Đối tượng và điều kiện để được mua cổ phần khi đơn vị sự nghiệp công lập cổ phần hóa
Đơn vị tôi được chỉ đạo là sẽ tiến hành lộ trình chuyển đơn vị sự nghiệp công lập thành công ty cổ phần. Cho tôi hỏi điều kiện chuyển đơn vị sự nghiệp công lập thành công ty cổ phần là gì và đối tượng nào được mua cổ phần khi đơn vị tôi cổ phần hóa? Điều kiện chuyển đơn vị sự nghiệp công lập thành công ty cổ phần Căn cứ theo quy định tại Điều 4 Nghị định 150/2020/NĐ-CP, các đơn vị sự nghiệp công lập thuộc đối tượng chuyển thành công ty cổ phần khi đáp ứng đồng thời các điều kiện sau: - Tự bảo đảm chi thường xuyên và đầu tư hoặc tự đảm bảo được chi thường xuyên trong năm gần nhất với thời điểm thực hiện chuyển đổi. - Còn vốn nhà nước sau khi đã được xử lý tài chính và xác định lại giá trị đơn vị sự nghiệp công lập. - Thuộc danh mục ngành, lĩnh vực thực hiện chuyển đơn vị sự nghiệp công lập thành công ty cổ phần do Thủ tướng Chính phủ quyết định trong từng thời kỳ. Danh mục này không bao gồm các ngành, các lĩnh vực mà pháp luật chuyên ngành quy định không thực hiện chuyển đổi đơn vị sự nghiệp công lập thành công ty cổ phần. - Có phương án sắp xếp lại, xử lý nhà, đất đã được cơ quan có thẩm quyền phê duyệt theo quy định của pháp luật về quản lý, sử dụng tài sản công. Đối tượng và điều kiện mua cổ phần khi đơn vị sự nghiệp công lập chuyển đổi thành công ty cổ phần Tại Điều 6 Nghị định 150/2020/NĐ-CP quy định 3 nhóm đối tượng được mua cổ phần và điều kiện tương ứng như sau: (1) Nhà đầu tư trong nước - Nhà đầu tư trong nước là cá nhân có quốc tịch Việt Nam, tổ chức kinh tế được thành lập theo pháp luật Việt Nam, thực hiện hoạt động đầu tư, kinh doanh tại Việt Nam; - Nhà đầu tư trong nước được quyền mua cổ phần của đơn vị sự nghiệp công lập chuyển đổi với số lượng không hạn chế, trừ trường hợp thuộc đối tượng không được mua quy định tại khoản 4 Điều 6 Nghị định 150/2020/NĐ-CP. (2) Nhà đầu tư nước ngoài - Nhà đầu tư nước ngoài là cá nhân có quốc tịch nước ngoài, tổ chức thành lập theo pháp luật nước ngoài thực hiện hoạt động đầu tư kinh doanh tại Việt Nam; - Nhà đầu tư nước ngoài được quyền mua cổ phần của đơn vị sự nghiệp công lập chuyển đổi theo quy định tại Nghị định này và các văn bản quy phạm pháp luật có liên quan. Nhà đầu tư nước ngoài có nhu cầu mua cổ phần phải mở tài khoản tại tổ chức tín dụng theo quy định của pháp luật Việt Nam về ngoại hối. (3) Nhà đầu tư chiến lược - Cơ quan có thẩm quyền quy định tại Điều 39 Nghị định 150/2020/NĐ-CP quyết định việc bán cổ phần lần đầu cho nhà đầu tư chiến lược đối với các đơn vị sự nghiệp công lập thuộc danh mục Nhà nước tiếp tục nắm giữ trên 50% vốn điều lệ theo Quyết định của Thủ tướng Chính phủ về Danh mục ngành, lĩnh vực thực hiện chuyển ĐVSNCL thành công ty cổ phần. - Nhà đầu tư chiến lược là các nhà đầu tư trong nước và nhà đầu tư nước ngoài có đủ các điều kiện sau: + Có đủ tư cách pháp nhân theo quy định của pháp luật; + Có kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh 02 năm gần nhất tính đến thời điểm đăng ký mua cổ phần có lãi, không có lỗ lũy kế; + Có ngành nghề kinh doanh phù hợp với lĩnh vực cung ứng dịch vụ sự nghiệp công của ĐVSNCL chuyển đổi; + Có cam kết bằng văn bản đăng ký trở thành nhà đầu tư chiến lược của ĐVSNCL chuyển đổi bao gồm các nội dung sau: Không được chuyển nhượng số cổ phần được mua trong thời hạn 03 năm kể từ ngày công ty cổ phần được cấp Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp cổ phần lần đầu hoạt động; Có phương án hỗ trợ doanh nghiệp được chuyển đổi từ ĐVSNCL nâng cao năng lực tài chính, quản trị doanh nghiệp; Các nghĩa vụ bồi thường khi vi phạm cam kết đã ký với mức bồi thường tổn thất theo thiệt hại thực tế và Nhà nước có quyền quyết định đối với toàn bộ số lượng cổ phần nhà đầu tư chiến lược đã mua. - Căn cứ vào quy mô vốn điều lệ, lĩnh vực hoạt động và yêu cầu mở rộng phát triển của đơn vị, cơ quan phê duyệt phương án chuyển đổi ĐVSNCL quyết định tiêu chí lựa chọn nhà đầu tư chiến lược và tỷ lệ cổ phần bán cho nhà đầu tư chiến lược. - Trình tự lựa chọn nhà đầu tư chiến lược tại ĐVSNCL phải đảm bảo việc đăng ký mua cổ phần của nhà đầu tư chiến lược được thực hiện trước thời điểm công bố thông tin bán cổ phần lần đầu ra công chúng. - Trường hợp nhà đầu tư chiến lược không thực hiện đúng cam kết thì phải bồi thường mọi tổn thất xảy ra theo đúng hợp đồng cam kết và quy định của pháp luật hiện hành. - Nhà đầu tư chiến lược phải đặt cọc, ký quỹ bằng tiền hoặc có bảo lãnh của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài tại Việt Nam. Mức đặt cọc, ký quỹ bằng 20% giá trị cổ phần đăng ký mua theo giá khởi điểm. Trường hợp từ bỏ quyền mua, nhà đầu tư chiến lược không được nhận lại tiền đặt cọc hoặc bị phạt số tiền tương đương khoản giá trị đặt cọc trong trường hợp ký quỹ, bảo lãnh. - Việc tổ chức bán cổ phần cho nhà đầu tư chiến lược phải hoàn thành trước thời điểm Đại hội đồng cổ đông lần đầu để chuyển ĐVSNCL thành công ty cổ phần. Số cổ phần còn lại (chênh lệch giữa số cổ phần thực tế bán cho nhà đầu tư chiến lược với tổng số cổ phần đăng ký mua của các nhà đầu tư chiến lược theo phương án chuyển đổi được duyệt), Ban Chỉ đạo báo cáo cơ quan có thẩm quyền quy định tại Điều 39 Nghị định 150/2020/NĐ-CP quyết định điều chỉnh vốn điều lệ và cơ cấu vốn điều lệ trước khi tổ chức Đại hội đồng cổ đông lần đầu. Các tổ chức, cá nhân không được mua cổ phần phát hành lần đầu của đơn vị sự nghiệp công lập chuyển đổi bao gồm - Thành viên Ban Chỉ đạo, Tổ giúp việc chuyển đổi ĐVSNCL thành công ty cổ phần (trừ các thành viên là đại diện của ĐVSNCL chuyển đổi); - Các tổ chức tài chính trung gian và các cá nhân thuộc tổ chức này tham gia vào việc thực hiện tư vấn chuyển đổi ĐVSNCL thành công ty cổ phần, đơn vị kiểm toán báo cáo tài chính và cơ quan kiểm toán xác định giá trị đơn vị sự nghiệp công lập (trừ các tổ chức bảo lãnh phát hành mua số cổ phần chưa phân phối hết theo hợp đồng bảo lãnh); - Tổ chức thực hiện bán đấu giá cổ phần và các cá nhân thuộc tổ chức này có liên quan đến cuộc đấu giá; - Người có liên quan tổ chức và cá nhân quy định tại điểm a, điểm b và điểm c khoản này theo quy định tại Khoản 23 Điều 4 Luật Doanh nghiệp 2020. => Như vậy, ĐVSNCL được chuyển đổi thành CTCP khi đảm bảo các điều kiện trên và chuyển đổi qua 2 hình thức: Giữ nguyên vốn nhà nước hiện có tại đơn vị sự nghiệp công lập, phát hành thêm cổ phiếu để tăng vốn điều lệ hoặc bán một phần vốn nhà nước hiện có tại đơn vị sự nghiệp công lập hoặc vừa kết hợp bán một phần vốn nhà nước vừa phát hành thêm cổ phiếu để tăng vốn điều lệ. Nhà đầu tư trong nước; Nhà đầu tư nước ngoài và Nhà đầu tư chiến lược được liệt kê như trên được mua cổ phần của đơn vị khi đáp ứng các điều kiện theo quy định.
Sau khi cổ phần hóa có cần xin cấp lại giấy chứng nhận quyền sử dụng đất?
Tôi muốn hỏi hỗ trợ pháp lý về: Công ty tôi là công ty nhà nước, được cấp các khu đất để sử dụng vào sản xuất kinh doanh, có hợp đồng thuê đất, chứng nhận quyền sử dụng đất. Sau khi cổ phần hóa vào năm 2005, công ty tôi chuyển thành công ty cổ phần có trên 50% vốn doanh nghiệp nhà nước thì các khu đất đó có cần phải ký lại các hợp đồng thuê đất, cấp lại giấy chứng nhận quyền sử dụng đất không?
Chuyển cổ phần ưu đãi sang cổ phần phổ thông trong DNNN
Mình đang cần tư vấn về vấn đề hủy bỏ hạn chế chuyển nhượng cổ phần của NLĐ cam kết làm việc 3 năm sau khi cổ phần hóa có cần phải xin ý kiến tại cuộc họp Đại hội đồng cổ đông (ĐHĐCĐ) thường niên không? Gay cứ hết 3 năm hạn chế thì tự do chuyển nhượng được, không cần Quyết định chấp thuận của ĐHĐCĐ? Vì theo Điều 42 Khoản 2 Điểm d Nghị định 126/2017/NĐ-CP nói Số cổ phiếu người lao động mua thêm quy định tại điểm a khoản 2 Điều này được chuyển đổi thành cổ phần phổ thông sau khi kết thúc thời gian cam kết, như vậy hết 3 năm là các cổ phần này chuyển thành cổ phần phổ thông, làm tăng số lượng CP phổ thông của cty thì có thuộc nội dung phải biểu quyết tại ĐHĐCĐ theo Khoản 2 Điều 147 Luật Doanh nghiệp 2020 không?
