Trường hợp người yêu cầu chứng thực nộp hồ sơ tại bộ phận một cửa, một cửa liên thông thì người khai nhận di sản phải ký trước mặt người tiếp nhận hồ sơ. + Trường hợp người yêu cầu chứng thực không ký được thì phải điểm chỉ; nếu người đó không đọc được, không nghe được, không ký, không điểm chỉ được thì phải có 02 (hai) người làm chứng. Người làm chứng phải có đủ năng lực hành vi dân sự và không có quyền, lợi ích hoặc nghĩa vụ liên quan đến giao dịch. Người làm chứng do người yêu cầu chứng thực bố trí. Trường hợp người yêu cầu chứng thực không bố trí được thì đề nghị cơ quan thực hiện chứng thực chỉ định người làm chứng. + Người thực hiện chứng thực (hoặc người tiếp nhận hồ sơ) ghi lời chứng theo mẫu quy định. Trường hợp tiếp nhận hồ sơ tại bộ phận một cửa, một cửa liên thông thì người tiếp nhận hồ sơ ký vào từng trang của văn bản khai nhận di sản và ký vào dưới lời chứng theo mẫu quy định. Người thực hiện chưng thực ký vào từng trang của văn bản khai nhận di sản (nếu hồ sơ không được tiếp nhận qua bộ phận một cửa, một chửa liên thông), ký, ghi rõ họ tên, đóng dấu của cơ quan thực hiện chứng thực và ghi vào sổ chứng thực. Đối với văn bản khai nhận có từ 02 (hai) trang trở lên, thì từng trang phải được đánh số thứ tự, có chữ ký của người yêu cầu chứng thực và người thực hiện chứng thực; số lượng trang và lời chứng được ghi tại trang cuối của văn bản thỏa thuận. Trường hợp văn bản khai nhận có từ 02 (hai) tờ trở lên thì phải đóng dấu giáp lai. + Trong trường hợp người yêu cầu chứng thực không thông thạo tiếng Việt thì phải có người phiên dịch. Người phiên dịch phải là người có năng lực hành vi dân sự đầy đủ theo quy định của pháp luật, thông thạo tiếng Việt và ngôn ngữ mà người yêu cầu chứng thực sử dụng. Người phiên dịch do người yêu cầu chứng thực mời hoặc do cơ quan thực hiện chứng thực chỉ định. Thù lao phiên dịch do người yêu cầu chứng thực trả.Người phiên dịch có trách nhiệm dịch đầy đủ, chính xác nội dung của văn bản khai nhận di sản, nội dung lời chứng cho người yêu cầu chứng thực và ký vào từng trang văn bản khai nhận với tư cách là người phiên dịch. Thành phần hồ sơ thực hiện chứng thực văn bản khai nhận di sản mà di sản là động sản, quyền sửa dụng đất, nhà ở Căn cứ khoản 1 Điều 36 Nghị định 23/2015/NĐ-CP hồ sơ thực hiện chứng thực văn bản khai nhận di sản mà di sản là động sản, quyền sửa dụng đất, nhà ở bao gồm: + Dự thảo văn bản khai nhận di sản; + Bản sao Giấy chứng minh nhân dân/Căn cước công dân hoặc Hộ chiếu còn giá trị sử dụng của người yêu cầu chứng thực (xuất trình kèm theo bản chính để đối chiếu); + Bản sao giấy chứng nhận quyền sở hữu, quyền sử dụng hoặc bản sao giấy tờ thay thế được pháp luật quy định đối với tài sản mà pháp luật quy định phải đăng ký quyền sở hữu, quyền sử dụng trong trường hợp văn bản khai nhận di sản liên quan đến tài sản đó (xuất trình kèm theo bản chính để đối chiếu). =>> Trên đây là trình tự các bước cũng như giấy tờ cần thiết để thực hiện chứng thực văn bản khai nhận di sản mà di sản là động sản, quyền sửa dụng đất, nhà ở
Chung sống như vợ chồng có được hưởng thừa kế khi chưa đăng ký kết hôn?
Chung sống như vợ chồng là gì? Chung sống như vợ chồng có được hưởng thừa kế khi chưa đăng ký kết hôn? Bố mẹ không đăng ký kết hôn, con chung có được hưởng thừa kế không? Bài viết sau sẽ giải đáp cho những thắc mắc nêu trên. (1) Chung sống như vợ chồng là gì? Căn cứ theo quy định tại Khoản 7 Điều 3 Luật Hôn nhân và gia đình 2014 có định nghĩa về chung sống như vợ chồng như sau: “Chung sống như vợ chồng là việc nam, nữ tổ chức cuộc sống chung và coi nhau là vợ chồng” Đồng thời, Thông tư liên tịch 01/2001/TTLT-BTP-BCA-TANDTC-VKSNDTC cũng có đề cập đến việc sống chung như vợ chồng như sau: “...Việc chung sống như vợ chồng thường được chứng minh bằng việc có con chung, được hàng xóm và xã hội xung quanh coi như vợ chồng, có tài sản chung đã được gia đình cơ quan, đoàn thể giáo dục mà vẫn tiếp tục duy trì quan hệ đó…” Từ những quy định nêu trên, sống chung như vợ chồng là việc hai người nam, nữ tổ chức sống chung với nhau mà coi nhau như vợ chồng. Đồng thời, việc chung sống này được xác minh bằng việc có con chung và được hàng xóm - xã hội xung quanh coi như vợ chồng. (2) Chung sống như vợ chồng có được hưởng thừa kế khi chưa đăng ký kết hôn? Căn cứ theo quy định tại Khoản 1 Điều 14 Luật Hôn nhân và gia đình 2014 về giải quyết hậu quả của việc nam, nữ chung sống với nhau như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn như sau: “Nam, nữ có đủ điều kiện kết hôn theo quy định của Luật này chung sống với nhau như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn thì không làm phát sinh quyền, nghĩa vụ giữa vợ và chồng. Quyền, nghĩa vụ đối với con, tài sản, nghĩa vụ và hợp đồng giữa các bên được giải quyết theo quy định tại Điều 15 và Điều 16 của Luật này.” Như vậy, trường hợp hai người nam nữ chung sống với nhau như vợ chồng mà không thực hiện đăng ký kết hôn thì không được công nhận như vợ chồng hợp pháp và không phát sinh quyền, nghĩa vụ giữa vợ chồng. Chính vì thế, trường hợp này không thuộc một trong những đối tượng được hưởng thừa kế theo pháp luật quy định tại Điều 651 Bộ Luật Dân sự 2015. Tuy nhiên, cũng loại trừ trường hợp một số trường hợp như sau: - Tại Khoản 1 Thông tư liên tịch 01/2001/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BTP có quy định như sau: “...Trong trường hợp quan hệ vợ chồng được xác lập trước ngày 03/01/1987 (ngày Luật hôn nhân và gia đình năm 1986 có hiệu lực) mà chưa đăng ký kết hôn, nếu một bên hoặc cả hai bên có yêu cầu ly hôn, thì Toà án thụ lý vụ án và áp dụng quy định về ly hôn của Luật hôn nhân và gia đình năm 2000…” Như vậy, có thể thấy, trường hợp này vẫn được pháp luật thừa nhận quan hệ vợ chồng mặc dù không đăng ký kết hôn. - Người chết để lại di chúc hợp pháp chỉ định người thừa kế tài sản là người chung sống không có đăng ký kết hôn. Trường hợp này người được chỉ định vẫn có quyền được hưởng tài sản thừa kế theo quy định tại Điều 644 Bộ Luật Dân sự 2015. (3) Bố mẹ không đăng ký kết hôn, con chung có được hưởng thừa kế? Như đã có đề cập tại mục (2), các vấn đề liên quan đến quyền, nghĩa vụ đối với con, tài sản, nghĩa vụ hợp đồng giữa hai người nam nữ không đăng ký kết hôn sẽ được giải quyết theo quy định tại Điều 15 và Điều 16 Luật Hôn nhân và gia đình 2014. Đồng thời, tại Điều 613 Bộ Luật Dân sự 2015 cũng quy định người thừa kế là cá nhân phải là người còn sống vào thời điểm mở thừa kế hoặc sinh ra và còn sống sau thời điểm mở thừa kế nhưng đã thành thai trước khi người để lại di sản chết. Trường hợp người thừa kế theo di chúc không là cá nhân thì phải tồn tại vào thời điểm mở thừa kế. Từ những quy định nêu trên, có thể thấy mặc dù bố, mẹ không đăng ký kết hôn nhưng vẫn có quyền và nghĩa vụ đối với con theo quy định. Chính vì thế, người con ở đây, kể cả trường hợp được sinh ra sau khi người để lại di sản chết nhưng đã thành thai vào thời điểm mở thừa kế thì vẫn được quyền hưởng thừa kế theo hàng thừa kế thứ nhất theo quy định pháp luật. Tổng kết lại, sống chung như vợ chồng là việc mà hai người nam, nữ tổ chức sống chung và coi nhau như vợ chồng. Trường hợp một trong hai người nam, nữ nêu trên chết đi thì người còn lại không có quyền được hưởng tài sản thừa kế của người con lại do chưa xác lập quan hệ vợ chồng. Tuy nhiên, cũng loại trừ trường hợp quan hệ này được xác lập từ trước ngày 03/01/1987 và trường hợp mà được chỉ định trong di chúc hợp pháp của người chết. Đối với trường hợp con chung được sinh ra bởi hai người nam, nữ chung sống như vợ chồng thì người con vẫn được quyền hưởng thừa kế theo hàng thừa kế thứ nhất.
"Dâu dâu rể rể cũng kể là con" thì có được nhận di sản thừa kế ngang với con ruột không?
Có câu "Dâu dâu rể rể cũng kể là con" vậy thì nội dung này được ghi nhận ở đâu trong hệ thống pháp luật Việt Nam? Và con dâu, con rể thì có được nhận di sản thừa kế ngang với con ruột hay không? Chúng ta cùng tìm hiểu qua bài viết sau. "Dâu dâu rể rể cũng kể là con" có ý nghĩa gì? "Dâu dâu rể rể cũng kể là con" nhắc đến mối quan hệ khá phức tạp. Dâu ở đây chỉ con dâu, người kết hôn với con trai mình. Con rể ở đây là con rể, người kết hôn với con gái mình. Có những người có cả dâu, cả rể. Có những người có một, thậm chí là nhiều đứa con như thế. "Dâu dâu rể rể cũng kể là con" mang hàm ý nhắc nhở ta nên coi dâu rể như con cái của mình. Duyên phận đã đưa đẩy ta về một nhà, thì cần nhìn nhận nhau như những người ruột thịt. Câu nói mang tinh thần gắn kết các mối quan hệ. Ông cha ta hi vọng những bậc làm cha mẹ hay những đứa con sẽ ghi lòng tạc dạ để cuộc sống gia đình hạnh phúc, yên ấm. Và tinh thần từ câu nói "Dâu dâu rể rể cũng kể là con" đã được các nhà làm Luật ghi nhận trong hệ thống pháp luật Việt Nam, cụ thể tại khoản 16 Điều 3 Luật Hôn nhân và gia đình 2014 như sau: Thành viên gia đình bao gồm vợ, chồng; cha mẹ đẻ, cha mẹ nuôi, cha dượng, mẹ kế, cha mẹ vợ, cha mẹ chồng; con đẻ, con nuôi, con riêng của vợ hoặc chồng, con dâu, con rể; anh, chị, em cùng cha mẹ, anh, chị, em cùng cha khác mẹ, anh, chị, em cùng mẹ khác cha, anh rể, em rể, chị dâu, em dâu của người cùng cha mẹ hoặc cùng cha khác mẹ, cùng mẹ khác cha; ông bà nội, ông bà ngoại; cháu nội, cháu ngoại; cô, dì, chú, cậu, bác ruột và cháu ruột. Theo đó, thì con dâu, con rể cũng được xem là thành viên gia đình. "Dâu dâu rể rể cũng kể là con" thì có được nhận di sản thừa kế ngang với con ruột không? Theo Điều 651 Bộ luật Dân sự 2015 thì những người thừa kế theo pháp luật được quy định theo thứ tự sau đây: - Hàng thừa kế thứ nhất gồm: vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của người chết; - Hàng thừa kế thứ hai gồm: ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại, anh ruột, chị ruột, em ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại; - Hàng thừa kế thứ ba gồm: cụ nội, cụ ngoại của người chết; bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột; chắt ruột của người chết mà người chết là cụ nội, cụ ngoại. Như vậy, trong các trường hợp được hưởng thừa kế theo pháp luật thì con dâu con rể không nằm trong diện được hưởng di sản thừa kế của cha mẹ chồng, cha mẹ vợ theo pháp luật. Mặc dù không thuộc hàng thừa kế nào của cha mẹ chồng, cha mẹ vợ nhưng con dâu, con rể vẫn được hưởng di sản thừa kế nếu bố mẹ chồng, bố mẹ vợ chết có để lại di chúc cho con dâu, con rể. Nhiều gia đình, người con dâu, con rể có khi lại là người gần gũi, chăm sóc cha mẹ chồng, cha mẹ vợ nhiều hơn con đẻ. Bởi thế, khi cha mẹ chồng, cha mẹ vợ chết đi thường để lại di chúc phân chia tài sản của mình cho con dâu, con rể. Thừa kế theo di chúc là thừa kế theo ý chí của người lập di chúc, cho nên người có quyền hưởng di sản thừa kế theo di chúc có thể là bất kỳ ai miễn là người đó có tên trong di chúc của người chết. Chính vì vậy, con dâu, con rể nếu có tên trong di chúc của cha mẹ chồng, cha mẹ vợ thì có quyền hưởng di sản thừa kế theo di chúc miễn sao người lập di chúc muốn cho họ hưởng và ghi tên họ trong di chúc, di chúc hợp pháp và con dâu, con rể không thuộc trường hợp được quy định tại Điều 621 Bộ luật Dân sự 2015, cụ thể: - Người bị kết án về hành vi cố ý xâm phạm tính mạng, sức khỏe hoặc về hành vi ngược đãi nghiêm trọng, hành hạ người để lại di sản, xâm phạm nghiêm trọng danh dự, nhân phẩm của người đó; - Người vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ nuôi dưỡng người để lại di sản; - Người bị kết án về hành vi cố ý xâm phạm tính mạng người thừa kế khác nhằm hưởng một phần hoặc toàn bộ phần di sản mà người thừa kế đó có quyền hưởng; - Người có hành vi lừa dối, cưỡng ép hoặc ngăn cản người để lại di sản trong việc lập di chúc; giả mạo di chúc, sửa chữa di chúc, hủy di chúc, che giấu di chúc nhằm hưởng một phần hoặc toàn bộ di sản trái với ý chí của người để lại di sản. Lưu ý: Những người con dâu, con rể thuộc trường hợp được quy định tại Điều 621 Bộ luật Dân sự 2015 vẫn được hưởng di sản thừa kế, nếu người để lại di sản thừa kế đã biết hành vi của những người đó, nhưng vẫn cho họ hưởng di sản theo di chúc. Theo đó, "Dâu dâu rể rể cũng kể là con" thì có thể được nhận di sản thừa kế ít hơn, ngang bằng hoặc thậm chí là nhiều hơn so với con ruột vì lúc này hoàn toàn dựa vào ý chí của người để lại di chúc.
Hướng dẫn đòi tiền nợ đối với người đã mất
Cho em hỏi vấn đề: Mẹ của em có cho người bác mượn 1 số tiền X (vnđ). Thì đến thời hạn trả lãi bình thường. Nhưng chẳng may người bác qua đời, người bác có tài sản nhà cửa, đất đai và để lại cho hai đứa con ruột thừa kế. Biết chồng của bác đã từ trần lâu rồi. Vậy thì số tiền gốc X ban đầu mẹ em có đòi nợ từ hai đứa con ruột được không? Giả sử tài sản hai đứa con thừa hưởng có giá tiền tiền lớn hơn so với số tiền X ban đầu. Và bác có hai đứa con thì số tiền nợ chia đôi cho hai người con trả hay sao? Mà em có thắc mắc 1 bài viết trước đó, ko biết cách nhấp vào link trực tiếp để xem câu trả lời thế nào. Em mong được giải đáp ạ. Em cảm ơn
Thỏa thuận chia di sản đã chứng thực thì có được sửa đổi?
Thỏa thuận phân chia di sản của người đã mất để lại được xem là phương thức được nhiều người lựa chọn nhằm thống nhất ý chí giữa những người được thừa kế di sản tránh việc tranh chấp. Vậy trường hợp bản thỏa thuận chia di sản đã được chứng thực tuy nhiên, người thừa kế không thể tiếp tục thực hiện thì có được sửa đổi? 1. Thỏa thuận chia di sản là gì? Thỏa thuận phân chia di sản thừa kế được xem văn bản thể hiện sự nhất chí của những người kế thừa tài sản được để lại về cách phân chia di sản của người chết để lại và đưa ra quyết định thống nhất. Theo như quy định pháp luật chia di sản thừa kế được dựa theo di chúc; nếu không có di chúc thì sẽ chia theo pháp luật. 2. 02 loại thỏa thuận chia di sản Hiện nay, khi di sản thừa kế được để lại có 2 trường hợp cần phải xem xét để có thể phân chia di sản theo đúng quy định và tinh thần pháp luật, cụ thể theo Bộ luật Dân sự 2015 có quy định di sản được chia theo di chúc và chia theo pháp luật. (1) Thỏa thuận chia di sản thừa kế theo di chúc Theo Điều 659 Bộ luật Dân sự 2015 quy định việc phân chia di sản theo di chúc được thực hiện như sau: - Việc phân chia di sản được thực hiện theo ý chí của người để lại di chúc; Nếu di chúc không xác định rõ phần của từng người thừa kế thì di sản thừa kế được chia đều cho những người được chỉ định trong di chúc, trừ trường hợp có thỏa thuận khác. - Trường hợp di chúc xác định phân chia di sản theo hiện vật thì người thừa kế được nhận hiện vật kèm theo hoa lợi, lợi tức thu được từ hiện vật đó hoặc phải chịu phần giá trị của hiện vật bị giảm sút tính đến thời điểm phân chia di sản; Nếu hiện vật bị tiêu hủy do lỗi của người khác thì người thừa kế có quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại. - Trường hợp di chúc chỉ xác định phân chia di sản theo tỷ lệ đối với tổng giá trị khối di sản thì tỷ lệ này được tính trên giá trị khối di sản đang còn vào thời điểm phân chia di sản. Như quy định nêu trên, trong trường hợp cùng hưởng di chúc nhưng người để lại di chúc không xác định rõ phần của từng người thì khi đó những người thừa kế di sản có thể chia đều hoặc thỏa thuận với nhau về việc phân chia di sản thừa kế. (2) Thỏa thuận phân chia di sản thừa kế theo pháp luật Căn cứ Điều 660 Bộ luật Dân sự 2015 quy định về việc phân chia di sản theo pháp luật như sau: - Khi phân chia di sản, nếu có người thừa kế cùng hàng đã thành thai nhưng chưa sinh ra thì phải dành lại một phần di sản bằng phần mà người thừa kế khác được hưởng nhằm: + Nếu người thừa kế đó còn sống khi sinh ra được hưởng; + Nếu chết trước khi sinh ra thì những người thừa kế khác được hưởng. - Những người thừa kế có quyền yêu cầu phân chia di sản bằng hiện vật; + Nếu không thể chia đều bằng hiện vật thì những người thừa kế có thể thỏa thuận về việc định giá hiện vật và thỏa thuận về người nhận hiện vật; + Nếu không thỏa thuận được thì hiện vật được bán để chia. Như vậy, trong trường hợp chia thừa kế theo pháp luật người cùng hàng thừa kế có thể thỏa thuận về việc định giá hiện vật và thỏa thuận về người nhận hiện vật. 3. Trường hợp không có người thừa kế thì có được sửa thỏa thuận chia di sản? Căn cứ Điều 38 Nghị định 23/2015/NĐ-CP quy định chứng thực việc sửa đổi, bổ sung, hủy bỏ hợp đồng, giao dịch được thực hiện như sau: Việc sửa đổi, bổ sung, hủy bỏ hợp đồng, giao dịch đã được chứng thực chỉ được thực hiện khi có thỏa thuận bằng văn bản của các bên tham gia hợp đồng, giao dịch. Việc sửa đổi, bổ sung, hủy bỏ hợp đồng, giao dịch được thực hiện tại cơ quan đã chứng thực hợp đồng, giao dịch. Trường hợp sửa đổi, bổ sung, thay thế, hủy bỏ một phần hoặc toàn bộ di chúc thì có thể chứng thực tại bất kỳ cơ quan có thẩm quyền chứng thực nào. Cơ quan đã thực hiện việc sửa đổi, bổ sung, thay thế, hủy bỏ một phần hoặc toàn bộ di chúc phải thông báo bằng văn bản cho cơ quan đã chứng thực trước đây về nội dung sửa đổi, bổ sung, thay thế, hủy bỏ một phần hoặc toàn bộ di chúc để ghi chú vào sổ chứng thực hợp đồng, giao dịch. Tuy nhiên, tại khoản 2 Điều 23 Thông tư 01/2020/TT-BTP hướng dẫn việc sửa đổi thỏa thuận chia di sản đã chứng thực như sau: Trong trường hợp nội dung sửa đổi, bổ sung, hủy bỏ hợp đồng, giao dịch có liên quan đến tài sản phải đăng ký quyền sở hữu, quyền sử dụng thì người yêu cầu chứng thực phải nộp bản sao giấy tờ chứng minh quyền sở hữu, quyền sử dụng hoặc giấy tờ thay thế được pháp luật quy định và xuất trình bản chính để đối chiếu; trừ trường hợp người lập di chúc đang bị cái chết đe dọa đến tính mạng. Do đó, trường hợp mà người thừa kế theo thỏa thuận chia di sản đã chứng thực đang bị cái chết đe dọa đến tính mạng mà không thể tiếp tục trở thành người thừa kế trong bản thỏa thuận thì không được sửa mà phải hủy làm lại.
