Nghĩa vụ chịu án phí khi yêu cầu tuyên bố hợp đồng vô hiệu
Án phí khi tuyên hợp đồng vô hiêu Khi hợp đồng vô hiệu mỗi bên phải trả lại tình trạng ban đầu của giao dịch, vậy án phí do ai thanh toán? Bài viết đưa ra hướng giải quyết án phí khi tuyên hợp đồng vô hiệu trên cơ sở phân tích trường hợp tuyên bố hợp đồng mua bán tài sản, chuyển nhượng quyền sử dụng đất vô hiệu. Đối với yêu cầu tuyên bố hợp đồng mua bán, chuyển nhượng vô hiệu và không có thêm yêu cầu khác Điểm a Khoản 3 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 quy định: “Trường hợp một bên yêu cầu công nhận hợp đồng mua bán tài sản, chuyển nhượng quyền sử dụng đất và một bên yêu cầu tuyên bố hợp đồng mua bán tài sản, chuyển nhượng quyền sử dụng đất vô hiệu và đều không có yêu cầu gì khác; nếu Tòa án tuyên bố hợp đồng vô hiệu thì bên yêu cầu công nhận hợp đồng phải chịu án phí như đối với trường hợp vụ án dân sự không có giá ngạch; nếu Tòa án tuyên bố công nhận hợp đồng thì bên yêu cầu tuyên bố hợp đồng vô hiệu phải chịu án phí như đối với trường hợp vụ án dân sự không có giá ngạch” Theo đó: - Khi hợp đồng bị tuyên vô hiệu, bên nào yêu cầu tuyên bố vô hiệu sẽ không phải chịu án phí - Khi hợp đồng được công nhận hiệu lực, bên nào yêu cầu tuyên bố vô hiệu sẽ phải chịu án phí Án phí trong trường hợp này tương tự án ví trong các vụ án dân sự không có giá ngạch, quy định tại Phụ lục Nghị quyết 326 như sau: TT Tên Mức án phí Mức tạm ứng án phí 1 Án phí dân sự sơ thẩm 1.1 Đối với tranh chấp về dân sự, hôn nhân và gia đình, lao động không có giá ngạch. 300.000 đồng 300.000 đồng 1.2 Đối với tranh chấp về kinh doanh, thương mại không có giá ngạch. 03 triệu đồng 03 triệu đồng 2 Án phí phúc thẩm 2.1 Tranh chấp về dân sự, hôn nhân và gia đình, lao động. 300.000 đồng 300.000 đồng 2.2 Tranh chấp về kinh doanh, thương mại. 02 triệu đồng 02 triệu đồng Đối với yêu cầu tuyên bố hợp đồng mua bán, chuyển nhượng vô hiệu và có yêu cầu giải quyết hậu quả của hợp đồng vô hiệu Điểm b Khoản 3 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 quy định: “b) Trường hợp một bên yêu cầu công nhận hợp đồng mua bán tài sản, chuyển nhượng quyền sử dụng đất và một bên yêu cầu tuyên bố hợp đồng mua bán tài sản, chuyển nhượng quyền sử dụng đất vô hiệu và có yêu cầu Tòa án giải quyết hậu quả của hợp đồng vô hiệu thì ngoài việc chịu án phí không có giá ngạch được quy định tại điểm a khoản 3 Điều này, người phải thực hiện nghĩa vụ về tài sản hoặc bồi thường thiệt hại phải chịu án phí như trường hợp vụ án dân sự có giá ngạch đối với giá trị tài sản phải thực hiện nghĩa vụ." Theo đó: - Nghĩa vụ đóng án phí thuộc về người phải thực hiện nghĩa vụ về tài sản hoặc bồi thường thiệt hại (tức bên thua kiện) - Án phí phải nộp bao gồm: (1) Án phí không có giá ngạch khi yêu cầu tuyên bố hợp đồng vô hiệu (2) Án phí có giá ngạch đối với phần tài sản phải thực hiện nghĩa vụ. Cụ thể về ngạch án phí quy định tại Phục lục Nghị quyết 326 như sau: Tên án phí Mức thu 1.3 Đối với tranh chấp về dân sự, hôn nhân và gia đình có giá ngạch a Từ 6.000.000 đồng trở xuống 300.000 đồng b Từ trên 6.000.000 đồng đến 400.000.000 đồng 5% giá trị tài sản có tranh chấp c Từ trên 400.000.000 đồng đến 800.000.000 đồng 20.000. 000 đồng + 4% của phần giá trị tài sản có tranh chấp vượt quá 400.000.000 đồng d Từ trên 800.000.000 đồng đến 2.000.000.000 đồng 36.000.000 đồng + 3% của phần giá trị tài sản có tranh chấp vượt 800.000.000 đồng đ Từ trên 2.000.000.000 đồng đến 4.000.000.000 đồng 72.000.000 đồng + 2% của phần giá trị tài sản có tranh chấp vượt 2.000.000.000 đồng e Từ trên 4.000.000.000 đồng 112.000.000 đồng + 0,1% của phần giá trị tài sản tranh chấp vượt 4.000.000.000 đồng. 1.4 Đối với tranh chấp về kinh doanh, thương mại có giá ngạch a Từ 60.000.000 đồng trở xuống 3.000.000 đồng b Từ trên 60.000.000 đồng đến 400.000.000 đồng 5% của giá trị tranh chấp c Từ trên 400.000.000 đồng đến 800.000.000 đồng 20.000.000 đồng + 4% của phần