Tiêu chuẩn người đại diện phần vốn nhà nước, người đại diện phần vốn của doanh nghiệp
Trường hợp công ty là doanh nghiệp nhà nước, thực hiện Cổ phần hóa theo Nghị định 59/2011/NĐ-CP về chuyển doanh nghiệp 100% vốn Nhà nước thành công ty cổ phần, Nhà nước nắm giữ 40% vốn điều lệ. Hiện nay công ty đề nghị bộ Quốc phòng cử 5 người quản lý phần vốn nhà nước tại công ty cổ phần trong đó có 3 anh em là anh em ruột nên Bộ không đồng ý cử người 3 người này vì lý do: theo Khoản 6.điều 3 Thông tư 21/2014 /TT-BTC ban hành quy chế hoạt động của người đại diện theo ủy quyền của người đại diện quản lý phần vốn nhà nước không đủ các tiêu chuẩn trong đó có " Không là vợ, chồng, cha, cha nuôi, mẹ, mẹ nuôi, con, con nuôi, anh, chị, em ruột của người quản lý, điều hành doanh nghiệp có phần vốn góp của nhà nước và của người có thẩm quyền quyết định việc ủy quyền làm Người đại diện" như vậy có đúng theo Điều 15 luật doanh nghiệp không? Xin cảm ơn.
Xử lý bán cổ phần trước thời hạn cam kết chuyển nhượng
Gửi các Anh/Chị/bạn. Em đang có case này muốn nhờ mọi người tư vấn giúp ạ: "Bên em là cá nhân A mua cổ phần của Tổng công ty nhà nước ở DN B thông qua đấu giá năm 2015. Trong quy chế đấu giá cũng như quyết định thoái vốn của công ty nhà nước có quy định Nhà đầu tư phải cam kết giữ cổ phần nhận chuyển nhượng trong vòng 05 (không ghi điều kiện được chuyển nhượng trước hạn khi nào). Tuy nhiên, năm 2016, A đã bán toàn bộ cổ phần cho cổ đông khác trước hạn (tự chuyển nhượng không qua đại hội đồng cổ đông). Bây giờ, A đang bị tố cáo về hành vi vi phạm cam kết với nhà nước. Tuy nhiên, Em/mình chưa tìm được quy định nào quy định về việc xử lý hành vi bán vốn trước hạn cam kết như trên." Các Anh/chị/bạn đã từng gặp case này hoặc biết VB nào quy định cho em/mình xin tư vấn với ạ. Mình cảm ơn :(
Ý kiến của Luật sư Nguyễn Văn Tuấn về 1 số vấn đề liên quan đến việc cổ phần hóa Hãng phim truyện Việt Nam. Nội dung trả lời câu hỏi: 1. Gần đây dư luận đặc biệt quan tâm đến việc cổ phần hóa Hãng phim truyện Việt Nam, trong đó có việc định giá thương hiệu Hãng phim truyện bằng 0. Xin ông có thể cho biết, trong luật việc định giá trị thương hiệu bằng 0 như Hãng phim truyện có hợp lý không? Trong hệ thống các văn bản pháp quy của Nhà nước hiện nay, việc định giá thương hiệu được quy định tại Nghị định 59/2011/NĐ-CP, ngày 18/7/2011, về chuyển doanh nghiệp 100% vốn nhà nước thành công ty cổ phần; và tại Thông tư 127/2014/TT-BTC của Bộ Tài chính, ngày 5/9/2014, Hướng dẫn xử lý tài chính và xác định giá trị doanh nghiệp khi thực hiện chuyển doanh nghiệp 100% vốn nhà nước thành công ty cổ phần. Theo Khoản 1, Điều 32, Nghị định 59/2011/NĐ-CP, giá trị lợi thế kinh doanh của doanh nghiệp cổ phần hóa gồm giá trị thương hiệu, tiềm năng phát triển. Trong đó “Giá trị thương hiệu được xác định trên cơ sở các chi phí thực tế cho việc tạo dựng và bảo vệ nhãn hiệu, tên thương mại trong quá trình hoạt động của doanh nghiệp trước thời điểm xác định giá trị doanh nghiệp 5 năm, bao gồm chi phí thành lập doanh nghiệp, chi phí đào tạo nhân viên, chi phí quảng cáo, tuyên truyền trong và ngoài nước để quảng bá, giới thiệu sản phẩm, giới thiệu công ty; xây dựng trang web.” (Theo quy định tại khoản 7 Điều 18 Thông tư 127/2014/TT-BTC). Như vậy theo quy định của pháp luật hiện hành thì nếu như trong vòng 5 năm kể từ trước thời điểm xác định giá trị doanh nghiệp, Hãng Phim truyện Việt Nam không chứng minh có các chi phí thành lập doanh nghiệp, chi phí đào tạo nhân viên, chi phí quảng cáo, giới thiệu sản phẩm, giới thiệu công ty, xây dựng trang web…thì việc xác định giá trị thương hiệu bằng 0 là không trái quy định của pháp luật. Tuy nhiên, với một hãng phim đã tồn tại gần 60 năm, có nhiều đóng góp lớn cho điện ảnh nước nhà bị định giá là 0 đồng một cách phũ phàng như vậy cũng cho thấy những thiếu sót của các quy định pháp luật khi bề dày lịch sử cũng như những giá trị lớn lao mà hãng phim mang lại không được công nhận. Trong suốt quá trình hoạt động, hãng phim đã cho ra đời nhiều bộ phim kinh điển, làm rạng danh điện