Tiền hỗ trợ tái định cư khi thu hồi đất có được xem là di sản của người chết để lại hay không
Hiện nay, khi nhà nước thu hồi đất để thực hiện các dự án thì đều có phần hỗ trợ tái định cư bên cạnh tiền bồi thường do thu hồi đất nếu phần đất bị thu hồi đủ điều kiện hỗ trợ tái định cư theo phương án đã được phê duyệt. Vấn đề đặt ra là tiền hỗ trợ tái định cư có được xem là di sản thừa kế hay không. Có quan điểm cho rằng người đã chết đi thì không còn có thể tái định cư nên tiền hỗ trợ tái định cư không phải là di sản thừa kế, mà số tiền này sẽ thuộc về những người đang cư trú trên phần đất bị thu hồi. Quan điểm khác cho rằng tiền hỗ trợ tái định cư có được là xuất phát từ di sản thừa kế mà có, xét hỗ trợ mức tái định cư cũng căn cứ trên phần đất là di sản thừa kế, nên tiền hỗ trợ tái định cư là di sản thừa kế. Hiện nay quan điểm của Tòa án khi giải quyết các vụ án thì vẫn xem là tiền hỗ trợ tái định cư là di sản thửa kế. Có thể thấy thông qua án lệ số 34/2020, cụ thể: NỘI DUNG ÁN LỆ “[5]... di sản của cụ D, cụ C để lại là quyền sử dụng đất tại thửa đất số 38, Tờ bản đồ số 13 đã bị thu hồi theo Quyết định số 1208/QĐ-UBND ngày 21-7-2010 của Ủy ban nhân dân thành phố V nhưng giá trị quyền sử dụng đất của người có đất bị thu hồi vẫn được pháp luật bảo đảm theo quy định của Luật Đất đai nên hai cụ có quyền lập di chúc định đoạt tài sản trên cho ông D1...”
Có được hủy bỏ văn bản từ chối nhận di sản đã công chứng
Căn cứ Bộ luật dân sự 2015 có quy định: "Điều 620. Từ chối nhận di sản 1. Người thừa kế có quyền từ chối nhận di sản, trừ trường hợp việc từ chối nhằm trốn tránh việc thực hiện nghĩa vụ tài sản của mình đối với người khác. 2. Việc từ chối nhận di sản phải được lập thành văn bản và gửi đến người quản lý di sản, những người thừa kế khác, người được giao nhiệm vụ phân chia di sản để biết. 3. Việc từ chối nhận di sản phải được thể hiện trước thời điểm phân chia di sản." Đồng thời tại Luật Công chứng 2014 có quy định: "Điều 51. Công chứng việc sửa đổi, bổ sung, hủy bỏ hợp đồng, giao dịch 1. Việc công chứng sửa đổi, bổ sung, hủy bỏ hợp đồng, giao dịch đã được công chứng chỉ được thực hiện khi có sự thỏa thuận, cam kết bằng văn bản của tất cả những người đã tham gia hợp đồng, giao dịch đó. 2. Việc công chứng sửa đổi, bổ sung, hủy bỏ hợp đồng, giao dịch đã được công chứng được thực hiện tại tổ chức hành nghề công chứng đã thực hiện việc công chứng đó và do công chứng viên tiến hành. Trường hợp tổ chức hành nghề công chứng đã thực hiện việc công chứng chấm dứt hoạt động, chuyển đổi, chuyển nhượng hoặc giải thể thì công chứng viên của tổ chức hành nghề công chứng đang lưu trữ hồ sơ công chứng thực hiện việc sửa đổi, bổ sung, hủy bỏ hợp đồng, giao dịch. 3. Thủ tục công chứng việc sửa đổi, bổ sung, hủy bỏ hợp đồng, giao dịch đã được công chứng được thực hiện như thủ tục công chứng hợp đồng, giao dịch quy định tại Chương này. ... Điều 59. Công chứng văn bản từ chối nhận di sản Người thừa kế có thể yêu cầu công chứng văn bản từ chối nhận di sản. Khi yêu cầu công chứng văn bản từ chối nhận di sản, người yêu cầu công chứng phải xuất trình bản sao di chúc trong trường hợp thừa kế theo di chúc hoặc giấy tờ chứng minh quan hệ giữa người để lại di sản và người yêu cầu công chứng theo pháp luật về thừa kế; giấy chứng tử hoặc giấy tờ khác chứng minh người để lại di sản đã chết." =>> Trong trường hợp làm văn bản từ chối nhận di sản thừa kế nếu chưa gửi đến người quản lý di sản, những người thừa kế khác, người được giao nhiệm vụ phân chia di sản thì thực hiện hủy văn bản từ chối nhận di sản theo quy định tại Điều 51 nêu trên. - Còn trường hợp đã gửi văn bản từ chối nhận di sản người quản lý di sản, những người thừa kế khác, người được giao nhiệm vụ phân chia di sản thì chỉ hủy văn bản từ chối nhận di sản được khi những người có quyền thừa kế khác đồng ý thực hiện hủy theo quy định tại Điều 51 nêu trên.
Con có trước khi kết hôn thì có được hưởng di sản thừa kế không?
Hiện nay, không ít trường hợp các cặp đôi có con trước, sau đó mới tiến hành đăng ký kết hôn. Vậy pháp luật quy định như thế nào về quyền hưởng di sản thừa kế của người con đó? Việc con có trước khi kết hôn thì có được hưởng di sản không? Người thừa kế được quy định như thế nào? Theo Điều 613 Bộ luật dân sự 2015 có quy định về người thừa kế như sau: Người thừa kế là cá nhân phải là người còn sống vào thời điểm mở thừa kế hoặc sinh ra và còn sống sau thời điểm mở thừa kế nhưng đã thành thai trước khi người để lại di sản chết. Trường hợp người thừa kế theo di chúc không là cá nhân thì phải tồn tại vào thời điểm mở thừa kế. Tại Điều 651 Bộ luật dân sự 2015 còn có quy định về người thừa kế theo pháp luật như sau: Những người thừa kế theo pháp luật được quy định theo thứ tự sau đây: - Hàng thừa kế thứ nhất gồm: vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của người chết; - Hàng thừa kế thứ hai gồm: ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại, anh ruột, chị ruột, em ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại; - Hàng thừa kế thứ ba gồm: cụ nội, cụ ngoại của người chết; bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột; chắt ruột của người chết mà người chết là cụ nội, cụ ngoại. Những người thừa kế cùng hàng được hưởng phần di sản bằng nhau. Những người ở hàng thừa kế sau chỉ được hưởng thừa kế, nếu không còn ai ở hàng thừa kế trước do đã chết, không có quyền hưởng di sản, bị truất quyền hưởng di sản hoặc từ chối nhận di sản. Con có trước khi kết hôn có được hưởng di sản thừa kế? Theo như các phân tích ở trên, pháp luật không quy định việc con có trước khi kết hôn thì con không được hưởng di sản thừa kế. Nếu chứng minh được người đó là con của người để lại di sản thì sẽ được hưởng di sản thừa kế theo pháp luật. Ngoài ra, theo quy định tại Khoản 2 Điều 68 Luật hôn nhân và gia đình 2014 có nêu rõ con sinh ra không phụ thuộc vào tình trạng hôn nhân của cha mẹ đều có quyền và nghĩa vụ như nhau đối với cha mẹ của mình. Theo đó, dù con được sinh ra trong thời kỳ hôn nhân hoặc không trong thời kỳ hôn nhân thì vẫn có quyền và nghĩa vụ không thay đổi và giống nhau. Quyền thừa kế của con có trước khi kết hôn cũng được áp dụng trong trường hợp chia di sản thừa kế theo di chúc và chia di sản thừa kế theo pháp luật giống như con sinh ra trong thời kỳ hôn nhân của bố mẹ. Vì vậy, nếu có đầy đủ chứng cứ để chứng minh một người là con của người để lại di sản thì vẫn được pháp luật bảo vệ quyền được hưởng thừa kế. Đối tượng không được quyền hưởng di sản thừa kế Căn cứ tại khoản 1 Điều 621 Bộ luật dân sự 2015 quy định những người sau đây không được quyền hưởng di sản: - Người bị kết án về hành vi cố ý xâm phạm tính mạng, sức khỏe hoặc về hành vi ngược đãi nghiêm trọng, hành hạ người để lại di sản, xâm phạm nghiêm trọng danh dự, nhân phẩm của người đó; - Người vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ nuôi dưỡng người để lại di sản; - Người bị kết án về hành vi cố ý xâm phạm tính mạng người thừa kế khác nhằm hưởng một phần hoặc toàn bộ phần di sản mà người thừa kế đó có quyền hưởng; - Người có hành vi lừa dối, cưỡng ép hoặc ngăn cản người để lại di sản trong việc lập di chúc; giả mạo di chúc, sửa chữa di chúc, hủy di chúc, che giấu di chúc nhằm hưởng một phần hoặc toàn bộ di sản trái với ý chí của người để lại di sản. Tuy nhiên, những người quy định trên vẫn được hưởng di sản, nếu người để lại di sản đã biết hành vi của những người đó, nhưng vẫn cho họ hưởng di sản theo di chúc. Như vậy, con có trước khi kết hôn mà thuộc đối tượng không được quyền hưởng di sản theo Điều 621 Bộ luật dân sự 2015 thì vẫn có thể được hưởng di sản nếu người lập di chúc đã biết rõ các hành vi sai trái này nhưng vẫn đồng ý lập di chúc để lại phần thừa kế cho họ.
Hiện nay Bộ luật Dân sự năm 2015 không quy định về di chúc có điều kiện tuy nhiên thực tiễn lại có rất nhiều trường hợp liên quan đến vấn đề này và cũng có nhiều quan điểm trái chiều nhau. Ví dụ như ông Nguyễn Văn A lập di chúc để lại căn nhà cho người con B được sở hữu sau khi ông A qua đời. Trong di chúc nói rõ B chỉ được sử dụng, không được đem bán, tặng cho hoặc các hình thức chuyển quyền sở hữu khác. Có các quan điểm khác nhau: - Quan điểm 1: Tôn trọng ý nguyện tuyệt đối của người lập di chúc. Người để lại di sản có toàn quyền quyết định đối với di sản của mình để lại, nó giống như giao dịch dân sự có điều kiện. “Điều kiện” ở đây được hiểu là sự kiện chết xảy ra và người hưởng di sản chỉ có quyền sử dụng mà không có quyền định đoạt. - Quan điểm 2: Ý chí của người lập di chúc bị vi phạm bởi quyền sở hữu của người hưởng di sản. Do đó, sau khi chết thì điều kiện ràng buộc “chỉ được sử dụng” sẽ không còn giá trị. Nếu theo quan điểm 1 thì người hưởng di sản sẽ xử lý như thế nào trong trường hợp di sản bị hư hỏng, bị thu hồi có đền bù, hoặc trường hợp người hưởng di sản không tặng cho người khác mà hiến tặng cho Nhà nước. - Quan điểm 3: Có thể áp dụng linh hoạt bằng cách áp dụng tương tự chế định di sản dùng vào việc thờ cúng. Trong chế định di sản dùng vào việc thờ cúng có nói trong trường hợp chỉ còn một người duy nhất thuộc hàng thừa kế quản lý di sản thì di sản đó thuộc về người đang quản lý. Do vậy, trong trường hợp này, nếu người hưởng di sản là người duy nhất hoặc qua thời gian họ còn lại với tư cách là người thừa kế duy nhất thì di sản đó thuộc về họ. Nghĩa là người hưởng di sản được toàn quyền sở hữu. Do đó, Bộ luật Dân sự cần điều chỉnh vấn đề này để áp dụng pháp luật một cách thống nhất.
Đề xuất thủ tục xác lập quyền sở hữu toàn dân đối với di sản không có thừa kế
Ngày 16/11/2022, Bộ Tài chính đang dự thảo Nghị định quy định trình tự, thủ tục xác lập quyền sở hữu toàn dân về tài sản và xử lý đối với tài sản được xác lập quyền sở hữu toàn dân trên Cổng Thông tin điện tử Chính. Trong đó, quy định trình tự, thủ tục xử lý di sản không có người thừa kế được quy định như sau: (1) Về việc bảo quản tài sản Đơn vị chủ trì quản lý tài sản quy định tại khoản 4 Điều 4 dự thảo Nghị định có trách nhiệm bảo quản tài sản từ khi tiếp nhận đến khi hoàn thành việc xử lý theo phương án đã được cơ quan, người có thẩm quyền phê duyệt, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác. (2) Thẩm quyền quyết định xác lập quyền sở hữu toàn dân Theo đó, Chủ tịch UBND cấp tỉnh là người có quyền quyết định xác lập quyền sở hữu toàn dân về tài sản đối với tài sản là bất động sản vô chủ; bất động sản không có người thừa kế; tài sản bị đánh rơi, bỏ quên là di tích lịch sử - văn hóa; tài sản của các vụ việc xử lý quy định tại khoản này bao gồm cả bất động sản hoặc di tích lịch sử - văn hóa và động sản. Chủ tịch UBND cấp huyện quyết định xác lập quyền sở hữu toàn dân về tài sản đối với tài sản bị đánh rơi, bỏ quên, di sản không người thừa kế không thuộc phạm vi của Chủ tịch UBND cấp tỉnh. (3) Thủ tục xác lập đối với tài sản di sản không có người thừa kế Thứ nhất: Trong thời hạn 07 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được bản án, quyết định của Tòa án hoặc hết thời hiệu yêu cầu chia di sản hoặc văn bản từ bỏ phần quyền sở hữu di sản. Tổ chức hành nghề công chứng hoặc UBND cấp xã nơi mở thừa kế có trách nhiệm lập 01 bộ hồ sơ gửi Phòng Tài chính Kế hoạch. Hồ sơ gửi Phòng Tài chính Kế hoạch bao gồm: - Báo cáo quá trình mở thừa kế đối với di sản: 01 bản chính. - Bảng kê chủng loại, số lượng, khối lượng, hiện trạng của di sản: 01 bản chính. - Các hồ sơ, tài liệu liên quan đến quá trình mở thừa kế, văn bản từ chối quyền hưởng di sản, bản án hoặc quyết định của Tòa án xác định người không được quyền hưởng di sản thừa kế (nếu có): 01 bản sao. - Văn bản từ bỏ phần quyền sở hữu đối với tài sản sở hữu chung quy định tại khoản 4 Điều 218 Bộ luật Dân sự 2015: 01 bản chính Thứ hai: Thuộc thẩm quyền của Chủ tịch UBND cấp huyện, trong thời hạn 07 ngày làm việc, Phòng Tài chính Kế hoạch lập Tờ trình kèm hồ sơ trình UBND huyện quyết định xác lập quyền sở hữu toàn dân. Thứ ba: Thuộc thẩm quyền của Chủ tịch UBND cấp tỉnh, trong thời hạn 07 ngày làm việc, Phòng Tài chính Kế hoạch lập Tờ trình kèm bản sao hồ sơ gửi UBND cấp huyện trình UBND quyết định xác lập sở hữu toàn dân. Thứ tư: Trong thời hạn 07 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được đầy đủ hồ sơ Chủ tịch UBND huyện, Chủ tịch UBND tỉnh ban hành Quyết định xác lập quyền sở hữu toàn dân về tài sản theo Mẫu số 01-QĐXL tại Phụ lục kèm theo Nghị định này. Xem thêm dự thảo Nghị định tại đây.
Rút kinh nghiệm vụ án “Tranh chấp chia di sản thừa kế”
Thông qua công tác kiểm sát giải quyết các vụ án dân sự theo thủ tục giám đốc thẩm, Viện kiểm sát nhân dân (VKSND) cấp cao tại ĐN nhận thấy việc giải quyết vụ án dân sự về “Tranh chấp chia di sản thừa kế'’ giữa nguyên đơn bà Đ với bị đơn ông T, ông Th của Tòa án nhân dân (TAND) thành phố X, tỉnh Y tại Bản án dân sự sơ thẩm số 26/2018/DSST ngày 27/4/2018 có vi phạm, cần thông báo rút kinh nghiệm. (1) Tóm tắt nội dung vụ án dân sự Yêu cầu nguyên đơn: - Bà Đ khởi kiện yêu cầu Tòa án chia phần di sản thừa kế của ông N (chồng của bà, chết năm 1995) để lại trong khối tài sản chung của vợ chồng là 1/2 ngôi nhà và tài sản khác gắn liền diện tích đất 287,6m2, thuộc thửa đất số 394, tờ bản đồ D4-IV-D-b cho hàng thừa kế thứ nhất của ông N gồm bà và 06 người con: Bà NT, ông NT, bà M, bà MT, ông Th, ông T (riêng bà Tr đã được chia trước 40m2 đất và xây dựng nhà ở ổn định nên từ chối không hưởng phần di sản còn lại). - Bà Đ đề nghị được nhận nhà đất bằng hiện vật, tiếp tục sở hữu, sử dụng nhà đất để ở và trả lại giá trị bằng tiền cho các đồng thừa kế khác. Bị đơn: - Bị đơn ông Th thống nhất yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, xin nhận kỷ phần bằng giá trị. - Bị đơn ông T, hiện đang ở trên nhà đất tranh chấp, không đồng ý chia thừa kế, ông muốn giữ nguyên nhà đất như hiện nay để ở và làm nơi thờ tự. (2) Quá trình giải quyết vụ án Quyết định của TAND thành phố X, tỉnh Y về bản án dân sự sơ thẩm số 26/2018/DSST ngày 27/4/2018: - Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Đ và sự tự nguyện của những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà NT, ông NT, bà M, bà MT giao lại kỷ phần của mỗi người được hưởng cho mẹ (bà Đ) toàn quyền sở hữu, sử dụng, định đoạt. - Bà Đ được quyền tiếp tục sở hữu, sử dụng căn nhà cấp 4 cùng các công trình kiến trúc khác và các cây trồng trên đất gắn liền với diện tích đất 287,6m2, thuộc thửa đất sổ 394, tờ bản đồ D4-IV-D-b... - Bà Đ phải trả lại giá trị bằng tiền đổi với các kỷ phần cho ông Th được hưởng từ di sản là 216.442.562 đồng; ông T được hưởng từ di sản là 216.442.562 đồng. - Bà Đ phải trả lại giá trị bằng tiền đối với giá trị tài sản phát sinh của vợ chồng ông T, bà N là 22.655.593 đồng. - Bà Đ có nghĩa vụ kê khai, làm thủ tục đăng ký với cơ quan có thẩm quyền để được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo quy định của pháp luật đất đai Ngày 11/12/2018, TAND thành phố X ban hành Quyết định số 01/2018/QĐ-SCBSBA về việc sửa chữa, bổ sung Bản án dân sự sơ thẩm số 26/2018/DSST ngày 27/4/2018. Ngày 15/02/2022, VKSND thành phổ X, tỉnh Y có Báo cáo số 04/BC-VKS- DS đề nghị kháng nghị giám đốc thẩm đối với Bản án dân sự sơ thẩm số 26/2018/DSST ngày 27/4/2018 của Tòa án nhân dân thành phố X. Ngày 01/6/2022, bà Đ có đơn đề nghị kháng nghị giám đốc thẩm đối với Bản án dân sự sơ thẩm nêu trên. Ngày 30/8/2022, Viện trưởng VKSND cấp cao tại ĐN ban hành Quyết định kháng nghị giám đốc thẩm số 63/2022/QĐKNGĐT-VKS-DS đề nghị ủy ban thẩm phán TAND cấp cao tại ĐN xét xử giám đốc thẩm, hủy Bản án dân sự sơ thẩm số 26/2018/DSST ngày 27/4/2018 và Quyết định sửa chữa, bổ sung bản án sơ thẩm số 01/2018/QĐ-SCBSBA ngày 11/12/2018 của TAND thành phố X, tỉnh Y. Tại Quyết định giám đốc thẩm số 58/2022/DS-GĐT ngày 25/9/2022 của TAND cấp cao tại ĐN đã chấp nhận kháng nghị của Viện trưởng VKSND cấp cao tại ĐN, hủy toàn bộ Bản án dân sự sơ thẩm số 26/2018/DSST ngày 27/4/2018 và Quyết định sửa chữa, bổ sung bản án sơ thẩm số 01/2018/QĐ- SCBSBA ngày 11/12/2018 của Tòa án nhân dân thành phố X, tỉnh Y để giải quyết lại theo thủ tục sơ thẩm. (3) Những vấn đề rút kinh nghiệm Tại phần quyết định của các bản án mà Tòa án nhân dân thành phố X gửi cho bà Đ và VKSND thành phố X lại ghi thêm nội dung: “vợ chồng ông T, bà N được quyền lưu cư trong thời hạn 06 tháng kể từ ngày bà Đ thi hành án đủ sổ tiền 239.098.155 đồng (216.442.562 đồng + 22.655.593 đồng) cho vợ chồng ông T, bà N đế tạo lập nơi ở khác. ” Đồng thời, ngày 11/12/2018, TAND thành phố X lại ban hành Quyết định số 01/2018/QĐ-SCBSBA về việc sửa chữa, bổ sung bản án sơ thẩm có nội dung: “Tại dòng thứ 9 từ trên xuống, trang số 6 của bản án đã ghi: “Bà Đ có nghĩa vụ kê khai, làm thủ tục đăng ký với cơ quan có thẩm quyền để được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo quy định của pháp luật đất đai”. Nay sửa chữa, bổ sung như sau: “Bà Đ có nghĩa vụ kê khai, làm thủ tục đăng ký với cơ quan có thẩm quyền để được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo quy định của pháp luật đất đai. Vợ chồng ông T, bà N được quyền lưu cư trong thời hạn 06 tháng kể từ ngày bà Đ thi hành án đủ sổ tiền 239.098.155 đồng (216.442.562 đồng + 22.655.593 đồng) cho vợ chồng ông T, bà N để tạo lập nơi ở khác. ” . Như vậy, việc Tòa án cấp sơ thẩm sửa chữa, bổ sung vào phần quyết định của bản án sơ thẩm nội dung hoàn toàn mới so với Biên bản nghị án và bản án được tuyên tại phiên tòa là không đúng quy định tại Điều 268 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015. Thực tế, tồn tại nhiều Bản án sơ thẩm cùng số 26/2018/DSST cùng ngày 27/4/2018 và Quyết định số 01/2018/QĐ-SCBSBA về việc sửa chữa, bổ sung bản án sơ thẩm của TAND thành phố X có nội dung tại phần quyết định khác nhau dẫn đến không thể thi hành án. Trên đây là vi phạm của Tòa án nhân dân thành phố X, tỉnh Y trong việc giải quyết vụ án dân sự “Tranh chấp chia di sản thừa kế” bị cấp giám đốc thẩm hủy bản án sơ thẩm để giải quyết lại theo thủ tục sơ thẩm. Để nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác kiểm sát, VKSND cấp cao tại ĐN thông báo đến VKSND tỉnh, thành phố trong khu vực cùng tham khảo và rút kinh nghiệm khi kiểm sát giải quyết vụ án dân sự tương tự.
Rút kinh nghiệm về giải quyết vụ án dân sự “tranh chấp di sản thừa kế”
Di sản thừa kế là tài sản của một người đã qua đời để lại cho người được thừa kế, tài sản thừa kế có thể là hữu hình hoặc vô hình. Thông thường tài sản thừa kế được chia theo di chúc hoặc được pháp luật quy định. Việc phân chia không đúng quy định rất dễ xảy ra tranh chấp. Qua công tác kiểm sát việc giải quyết các vụ án dân sự theo thủ tục phúc thẩm, VKSND cấp cao tại ĐN nhận thấy việc giải quyết vụ án dân sự về “Tranh chấp di sản thừa kế”, giữa nguyên đơn, ông L.Đ Nguyên với các bị đơn, bà L.T.H Vy; bà L.T.T Nguyệt; bà L.T.T Mai và bà L.T.D Trang đã được xét xử theo Bản án dân sự sơ thẩm của TAND tỉnh P.Y có vi phạm, cần thông báo rút kinh nghiệm. 1. Nội dung vụ án Vợ chồng cụ L.Đ Tân và cụ T.T.H Lan có 05 người con: (Bà L.T.H Vy, L.T.T Nguyệt, L.T.T Mai, L.T.D Trang và ông L.Đ Nguyên). Sau khi cụ Lan chết vào năm 2001, cụ Tân sống chung với bà N.T Thịnh, nhưng không đăng ký kết hôn, vào ngày 09/01/2015, cụ Tân chết. Di sản để lại gồm: 3.630m2 đất trồng lúa thuộc các thửa 123, 124, 125 và 126 tại thôn L.N, xã X.P, thị xã S.C, tỉnh P.Y đã được cấp GCNQSDĐ ngày 13/11/2000, trị giá 145.200.000 đồng. Nhà nước thu hồi đất còn lại là 322,2m2 đất trồng cây lâu năm, trị giá 22.554.000 đồng. Thửa đất đìa nuôi tôm, diện tích còn lại sau khi Nhà nước thu hồi là 1.746,3m2, trị giá 61.120.5000 đồng. Thửa đất đìa nuôi tôm, diện tích còn lại sau khi nhà Nước thu hồi là 1.849,5m2, trị giá 64.732.500 đồng. 01 lô đất tái định cư thuộc phường L.Y.Đ trị giá 750.000.000 đồng. Số tiền 725.000.000 đồng do Nhà nước chi trả bồi thường đìa nuôi trồng hải sản, được cụ L.Đ Tân gửi tiết kiệm tại Ngân hàng Công thương, số tiền này bà Vy đã rút ngày 27/02/2015 tổng cộng là 725.966.667 đồng. Số tiền 730.000.000 đồng Nhà nước bồi thường nhà ở và một phần đất vườn thuộc dự án mở rộng QL1, được cụ Tân gửi tiết kiệm tại Ngân hàng Nông nghiệp số tiền này bà Vy đã rút ngày 12/02/2015 tổng cộng là 732.737.500 đồng. Số tiền 256.191.000 đồng Nhà nước bồi thường phát sinh đối với dự án QL1 và đối với dự án HTKT khu TĐC. số tiền này Trung tâm phát triển quỹ đất thị xã Sông Cầu tạm gửi vào kho bạc Nhà nước. Ngoài các tài sản trên, các bị đơn yêu cầu chia thừa kế gồm các di sản sau: 01 lô đất tái định cư được giao tại khu tái định cư thuộc khu A2, phường L.U.Đ ngoài 01 lô đất tái định cư đã nêu trên. Số tiền 300.000.000 đồng cụ Tân gửi 02 sổ tiết kiệm tại Ngân hàng đã được ông Nguyên đã rút sau khi cụ Tân chết. Yêu cầu khởi kiện của ông L.Đ Nguyên Nguyên đơn, ông L.Đ Nguyên cung cấp di chúc do ba và mẹ lập chung ngày 19/02/2000; di chúc do cụ Tân lập năm 2008 đối với ngôi nhà tại thành phố N.T, và di chúc ngày 29/12/2010 theo đó khởi kiện yêu cầu chia thừa kế theo di chúc, ông Nguyên yêu cầu được nhận bằng hiện vật và trả lại giá trị cho các đồng thừa kế nếu có chênh lệch. Đối với các tài sản mà bị đơn yêu cầu chia thêm, nguyên đơn không đồng ý chia thừa kế vì đây là sản riêng của Ông. Yêu cầu khởi kiện của Bà N.T Thịnh (người có liên quan) Bà N.T Thịnh người liên quan, có yêu cầu độc lập cho rằng: sống chung với ông Tân từ tháng 11/2017, nhưng chưa đăng ký kết hôn. Ngày 10/10/2014 ông Tân làm Giấy tặng nhà và đất ở, diện tích 90m2 cho bà. Theo di chúc năm 2015 (không có ngày, tháng), ông Tân cũng di tặng cho bà nhà đất nêu trên và tiền trong tổng số tiền ông Tân gửi Ngân hàng. Bà quản lý, sử dụng nhà đất ông Tân tặng từ ngày 10/10/2014 đến ngày ông Tân chết. Bà Thịnh yêu cầu các đồng thừa kế trả lại nhà đất ông Tân đã tặng cho Bà và công bố di chúc năm 2015 của ông Tân, chia số tiền 1.455.000.000 đồng và lãi suất theo tỷ lệ Bà được tặng cho; trả cho Bà 12.014.000 đồng chi phí chữa bệnh và mai táng cho ông Tân trước khi chia di sản thừa kế. Yêu cầu khởi kiện đối với các bị đơn Bị đơn bà L.T.H Vy, L.T.D Trang, L.T.T Mai, L.T.T Nguyệt đề nghị Tòa án không công nhận hiệu lực của các di chúc, giấy tặng cho tài sản và giải quyết chia thừa kế theo pháp luật toàn bộ di sản của cha mẹ để lại và yêu cầu nhận bằng hiện vật. 2. Tòa án giải quyết Bản án dân sự sơ thẩm số 10/2020/DS-ST ngày 06/10/2020 của TAND tỉnh P.Y đã quyết định: Không chấp nhận yêu cầu của ông Nguyên theo đơn khởi kiện ngày 08/8/2015 về việc yêu cầu chia thừa kế theo di chúc và tính công sức đóng góp xây dựng nhà, đĩa hải sản; Di sản được chia theo pháp luật. Chấp nhận một phần yêu cầu độc lập của bà N.T Thịnh về việc yêu cầu các đồng thừa kế trả số tiền chi phí chữa bệnh và mai táng cho cụ Tân và không chấp nhận một phần yêu cầu của bà Thịnh về việc công nhận hợp đồng tặng cho và tờ di chúc do cụ Tân lập năm 2015. Quyết định của Tòa án nhân dân Tỉnh P.Y (1) Tuyên hủy các di chúc: Di chúc chung của vợ chồng ông Tân và bà Lan lập ngày 19/02/2000, di chúc lập ngày 29/12/2010; Di chúc riêng cụ Tân lập ngày 21/10/2008; Di chúc riêng cụ Tân lập ngày 29/12/2010; Văn bản tặng cho tài sản cho bà N.T Thịnh do cụ Tân viết tay lập ngày 10/10/2014 và di chúc 2015 vì không có căn cứ pháp luật. (2) Không chấp nhận yêu cầu tính công sức đóng góp xây dựng nhà và cải tạo đìa hải sản của nguyên đơn ông Nguyên. (3) Công nhận sự tự nguyện của đồng bị đơn giao cho ông Lê Đình Nguyên được quyền sử dụng diện tích đất lúa 3.630m2 tại các thửa 123, 124, 125 và 126, tờ bản đồ sổ 4 ngày 13/11/2000 do ông Tân đứng tên tọa lạc tại xã Xuân Phương, thị xã Sông cầu, tỉnh Phú Yên. (4) Công nhận sổ tiền 250.000.000đ theo thẻ tiết kiệm sổ PA 1967892 10/4/2014 và 50.000.000đ theo thẻ tiết kiệm số PK 0229749 ngày 10/12/2014 tại Vietinbank K.H là tài sản thuộc quyền sở hữu của ông Nguyên. (5) Giao quyền được mua 02 lô đất tái định cư tại khu tái định cư A2, khu phố L.U.Đ, phường X.Y, thị xã S.C với giá Nhà nước quy định cho ông Nguyên. Và thực hiện nghĩa vụ tài chính đổi với hai lô đất được nhận và được chia theo pháp luật sau khi bản án có hiệu lực pháp luật. (6) Chia thừa kế theo pháp luật đối với di sản thừa kế của cụ Lan và cụ Tân mỗi kỷ phần thừa kế được nhận có giá trị là: 449.443.675d. Giao cho ông Nguyên được quyền sử dụng đất: Thửa đất vườn có nhà ở diện tích là 322,2m2 gắn liền ngôi nhà tạm; Thửa đất đìa nuôi tôm có diện tích là 1.746,3m2; Thửa đất đìa nuôi tôm có diện tích là 1.849,5m2; Ông Nguyên được quyền làm thủ tục nhận sổ tiền 256.191.000đ bồi thường. Bà L.T.H Vy phải trả cho bà L.T.T Nguyệt 134.892.871đ; Ông Nguyên phải trả cho bà Nguyệt 22.382.53đ, trả cho bà Thịnh 130.920.986đ, trả cho bà Mai 157.275.402đ, trả cho bà Trang 157.275.402đ về khoản chênh lệch kỷ phần thừa kế được chia theo pháp luật. (7) Không xem xét trách nhiệm của Ngân hàng TMGP công thương Việt Nam - Chi nhánh P.Y và Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam- Chi nhánh P.Y về việc: Cho bà Vy rút thẻ tiết kiệm đứng tên ông Tân là không đúng pháp luật. Ngoài ra, bản án còn tuyên về án phí theo quy định. Đề nghị kháng cáo Ngày 16/10/2020, bà N.T Thịnh kháng cáo đề nghị chấp nhận yêu cầu độc lập, yêu cầu được chia tài sản theo Di chúc và Giấy tặng cho và không buộc Bà phải chịu chi phí giám định là 5.000.000 đồng. Ngày 16/10/2020 và ngày 19/10/2020 các đồng bị đơn kháng cáo đề nghị hủy án sơ thẩm để xét xử lại theo hướng hủy toàn bộ các Di chúc và hợp đồng tặng cho tài sản của bà Thịnh, chia di sản thừa kế cho các Bà bằng hiện vật. Ngày 20/10/2020, Viện trưởng VKSND tỉnh P.Y có Quyết định kháng nghị phúc thẩm số 01/QĐKNPT-VKS-DS, đề nghị xét xử phúc thẩm theo hướng công nhận cả 02 lô đất tái định cư là di sản thừa kế; chia cho nguyên đơn, bị đơn bằng hiện vật là đất; chỉ buộc những người thừa kế trả cho bà Thịnh tiền công sức nuôi dưỡng là 05%. Tại phiên tòa phúc thẩm, đại diện VKSND cấp cao tại Đ.N đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ khoản 2 Điều 308 BLTTDS 2015: Chấp nhận Kháng nghị phúc thẩm số 01/QĐKNPT-VKS-DS ngày 20/10/2020 của Viện trưởng VKSND tỉnh P.Y và chấp nhận kháng cáo của các bị đơn; không chấp nhận kháng cáo của người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan để sửa một phần Bản án sơ thẩm theo hướng công nhận di sản thừa kế là 02 lô đất ở tái định cư để chia cho các đồng thừa kế và chia thừa kế bằng hiện vật cho các đương sự. Đối với yêu cầu chia công sức của bà Thịnh chỉ chấp nhận 05%. Bản án dân sự phúc thẩm ngày 01/12/2021 của TAND cấp cao tại Đ.N, quyết định: Không chấp nhận kháng cáo của bà Thịnh; Chấp nhận một phần kháng nghị của Viện trưởng VKSND tỉnh P.Y; Chấp nhận một phần kháng cáo của các đồng bị đơn; sửa Bản án dân sự sơ thẩm ngày 06/10/2020 đối với nội dung: Bổ sung vào di sản thừa kế của cụ Lan và cụ Tân giá trị 02 lô đết tái định cư là 1.020.000.000 đồng và số tiền gửi tiết kiệm tại Chi nhánh Ngân hàng Vietinbank 148.027.427đ để chia và chia thừa kế bằng hiện vật, căn cứ vào nhu cầu thực tế và sự quản lý của các đương sự để các đương sự đều được quản lý, sử dụng di sản thừa kế theo quy định của pháp luật. 3. Một số vấn đề cần rút kinh nghiệm Hồ sơ vụ án thể hiện, khi thu hồi đất của cụ Tân, cơ quan chức năng giao 02 lô đất tái định cư (mỗi lô 120m2) có vị trí số 44 và 45, tại khu tái định cư thuộc khu A2, phường L.U.Đ cho gia đình cụ Tân. Tại Biên bản họp thống nhất cử người đại diện thừa kế tài sản của ông Tân vào ngày 24/7/2015 của Trung tâm phát triển quỹ đất, ông Nguyên có ý kiến như sau: “Hai lô đất tái định cư thực hiện di nguyện của cha theo đúng nội dung trong bản di chúc. Tôi đề nghị 02 lô đất tái định cư giao cho tôi được trọn quyền sử dụng phần đất này sau khi nhận tôi sẽ xây dựng lại nhà ở để thờ cúng theo di nguyện của ba”. Như vậy, ông Nguyên đã thừa nhận 02 lô đất là di sản thừa kế của cụ Tân để lại. Mặt khác, Trung tâm phát triển quỹ đất trả lời theo văn bản ngày 01/9/2016 về việc yêu cầu cung cấp thông tin của TAND tỉnh P.Y có nội dung: Sau khi Nhà nước thu hồi toàn bộ phần diện tích đất 580m2 loại đất ở đô thị đã giao cho hộ ông L.Đ Tân - L.Đ Nguyên 02 lô đất tái định cư. Tuy nhiên, việc giao đất chưa thực hiện được vì hiện nay ông Tân đã mất, về 02 lô đất tái định cư giao theo hình thức nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất theo giá Nhà nước quy định, thuộc khu A2. Ngoài ra, tại Văn bản ngày 10/12/2019 của Trung tâm phát triển quỹ đất huyện S.C khi cung cấp thông tin cho TAND tỉnh P.Y có nội dung: Qua hai lần phê duyệt phương án bồi thường ông Nguyên được giao 02 lô đất tái định cư theo quy định pháp luật. Căn cứ theo Quyết định ngày 23/4/2013 của UBND tỉnh P.Y ông Nguyên không được ưu tiên giao 02 lô đất tái định cư. Như vậy, 02 lô đất tái định cư thuộc khu tái định cư A2, phường L.U.Đ là di sản của cụ Tân, cụ Lan để lại. ông Nguyên chỉ đại diện cho các đồng thừa kế để nhận. Nhưng bản án sơ thẩm lại xác định 02 lô đất tái định cư là của ông Nguyên nên không chia di sản thừa kế là không đúng, làm ảnh hưởng đến quyền lợi của các đồng thừa kế. Di sản cụ Tân để lại gồm các khoản tiền gửi và các quyền sử dụng đất thuộc nhiều thửa đất có mục đích sử dụng khác nhau tại tỉnh P.Y. Cả nguyên đơn và bị đơn đều sinh sống tại thành phố N.T. Quá trình giải quyết vụ án, các bị đơn đều có yêu cầu được nhận di sản bằng hiện vật vừa đảm bảo quyền lợi của các đồng thừa kế, nhưng bản án sơ thẩm lại giao toàn bộ các thửa đất cho ông Nguyên và buộc ông Nguyên thối trả giá trị cho các đồng thừa kế là không đảm bảo nguyên tắc phân chia di sản thừa kế được quy định tại khoản 2 Điều 660 Bộ luật dân sự 2015, ảnh hưởng đến quyền lợi của các bị đơn. Do đó, bản án phúc thẩm đã sửa bản án sơ thẩm; xác định lại di sản thừa kế và chia thừa kế bằng hiện vật để đảm bảo quyền lợi của các đồng thừa kế. Vụ án này, VKSND tỉnh P.Y đã làm tốt công tác kiểm sát việc giải quyết các vụ án dân sự, kịp thời ban hành quyết định kháng nghị phúc thẩm, được tòa án chấp nhận. Trên đây là vi phạm của TAND tỉnh P.Y trong việc giải quyết vụ án “Tranh chấp di sản thừa kế”, VKSND cấp cao tại Đ.N thông báo đến các VKS các tỉnh, thành trong khu vực tham khảo và rút kinh nghiệm khi kiểm sát giải quyết vụ án tương tự.