ảnh nước nhà như Những Con chim vành khuyên, Chị Tư Hậu, Vĩ tuyến 17 ngày và đêm, Em bé Hà Nội, Bao giờ cho đến tháng Mười… và còn rất nhiều bộ phim đã trở thành liều thuốc tinh thần cho quân và dân ta trong suốt 2 cuộc kháng chiến trường kỳ, ghi dấu ấn sâu đậm trong lòng hàng triệu người dân Việt Nam. Có thể thấy, với hơn 400 tác phẩm điện ảnh của hãng phim thực sự là kết tinh của cả tài năng, tâm huyết, mồ hôi nước mắt, thậm chí là máu của biết bao thế hệ nghệ sĩ suốt hơn nửa thế kỷ. 2. Sở hữu hơn 5.000m2 đất vàng gần Hồ Tây, tuy nhiên giá trị khi định giá Hãng phim truyện chỉ khoảng 20 tỷ đồng, do đất của Hãng phim là đất thuê của nhà nước nên không được tính vào giá trị trước khi cổ phần hóa. Vậy, việc đất thuê thì không được định giá, điều này có đúng không? Theo Luật Ðất đai 2013, Nhà nước chỉ giao đất có thu tiền sử dụng đất đối với đất ở, còn các trường hợp khác phải thuê đất theo 2 cách trả tiền thuê đất 1 lần hoặc hàng năm. Tại Điểm 6 Khoản 6 Điều 1 Nghị định 189/2013/NĐ-CP ngày 20-11-2013 của Chính phủ về CPH DNNN, quy định “đối với diện tích đất thuê theo phương thức trả tiền thuê đất hàng năm, DN được tiếp tục thực hiện thuê đất trả tiền hàng năm theo quy định của pháp luật hiện hành và không tính tiền thuê đất vào giá trị DN” Như vậy đối với diện tích đất thuê theo phương thức trả tiền thuê đất hàng năm sẽ không được đưa vào định giá giá trị doanh nghiệp theo quy định của pháp luật. 3. Nhiều ý kiến cho rằng, nên chăng cần tính đến lợi thế của đất, tại các địa điểm vàng khi định giá, trong luật hiện có quy định này chưa. Vấn đề này cần được hiểu như thế nào? Pháp luật chưa có các quy định liên quan đến lợi thế của đất khi định giá trong khi đó hiện nay, có rất nhiều DN đang được quản lý sử dụng hàng loạt địa điểm “đất vàng” có giá trị lên tới hàng ngàn tỷ đồng nhưng lại có giá trị DN “bèo bọt”. Rõ ràng đã có một khoản chênh lệch rất lớn giữa giá trị thực tế và giá trị doanh nghiệp được định giá theo quy định pháp luật và ai có thể chắc chắn rằng những lợi thế mà quỹ đất mang lại sẽ không rơi vào tay của các cổ đông. Những lợi thế từ đất luôn là một tiêu chí hàng đầu mà các nhà đầu tư quan tâm. Việc cổ phần hóa mà không hướng tới lợi thế từ đất chắc chắn sẽ không đảm bảo tính khách quan, làm thất thoát tài sản của Nhà nước bởi chính Nhà nước đang tự trao cho các cổ đông những giá trị vô cùng lớn trên chính đất của mình sở hữu. Được biết, Chính phủ đã giao cho Bộ Tài chính chủ trì xây dựng dự thảo Nghị định mới về chuyển doanh nghiệp nhà nước thành công ty cổ phần. Nghị định này đang được kỳ vọng sẽ tạo điều kiện nâng cao hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp nói chung và chuyển đổi doanh nghiệp 100% vốn nhà nước thành công ty cổ phần nói riêng trong thời gian tới có hiệu quả, ngăn chặn thất thoát vốn, chống tham nhũng, tiêu cực trong cổ phần hóa, trong đó đặc biệt quy định tính giá trị lợi thế quyền được thuê đất, được giao đất vào giá trị doanh nghiệp khi cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước. 4. Việc không định giá đất thuê trong quá trình cổ phần hóa, liệu có gây thất thoát tài sản của nhà nước? Rõ ràng việc không định giá đất thuê trong quá trình cổ phần hóa sẽ gây nên việc thất thoát tài sản của Nhà nước bởi các doanh nghiệp sẽ lợi dụng kẽ hở này để “ôm” toàn bộ diện tích đất đang quản lý nhằm trục lợi mặc dù không có khả năng phát triển nhưng vẫn muốn nắm quyền thâu tóm doanh nghiệp cổ phần hóa. 5. Nhiếu ý kiến cho rằng, việc mua Hãng phim truyện với mức giá hơn 32 tỷ đồng, với diện tích hơn 5.000m2 là quá rẻ, Dự trên những căn cứ pháp luật, ông đánh giá như thế nào về việc cổ phần này? Thực chất sự việc sẽ không trở nên căng thẳng nếu như việc cổ phần hóa đảm bảo được lợi ích của các công nhân viên chức đang làm việc tại đây. Có thể thấy những lỗ hổng pháp luật chưa được hoàn thiện liên quan đến việc định giá cũng khiến cho vấn đề này gặp nhiều khó khăn và bức xúc. Việc cổ phần hóa nhằm khôi phục và phát triển hãng phim nhưng lại giao cho một đơn vị không có chuyên môn về lĩnh vực này đó là Tổng công ty Vận tải thủy (Vivaso) dường như khó có thể đạt được hiệu quả và có nguy cơ làm hãng phim “mất tích” trên thực tế