Người mẹ có thể đại diện cho con thỏa thuận phân chia di sản cho mình hay không?
Tình huống đặt ra là hai vợ chồng có 2 người con 15 tuổi và 17 tuổi. Người chồng chết không để lại di chúc. Vậy người vợ có thể khai nhận di sản thừa kế, đại diện cho 2 người con để lại di sản hết cho mình hay không? Liên quan đến vấn đề này thì theo quy định tại Điều 21 Bộ Luật dân sự 2015 có nêu rõ rằng “Người từ đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi tự mình xác lập, thực hiện giao dịch dân sự, trừ giao dịch dân sự liên quan đến bất động sản, động sản phải đăng ký và giao dịch dân sự khác theo quy định của luật phải được người đại diện theo pháp luật đồng ý”. Theo đó, việc thỏa thuận phân chia di sản thừa kế, quyết định di sản là bất động sản thì 2 người con không thể tự mình quyết định được mà sẽ thông qua người đại diện của mình là người mẹ. Bên cạnh đó, tại Khoản 3 Điều 141 Bộ luật dân sự 2015 cũng có quy định: Điều 141. Phạm vi đại diện … 3. Một cá nhân, pháp nhân có thể đại diện cho nhiều cá nhân hoặc pháp nhân khác nhau nhưng không được nhân danh người được đại diện để xác lập, thực hiện giao dịch dân sự với chính mình hoặc với bên thứ ba mà mình cũng là người đại diện của người đó, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác. Căn cứ quy định trên, trong quá trình đại diện cho 2 người con, người mẹ không thể tự mình quyết định phần di sản của người con được tặng, cho người mẹ. Nếu làm như vậy thì vô hình chung người mẹ đang tự giao dịch với chính mình. Vì các lí do trên, trong trường hợp khai nhận di sản thừa kế, người mẹ chỉ có thể đại diện cho con để làm thủ tục khai nhận 2 người con là những người thuộc hàng thừa kế thứ nhất có quyền hưởng di sản mà thôi. Cũng nên lưu ý xem thử còn các trường hợp nào khác thuộc hàng thừa kế thứ nhất thuộc diện được hưởng thừa kế hay không. Nếu chỉ còn người mẹ và 2 người con thì sẽ phải tiến hành thủ tục khai nhận di sản chung cho cả ba người. Lúc này, di sản thừa kế sẽ là tài sản chung của 3 người. Việc cấp giấy riêng cho người mẹ sẽ vi phạm và không đáp ứng các quy định đã dẫn chiếu nêu trên.
Đối tượng nào không được hưởng di sản thừa kế?
Pháp luật quy định cá nhân có quyền được nhận di sản thừa kế theo di chúc và theo pháp luật. Tuy nhiên, vẫn có người không được hưởng di sản thừa kế. Vậy đó là những trường hợp nào, mời các bạn tham khảo bài viết sau đây: 1.Di sản thừa kế là gì? Người thừa kế là ai? Di sản thừa kế là tài sản mà người chết để lại cho người thừa kế. Theo Điều 612 Bộ luật dân sự 2015 quy định: “Di sản bao gồm tài sản riêng của người chết, phần tài sản của người chết trong tài sản chung với người khác.” Như vậy, di sản thừa kế là tài sản thuộc sở hữu của người chết và quyền đối với tài sản của người đó. Người thừa kế là cá nhân phải là người còn sống vào thời điểm mở thừa kế hoặc sinh ra và còn sống sau thời điểm mở thừa kế nhưng đã thành thai trước khi người để lại di sản chết. Trường hợp người thừa kế theo di chúc không là cá nhân thì phải tồn tại vào thời điểm mở thừa kế. Có thể thấy người thừa kế có thể là những người thuộc hàng thừa kế theo pháp luật , hoặc cá nhân, tổ chức bất kì được người để lại di sản chỉ định hưởng thừa kế theo di chúc. 2. Đối tượng không được hưởng thừa kế - Trong trường hợp không có di chúc Theo khoản 1 Điều 621 Bộ luật dân sự 2015 quy định, những trường hợp sau đây không được hưởng di sản thừa kế, cụ thể: Như đã phân tích ở trên, quyền lập di chúc là quyền của cá nhân đối với tài sản thuộc sở hữu của mình. Do đó , quyết định xem ai sẽ là người được thừa kế và hưởng bao nhiêu là quyền của người đó .Và những người bị truất quyền hưởng di sản sẽ không được hưởng di sản thừa kế theo di chúc. Tuy nhiên, vẫn có trường hợp ngoại lệ ,đó là thừa kế không phụ thuộc nội dung di chúc, quy định tại Điều 644 Bộ luật dân sự 2015 , bao gồm: +Con chưa thành niên, cha, mẹ, vợ, chồng +Con đã thành niên nhưng không có khả năng lao động Những người này sẽ được hưởng phần di sản bằng hai phần ba suất của một người thừa kế theo pháp luật nếu di sản được chia theo pháp luật, trong trường hợp họ không được người lập di chúc cho hưởng di sản hoặc chỉ cho hưởng phần di sản ít hơn hai phần ba suất đó. Kết luận: Nhằm hạn chế những hành vi sai trái, gây nguy hiểm cho người để lại thừa kế, với mục đích có được phần tài sản nhiều hơn hoặc được toàn bộ. Pháp luật đã liệt kê các đối tượng không được quyền hưởng di sản để đảm bảo cho cá nhân có tài sản được tự do trong việc định đoạt tài sản của mình. + Người bị kết án về hành vi cố ý xâm phạm tính mạng, sức khỏe hoặc về hành vi ngược đãi nghiêm trọng, hành hạ người để lại di sản, xâm phạm nghiêm trọng danh dự, nhân phẩm của người đó; + Người vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ nuôi dưỡng người để lại di sản; + Người bị kết án về hành vi cố ý xâm phạm tính mạng người thừa kế khác nhằm hưởng một phần hoặc toàn bộ phần di sản mà người thừa kế đó có quyền hưởng; + Người có hành vi lừa dối, cưỡng ép hoặc ngăn cản người để lại di sản trong việc lập di chúc; giả mạo di chúc, sửa chữa di chúc, hủy di chúc, che giấu di chúc nhằm hưởng một phần hoặc toàn bộ di sản trái với ý chí của người để lại di sản. - Trong trường hợp có di chúc Căn cứ quy định tại khoản 1 Điều 626 Bộ luật dân sự 2015 người lập di chúc có các quyền sau: “1. Chỉ định người thừa kế; truất quyền hưởng di sản của người thừa kế”
Viện tối cao hướng dẫn một số nội dung khi kiểm sát giải quyết các vụ tranh chấp di sản thừa kể
Kiểm sát giải quyết các vụ tranh chấp chia di sản thừa kế - Minh họa Ngày 12/5/2021, Viện kiểm sát nhân dân tối cao ban hành Hướng dẫn 24/HD-VKSTC về một số nội dung cơ bản trong công tác kiểm sát giải quyết các vụ án tranh chấp chia di sản thừa kế. Xin trích dẫn những nội dung quan trọng được nhắc đến trong Hướng dẫn này. 1. Trong công tác kiểm sát theo thủ tục sơ thẩm: - Về pháp luật tố tụng - Về pháp luật nội dung, bao gồm: + Xác định thời điểm mở thừa kế và thời hiệu khởi kiện các vụ án tranh chấp chia di sản thừa kế + Xác định di sản thừa kế, giá trị di sản, hiện trạng, quá trình sử dụng, quản lý di sản + Xác định hàng thừa kế + Xem xét tính hợp pháp của di chúc + Xác định rõ nguyên nhân dẫn đến tranh chấp, tâm tư, nguyện vọng, điều kiện, hoàn cảnh của các đương sự dể phân chia di sản cho phù hợp + Xác định căn cứ pháp luật có liên quan để đề nghị đường lối giải quyết vụ án + Về từ chối nhạn di sản + Về thứ tự ưu tiên thanh toán 2. Trong công tác kiểm sát việc giải quyết theo thủ tục phúc thẩm 3. Trong công tác kiểm sát việc giải quyết theo thủ tục phúc thẩm. Xem chi tiết hướng dẫn tại file đính kèm.
Xin chào Luật sự. Xin cho em hỏi về vấn đề tranh chấp đất đai đòi phân chia di sản thừa kế. Nội dung như sau: Ông bà nội em kết hôn khoảng năm 1940 sinh được 8 người con, 4 con trai và 4 con gái. Trong đó bố em là con trai thứ 3. Gia đình ông bà nội sinh sống trên thửa đất thổ cư từ năm 1960 diện tích hơn 1000m2. Năm 1980 ông nội em mất, 8 người con của ông bà nội đều đã xây dựng gia đình và có đất ở riêng. Năm 2002 bà nội em được UBND xã cấp GCNQSDĐ cho đứng tên bà nội em: ghi là hộ bà: ....(tại thời điểm cấp gcn qsdđ hộ khẩu bà nội em chỉ có 1 mình bà). Năm 2011, bà nội làm thủ tục chuyển nhượng quyền sử dụng đất toàn bộ thửa đất cho 3 người con trai gồm (bác thứ 2, bố em, chú thứ 3), còn bác cả là bà không chuyển nhượng đất cho vì bác ấy mất năm 2009.( Bác cả kết hôn với vợ thứ nhất sinh được 2 người con, 1 trai, 1 gái và li hôn vợ cả năm 2003. Sau đó kết hôn với vợ hai cùng năm đó sinh được 1 người con trai, 1 người con gái) thoát li không sinh sống tại địa phương từ năm 1986). Cả 3 người con được chuyển nhượng đã được cấp GCNQSDĐ. (Trong 3 hợp đồng chuyển nhượng thì chỉ có chữ ký của bà nội và chữ ký của người con nhận chuyển nhượng). Năm 2016 bà nội em mất. Đến nay 2021, người con trai của vợ cả (đã li hôn với bác cả) có đơn đòi chia thừa kế đất của ông bà nội. Với lí do là bác cả là con của ông bà nội. Vậy xin luật sư tư vấn giúp: Thứ nhất là việc cấp GCN QSDĐ cho bà nội sau khi ông mất có đảm bảo pháp luật hay không?. Thứ hai là thời điểm xác lập hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất năm 2011 chỉ có chữ ký của các bên như vậy có đảm bảo hay không?. Thứ ba là việc kiện đòi phân chia di sản thừa kế thửa đất của ông bà nội đối của con trai vợ thứ nhất của bác cả có đúng theo quy định pháp luật. Thứ tư nếu trường hợp trong số các người con gái của ông bà nội khởi kiện đòi quyền thừa kế đất thì sẽ xảy ra những phương án nào. Rất mong Luật sư tư vấn giúp. Xin trân trọng cảm ơn.
Người nước ngoài định cư ở VN được hưởng di sản là đất nông nghiệp?
Xin cộng đồng cho câu trả lời về vấn đề thừa kế tài sản: Chồng là người nước ngoài định cư ở VN với vợ Việt. Hai vợ chồng mua đất nông nghiệp, xây nhà để ở và trồng cây. Khi vợ mất với di chúc để lại đất cho chồng, chồng có được phép hưởng di sản, tiếp tục sống và làm việc trên đất nông nghiệp đó không?
Thắc mắc về thoả thuận phân chia di sản thừa kế
Xin chào Luật Sư, E có thắc mắc không hiểu về việc thỏa thuận phân chia di sản thừa kế mới kí sáng nay. Mẹ e mất năm 2002 có để lại 1 mảnh đất và ngôi nhà 136m2 nhưng chưa có làm sổ. Hiện nay nhà e muốn làm sổ hồng thì ba em nhờ bên công chứng xuống làm giấy tờ. Sáng nay e ký xong e mới đọc kỹ lại và có thắc mắc là sau khi làm xong thì ai sẽ đứng tên sổ. Và các đồng thừa kế có được quyển lợi gì không?
Đời cha ăn mặn, đời con khát nước là gì? Con cái có phải trả nợ thay cho cha mẹ hay không?
Khi nói đến quy luật nhân quả thì ông bà ta thường có câu tục ngữ "Đời cha ăn mặn, đời con khát nước" - Vậy câu nói này có ý nghĩa gì? Ta sẽ tìm hiểu về vấn đề này thông qua bài viết sau. Đời cha ăn mặn, đời con khát nước là gì? Trước hết, theo nghĩa đen câu tục ngữ có nghĩa là khi một người có thói quen ăn uống không lành mạnh, ăn quá mặn sẽ làm hại sức khỏe con cái, làm đứa con khát nước. Tuy nhiên, nếu hiểu theo nghĩa bóng thì câu tục ngữ "Đời cha ăn mặn, đời con khát nước" sẽ có nghĩa là khi đời cha mẹ làm điều xấu xa, thất đức thì đời con cháu sẽ gặp phải điều không may mắn, cuộc sống khó khăn. Câu tục ngữ như một lời nhắc nhở mọi người không nên làm những điều thất đức, những điều ác, điều xấu. Nếu chúng ta làm những điều xấu xa, ác độc thì những điều xấu ấy sẽ ảnh hưởng đến chính chúng ta và con cháu chúng ta sau này. Con cái có nghĩa vụ phải trả nợ thay cho cha mẹ hay không? Tại Điều 70 Luật Hôn nhân và gia đình 2014 có nêu rõ về quyền và nghĩa vụ của con cái đối với cha mẹ của mình như sau: - Được cha mẹ thương yêu, tôn trọng, thực hiện các quyền, lợi ích hợp pháp về nhân thân và tài sản theo quy định của pháp luật; được học tập và giáo dục; được phát triển lành mạnh về thể chất, trí tuệ và đạo đức. - Có bổn phận yêu quý, kính trọng, biết ơn, hiếu thảo, phụng dưỡng cha mẹ, giữ gìn danh dự, truyền thống tốt đẹp của gia đình. - Con chưa thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự hoặc không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình thì có quyền sống chung với cha mẹ, được cha mẹ trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc. Con chưa thành niên tham gia công việc gia đình phù hợp với lứa tuổi và không trái với quy định của pháp luật về bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em. - Con đã thành niên có quyền tự do lựa chọn nghề nghiệp, nơi cư trú, học tập, nâng cao trình độ văn hóa, chuyên môn, nghiệp vụ; tham gia hoạt động chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội theo nguyện vọng và khả năng của mình. Khi sống cùng với cha mẹ, con có nghĩa vụ tham gia công việc gia đình, lao động, sản xuất, tạo thu nhập nhằm bảo đảm đời sống chung của gia đình; đóng góp thu nhập vào việc đáp ứng nhu cầu của gia đình phù hợp với khả năng của mình. - Được hưởng quyền về tài sản tương xứng với công sức đóng góp vào tài sản của gia đình. Như vậy, theo quy định pháp luật vừa nêu thì con cái không có nghĩa vụ phải trả nợ thay cho cha hoặc mẹ của mình. Con cái nhận di sản thừa kế từ cha mẹ thì có nghĩa vụ phải trả nợ thay cho cha mẹ của mình không? Tại Điều 615 Bộ luật Dân sự 2015 có quy định về việc thực hiện nghĩa vụ tài sản do người chết để lại như sau: - Những người hưởng thừa kế có trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ tài sản trong phạm vi di sản do người chết để lại, trừ trường hợp có thỏa thuận khác. - Trường hợp di sản chưa được chia thì nghĩa vụ tài sản do người chết để lại được người quản lý di sản thực hiện theo thỏa thuận của những người thừa kế trong phạm vi di sản do người chết để lại. - Trường hợp di sản đã được chia thì mỗi người thừa kế thực hiện nghĩa vụ tài sản do người chết để lại tương ứng nhưng không vượt quá phần tài sản mà mình đã nhận, trừ trường hợp có thỏa thuận khác. - Trường hợp người thừa kế không phải là cá nhân hưởng di sản theo di chúc thì cũng phải thực hiện nghĩa vụ tài sản do người chết để lại như người thừa kế là cá nhân. Như vậy, trong trường hợp con cái đã nhận di sản thừa kế từ bố mẹ thì phải có trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ tài sản do cha mẹ để lại, trong đó có bao gồm cả việc trả nợ thay cho cha me. Con cái sẽ dùng chính tài sản mình nhận được từ phần di sản thừa kế để trả nợ trong phạm vi di sản mà cha, mẹ để lại. Tóm lại, câu tục ngữ "Đời cha ăn mặn, đời con khát nước" là câu nói dùng để nhắc nhở mọi người phải suy nghĩ thật kỹ trong từng việc mà mình làm. Nếu hiện tại chúng ta làm những điều xấu xa thì con cháu chúng ta chính là những người phải hứng chịu hậu quả về sau.
Tiền bồi thường do xâm phạm sức khỏe có thể được xem là di sản thừa kế không?
Pháp luật hiện nay có quy định về tiền bồi thường do xâm phạm sức khỏe là di sản thừa kế hay không? Tiền bồi thường do xâm phạm sức khỏe là những khoản chi phí nào? 1. Di sản thừa kế là gì? Theo quy định tại Điều 612 Bộ Luật Dân sự 2015 định nghĩa di sản bao gồm tài sản riêng của người chết, phần tài sản của người chết trong tài sản chung với người khác. Như vậy, có thể hiểu di sản thừa kế là tài sản của người chết (người để lại di sản thừa kế) để lại cho người khác sau khi người để lại di sản chết, di sản thừa kế bao gồm:Tài sản riêng của người chết; Phần tài sản của người chết trong tài sản chung với người khác. Trong đó: - Tài sản riêng của người chết là tài sản riêng của cá nhân bao gồm những tài sản hợp pháp thuộc sở hữu riêng không bị hạn chế về số lượng và giá trị. - Còn phần tài sản của người chết trong tài sản chung với người khác bao gồm: tài sản của người chết trong khối tài sản chung hợp nhất của vợ hoặc chồng; tài sản của người chết trong khối tài sản chung theo phần với chủ thể khác. 2. Tiền bồi thường do xâm phạm sức khỏe có thể được xem là di sản thừa kế không? Căn cứ theo Điều 590 Bộ Luật Dân sự 2015 quy định về các khoản tiền bồi thường thiệt hại do xâm phạm sức khỏe cũng như trách nhiệm bồi thường, cụ thể như sau: - Thiệt hại do sức khỏe bị xâm phạm bao gồm: + Chi phí hợp lý cho việc cứu chữa, bồi dưỡng, phục hồi sức khỏe và chức năng bị mất, bị giảm sút của người bị thiệt hại; + Thu nhập thực tế bị mất hoặc bị giảm sút của người bị thiệt hại; nếu thu nhập thực tế của người bị thiệt hại không ổn định và không thể xác định được thì áp dụng mức thu nhập trung bình của lao động cùng loại; + Chi phí hợp lý và phần thu nhập thực tế bị mất của người chăm sóc người bị thiệt hại trong thời gian điều trị; nếu người bị thiệt hại mất khả năng lao động và cần phải có người thường xuyên chăm sóc thì thiệt hại bao gồm cả chi phí hợp lý cho việc chăm sóc người bị thiệt hại; + Thiệt hại khác do luật quy định. - Người chịu trách nhiệm bồi thường trong trường hợp sức khỏe của người khác bị xâm phạm phải bồi thường thiệt hại theo quy định và một khoản tiền khác để bù đắp tổn thất về tinh thần mà người đó gánh chịu. Mức bồi thường bù đắp tổn thất về tinh thần do các bên thỏa thuận; nếu không thỏa thuận được thì mức tối đa cho một người có sức khỏe bị xâm phạm không quá năm mươi lần mức lương cơ sở do Nhà nước quy định. Như vậy, tiền bồi thường do xâm phạm sức khỏe sẽ bao gồm các khoản khoản trên. Theo đó, khoản thường do xâm phạm sức khỏe được xem là di sản thừa kế khi khoản bồi thường này là phần tài sản riêng của người bị hại và là di sản thừa kế khi họ mất đi. Trong trường hợp này, nếu khoản bồi thường đó là khoản bồi thường trực tiếp cho người bị thiệt hại khi họ còn sống thì đương nhiên thuộc tài sản riêng của họ và là di sản thừa kế khi họ chết.
Chứng thực văn bản khai nhận di sản mà di sản là động sản, quyền sửa dụng đất, nhà ở
Đối với trường hợp văn bản khai nhận di sản thừa kế là động sản, quyền sửa dụng đất, nhà ở người khai nhận muốn thực hiện chứng thực phải làm như thế nào? Cần chuẩn bị hồ sơ gồm những gì để có thể chứng thực được? Trình tự thực hiện chứng thực văn bản khai nhận di sản mà di sản là động sản, quyền sửa dụng đất, nhà ở Căn cứ Điều 36 Nghị định 23/2015/NĐ-CP các bước thực hiện chứng thực văn bản khai nhận di sản mà di sản là động sản, quyền sửa dụng đất, nhà ở như sau: + Người yêu cầu chứng thực nộp 01 bộ hồ sơ yêu cầu chứng thực. + Người thực hiện chứng thực (hoặc người tiếp nhận hồ sơ trong trường hợp tiếp nhận hồ sơ tại bộ phận một cửa, một cửa liên thông) kiểm tra giấy tờ trong hồ sơ yêu cầu chứng thực, nếu đầy đủ, tại thời điểm chứng thực các bên tham gia văn bản khai nhận di sản tự nguyện, minh mẫn và nhận thức, làm chủ được hành vi của mình thì tiếp nhận hồ sơ, thực hiện chứng thực. + Người khai nhận di sản phải ký trước mặt người thực hiện chứng thực, nếu văn bản khai nhận di sản có từ hai trang trở lên thì phải ký vào từng trang. Trường hợp người yêu cầu chứng thực nộp hồ sơ tại bộ phận một cửa, một cửa liên thông thì người khai nhận di sản phải ký trước mặt người tiếp nhận hồ sơ. + Trường hợp người yêu cầu chứng thực không ký được thì phải điểm chỉ; nếu người đó không đọc được, không nghe được, không ký, không điểm chỉ được thì phải có 02 (hai) người làm chứng. Người làm chứng phải có đủ năng lực hành vi dân sự và không có quyền, lợi ích hoặc nghĩa vụ liên quan đến giao dịch. Người làm chứng do người yêu cầu chứng thực bố trí. Trường hợp người yêu cầu chứng thực không bố trí được thì đề nghị cơ quan thực hiện chứng thực chỉ định người làm chứng. + Người thực hiện chứng thực (hoặc người tiếp nhận hồ sơ) ghi lời chứng theo mẫu quy định. Trường hợp tiếp nhận hồ sơ tại bộ phận một cửa, một cửa liên thông thì người tiếp nhận hồ sơ ký vào từng trang của văn bản khai nhận di sản và ký vào dưới lời chứng theo mẫu quy định. Người thực hiện chưng thực ký vào từng trang của văn bản khai nhận di sản (nếu hồ sơ không được tiếp nhận qua bộ phận một cửa, một chửa liên thông), ký, ghi rõ họ tên, đóng dấu của cơ quan thực hiện chứng thực và ghi vào sổ chứng thực. Đối với văn bản khai nhận có từ 02 (hai) trang trở lên, thì từng trang phải được đánh số thứ tự, có chữ ký của người yêu cầu chứng thực và người thực hiện chứng thực; số lượng trang và lời chứng được ghi tại trang cuối của văn bản thỏa thuận. Trường hợp văn bản khai nhận có từ 02 (hai) tờ trở lên thì phải đóng dấu giáp lai. + Trong trường hợp người yêu cầu chứng thực không thông thạo tiếng Việt thì phải có người phiên dịch. Người phiên dịch phải là người có năng lực hành vi dân sự đầy đủ theo quy định của pháp luật, thông thạo tiếng Việt và ngôn ngữ mà người yêu cầu chứng thực sử dụng. Người phiên dịch do người yêu cầu chứng thực mời hoặc do cơ quan thực hiện chứng thực chỉ định. Thù lao phiên dịch do người yêu cầu chứng thực trả.Người phiên dịch có trách nhiệm dịch đầy đủ, chính xác nội dung của văn bản khai nhận di sản, nội dung lời chứng cho người yêu cầu chứng thực và ký vào từng trang văn bản khai nhận với tư cách là người phiên dịch. Thành phần hồ sơ thực hiện chứng thực văn bản khai nhận di sản mà di sản là động sản, quyền sửa dụng đất, nhà ở Căn cứ khoản 1 Điều 36 Nghị định 23/2015/NĐ-CP hồ sơ thực hiện chứng thực văn bản khai nhận di sản mà di sản là động sản, quyền sửa dụng đất, nhà ở bao gồm: + Dự thảo văn bản khai nhận di sản; + Bản sao Giấy chứng minh nhân dân/Căn cước công dân hoặc Hộ chiếu còn giá trị sử dụng của người yêu cầu chứng thực (xuất trình kèm theo bản chính để đối chiếu); + Bản sao giấy chứng nhận quyền sở hữu, quyền sử dụng hoặc bản sao giấy tờ thay thế được pháp luật quy định đối với tài sản mà pháp luật quy định phải đăng ký quyền sở hữu, quyền sử dụng trong trường hợp văn bản khai nhận di sản liên quan đến tài sản đó (xuất trình kèm theo bản chính để đối chiếu). =>> Trên đây là trình tự các bước cũng như giấy tờ cần thiết để thực hiện chứng thực văn bản khai nhận di sản mà di sản là động sản, quyền sửa dụng đất, nhà ở
Chung sống như vợ chồng có được hưởng thừa kế khi chưa đăng ký kết hôn?
Chung sống như vợ chồng là gì? Chung sống như vợ chồng có được hưởng thừa kế khi chưa đăng ký kết hôn? Bố mẹ không đăng ký kết hôn, con chung có được hưởng thừa kế không? Bài viết sau sẽ giải đáp cho những thắc mắc nêu trên. (1) Chung sống như vợ chồng là gì? Căn cứ theo quy định tại Khoản 7 Điều 3 Luật Hôn nhân và gia đình 2014 có định nghĩa về chung sống như vợ chồng như sau: “Chung sống như vợ chồng là việc nam, nữ tổ chức cuộc sống chung và coi nhau là vợ chồng” Đồng thời, Thông tư liên tịch 01/2001/TTLT-BTP-BCA-TANDTC-VKSNDTC cũng có đề cập đến việc sống chung như vợ chồng như sau: “...Việc chung sống như vợ chồng thường được chứng minh bằng việc có con chung, được hàng xóm và xã hội xung quanh coi như vợ chồng, có tài sản chung đã được gia đình cơ quan, đoàn thể giáo dục mà vẫn tiếp tục duy trì quan hệ đó…” Từ những quy định nêu trên, sống chung như vợ chồng là việc hai người nam, nữ tổ chức sống chung với nhau mà coi nhau như vợ chồng. Đồng thời, việc chung sống này được xác minh bằng việc có con chung và được hàng xóm - xã hội xung quanh coi như vợ chồng. (2) Chung sống như vợ chồng có được hưởng thừa kế khi chưa đăng ký kết hôn? Căn cứ theo quy định tại Khoản 1 Điều 14 Luật Hôn nhân và gia đình 2014 về giải quyết hậu quả của việc nam, nữ chung sống với nhau như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn như sau: “Nam, nữ có đủ điều kiện kết hôn theo quy định của Luật này chung sống với nhau như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn thì không làm phát sinh quyền, nghĩa vụ giữa vợ và chồng. Quyền, nghĩa vụ đối với con, tài sản, nghĩa vụ và hợp đồng giữa các bên được giải quyết theo quy định tại Điều 15 và Điều 16 của Luật này.” Như vậy, trường hợp hai người nam nữ chung sống với nhau như vợ chồng mà không thực hiện đăng ký kết hôn thì không được công nhận như vợ chồng hợp pháp và không phát sinh quyền, nghĩa vụ giữa vợ chồng. Chính vì thế, trường hợp này không thuộc một trong những đối tượng được hưởng thừa kế theo pháp luật quy định tại Điều 651 Bộ Luật Dân sự 2015. Tuy nhiên, cũng loại trừ trường hợp một số trường hợp như sau: - Tại Khoản 1 Thông tư liên tịch 01/2001/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BTP có quy định như sau: “...Trong trường hợp quan hệ vợ chồng được xác lập trước ngày 03/01/1987 (ngày Luật hôn nhân và gia đình năm 1986 có hiệu lực) mà chưa đăng ký kết hôn, nếu một bên hoặc cả hai bên có yêu cầu ly hôn, thì Toà án thụ lý vụ án và áp dụng quy định về ly hôn của Luật hôn nhân và gia đình năm 2000…” Như vậy, có thể thấy, trường hợp này vẫn được pháp luật thừa nhận quan hệ vợ chồng mặc dù không đăng ký kết hôn. - Người chết để lại di chúc hợp pháp chỉ định người thừa kế tài sản là người chung sống không có đăng ký kết hôn. Trường hợp này người được chỉ định vẫn có quyền được hưởng tài sản thừa kế theo quy định tại Điều 644 Bộ Luật Dân sự 2015. (3) Bố mẹ không đăng ký kết hôn, con chung có được hưởng thừa kế? Như đã có đề cập tại mục (2), các vấn đề liên quan đến quyền, nghĩa vụ đối với con, tài sản, nghĩa vụ hợp đồng giữa hai người nam nữ không đăng ký kết hôn sẽ được giải quyết theo quy định tại Điều 15 và Điều 16 Luật Hôn nhân và gia đình 2014. Đồng thời, tại Điều 613 Bộ Luật Dân sự 2015 cũng quy định người thừa kế là cá nhân phải là người còn sống vào thời điểm mở thừa kế hoặc sinh ra và còn sống sau thời điểm mở thừa kế nhưng đã thành thai trước khi người để lại di sản chết. Trường hợp người thừa kế theo di chúc không là cá nhân thì phải tồn tại vào thời điểm mở thừa kế. Từ những quy định nêu trên, có thể thấy mặc dù bố, mẹ không đăng ký kết hôn nhưng vẫn có quyền và nghĩa vụ đối với con theo quy định. Chính vì thế, người con ở đây, kể cả trường hợp được sinh ra sau khi người để lại di sản chết nhưng đã thành thai vào thời điểm mở thừa kế thì vẫn được quyền hưởng thừa kế theo hàng thừa kế thứ nhất theo quy định pháp luật. Tổng kết lại, sống chung như vợ chồng là việc mà hai người nam, nữ tổ chức sống chung và coi nhau như vợ chồng. Trường hợp một trong hai người nam, nữ nêu trên chết đi thì người còn lại không có quyền được hưởng tài sản thừa kế của người con lại do chưa xác lập quan hệ vợ chồng. Tuy nhiên, cũng loại trừ trường hợp quan hệ này được xác lập từ trước ngày 03/01/1987 và trường hợp mà được chỉ định trong di chúc hợp pháp của người chết. Đối với trường hợp con chung được sinh ra bởi hai người nam, nữ chung sống như vợ chồng thì người con vẫn được quyền hưởng thừa kế theo hàng thừa kế thứ nhất.
"Dâu dâu rể rể cũng kể là con" thì có được nhận di sản thừa kế ngang với con ruột không?
Có câu "Dâu dâu rể rể cũng kể là con" vậy thì nội dung này được ghi nhận ở đâu trong hệ thống pháp luật Việt Nam? Và con dâu, con rể thì có được nhận di sản thừa kế ngang với con ruột hay không? Chúng ta cùng tìm hiểu qua bài viết sau. "Dâu dâu rể rể cũng kể là con" có ý nghĩa gì? "Dâu dâu rể rể cũng kể là con" nhắc đến mối quan hệ khá phức tạp. Dâu ở đây chỉ con dâu, người kết hôn với con trai mình. Con rể ở đây là con rể, người kết hôn với con gái mình. Có những người có cả dâu, cả rể. Có những người có một, thậm chí là nhiều đứa con như thế. "Dâu dâu rể rể cũng kể là con" mang hàm ý nhắc nhở ta nên coi dâu rể như con cái của mình. Duyên phận đã đưa đẩy ta về một nhà, thì cần nhìn nhận nhau như những người ruột thịt. Câu nói mang tinh thần gắn kết các mối quan hệ. Ông cha ta hi vọng những bậc làm cha mẹ hay những đứa con sẽ ghi lòng tạc dạ để cuộc sống gia đình hạnh phúc, yên ấm. Và tinh thần từ câu nói "Dâu dâu rể rể cũng kể là con" đã được các nhà làm Luật ghi nhận trong hệ thống pháp luật Việt Nam, cụ thể tại khoản 16 Điều 3 Luật Hôn nhân và gia đình 2014 như sau: Thành viên gia đình bao gồm vợ, chồng; cha mẹ đẻ, cha mẹ nuôi, cha dượng, mẹ kế, cha mẹ vợ, cha mẹ chồng; con đẻ, con nuôi, con riêng của vợ hoặc chồng, con dâu, con rể; anh, chị, em cùng cha mẹ, anh, chị, em cùng cha khác mẹ, anh, chị, em cùng mẹ khác cha, anh rể, em rể, chị dâu, em dâu của người cùng cha mẹ hoặc cùng cha khác mẹ, cùng mẹ khác cha; ông bà nội, ông bà ngoại; cháu nội, cháu ngoại; cô, dì, chú, cậu, bác ruột và cháu ruột. Theo đó, thì con dâu, con rể cũng được xem là thành viên gia đình. "Dâu dâu rể rể cũng kể là con" thì có được nhận di sản thừa kế ngang với con ruột không? Theo Điều 651 Bộ luật Dân sự 2015 thì những người thừa kế theo pháp luật được quy định theo thứ tự sau đây: - Hàng thừa kế thứ nhất gồm: vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của người chết; - Hàng thừa kế thứ hai gồm: ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại, anh ruột, chị ruột, em ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại; - Hàng thừa kế thứ ba gồm: cụ nội, cụ ngoại của người chết; bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột; chắt ruột của người chết mà người chết là cụ nội, cụ ngoại. Như vậy, trong các trường hợp được hưởng thừa kế theo pháp luật thì con dâu con rể không nằm trong diện được hưởng di sản thừa kế của cha mẹ chồng, cha mẹ vợ theo pháp luật. Mặc dù không thuộc hàng thừa kế nào của cha mẹ chồng, cha mẹ vợ nhưng con dâu, con rể vẫn được hưởng di sản thừa kế nếu bố mẹ chồng, bố mẹ vợ chết có để lại di chúc cho con dâu, con rể. Nhiều gia đình, người con dâu, con rể có khi lại là người gần gũi, chăm sóc cha mẹ chồng, cha mẹ vợ nhiều hơn con đẻ. Bởi thế, khi cha mẹ chồng, cha mẹ vợ chết đi thường để lại di chúc phân chia tài sản của mình cho con dâu, con rể. Thừa kế theo di chúc là thừa kế theo ý chí của người lập di chúc, cho nên người có quyền hưởng di sản thừa kế theo di chúc có thể là bất kỳ ai miễn là người đó có tên trong di chúc của người chết. Chính vì vậy, con dâu, con rể nếu có tên trong di chúc của cha mẹ chồng, cha mẹ vợ thì có quyền hưởng di sản thừa kế theo di chúc miễn sao người lập di chúc muốn cho họ hưởng và ghi tên họ trong di chúc, di chúc hợp pháp và con dâu, con rể không thuộc trường hợp được quy định tại Điều 621 Bộ luật Dân sự 2015, cụ thể: - Người bị kết án về hành vi cố ý xâm phạm tính mạng, sức khỏe hoặc về hành vi ngược đãi nghiêm trọng, hành hạ người để lại di sản, xâm phạm nghiêm trọng danh dự, nhân phẩm của người đó; - Người vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ nuôi dưỡng người để lại di sản; - Người bị kết án về hành vi cố ý xâm phạm tính mạng người thừa kế khác nhằm hưởng một phần hoặc toàn bộ phần di sản mà người thừa kế đó có quyền hưởng; - Người có hành vi lừa dối, cưỡng ép hoặc ngăn cản người để lại di sản trong việc lập di chúc; giả mạo di chúc, sửa chữa di chúc, hủy di chúc, che giấu di chúc nhằm hưởng một phần hoặc toàn bộ di sản trái với ý chí của người để lại di sản. Lưu ý: Những người con dâu, con rể thuộc trường hợp được quy định tại Điều 621 Bộ luật Dân sự 2015 vẫn được hưởng di sản thừa kế, nếu người để lại di sản thừa kế đã biết hành vi của những người đó, nhưng vẫn cho họ hưởng di sản theo di chúc. Theo đó, "Dâu dâu rể rể cũng kể là con" thì có thể được nhận di sản thừa kế ít hơn, ngang bằng hoặc thậm chí là nhiều hơn so với con ruột vì lúc này hoàn toàn dựa vào ý chí của người để lại di chúc.