Đối tượng và điều kiện để được mua cổ phần khi đơn vị sự nghiệp công lập cổ phần hóa
Đơn vị tôi được chỉ đạo là sẽ tiến hành lộ trình chuyển đơn vị sự nghiệp công lập thành công ty cổ phần. Cho tôi hỏi điều kiện chuyển đơn vị sự nghiệp công lập thành công ty cổ phần là gì và đối tượng nào được mua cổ phần khi đơn vị tôi cổ phần hóa? Điều kiện chuyển đơn vị sự nghiệp công lập thành công ty cổ phần Căn cứ theo quy định tại Điều 4 Nghị định 150/2020/NĐ-CP, các đơn vị sự nghiệp công lập thuộc đối tượng chuyển thành công ty cổ phần khi đáp ứng đồng thời các điều kiện sau: - Tự bảo đảm chi thường xuyên và đầu tư hoặc tự đảm bảo được chi thường xuyên trong năm gần nhất với thời điểm thực hiện chuyển đổi. - Còn vốn nhà nước sau khi đã được xử lý tài chính và xác định lại giá trị đơn vị sự nghiệp công lập. - Thuộc danh mục ngành, lĩnh vực thực hiện chuyển đơn vị sự nghiệp công lập thành công ty cổ phần do Thủ tướng Chính phủ quyết định trong từng thời kỳ. Danh mục này không bao gồm các ngành, các lĩnh vực mà pháp luật chuyên ngành quy định không thực hiện chuyển đổi đơn vị sự nghiệp công lập thành công ty cổ phần. - Có phương án sắp xếp lại, xử lý nhà, đất đã được cơ quan có thẩm quyền phê duyệt theo quy định của pháp luật về quản lý, sử dụng tài sản công. Đối tượng và điều kiện mua cổ phần khi đơn vị sự nghiệp công lập chuyển đổi thành công ty cổ phần Tại Điều 6 Nghị định 150/2020/NĐ-CP quy định 3 nhóm đối tượng được mua cổ phần và điều kiện tương ứng như sau: (1) Nhà đầu tư trong nước - Nhà đầu tư trong nước là cá nhân có quốc tịch Việt Nam, tổ chức kinh tế được thành lập theo pháp luật Việt Nam, thực hiện hoạt động đầu tư, kinh doanh tại Việt Nam; - Nhà đầu tư trong nước được quyền mua cổ phần của đơn vị sự nghiệp công lập chuyển đổi với số lượng không hạn chế, trừ trường hợp thuộc đối tượng không được mua quy định tại khoản 4 Điều 6 Nghị định 150/2020/NĐ-CP. (2) Nhà đầu tư nước ngoài - Nhà đầu tư nước ngoài là cá nhân có quốc tịch nước ngoài, tổ chức thành lập theo pháp luật nước ngoài thực hiện hoạt động đầu tư kinh doanh tại Việt Nam; - Nhà đầu tư nước ngoài được quyền mua cổ phần của đơn vị sự nghiệp công lập chuyển đổi theo quy định tại Nghị định này và các văn bản quy phạm pháp luật có liên quan. Nhà đầu tư nước ngoài có nhu cầu mua cổ phần phải mở tài khoản tại tổ chức tín dụng theo quy định của pháp luật Việt Nam về ngoại hối. (3) Nhà đầu tư chiến lược - Cơ quan có thẩm quyền quy định tại Điều 39 Nghị định 150/2020/NĐ-CP quyết định việc bán cổ phần lần đầu cho nhà đầu tư chiến lược đối với các đơn vị sự nghiệp công lập thuộc danh mục Nhà nước tiếp tục nắm giữ trên 50% vốn điều lệ theo Quyết định của Thủ tướng Chính phủ về Danh mục ngành, lĩnh vực thực hiện chuyển ĐVSNCL thành công ty cổ phần. - Nhà đầu tư chiến lược là các nhà đầu tư trong nước và nhà đầu tư nước ngoài có đủ các điều kiện sau: + Có đủ tư cách pháp nhân theo quy định của pháp luật; + Có kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh 02 năm gần nhất tính đến thời điểm đăng ký mua cổ phần có lãi, không có lỗ lũy kế; + Có ngành nghề kinh doanh phù hợp với lĩnh vực cung ứng dịch vụ sự nghiệp công của ĐVSNCL chuyển đổi; + Có cam kết bằng văn bản đăng ký trở thành nhà đầu tư chiến lược của ĐVSNCL chuyển đổi bao gồm các nội dung sau: Không được chuyển nhượng số cổ phần được mua trong thời hạn 03 năm kể từ ngày công ty cổ phần được cấp Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp cổ phần lần đầu hoạt động; Có phương án hỗ trợ doanh nghiệp được chuyển đổi từ ĐVSNCL nâng cao năng lực tài chính, quản trị doanh nghiệp; Các nghĩa vụ bồi thường khi vi phạm cam kết đã ký với mức bồi thường tổn thất theo thiệt hại thực tế và Nhà nước có quyền quyết định đối với toàn bộ số lượng cổ phần nhà đầu tư chiến lược đã mua. - Căn cứ vào quy mô vốn điều lệ, lĩnh vực hoạt động và yêu cầu mở rộng phát triển của đơn vị, cơ quan phê duyệt phương án chuyển đổi