Hướng dẫn đòi tiền nợ đối với người đã mất
Cho em hỏi vấn đề: Mẹ của em có cho người bác mượn 1 số tiền X (vnđ). Thì đến thời hạn trả lãi bình thường. Nhưng chẳng may người bác qua đời, người bác có tài sản nhà cửa, đất đai và để lại cho hai đứa con ruột thừa kế. Biết chồng của bác đã từ trần lâu rồi. Vậy thì số tiền gốc X ban đầu mẹ em có đòi nợ từ hai đứa con ruột được không? Giả sử tài sản hai đứa con thừa hưởng có giá tiền tiền lớn hơn so với số tiền X ban đầu. Và bác có hai đứa con thì số tiền nợ chia đôi cho hai người con trả hay sao? Mà em có thắc mắc 1 bài viết trước đó, ko biết cách nhấp vào link trực tiếp để xem câu trả lời thế nào. Em mong được giải đáp ạ. Em cảm ơn
Thỏa thuận chia di sản đã chứng thực thì có được sửa đổi?
Thỏa thuận phân chia di sản của người đã mất để lại được xem là phương thức được nhiều người lựa chọn nhằm thống nhất ý chí giữa những người được thừa kế di sản tránh việc tranh chấp. Vậy trường hợp bản thỏa thuận chia di sản đã được chứng thực tuy nhiên, người thừa kế không thể tiếp tục thực hiện thì có được sửa đổi? 1. Thỏa thuận chia di sản là gì? Thỏa thuận phân chia di sản thừa kế được xem văn bản thể hiện sự nhất chí của những người kế thừa tài sản được để lại về cách phân chia di sản của người chết để lại và đưa ra quyết định thống nhất. Theo như quy định pháp luật chia di sản thừa kế được dựa theo di chúc; nếu không có di chúc thì sẽ chia theo pháp luật. 2. 02 loại thỏa thuận chia di sản Hiện nay, khi di sản thừa kế được để lại có 2 trường hợp cần phải xem xét để có thể phân chia di sản theo đúng quy định và tinh thần pháp luật, cụ thể theo Bộ luật Dân sự 2015 có quy định di sản được chia theo di chúc và chia theo pháp luật. (1) Thỏa thuận chia di sản thừa kế theo di chúc Theo Điều 659 Bộ luật Dân sự 2015 quy định việc phân chia di sản theo di chúc được thực hiện như sau: - Việc phân chia di sản được thực hiện theo ý chí của người để lại di chúc; Nếu di chúc không xác định rõ phần của từng người thừa kế thì di sản thừa kế được chia đều cho những người được chỉ định trong di chúc, trừ trường hợp có thỏa thuận khác. - Trường hợp di chúc xác định phân chia di sản theo hiện vật thì người thừa kế được nhận hiện vật kèm theo hoa lợi, lợi tức thu được từ hiện vật đó hoặc phải chịu phần giá trị của hiện vật bị giảm sút tính đến thời điểm phân chia di sản; Nếu hiện vật bị tiêu hủy do lỗi của người khác thì người thừa kế có quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại. - Trường hợp di chúc chỉ xác định phân chia di sản theo tỷ lệ đối với tổng giá trị khối di sản thì tỷ lệ này được tính trên giá trị khối di sản đang còn vào thời điểm phân chia di sản. Như quy định nêu trên, trong trường hợp cùng hưởng di chúc nhưng người để lại di chúc không xác định rõ phần của từng người thì khi đó những người thừa kế di sản có thể chia đều hoặc thỏa thuận với nhau về việc phân chia di sản thừa kế. (2) Thỏa thuận phân chia di sản thừa kế theo pháp luật Căn cứ Điều 660 Bộ luật Dân sự 2015 quy định về việc phân chia di sản theo pháp luật như sau: - Khi phân chia di sản, nếu có người thừa kế cùng hàng đã thành thai nhưng chưa sinh ra thì phải dành lại một phần di sản bằng phần mà người thừa kế khác được hưởng nhằm: + Nếu người thừa kế đó còn sống khi sinh ra được hưởng; + Nếu chết trước khi sinh ra thì những người thừa kế khác được hưởng. - Những người thừa kế có quyền yêu cầu phân chia di sản bằng hiện vật; + Nếu không thể chia đều bằng hiện vật thì những người thừa kế có thể thỏa thuận về việc định giá hiện vật và thỏa thuận về người nhận hiện vật; + Nếu không thỏa thuận được thì hiện vật được bán để chia. Như vậy, trong trường hợp chia thừa kế theo pháp luật người cùng hàng thừa kế có thể thỏa thuận về việc định giá hiện vật và thỏa thuận về người nhận hiện vật. 3. Trường hợp không có người thừa kế thì có được sửa thỏa thuận chia di sản? Căn cứ Điều 38 Nghị định 23/2015/NĐ-CP quy định chứng thực việc sửa đổi, bổ sung, hủy bỏ hợp đồng, giao dịch được thực hiện như sau: Việc sửa đổi, bổ sung, hủy bỏ hợp đồng, giao dịch đã được chứng thực chỉ được thực hiện khi có thỏa thuận bằng văn bản của các bên tham gia hợp đồng, giao dịch. Việc sửa đổi, bổ sung, hủy bỏ hợp đồng, giao dịch được thực hiện tại cơ quan đã chứng thực hợp đồng, giao dịch. Trường hợp sửa đổi, bổ sung, thay thế, hủy bỏ một phần hoặc toàn bộ di chúc thì có thể chứng thực tại bất kỳ cơ quan có thẩm quyền chứng thực nào. Cơ quan đã thực hiện việc sửa đổi, bổ sung, thay thế, hủy bỏ một phần hoặc toàn bộ di chúc phải thông báo bằng văn bản cho cơ quan đã chứng thực trước đây về nội dung sửa đổi, bổ sung, thay thế, hủy bỏ một phần hoặc toàn bộ di chúc để ghi chú vào sổ chứng thực hợp đồng, giao dịch. Tuy nhiên, tại khoản 2 Điều 23 Thông tư 01/2020/TT-BTP hướng dẫn việc sửa đổi thỏa thuận chia di sản đã chứng thực như sau: Trong trường hợp nội dung sửa đổi, bổ sung, hủy bỏ hợp đồng, giao dịch có liên quan đến tài sản phải đăng ký quyền sở hữu, quyền sử dụng thì người yêu cầu chứng thực phải nộp bản sao giấy tờ chứng minh quyền sở hữu, quyền sử dụng hoặc giấy tờ thay thế được pháp luật quy định và xuất trình bản chính để đối chiếu; trừ trường hợp người lập di chúc đang bị cái chết đe dọa đến tính mạng. Do đó, trường hợp mà người thừa kế theo thỏa thuận chia di sản đã chứng thực đang bị cái chết đe dọa đến tính mạng mà không thể tiếp tục trở thành người thừa kế trong bản thỏa thuận thì không được sửa mà phải hủy làm lại.
Tiền hỗ trợ tái định cư khi thu hồi đất có được xem là di sản của người chết để lại hay không
Hiện nay, khi nhà nước thu hồi đất để thực hiện các dự án thì đều có phần hỗ trợ tái định cư bên cạnh tiền bồi thường do thu hồi đất nếu phần đất bị thu hồi đủ điều kiện hỗ trợ tái định cư theo phương án đã được phê duyệt. Vấn đề đặt ra là tiền hỗ trợ tái định cư có được xem là di sản thừa kế hay không. Có quan điểm cho rằng người đã chết đi thì không còn có thể tái định cư nên tiền hỗ trợ tái định cư không phải là di sản thừa kế, mà số tiền này sẽ thuộc về những người đang cư trú trên phần đất bị thu hồi. Quan điểm khác cho rằng tiền hỗ trợ tái định cư có được là xuất phát từ di sản thừa kế mà có, xét hỗ trợ mức tái định cư cũng căn cứ trên phần đất là di sản thừa kế, nên tiền hỗ trợ tái định cư là di sản thừa kế. Hiện nay quan điểm của Tòa án khi giải quyết các vụ án thì vẫn xem là tiền hỗ trợ tái định cư là di sản thửa kế. Có thể thấy thông qua án lệ số 34/2020, cụ thể: NỘI DUNG ÁN LỆ “[5]... di sản của cụ D, cụ C để lại là quyền sử dụng đất tại thửa đất số 38, Tờ bản đồ số 13 đã bị thu hồi theo Quyết định số 1208/QĐ-UBND ngày 21-7-2010 của Ủy ban nhân dân thành phố V nhưng giá trị quyền sử dụng đất của người có đất bị thu hồi vẫn được pháp luật bảo đảm theo quy định của Luật Đất đai nên hai cụ có quyền lập di chúc định đoạt tài sản trên cho ông D1...”
Có được hủy bỏ văn bản từ chối nhận di sản đã công chứng
Căn cứ Bộ luật dân sự 2015 có quy định: "Điều 620. Từ chối nhận di sản 1. Người thừa kế có quyền từ chối nhận di sản, trừ trường hợp việc từ chối nhằm trốn tránh việc thực hiện nghĩa vụ tài sản của mình đối với người khác. 2. Việc từ chối nhận di sản phải được lập thành văn bản và gửi đến người quản lý di sản, những người thừa kế khác, người được giao nhiệm vụ phân chia di sản để biết. 3. Việc từ chối nhận di sản phải được thể hiện trước thời điểm phân chia di sản." Đồng thời tại Luật Công chứng 2014 có quy định: "Điều 51. Công chứng việc sửa đổi, bổ sung, hủy bỏ hợp đồng, giao dịch 1. Việc công chứng sửa đổi, bổ sung, hủy bỏ hợp đồng, giao dịch đã được công chứng chỉ được thực hiện khi có sự thỏa thuận, cam kết bằng văn bản của tất cả những người đã tham gia hợp đồng, giao dịch đó. 2. Việc công chứng sửa đổi, bổ sung, hủy bỏ hợp đồng, giao dịch đã được công chứng được thực hiện tại tổ chức hành nghề công chứng đã thực hiện việc công chứng đó và do công chứng viên tiến hành. Trường hợp tổ chức hành nghề công chứng đã thực hiện việc công chứng chấm dứt hoạt động, chuyển đổi, chuyển nhượng hoặc giải thể thì công chứng viên của tổ chức hành nghề công chứng đang lưu trữ hồ sơ công chứng thực hiện việc sửa đổi, bổ sung, hủy bỏ hợp đồng, giao dịch. 3. Thủ tục công chứng việc sửa đổi, bổ sung, hủy bỏ hợp đồng, giao dịch đã được công chứng được thực hiện như thủ tục công chứng hợp đồng, giao dịch quy định tại Chương này. ... Điều 59. Công chứng văn bản từ chối nhận di sản Người thừa kế có thể yêu cầu công chứng văn bản từ chối nhận di sản. Khi yêu cầu công chứng văn bản từ chối nhận di sản, người yêu cầu công chứng phải xuất trình bản sao di chúc trong trường hợp thừa kế theo di chúc hoặc giấy tờ chứng minh quan hệ giữa người để lại di sản và người yêu cầu công chứng theo pháp luật về thừa kế; giấy chứng tử hoặc giấy tờ khác chứng minh người để lại di sản đã chết." =>> Trong trường hợp làm văn bản từ chối nhận di sản thừa kế nếu chưa gửi đến người quản lý di sản, những người thừa kế khác, người được giao nhiệm vụ phân chia di sản thì thực hiện hủy văn bản từ chối nhận di sản theo quy định tại Điều 51 nêu trên. - Còn trường hợp đã gửi văn bản từ chối nhận di sản người quản lý di sản, những người thừa kế khác, người được giao nhiệm vụ phân chia di sản thì chỉ hủy văn bản từ chối nhận di sản được khi những người có quyền thừa kế khác đồng ý thực hiện hủy theo quy định tại Điều 51 nêu trên.
Con có trước khi kết hôn thì có được hưởng di sản thừa kế không?
Hiện nay, không ít trường hợp các cặp đôi có con trước, sau đó mới tiến hành đăng ký kết hôn. Vậy pháp luật quy định như thế nào về quyền hưởng di sản thừa kế của người con đó? Việc con có trước khi kết hôn thì có được hưởng di sản không? Người thừa kế được quy định như thế nào? Theo Điều 613 Bộ luật dân sự 2015 có quy định về người thừa kế như sau: Người thừa kế là cá nhân phải là người còn sống vào thời điểm mở thừa kế hoặc sinh ra và còn sống sau thời điểm mở thừa kế nhưng đã thành thai trước khi người để lại di sản chết. Trường hợp người thừa kế theo di chúc không là cá nhân thì phải tồn tại vào thời điểm mở thừa kế. Tại Điều 651 Bộ luật dân sự 2015 còn có quy định về người thừa kế theo pháp luật như sau: Những người thừa kế theo pháp luật được quy định theo thứ tự sau đây: - Hàng thừa kế thứ nhất gồm: vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của người chết; - Hàng thừa kế thứ hai gồm: ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại, anh ruột, chị ruột, em ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại; - Hàng thừa kế thứ ba gồm: cụ nội, cụ ngoại của người chết; bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột; chắt ruột của người chết mà người chết là cụ nội, cụ ngoại. Những người thừa kế cùng hàng được hưởng phần di sản bằng nhau. Những người ở hàng thừa kế sau chỉ được hưởng thừa kế, nếu không còn ai ở hàng thừa kế trước do đã chết, không có quyền hưởng di sản, bị truất quyền hưởng di sản hoặc từ chối nhận di sản. Con có trước khi kết hôn có được hưởng di sản thừa kế? Theo như các phân tích ở trên, pháp luật không quy định việc con có trước khi kết hôn thì con không được hưởng di sản thừa kế. Nếu chứng minh được người đó là con của người để lại di sản thì sẽ được hưởng di sản thừa kế theo pháp luật. Ngoài ra, theo quy định tại Khoản 2 Điều 68 Luật hôn nhân và gia đình 2014 có nêu rõ con sinh ra không phụ thuộc vào tình trạng hôn nhân của cha mẹ đều có quyền và nghĩa vụ như nhau đối với cha mẹ của mình. Theo đó, dù con được sinh ra trong thời kỳ hôn nhân hoặc không trong thời kỳ hôn nhân thì vẫn có quyền và nghĩa vụ không thay đổi và giống nhau. Quyền thừa kế của con có trước khi kết hôn cũng được áp dụng trong trường hợp chia di sản thừa kế theo di chúc và chia di sản thừa kế theo pháp luật giống như con sinh ra trong thời kỳ hôn nhân của bố mẹ. Vì vậy, nếu có đầy đủ chứng cứ để chứng minh một người là con của người để lại di sản thì vẫn được pháp luật bảo vệ quyền được hưởng thừa kế. Đối tượng không được quyền hưởng di sản thừa kế Căn cứ tại khoản 1 Điều 621 Bộ luật dân sự 2015 quy định những người sau đây không được quyền hưởng di sản: - Người bị kết án về hành vi cố ý xâm phạm tính mạng, sức khỏe hoặc về hành vi ngược đãi nghiêm trọng, hành hạ người để lại di sản, xâm phạm nghiêm trọng danh dự, nhân phẩm của người đó; - Người vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ nuôi dưỡng người để lại di sản; - Người bị kết án về hành vi cố ý xâm phạm tính mạng người thừa kế khác nhằm hưởng một phần hoặc toàn bộ phần di sản mà người thừa kế đó có quyền hưởng; - Người có hành vi lừa dối, cưỡng ép hoặc ngăn cản người để lại di sản trong việc lập di chúc; giả mạo di chúc, sửa chữa di chúc, hủy di chúc, che giấu di chúc nhằm hưởng một phần hoặc toàn bộ di sản trái với ý chí của người để lại di sản. Tuy nhiên, những người quy định trên vẫn được hưởng di sản, nếu người để lại di sản đã biết hành vi của những người đó, nhưng vẫn cho họ hưởng di sản theo di chúc. Như vậy, con có trước khi kết hôn mà thuộc đối tượng không được quyền hưởng di sản theo Điều 621 Bộ luật dân sự 2015 thì vẫn có thể được hưởng di sản nếu người lập di chúc đã biết rõ các hành vi sai trái này nhưng vẫn đồng ý lập di chúc để lại phần thừa kế cho họ.
Hiện nay Bộ luật Dân sự năm 2015 không quy định về di chúc có điều kiện tuy nhiên thực tiễn lại có rất nhiều trường hợp liên quan đến vấn đề này và cũng có nhiều quan điểm trái chiều nhau. Ví dụ như ông Nguyễn Văn A lập di chúc để lại căn nhà cho người con B được sở hữu sau khi ông A qua đời. Trong di chúc nói rõ B chỉ được sử dụng, không được đem bán, tặng cho hoặc các hình thức chuyển quyền sở hữu khác. Có các quan điểm khác nhau: - Quan điểm 1: Tôn trọng ý nguyện tuyệt đối của người lập di chúc. Người để lại di sản có toàn quyền quyết định đối với di sản của mình để lại, nó giống như giao dịch dân sự có điều kiện. “Điều kiện” ở đây được hiểu là sự kiện chết xảy ra và người hưởng di sản chỉ có quyền sử dụng mà không có quyền định đoạt. - Quan điểm 2: Ý chí của người lập di chúc bị vi phạm bởi quyền sở hữu của người hưởng di sản. Do đó, sau khi chết thì điều kiện ràng buộc “chỉ được sử dụng” sẽ không còn giá trị. Nếu theo quan điểm 1 thì người hưởng di sản sẽ xử lý như thế nào trong trường hợp di sản bị hư hỏng, bị thu hồi có đền bù, hoặc trường hợp người hưởng di sản không tặng cho người khác mà hiến tặng cho Nhà nước. - Quan điểm 3: Có thể áp dụng linh hoạt bằng cách áp dụng tương tự chế định di sản dùng vào việc thờ cúng. Trong chế định di sản dùng vào việc thờ cúng có nói trong trường hợp chỉ còn một người duy nhất thuộc hàng thừa kế quản lý di sản thì di sản đó thuộc về người đang quản lý. Do vậy, trong trường hợp này, nếu người hưởng di sản là người duy nhất hoặc qua thời gian họ còn lại với tư cách là người thừa kế duy nhất thì di sản đó thuộc về họ. Nghĩa là người hưởng di sản được toàn quyền sở hữu. Do đó, Bộ luật Dân sự cần điều chỉnh vấn đề này để áp dụng pháp luật một cách thống nhất.
Đề xuất thủ tục xác lập quyền sở hữu toàn dân đối với di sản không có thừa kế
Ngày 16/11/2022, Bộ Tài chính đang dự thảo Nghị định quy định trình tự, thủ tục xác lập quyền sở hữu toàn dân về tài sản và xử lý đối với tài sản được xác lập quyền sở hữu toàn dân trên Cổng Thông tin điện tử Chính. Trong đó, quy định trình tự, thủ tục xử lý di sản không có người thừa kế được quy định như sau: (1) Về việc bảo quản tài sản Đơn vị chủ trì quản lý tài sản quy định tại khoản 4 Điều 4 dự thảo Nghị định có trách nhiệm bảo quản tài sản từ khi tiếp nhận đến khi hoàn thành việc xử lý theo phương án đã được cơ quan, người có thẩm quyền phê duyệt, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác. (2) Thẩm quyền quyết định xác lập quyền sở hữu toàn dân Theo đó, Chủ tịch UBND cấp tỉnh là người có quyền quyết định xác lập quyền sở hữu toàn dân về tài sản đối với tài sản là bất động sản vô chủ; bất động sản không có người thừa kế; tài sản bị đánh rơi, bỏ quên là di tích lịch sử - văn hóa; tài sản của các vụ việc xử lý quy định tại khoản này bao gồm cả bất động sản hoặc di tích lịch sử - văn hóa và động sản. Chủ tịch UBND cấp huyện quyết định xác lập quyền sở hữu toàn dân về tài sản đối với tài sản bị đánh rơi, bỏ quên, di sản không người thừa kế không thuộc phạm vi của Chủ tịch UBND cấp tỉnh. (3) Thủ tục xác lập đối với tài sản di sản không có người thừa kế Thứ nhất: Trong thời hạn 07 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được bản án, quyết định của Tòa án hoặc hết thời hiệu yêu cầu chia di sản hoặc văn bản từ bỏ phần quyền sở hữu di sản. Tổ chức hành nghề công chứng hoặc UBND cấp xã nơi mở thừa kế có trách nhiệm lập 01 bộ hồ sơ gửi Phòng Tài chính Kế hoạch. Hồ sơ gửi Phòng Tài chính Kế hoạch bao gồm: - Báo cáo quá trình mở thừa kế đối với di sản: 01 bản chính. - Bảng kê chủng loại, số lượng, khối lượng, hiện trạng của di sản: 01 bản chính. - Các hồ sơ, tài liệu liên quan đến quá trình mở thừa kế, văn bản từ chối quyền hưởng di sản, bản án hoặc quyết định của Tòa án xác định người không được quyền hưởng di sản thừa kế (nếu có): 01 bản sao. - Văn bản từ bỏ phần quyền sở hữu đối với tài sản sở hữu chung quy định tại khoản 4 Điều 218 Bộ luật Dân sự 2015: 01 bản chính Thứ hai: Thuộc thẩm quyền của Chủ tịch UBND cấp huyện, trong thời hạn 07 ngày làm việc, Phòng Tài chính Kế hoạch lập Tờ trình kèm hồ sơ trình UBND huyện quyết định xác lập quyền sở hữu toàn dân. Thứ ba: Thuộc thẩm quyền của Chủ tịch UBND cấp tỉnh, trong thời hạn 07 ngày làm việc, Phòng Tài chính Kế hoạch lập Tờ trình kèm bản sao hồ sơ gửi UBND cấp huyện trình UBND quyết định xác lập sở hữu toàn dân. Thứ tư: Trong thời hạn 07 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được đầy đủ hồ sơ Chủ tịch UBND huyện, Chủ tịch UBND tỉnh ban hành Quyết định xác lập quyền sở hữu toàn dân về tài sản theo Mẫu số 01-QĐXL tại Phụ lục kèm theo Nghị định này. Xem thêm dự thảo Nghị định tại đây.
Rút kinh nghiệm vụ án “Tranh chấp chia di sản thừa kế”
Thông qua công tác kiểm sát giải quyết các vụ án dân sự theo thủ tục giám đốc thẩm, Viện kiểm sát nhân dân (VKSND) cấp cao tại ĐN nhận thấy việc giải quyết vụ án dân sự về “Tranh chấp chia di sản thừa kế'’ giữa nguyên đơn bà Đ với bị đơn ông T, ông Th của Tòa án nhân dân (TAND) thành phố X, tỉnh Y tại Bản án dân sự sơ thẩm số 26/2018/DSST ngày 27/4/2018 có vi phạm, cần thông báo rút kinh nghiệm. (1) Tóm tắt nội dung vụ án dân sự Yêu cầu nguyên đơn: - Bà Đ khởi kiện yêu cầu Tòa án chia phần di sản thừa kế của ông N (chồng của bà, chết năm 1995) để lại trong khối tài sản chung của vợ chồng là 1/2 ngôi nhà và tài sản khác gắn liền diện tích đất 287,6m2, thuộc thửa đất số 394, tờ bản đồ D4-IV-D-b cho hàng thừa kế thứ nhất của ông N gồm bà và 06 người con: Bà NT, ông NT, bà M, bà MT, ông Th, ông T (riêng bà Tr đã được chia trước 40m2 đất và xây dựng nhà ở ổn định nên từ chối không hưởng phần di sản còn lại). - Bà Đ đề nghị được nhận nhà đất bằng hiện vật, tiếp tục sở hữu, sử dụng nhà đất để ở và trả lại giá trị bằng tiền cho các đồng thừa kế khác. Bị đơn: - Bị đơn ông Th thống nhất yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, xin nhận kỷ phần bằng giá trị. - Bị đơn ông T, hiện đang ở trên nhà đất tranh chấp, không đồng ý chia thừa kế, ông muốn giữ nguyên nhà đất như hiện nay để ở và làm nơi thờ tự. (2) Quá trình giải quyết vụ án Quyết định của TAND thành phố X, tỉnh Y về bản án dân sự sơ thẩm số 26/2018/DSST ngày 27/4/2018: - Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Đ và sự tự nguyện của những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà NT, ông NT, bà M, bà MT giao lại kỷ phần của mỗi người được hưởng cho mẹ (bà Đ) toàn quyền sở hữu, sử dụng, định đoạt. - Bà Đ được quyền tiếp tục sở hữu, sử dụng căn nhà cấp 4 cùng các công trình kiến trúc khác và các cây trồng trên đất gắn liền với diện tích đất 287,6m2, thuộc thửa đất sổ 394, tờ bản đồ D4-IV-D-b... - Bà Đ phải trả lại giá trị bằng tiền đổi với các kỷ phần cho ông Th được hưởng từ di sản là 216.442.562 đồng; ông T được hưởng từ di sản là 216.442.562 đồng. - Bà Đ phải trả lại giá trị bằng tiền đối với giá trị tài sản phát sinh của vợ chồng ông T, bà N là 22.655.593 đồng. - Bà Đ có nghĩa vụ kê khai, làm thủ tục đăng ký với cơ quan có thẩm quyền để được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo quy định của pháp luật đất đai Ngày 11/12/2018, TAND thành phố X ban hành Quyết định số 01/2018/QĐ-SCBSBA về việc sửa chữa, bổ sung Bản án dân sự sơ thẩm số 26/2018/DSST ngày 27/4/2018. Ngày 15/02/2022, VKSND thành phổ X, tỉnh Y có Báo cáo số 04/BC-VKS- DS đề nghị kháng nghị giám đốc thẩm đối với Bản án dân sự sơ thẩm số 26/2018/DSST ngày 27/4/2018 của Tòa án nhân dân thành phố X. Ngày 01/6/2022, bà Đ có đơn đề nghị kháng nghị giám đốc thẩm đối với Bản án dân sự sơ thẩm nêu trên. Ngày 30/8/2022, Viện trưởng VKSND cấp cao tại ĐN ban hành Quyết định kháng nghị giám đốc thẩm số 63/2022/QĐKNGĐT-VKS-DS đề nghị ủy ban thẩm phán TAND cấp cao tại ĐN xét xử giám đốc thẩm, hủy Bản án dân sự sơ thẩm số 26/2018/DSST ngày 27/4/2018 và Quyết định sửa chữa, bổ sung bản án sơ thẩm số 01/2018/QĐ-SCBSBA ngày 11/12/2018 của TAND thành phố X, tỉnh Y. Tại Quyết định giám đốc thẩm số 58/2022/DS-GĐT ngày 25/9/2022 của TAND cấp cao tại ĐN đã chấp nhận kháng nghị của Viện trưởng VKSND cấp cao tại ĐN, hủy toàn bộ Bản án dân sự sơ thẩm số 26/2018/DSST ngày 27/4/2018 và Quyết định sửa chữa, bổ sung bản án sơ thẩm số 01/2018/QĐ- SCBSBA ngày 11/12/2018 của Tòa án nhân dân thành phố X, tỉnh Y để giải quyết lại theo thủ tục sơ thẩm. (3) Những vấn đề rút kinh nghiệm Tại phần quyết định của các bản án mà Tòa án nhân dân thành phố X gửi cho bà Đ và VKSND thành phố X lại ghi thêm nội dung: “vợ chồng ông T, bà N được quyền lưu cư trong thời hạn 06 tháng kể từ ngày bà Đ thi hành án đủ sổ tiền 239.098.155 đồng (216.442.562 đồng + 22.655.593 đồng) cho vợ chồng ông T, bà N đế tạo lập nơi ở khác. ” Đồng thời, ngày 11/12/2018, TAND thành phố X lại ban hành Quyết định số 01/2018/QĐ-SCBSBA về việc sửa chữa, bổ sung bản án sơ thẩm có nội dung: “Tại dòng thứ 9 từ trên xuống, trang số 6 của bản án đã ghi: “Bà Đ có nghĩa vụ kê khai, làm thủ tục đăng ký với cơ quan có thẩm quyền để được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo quy định của pháp luật đất đai”. Nay sửa chữa, bổ sung như sau: “Bà Đ có nghĩa vụ kê khai, làm thủ tục đăng ký với cơ quan có thẩm quyền để được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo quy định của pháp luật đất đai. Vợ chồng ông T, bà N được quyền lưu cư trong thời hạn 06 tháng kể từ ngày bà Đ thi hành án đủ sổ tiền 239.098.155 đồng (216.442.562 đồng + 22.655.593 đồng) cho vợ chồng ông T, bà N để tạo lập nơi ở khác. ” . Như vậy, việc Tòa án cấp sơ thẩm sửa chữa, bổ sung vào phần quyết định của bản án sơ thẩm nội dung hoàn toàn mới so với Biên bản nghị án và bản án được tuyên tại phiên tòa là không đúng quy định tại Điều 268 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015. Thực tế, tồn tại nhiều Bản án sơ thẩm cùng số 26/2018/DSST cùng ngày 27/4/2018 và Quyết định số 01/2018/QĐ-SCBSBA về việc sửa chữa, bổ sung bản án sơ thẩm của TAND thành phố X có nội dung tại phần quyết định khác nhau dẫn đến không thể thi hành án. Trên đây là vi phạm của Tòa án nhân dân thành phố X, tỉnh Y trong việc giải quyết vụ án dân sự “Tranh chấp chia di sản thừa kế” bị cấp giám đốc thẩm hủy bản án sơ thẩm để giải quyết lại theo thủ tục sơ thẩm. Để nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác kiểm sát, VKSND cấp cao tại ĐN thông báo đến VKSND tỉnh, thành phố trong khu vực cùng tham khảo và rút kinh nghiệm khi kiểm sát giải quyết vụ án dân sự tương tự.
Rút kinh nghiệm về giải quyết vụ án dân sự “tranh chấp di sản thừa kế”
Di sản thừa kế là tài sản của một người đã qua đời để lại cho người được thừa kế, tài sản thừa kế có thể là hữu hình hoặc vô hình. Thông thường tài sản thừa kế được chia theo di chúc hoặc được pháp luật quy định. Việc phân chia không đúng quy định rất dễ xảy ra tranh chấp. Qua công tác kiểm sát việc giải quyết các vụ án dân sự theo thủ tục phúc thẩm, VKSND cấp cao tại ĐN nhận thấy việc giải quyết vụ án dân sự về “Tranh chấp di sản thừa kế”, giữa nguyên đơn, ông L.Đ Nguyên với các bị đơn, bà L.T.H Vy; bà L.T.T Nguyệt; bà L.T.T Mai và bà L.T.D Trang đã được xét xử theo Bản án dân sự sơ thẩm của TAND tỉnh P.Y có vi phạm, cần thông báo rút kinh nghiệm. 1. Nội dung vụ án Vợ chồng cụ L.Đ Tân và cụ T.T.H Lan có 05 người con: (Bà L.T.H Vy, L.T.T Nguyệt, L.T.T Mai, L.T.D Trang và ông L.Đ Nguyên). Sau khi cụ Lan chết vào năm 2001, cụ Tân sống chung với bà N.T Thịnh, nhưng không đăng ký kết hôn, vào ngày 09/01/2015, cụ Tân chết. Di sản để lại gồm: 3.630m2 đất trồng lúa thuộc các thửa 123, 124, 125 và 126 tại thôn L.N, xã X.P, thị xã S.C, tỉnh P.Y đã được cấp GCNQSDĐ ngày 13/11/2000, trị giá 145.200.000 đồng. Nhà nước thu hồi đất còn lại là 322,2m2 đất trồng cây lâu năm, trị giá 22.554.000 đồng. Thửa đất đìa nuôi tôm, diện tích còn lại sau khi Nhà nước thu hồi là 1.746,3m2, trị giá 61.120.5000 đồng. Thửa đất đìa nuôi tôm, diện tích còn lại sau khi nhà Nước thu hồi là 1.849,5m2, trị giá 64.732.500 đồng. 01 lô đất tái định cư thuộc phường L.Y.Đ trị giá 750.000.000 đồng. Số tiền 725.000.000 đồng do Nhà nước chi trả bồi thường đìa nuôi trồng hải sản, được cụ L.Đ Tân gửi tiết kiệm tại Ngân hàng Công thương, số tiền này bà Vy đã rút ngày 27/02/2015 tổng cộng là 725.966.667 đồng. Số tiền 730.000.000 đồng Nhà nước bồi thường nhà ở và một phần đất vườn thuộc dự án mở rộng QL1, được cụ Tân gửi tiết kiệm tại Ngân hàng Nông nghiệp số tiền này bà Vy đã rút ngày 12/02/2015 tổng cộng là 732.737.500 đồng. Số tiền 256.191.000 đồng Nhà nước bồi thường phát sinh đối với dự án QL1 và đối với dự án HTKT khu TĐC. số tiền này Trung tâm phát triển quỹ đất thị xã Sông Cầu tạm gửi vào kho bạc Nhà nước. Ngoài các tài sản trên, các bị đơn yêu cầu chia thừa kế gồm các di sản sau: 01 lô đất tái định cư được giao tại khu tái định cư thuộc khu A2, phường L.U.Đ ngoài 01 lô đất tái định cư đã nêu trên. Số tiền 300.000.000 đồng cụ Tân gửi 02 sổ tiết kiệm tại Ngân hàng đã được ông Nguyên đã rút sau khi cụ Tân chết. Yêu cầu khởi kiện của ông L.Đ Nguyên Nguyên đơn, ông L.Đ Nguyên cung cấp di chúc do ba và mẹ lập chung ngày 19/02/2000; di chúc do cụ Tân lập năm 2008 đối với ngôi nhà tại thành phố N.T, và di chúc ngày 29/12/2010 theo đó khởi kiện yêu cầu chia thừa kế theo di chúc, ông Nguyên yêu cầu được nhận bằng hiện vật và trả lại giá trị cho các đồng thừa kế nếu có chênh lệch. Đối với các tài sản mà bị đơn yêu cầu chia thêm, nguyên đơn không đồng ý chia thừa kế vì đây là sản riêng của Ông. Yêu cầu khởi kiện của Bà N.T Thịnh (người có liên quan) Bà N.T Thịnh người liên quan, có yêu cầu độc lập cho rằng: sống chung với ông Tân từ tháng 11/2017, nhưng chưa đăng ký kết hôn. Ngày 10/10/2014 ông Tân làm Giấy tặng nhà và đất ở, diện tích 90m2 cho bà. Theo di chúc năm 2015 (không có ngày, tháng), ông Tân cũng di tặng cho bà nhà đất nêu trên và tiền trong tổng số tiền ông Tân gửi Ngân hàng. Bà quản lý, sử dụng nhà đất ông Tân tặng từ ngày 10/10/2014 đến ngày ông Tân chết. Bà Thịnh yêu cầu các đồng thừa kế trả lại nhà đất ông Tân đã tặng cho Bà và công bố di chúc năm 2015 của ông Tân, chia số tiền 1.455.000.000 đồng và lãi suất theo tỷ lệ Bà được tặng cho; trả cho Bà 12.014.000 đồng chi phí chữa bệnh và mai táng cho ông Tân trước khi chia di sản thừa kế. Yêu cầu khởi kiện đối với các bị đơn Bị đơn bà L.T.H Vy, L.T.D Trang, L.T.T Mai, L.T.T Nguyệt đề nghị Tòa án không công nhận hiệu lực của các di chúc, giấy tặng cho tài sản và giải quyết chia thừa kế theo pháp luật toàn bộ di sản của cha mẹ để lại và yêu cầu nhận bằng hiện vật. 2. Tòa án giải quyết Bản án dân sự sơ thẩm số 10/2020/DS-ST ngày 06/10/2020 của TAND tỉnh P.Y đã quyết định: Không chấp nhận yêu cầu của ông Nguyên theo đơn khởi kiện ngày 08/8/2015 về việc yêu cầu chia thừa kế theo di chúc và tính công sức đóng góp xây dựng nhà, đĩa hải sản; Di sản được chia theo pháp luật. Chấp nhận một phần yêu cầu độc lập của bà N.T Thịnh về việc yêu cầu các đồng thừa kế trả số tiền chi phí chữa bệnh và mai táng cho cụ Tân và không chấp nhận một phần yêu cầu của bà Thịnh về việc công nhận hợp đồng tặng cho và tờ di chúc do cụ Tân lập năm 2015. Quyết định của Tòa án nhân dân Tỉnh P.Y (1) Tuyên hủy các di chúc: Di chúc chung của vợ chồng ông Tân và bà Lan lập ngày 19/02/2000, di chúc lập ngày 29/12/2010; Di chúc riêng cụ Tân lập ngày 21/10/2008; Di chúc riêng cụ Tân lập ngày 29/12/2010; Văn bản tặng cho tài sản cho bà N.T Thịnh do cụ Tân viết tay lập ngày 10/10/2014 và di chúc 2015 vì không có căn cứ pháp luật. (2) Không chấp nhận yêu cầu tính công sức đóng góp xây dựng nhà và cải tạo đìa hải sản của nguyên đơn ông Nguyên. (3) Công nhận sự tự nguyện của đồng bị đơn giao cho ông Lê Đình Nguyên được quyền sử dụng diện tích đất lúa 3.630m2 tại các thửa 123, 124, 125 và 126, tờ bản đồ sổ 4 ngày 13/11/2000 do ông Tân đứng tên tọa lạc tại xã Xuân Phương, thị xã Sông cầu, tỉnh Phú Yên. (4) Công nhận sổ tiền 250.000.000đ theo thẻ tiết kiệm sổ PA 1967892 10/4/2014 và 50.000.000đ theo thẻ tiết kiệm số PK 0229749 ngày 10/12/2014 tại Vietinbank K.H là tài sản thuộc quyền sở hữu của ông Nguyên. (5) Giao quyền được mua 02 lô đất tái định cư tại khu tái định cư A2, khu phố L.U.