ĐVSNCL quyết định tiêu chí lựa chọn nhà đầu tư chiến lược và tỷ lệ cổ phần bán cho nhà đầu tư chiến lược. - Trình tự lựa chọn nhà đầu tư chiến lược tại ĐVSNCL phải đảm bảo việc đăng ký mua cổ phần của nhà đầu tư chiến lược được thực hiện trước thời điểm công bố thông tin bán cổ phần lần đầu ra công chúng. - Trường hợp nhà đầu tư chiến lược không thực hiện đúng cam kết thì phải bồi thường mọi tổn thất xảy ra theo đúng hợp đồng cam kết và quy định của pháp luật hiện hành. - Nhà đầu tư chiến lược phải đặt cọc, ký quỹ bằng tiền hoặc có bảo lãnh của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài tại Việt Nam. Mức đặt cọc, ký quỹ bằng 20% giá trị cổ phần đăng ký mua theo giá khởi điểm. Trường hợp từ bỏ quyền mua, nhà đầu tư chiến lược không được nhận lại tiền đặt cọc hoặc bị phạt số tiền tương đương khoản giá trị đặt cọc trong trường hợp ký quỹ, bảo lãnh. - Việc tổ chức bán cổ phần cho nhà đầu tư chiến lược phải hoàn thành trước thời điểm Đại hội đồng cổ đông lần đầu để chuyển ĐVSNCL thành công ty cổ phần. Số cổ phần còn lại (chênh lệch giữa số cổ phần thực tế bán cho nhà đầu tư chiến lược với tổng số cổ phần đăng ký mua của các nhà đầu tư chiến lược theo phương án chuyển đổi được duyệt), Ban Chỉ đạo báo cáo cơ quan có thẩm quyền quy định tại Điều 39 Nghị định 150/2020/NĐ-CP quyết định điều chỉnh vốn điều lệ và cơ cấu vốn điều lệ trước khi tổ chức Đại hội đồng cổ đông lần đầu. Các tổ chức, cá nhân không được mua cổ phần phát hành lần đầu của đơn vị sự nghiệp công lập chuyển đổi bao gồm - Thành viên Ban Chỉ đạo, Tổ giúp việc chuyển đổi ĐVSNCL thành công ty cổ phần (trừ các thành viên là đại diện của ĐVSNCL chuyển đổi); - Các tổ chức tài chính trung gian và các cá nhân thuộc tổ chức này tham gia vào việc thực hiện tư vấn chuyển đổi ĐVSNCL thành công ty cổ phần, đơn vị kiểm toán báo cáo tài chính và cơ quan kiểm toán xác định giá trị đơn vị sự nghiệp công lập (trừ các tổ chức bảo lãnh phát hành mua số cổ phần chưa phân phối hết theo hợp đồng bảo lãnh); - Tổ chức thực hiện bán đấu giá cổ phần và các cá nhân thuộc tổ chức này có liên quan đến cuộc đấu giá; - Người có liên quan tổ chức và cá nhân quy định tại điểm a, điểm b và điểm c khoản này theo quy định tại Khoản 23 Điều 4 Luật Doanh nghiệp 2020. => Như vậy, ĐVSNCL được chuyển đổi thành CTCP khi đảm bảo các điều kiện trên và chuyển đổi qua 2 hình thức: Giữ nguyên vốn nhà nước hiện có tại đơn vị sự nghiệp công lập, phát hành thêm cổ phiếu để tăng vốn điều lệ hoặc bán một phần vốn nhà nước hiện có tại đơn vị sự nghiệp công lập hoặc vừa kết hợp bán một phần vốn nhà nước vừa phát hành thêm cổ phiếu để tăng vốn điều lệ. Nhà đầu tư trong nước; Nhà đầu tư nước ngoài và Nhà đầu tư chiến lược được liệt kê như trên được mua cổ phần của đơn vị khi đáp ứng các điều kiện theo quy định.
Sau khi cổ phần hóa có cần xin cấp lại giấy chứng nhận quyền sử dụng đất?
Tôi muốn hỏi hỗ trợ pháp lý về: Công ty tôi là công ty nhà nước, được cấp các khu đất để sử dụng vào sản xuất kinh doanh, có hợp đồng thuê đất, chứng nhận quyền sử dụng đất. Sau khi cổ phần hóa vào năm 2005, công ty tôi chuyển thành công ty cổ phần có trên 50% vốn doanh nghiệp nhà nước thì các khu đất đó có cần phải ký lại các hợp đồng thuê đất, cấp lại giấy chứng nhận quyền sử dụng đất không?
Chuyển cổ phần ưu đãi sang cổ phần phổ thông trong DNNN
Mình đang cần tư vấn về vấn đề hủy bỏ hạn chế chuyển nhượng cổ phần của NLĐ cam kết làm việc 3 năm sau khi cổ phần hóa có cần phải xin ý kiến tại cuộc họp Đại hội đồng cổ đông (ĐHĐCĐ) thường niên không? Gay cứ hết 3 năm hạn chế thì tự do chuyển nhượng được, không cần Quyết định chấp thuận của ĐHĐCĐ? Vì theo Điều 42 Khoản 2 Điểm d Nghị định 126/2017/NĐ-CP nói Số cổ phiếu người lao động mua thêm quy định tại điểm a khoản 2 Điều này được chuyển đổi thành cổ phần phổ thông sau khi kết thúc thời gian cam kết, như vậy hết 3 năm là các cổ phần này chuyển thành cổ phần phổ thông, làm tăng số lượng CP phổ thông của cty thì có thuộc nội dung phải biểu quyết tại ĐHĐCĐ theo Khoản 2 Điều 147 Luật Doanh nghiệp 2020 không?
Tiêu chuẩn người đại diện phần vốn nhà nước, người đại diện phần vốn của doanh nghiệp
Trường hợp công ty là doanh nghiệp nhà nước, thực hiện Cổ phần hóa theo Nghị định 59/2011/NĐ-CP về chuyển doanh nghiệp 100% vốn Nhà nước thành công ty cổ phần, Nhà nước nắm giữ 40% vốn điều lệ. Hiện nay công ty đề nghị bộ Quốc phòng cử 5 người quản lý phần vốn nhà nước tại công ty cổ phần trong đó có 3 anh em là anh em ruột nên Bộ không đồng ý cử người 3 người này vì lý do: theo Khoản 6.điều 3 Thông tư 21/2014 /TT-BTC ban hành quy chế hoạt động của người đại diện theo ủy quyền của người đại diện quản lý phần vốn nhà nước không đủ các tiêu chuẩn trong đó có " Không là vợ, chồng, cha, cha nuôi, mẹ, mẹ nuôi, con, con nuôi, anh, chị, em ruột của người quản lý, điều hành doanh nghiệp có phần vốn góp của nhà nước và của người có thẩm quyền quyết định việc ủy quyền làm Người đại diện" như vậy có đúng theo Điều 15 luật doanh nghiệp không? Xin cảm ơn.
Xử lý bán cổ phần trước thời hạn cam kết chuyển nhượng
Gửi các Anh/Chị/bạn. Em đang có case này muốn nhờ mọi người tư vấn giúp ạ: "Bên em là cá nhân A mua cổ phần của Tổng công ty nhà nước ở DN B thông qua đấu giá năm 2015. Trong quy chế đấu giá cũng như quyết định thoái vốn của công ty nhà nước có quy định Nhà đầu tư phải cam kết giữ cổ phần nhận chuyển nhượng trong vòng 05 (không ghi điều kiện được chuyển nhượng trước hạn khi nào). Tuy nhiên, năm 2016, A đã bán toàn bộ cổ phần cho cổ đông khác trước hạn (tự chuyển nhượng không qua đại hội đồng cổ đông). Bây giờ, A đang bị tố cáo về hành vi vi phạm cam kết với nhà nước. Tuy nhiên, Em/mình chưa tìm được quy định nào quy định về việc xử lý hành vi bán vốn trước hạn cam kết như trên." Các Anh/chị/bạn đã từng gặp case này hoặc biết VB nào quy định cho em/mình xin tư vấn với ạ. Mình cảm ơn :(
Ý kiến của Luật sư Nguyễn Văn Tuấn về 1 số vấn đề liên quan đến việc cổ phần hóa Hãng phim truyện Việt Nam. Nội dung trả lời câu hỏi: 1. Gần đây dư luận đặc biệt quan tâm đến việc cổ phần hóa Hãng phim truyện Việt Nam, trong đó có việc định giá thương hiệu Hãng phim truyện bằng 0. Xin ông có thể cho biết, trong luật việc định giá trị thương hiệu bằng 0 như Hãng phim truyện có hợp lý không? Trong hệ thống các văn bản pháp quy của Nhà nước hiện nay, việc định giá thương hiệu được quy định tại Nghị định 59/2011/NĐ-CP, ngày 18/7/2011, về chuyển doanh nghiệp 100% vốn nhà nước thành công ty cổ phần; và tại Thông tư 127/2014/TT-BTC của Bộ Tài chính, ngày 5/9/2014, Hướng dẫn xử lý tài chính và xác định giá trị doanh nghiệp khi thực hiện chuyển doanh nghiệp 100% vốn nhà nước thành công ty cổ phần. Theo Khoản 1, Điều 32, Nghị định 59/2011/NĐ-CP, giá trị lợi thế kinh doanh của doanh nghiệp cổ phần hóa gồm giá trị thương hiệu, tiềm năng phát triển. Trong đó “Giá trị thương hiệu được xác định trên cơ sở các chi phí thực tế cho việc tạo dựng và bảo vệ nhãn hiệu, tên thương mại trong quá trình hoạt động của doanh nghiệp trước thời điểm xác định giá trị doanh nghiệp 5 năm, bao gồm chi phí thành lập doanh nghiệp, chi phí đào tạo nhân viên, chi phí quảng cáo, tuyên truyền trong và ngoài nước để quảng bá, giới thiệu sản phẩm, giới thiệu công ty; xây dựng trang web.” (Theo quy định tại khoản 7 Điều 18 Thông tư 127/2014/TT-BTC). Như vậy theo quy định của pháp luật hiện hành thì nếu như trong vòng 5 năm kể từ trước thời điểm xác định giá trị doanh nghiệp, Hãng Phim truyện Việt Nam không chứng minh có các chi phí thành lập doanh nghiệp, chi phí đào tạo nhân viên, chi phí quảng cáo, giới thiệu sản phẩm, giới thiệu công ty, xây dựng trang web…thì việc xác định giá trị thương hiệu bằng 0 là không trái quy định của pháp luật. Tuy nhiên, với một hãng phim đã tồn tại gần 60 năm, có nhiều đóng góp lớn cho điện ảnh nước nhà bị định giá là 0 đồng một cách phũ phàng như vậy cũng cho thấy những thiếu sót của các quy định pháp luật khi bề dày lịch sử cũng như những giá trị lớn lao mà hãng phim mang lại không được công nhận. Trong suốt quá trình hoạt động, hãng phim đã cho ra đời nhiều bộ phim kinh điển, làm rạng danh điện ảnh nước nhà như Những Con chim vành khuyên, Chị Tư Hậu, Vĩ tuyến 