Đ, phường X.Y, thị xã S.C với giá Nhà nước quy định cho ông Nguyên. Và thực hiện nghĩa vụ tài chính đổi với hai lô đất được nhận và được chia theo pháp luật sau khi bản án có hiệu lực pháp luật. (6) Chia thừa kế theo pháp luật đối với di sản thừa kế của cụ Lan và cụ Tân mỗi kỷ phần thừa kế được nhận có giá trị là: 449.443.675d. Giao cho ông Nguyên được quyền sử dụng đất: Thửa đất vườn có nhà ở diện tích là 322,2m2 gắn liền ngôi nhà tạm; Thửa đất đìa nuôi tôm có diện tích là 1.746,3m2; Thửa đất đìa nuôi tôm có diện tích là 1.849,5m2; Ông Nguyên được quyền làm thủ tục nhận sổ tiền 256.191.000đ bồi thường. Bà L.T.H Vy phải trả cho bà L.T.T Nguyệt 134.892.871đ; Ông Nguyên phải trả cho bà Nguyệt 22.382.53đ, trả cho bà Thịnh 130.920.986đ, trả cho bà Mai 157.275.402đ, trả cho bà Trang 157.275.402đ về khoản chênh lệch kỷ phần thừa kế được chia theo pháp luật. (7) Không xem xét trách nhiệm của Ngân hàng TMGP công thương Việt Nam - Chi nhánh P.Y và Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam- Chi nhánh P.Y về việc: Cho bà Vy rút thẻ tiết kiệm đứng tên ông Tân là không đúng pháp luật. Ngoài ra, bản án còn tuyên về án phí theo quy định. Đề nghị kháng cáo Ngày 16/10/2020, bà N.T Thịnh kháng cáo đề nghị chấp nhận yêu cầu độc lập, yêu cầu được chia tài sản theo Di chúc và Giấy tặng cho và không buộc Bà phải chịu chi phí giám định là 5.000.000 đồng. Ngày 16/10/2020 và ngày 19/10/2020 các đồng bị đơn kháng cáo đề nghị hủy án sơ thẩm để xét xử lại theo hướng hủy toàn bộ các Di chúc và hợp đồng tặng cho tài sản của bà Thịnh, chia di sản thừa kế cho các Bà bằng hiện vật. Ngày 20/10/2020, Viện trưởng VKSND tỉnh P.Y có Quyết định kháng nghị phúc thẩm số 01/QĐKNPT-VKS-DS, đề nghị xét xử phúc thẩm theo hướng công nhận cả 02 lô đất tái định cư là di sản thừa kế; chia cho nguyên đơn, bị đơn bằng hiện vật là đất; chỉ buộc những người thừa kế trả cho bà Thịnh tiền công sức nuôi dưỡng là 05%. Tại phiên tòa phúc thẩm, đại diện VKSND cấp cao tại Đ.N đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ khoản 2 Điều 308 BLTTDS 2015: Chấp nhận Kháng nghị phúc thẩm số 01/QĐKNPT-VKS-DS ngày 20/10/2020 của Viện trưởng VKSND tỉnh P.Y và chấp nhận kháng cáo của các bị đơn; không chấp nhận kháng cáo của người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan để sửa một phần Bản án sơ thẩm theo hướng công nhận di sản thừa kế là 02 lô đất ở tái định cư để chia cho các đồng thừa kế và chia thừa kế bằng hiện vật cho các đương sự. Đối với yêu cầu chia công sức của bà Thịnh chỉ chấp nhận 05%. Bản án dân sự phúc thẩm ngày 01/12/2021 của TAND cấp cao tại Đ.N, quyết định: Không chấp nhận kháng cáo của bà Thịnh; Chấp nhận một phần kháng nghị của Viện trưởng VKSND tỉnh P.Y; Chấp nhận một phần kháng cáo của các đồng bị đơn; sửa Bản án dân sự sơ thẩm ngày 06/10/2020 đối với nội dung: Bổ sung vào di sản thừa kế của cụ Lan và cụ Tân giá trị 02 lô đết tái định cư là 1.020.000.000 đồng và số tiền gửi tiết kiệm tại Chi nhánh Ngân hàng Vietinbank 148.027.427đ để chia và chia thừa kế bằng hiện vật, căn cứ vào nhu cầu thực tế và sự quản lý của các đương sự để các đương sự đều được quản lý, sử dụng di sản thừa kế theo quy định của pháp luật. 3. Một số vấn đề cần rút kinh nghiệm Hồ sơ vụ án thể hiện, khi thu hồi đất của cụ Tân, cơ quan chức năng giao 02 lô đất tái định cư (mỗi lô 120m2) có vị trí số 44 và 45, tại khu tái định cư thuộc khu A2, phường L.U.Đ cho gia đình cụ Tân. Tại Biên bản họp thống nhất cử người đại diện thừa kế tài sản của ông Tân vào ngày 24/7/2015 của Trung tâm phát triển quỹ đất, ông Nguyên có ý kiến như sau: “Hai lô đất tái định cư thực hiện di nguyện của cha theo đúng nội dung trong bản di chúc. Tôi đề nghị 02 lô đất tái định cư giao cho tôi được trọn quyền sử dụng phần đất này sau khi nhận tôi sẽ xây dựng lại nhà ở để thờ cúng theo di nguyện của ba”. Như vậy, ông Nguyên đã thừa nhận 02 lô đất là di sản thừa kế của cụ Tân để lại. Mặt khác, Trung tâm phát triển quỹ đất trả lời theo văn bản ngày 01/9/2016 về việc yêu cầu cung cấp thông tin của TAND tỉnh P.Y có nội dung: Sau khi Nhà nước thu hồi toàn bộ phần diện tích đất 580m2 loại đất ở đô thị đã giao cho hộ ông L.Đ Tân - L.Đ Nguyên 02 lô đất tái định cư. Tuy nhiên, việc giao đất chưa thực hiện được vì hiện nay ông Tân đã mất, về 02 lô đất tái định cư giao theo hình thức nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất theo giá Nhà nước quy định, thuộc khu A2. Ngoài ra, tại Văn bản ngày 10/12/2019 của Trung tâm phát triển quỹ đất huyện S.C khi cung cấp thông tin cho TAND tỉnh P.Y có nội dung: Qua hai lần phê duyệt phương án bồi thường ông Nguyên được giao 02 lô đất tái định cư theo quy định pháp luật. Căn cứ theo Quyết định ngày 23/4/2013 của UBND tỉnh P.Y ông Nguyên không được ưu tiên giao 02 lô đất tái định cư. Như vậy, 02 lô đất tái định cư thuộc khu tái định cư A2, phường L.U.Đ là di sản của cụ Tân, cụ Lan để lại. ông Nguyên chỉ đại diện cho các đồng thừa kế để nhận. Nhưng bản án sơ thẩm lại xác định 02 lô đất tái định cư là của ông Nguyên nên không chia di sản thừa kế là không đúng, làm ảnh hưởng đến quyền lợi của các đồng thừa kế. Di sản cụ Tân để lại gồm các khoản tiền gửi và các quyền sử dụng đất thuộc nhiều thửa đất có mục đích sử dụng khác nhau tại tỉnh P.Y. Cả nguyên đơn và bị đơn đều sinh sống tại thành phố N.T. Quá trình giải quyết vụ án, các bị đơn đều có yêu cầu được nhận di sản bằng hiện vật vừa đảm bảo quyền lợi của các đồng thừa kế, nhưng bản án sơ thẩm lại giao toàn bộ các thửa đất cho ông Nguyên và buộc ông Nguyên thối trả giá trị cho các đồng thừa kế là không đảm bảo nguyên tắc phân chia di sản thừa kế được quy định tại khoản 2 Điều 660 Bộ luật dân sự 2015, ảnh hưởng đến quyền lợi của các bị đơn. Do đó, bản án phúc thẩm đã sửa bản án sơ thẩm; xác định lại di sản thừa kế và chia thừa kế bằng hiện vật để đảm bảo quyền lợi của các đồng thừa kế. Vụ án này, VKSND tỉnh P.Y đã làm tốt công tác kiểm sát việc giải quyết các vụ án dân sự, kịp thời ban hành quyết định kháng nghị phúc thẩm, được tòa án chấp nhận. Trên đây là vi phạm của TAND tỉnh P.Y trong việc giải quyết vụ án “Tranh chấp di sản thừa kế”, VKSND cấp cao tại Đ.N thông báo đến các VKS các tỉnh, thành trong khu vực tham khảo và rút kinh nghiệm khi kiểm sát giải quyết vụ án tương tự.
Người mẹ có thể đại diện cho con thỏa thuận phân chia di sản cho mình hay không?
Tình huống đặt ra là hai vợ chồng có 2 người con 15 tuổi và 17 tuổi. Người chồng chết không để lại di chúc. Vậy người vợ có thể khai nhận di sản thừa kế, đại diện cho 2 người con để lại di sản hết cho mình hay không? Liên quan đến vấn đề này thì theo quy định tại Điều 21 Bộ Luật dân sự 2015 có nêu rõ rằng “Người từ đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi tự mình xác lập, thực hiện giao dịch dân sự, trừ giao dịch dân sự liên quan đến bất động sản, động sản phải đăng ký và giao dịch dân sự khác theo quy định của luật phải được người đại diện theo pháp luật đồng ý”. Theo đó, việc thỏa thuận phân chia di sản thừa kế, quyết định di sản là bất động sản thì 2 người con không thể tự mình quyết định được mà sẽ thông qua người đại diện của mình là người mẹ. Bên cạnh đó, tại Khoản 3 Điều 141 Bộ luật dân sự 2015 cũng có quy định: Điều 141. Phạm vi đại diện … 3. Một cá nhân, pháp nhân có thể đại diện cho nhiều cá nhân hoặc pháp nhân khác nhau nhưng không được nhân danh người được đại diện để xác lập, thực hiện giao dịch dân sự với chính mình hoặc với bên thứ ba mà mình cũng là người đại diện của người đó, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác. Căn cứ quy định trên, trong quá trình đại diện cho 2 người con, người mẹ không thể tự mình quyết định phần di sản của người con được tặng, cho người mẹ. Nếu làm như vậy thì vô hình chung người mẹ đang tự giao dịch với chính mình. Vì các lí do trên, trong trường hợp khai nhận di sản thừa kế, người mẹ chỉ có thể đại diện cho con để làm thủ tục khai nhận 2 người con là những người thuộc hàng thừa kế thứ nhất có quyền hưởng di sản mà thôi. Cũng nên lưu ý xem thử còn các trường hợp nào khác thuộc hàng thừa kế thứ nhất thuộc diện được hưởng thừa kế hay không. Nếu chỉ còn người mẹ và 2 người con thì sẽ phải tiến hành thủ tục khai nhận di sản chung cho cả ba người. Lúc này, di sản thừa kế sẽ là tài sản chung của 3 người. Việc cấp giấy riêng cho người mẹ sẽ vi phạm và không đáp ứng các quy định đã dẫn chiếu nêu trên.
Đối tượng nào không được hưởng di sản thừa kế?
Pháp luật quy định cá nhân có quyền được nhận di sản thừa kế theo di chúc và theo pháp luật. Tuy nhiên, vẫn có người không được hưởng di sản thừa kế. Vậy đó là những trường hợp nào, mời các bạn tham khảo bài viết sau đây: 1.Di sản thừa kế là gì? Người thừa kế là ai? Di sản thừa kế là tài sản mà người chết để lại cho người thừa kế. Theo Điều 612 Bộ luật dân sự 2015 quy định: “Di sản bao gồm tài sản riêng của người chết, phần tài sản của người chết trong tài sản chung với người khác.” Như vậy, di sản thừa kế là tài sản thuộc sở hữu của người chết và quyền đối với tài sản của người đó. Người thừa kế là cá nhân phải là người còn sống vào thời điểm mở thừa kế hoặc sinh ra và còn sống sau thời điểm mở thừa kế nhưng đã thành thai trước khi người để lại di sản chết. Trường hợp người thừa kế theo di chúc không là cá nhân thì phải tồn tại vào thời điểm mở thừa kế. Có thể thấy người thừa kế có thể là những người thuộc hàng thừa kế theo pháp luật , hoặc cá nhân, tổ chức bất kì được người để lại di sản chỉ định hưởng thừa kế theo di chúc. 2. Đối tượng không được hưởng thừa kế - Trong trường hợp không có di chúc Theo khoản 1 Điều 621 Bộ luật dân sự 2015 quy định, những trường hợp sau đây không được hưởng di sản thừa kế, cụ thể: Như đã phân tích ở trên, quyền lập di chúc là quyền của cá nhân đối với tài sản thuộc sở hữu của mình. Do đó , quyết định xem ai sẽ là người được thừa kế và hưởng bao nhiêu là quyền của người đó .Và những người bị truất quyền hưởng di sản sẽ không được hưởng di sản thừa kế theo di chúc. Tuy nhiên, vẫn có trường hợp ngoại lệ ,đó là thừa kế không phụ thuộc nội dung di chúc, quy định tại Điều 644 Bộ luật dân sự 2015 , bao gồm: +Con chưa thành niên, cha, mẹ, vợ, chồng +Con đã thành niên nhưng không có khả năng lao động Những người này sẽ được hưởng phần di sản bằng hai phần ba suất của một người thừa kế theo pháp luật nếu di sản được chia theo pháp luật, trong trường hợp họ không được người lập di chúc cho hưởng di sản hoặc chỉ cho hưởng phần di sản ít hơn hai phần ba suất đó. Kết luận: Nhằm hạn chế những hành vi sai trái, gây nguy hiểm cho người để lại thừa kế, với mục đích có được phần tài sản nhiều hơn hoặc được toàn bộ. Pháp luật đã liệt kê các đối tượng không được quyền hưởng di sản để đảm bảo cho cá nhân có tài sản được tự do trong việc định đoạt tài sản của mình. + Người bị kết án về hành vi cố ý xâm phạm tính mạng, sức khỏe hoặc về hành vi ngược đãi nghiêm trọng, hành hạ người để lại di sản, xâm phạm nghiêm trọng danh dự, nhân phẩm của người đó; + Người vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ nuôi dưỡng người để lại di sản; + Người bị kết án về hành vi cố ý xâm phạm tính mạng người thừa kế khác nhằm hưởng một phần hoặc toàn bộ phần di sản mà người thừa kế đó có quyền hưởng; + Người có hành vi lừa dối, cưỡng ép hoặc ngăn cản người để lại di sản trong việc lập di chúc; giả mạo di chúc, sửa chữa di chúc, hủy di chúc, che giấu di chúc nhằm hưởng một phần hoặc toàn bộ di sản trái với ý chí của người để lại di sản. - Trong trường hợp có di chúc Căn cứ quy định tại khoản 1 Điều 626 Bộ luật dân sự 2015 người lập di chúc có các quyền sau: “1. Chỉ định người thừa kế; truất quyền hưởng di sản của người thừa kế”
Viện tối cao hướng dẫn một số nội dung khi kiểm sát giải quyết các vụ tranh chấp di sản thừa kể
Kiểm sát giải quyết các vụ tranh chấp chia di sản thừa kế - Minh họa Ngày 12/5/2021, Viện kiểm sát nhân dân tối cao ban hành Hướng dẫn 24/HD-VKSTC về một số nội dung cơ bản trong công tác kiểm sát giải quyết các vụ án tranh chấp chia di sản thừa kế. Xin trích dẫn những nội dung quan trọng được nhắc đến trong Hướng dẫn này. 1. Trong công tác kiểm sát theo thủ tục sơ thẩm: - Về pháp luật tố tụng - Về pháp luật nội dung, bao gồm: + Xác định thời điểm mở thừa kế và thời hiệu khởi kiện các vụ án tranh chấp chia di sản thừa kế + Xác định di sản thừa kế, giá trị di sản, hiện trạng, quá trình sử dụng, quản lý di sản + Xác định hàng thừa kế + Xem xét tính hợp pháp của di chúc + Xác định rõ nguyên nhân dẫn đến tranh chấp, tâm tư, nguyện vọng, điều kiện, hoàn cảnh của các đương sự dể phân chia di sản cho phù hợp + Xác định căn cứ pháp luật có liên quan để đề nghị đường lối giải quyết vụ án + Về từ chối nhạn di sản + Về thứ tự ưu tiên thanh toán 2. Trong công tác kiểm sát việc giải quyết theo thủ tục phúc thẩm 3. Trong công tác kiểm sát việc giải quyết theo thủ tục phúc thẩm. Xem chi tiết hướng dẫn tại file đính kèm.
Xin chào Luật sự. Xin cho em hỏi về vấn đề tranh chấp đất đai đòi phân chia di sản thừa kế. Nội dung như sau: Ông bà nội em kết hôn khoảng năm 1940 sinh được 8 người con, 4 con trai và 4 con gái. Trong đó bố em là con trai thứ 3. Gia đình ông bà nội sinh sống trên thửa đất thổ cư từ năm 1960 diện tích hơn 1000m2. Năm 1980 ông nội em mất, 8 người con của ông bà nội đều đã xây dựng gia đình và có đất ở riêng. Năm 2002 bà nội em được UBND xã cấp GCNQSDĐ cho đứng tên bà nội em: ghi là hộ bà: ....(tại thời điểm cấp gcn qsdđ hộ khẩu bà nội em chỉ có 1 mình bà). Năm 2011, bà nội làm thủ tục chuyển nhượng quyền sử dụng đất toàn bộ thửa đất cho 3 người con trai gồm (bác thứ 2, bố em, chú thứ 3), còn bác cả là bà không chuyển nhượng đất cho vì bác ấy mất năm 2009.( Bác cả kết hôn với vợ thứ nhất sinh được 2 người con, 1 trai, 1 gái và li hôn vợ cả năm 2003. Sau đó kết hôn với vợ hai cùng năm đó sinh được 1 người con trai, 1 người con gái) thoát li không sinh sống tại địa phương từ năm 1986). Cả 3 người con được chuyển nhượng đã được cấp GCNQSDĐ. (Trong 3 hợp đồng chuyển nhượng thì chỉ có chữ ký của bà nội và chữ ký của người con nhận chuyển nhượng). Năm 2016 bà nội em mất. Đến nay 2021, người con trai của vợ cả (đã li hôn với bác cả) có đơn đòi chia thừa kế đất của ông bà nội. Với lí do là bác cả là con của ông bà nội. Vậy xin luật sư tư vấn giúp: Thứ nhất là việc cấp GCN QSDĐ cho bà nội sau khi ông mất có đảm bảo pháp luật hay không?. Thứ hai là thời điểm xác lập hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất năm 2011 chỉ có chữ ký của các bên như vậy có đảm bảo hay không?. Thứ ba là việc kiện đòi phân chia di sản thừa kế thửa đất của ông bà nội đối của con trai vợ thứ nhất của bác cả có đúng theo quy định pháp luật. Thứ tư nếu trường hợp trong số các người con gái của ông bà nội khởi kiện đòi quyền thừa kế đất thì sẽ xảy ra những phương án nào. Rất mong Luật sư tư vấn giúp. Xin trân trọng cảm ơn.
Người nước ngoài định cư ở VN được hưởng di sản là đất nông nghiệp?
Xin cộng đồng cho câu trả lời về vấn đề thừa kế tài sản: Chồng là người nước ngoài định cư ở VN với vợ Việt. Hai vợ chồng mua đất nông nghiệp, xây nhà để ở và trồng cây. Khi vợ mất với di chúc để lại đất cho chồng, chồng có được phép hưởng di sản, tiếp tục sống và làm việc trên đất nông nghiệp đó không?
Thắc mắc về thoả thuận phân chia di sản thừa kế
Xin chào Luật Sư, E có thắc mắc không hiểu về việc thỏa thuận phân chia di sản thừa kế mới kí sáng nay. Mẹ e mất năm 2002 có để lại 1 mảnh đất và ngôi nhà 136m2 nhưng chưa có làm sổ. Hiện nay nhà e muốn làm sổ hồng thì ba em nhờ bên công chứng xuống làm giấy tờ. Sáng nay e ký xong e mới đọc kỹ lại và có thắc mắc là sau khi làm xong thì ai sẽ đứng tên sổ. Và các đồng thừa kế có được quyển lợi gì không?