17 ngày và đêm, Em bé Hà Nội, Bao giờ cho đến tháng Mười… và còn rất nhiều bộ phim đã trở thành liều thuốc tinh thần cho quân và dân ta trong suốt 2 cuộc kháng chiến trường kỳ, ghi dấu ấn sâu đậm trong lòng hàng triệu người dân Việt Nam. Có thể thấy, với hơn 400 tác phẩm điện ảnh của hãng phim thực sự là kết tinh của cả tài năng, tâm huyết, mồ hôi nước mắt, thậm chí là máu của biết bao thế hệ nghệ sĩ suốt hơn nửa thế kỷ. 2. Sở hữu hơn 5.000m2 đất vàng gần Hồ Tây, tuy nhiên giá trị khi định giá Hãng phim truyện chỉ khoảng 20 tỷ đồng, do đất của Hãng phim là đất thuê của nhà nước nên không được tính vào giá trị trước khi cổ phần hóa. Vậy, việc đất thuê thì không được định giá, điều này có đúng không? Theo Luật Ðất đai 2013, Nhà nước chỉ giao đất có thu tiền sử dụng đất đối với đất ở, còn các trường hợp khác phải thuê đất theo 2 cách trả tiền thuê đất 1 lần hoặc hàng năm. Tại Điểm 6 Khoản 6 Điều 1 Nghị định 189/2013/NĐ-CP ngày 20-11-2013 của Chính phủ về CPH DNNN, quy định “đối với diện tích đất thuê theo phương thức trả tiền thuê đất hàng năm, DN được tiếp tục thực hiện thuê đất trả tiền hàng năm theo quy định của pháp luật hiện hành và không tính tiền thuê đất vào giá trị DN” Như vậy đối với diện tích đất thuê theo phương thức trả tiền thuê đất hàng năm sẽ không được đưa vào định giá giá trị doanh nghiệp theo quy định của pháp luật. 3. Nhiều ý kiến cho rằng, nên chăng cần tính đến lợi thế của đất, tại các địa điểm vàng khi định giá, trong luật hiện có quy định này chưa. Vấn đề này cần được hiểu như thế nào? Pháp luật chưa có các quy định liên quan đến lợi thế của đất khi định giá trong khi đó hiện nay, có rất nhiều DN đang được quản lý sử dụng hàng loạt địa điểm “đất vàng” có giá trị lên tới hàng ngàn tỷ đồng nhưng lại có giá trị DN “bèo bọt”. Rõ ràng đã có một khoản chênh lệch rất lớn giữa giá trị thực tế và giá trị doanh nghiệp được định giá theo quy định pháp luật và ai có thể chắc chắn rằng những lợi thế mà quỹ đất mang lại sẽ không rơi vào tay của các cổ đông. Những lợi thế từ đất luôn là một tiêu chí hàng đầu mà các nhà đầu tư quan tâm. Việc cổ phần hóa mà không hướng tới lợi thế từ đất chắc chắn sẽ không đảm bảo tính khách quan, làm thất thoát tài sản của Nhà nước bởi chính Nhà nước đang tự trao cho các cổ đông những giá trị vô cùng lớn trên chính đất của mình sở hữu. Được biết, Chính phủ đã giao cho Bộ Tài chính chủ trì xây dựng dự thảo Nghị định mới về chuyển doanh nghiệp nhà nước thành công ty cổ phần. Nghị định này đang được kỳ vọng sẽ tạo điều kiện nâng cao hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp nói chung và chuyển đổi doanh nghiệp 100% vốn nhà nước thành công ty cổ phần nói riêng trong thời gian tới có hiệu quả, ngăn chặn thất thoát vốn, chống tham nhũng, tiêu cực trong cổ phần hóa, trong đó đặc biệt quy định tính giá trị lợi thế quyền được thuê đất, được giao đất vào giá trị doanh nghiệp khi cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước. 4. Việc không định giá đất thuê trong quá trình cổ phần hóa, liệu có gây thất thoát tài sản của nhà nước? Rõ ràng việc không định giá đất thuê trong quá trình cổ phần hóa sẽ gây nên việc thất thoát tài sản của Nhà nước bởi các doanh nghiệp sẽ lợi dụng kẽ hở này để “ôm” toàn bộ diện tích đất đang quản lý nhằm trục lợi mặc dù không có khả năng phát triển nhưng vẫn muốn nắm quyền thâu tóm doanh nghiệp cổ phần hóa. 5. Nhiếu ý kiến cho rằng, việc mua Hãng phim truyện với mức giá hơn 32 tỷ đồng, với diện tích hơn 5.000m2 là quá rẻ, Dự trên những căn cứ pháp luật, ông đánh giá như thế nào về việc cổ phần này? Thực chất sự việc sẽ không trở nên căng thẳng nếu như việc cổ phần hóa đảm bảo được lợi ích của các công nhân viên chức đang làm việc tại đây. Có thể thấy những lỗ hổng pháp luật chưa được hoàn thiện liên quan đến việc định giá cũng khiến cho vấn đề này gặp nhiều khó khăn và bức xúc. Việc cổ phần hóa nhằm khôi phục và phát triển hãng phim nhưng lại giao cho một đơn vị không có chuyên môn về lĩnh vực này đó là Tổng công ty Vận tải thủy (Vivaso) dường như khó có thể đạt được hiệu quả và có nguy cơ làm hãng phim “mất tích” trên thực tế