giá trị tranh chấp vượt quá 400.000.000 đồng d Từ trên 800.000.000 đồng đến 2.000.000.000 đồng 36.000.000 đồng + 3% của phần giá trị tranh chấp vượt quá 800.000.000 đồng đ Từ trên 2.000.000.000 đồng đến 4.000.000.000 đồng 72.000.000 đồng + 2% của phần giá trị tranh chấp vượt 2.000.000.000 đồng e Từ trên 4.000.000.000 đồng 112.000.000 đồng + 0,1% của phần giá trị tranh chấp vượt 4.000.000.000 đồng 1.5 Đối với tranh chấp về lao động có giá ngạch a Từ 6.000.000 đồng trở xuống 300.000 đồng b Từ trên 6.000.000 đồng đến 400.000.000 đồng 3% giá trị tranh chấp, nhưng không thấp hơn 300.000 đồng c Từ trên 400.000.000 đồng đến 2.000.000.000 đồng 12.000.000 đồng + 2% của phần giá trị có tranh chấp vượt quá 400.000.000 đồng d Từ trên 2.000.000.000 đồng 44.000.000 đồng + 0,1% của phần giá trị có tranh chấp vượt 2.000.000.000 đồng Đối với các loại hợp đồng khác Đối với các hợp đồng khác, khi giải quyết trường hợp yêu cầu tuyên bố hợp đồng vô hiệu hoặc có hiệu lực, yêu cầu của bên nào được chấp thuận thì bên đó sẽ không phải chịu án phí. Người phải thực hiện nghĩa vụ về tài sản hoặc bồi thường thiệt hại khi tuyên hợp đồng vô hiệu phải chịu án phí như trường hợp vụ án dân sự có giá ngạch đối với giá trị tài sản phải thực hiện nghĩa vụ.
Người vay tẩu tán tài sản, cố tình không muốn trả nợ thì phải làm sao?
Chào luật sư Em tên Hà. Mẹ em có cho ông A mượn một khoản tiền là 1 tỷ vì mẹ e có buôn bán nông sản một thời gian ông A không muốn trả mặc dù mẹ e nói nhiều lần. Ông A tuyên bố k trả và đã chuyển nhượng hết đất đai tài sản cho con cái. Trường hợp này mẹ em nên giải quyết như thế nào ạ? Em cảm ơn luật sư nhiều
Chuyển nhượng tài sản trước khi mất
Em có một trường hợp muốn được sự tư vấn của các luật sư ạ ông A và bà B kết hôn từ năm 1983, sinh ra 2 người con gái là C,D bà B có 1 người con riêng với chồng cũ là E. Từ năm 1983 đến nay chung sống với nhau rất tìm cảm và ổn định. khi kết hôn thì bà chuyển đến sống với ông tại 1 ngôi nhà 120m2 ( đã nhập hộ khẩu), đến nay ông A sức khỏe không tốt, thường xuyên bị ốm nặng, nên ông đã lập di chúc cho 3 người con gái C,D ( C,D đang định cư tại nước ngoài), vì sợ rằng bà B nhận thừa kế và chia sẻ tài sản thừa kế cho người con riêng của mình nên ko di chúc cho bà B. Trong thời gian chung sống bà B ăn lên làm ra chăm bẵn gia đình hỗ trợ gia đình giúp 2 người con gái định cư nước ngoài và sửa sang nhà cửa, và rất hết mực tin tưởng ông A nên các tài khoản ngân hàng và sổ tiết kiệm đều đứng tên ông A. Đến nay ông có sức khỏe không tốt đã lập di chúc như trên và đang có hành vi tẩu tán tài sản và có ý định chuyển nhượng quyền sử dụng đất cho 2 người con gái kía! Em muốn hỏi là: bà B không cần toàn bộ số tiền tiết kiệm, tài khoản ngân hàng. nhưng có trường hợp nào ông A tự ý quyết định chuyển nhượng ngôi nhà kia không hay khai báo đó là tài sản riêng không.
Hiệu lực của hợp đồng khi chuyển nhượng nhà đất chỉ có chữ ký một bên vợ/chồng?
>>> 03 câu hỏi thường gặp về tài sản của vợ chồng khi ly hôn >>> Cách chứng minh “tài sản riêng của vợ, chồng” trong thời kỳ hôn nhân? Thực tế vẫn xảy ra nhiều trường hợp vợ chồng chuyển nhượng tài sản chung là nhà đất nhưng hợp đồng chỉ có chữ ký của một bên vợ hoặc chồng. Liệu việc thiếu chữ ký của bên còn lại có làm cho hợp đồng bị vô hiệu hay không? Cùng theo dõi lời giải đáp tại bài viết dưới đây nhé! Pháp luật hôn nhân và gia đình ghi nhận, tài sản chung của vợ chồng thuộc sở hữu chung hợp nhất, được dùng để bảo đảm nhu cầu của gia đình, thực hiện nghĩa vụ chung của vợ chồng (khoản 2 Điều 33 Luật Hôn nhân và gia đình 2014). Trong đó, “sở hữu chung hợp nhất” được hiểu là sở hữu chung mà phần quyền sở hữu của mỗi chủ sở hữu chung không được xác định đối với tài sản chung (Điều 210 Bộ luật Dân sự 2015). Xét về vấn đề định đoạt tài sản chung: Các chủ sở hữu chung hợp nhất có quyền, nghĩa vụ ngang nhau đối với tài sản thuộc sở hữu chung (Khoản 2 Điều 210 Bộ luật Dân sự 2015). Mặt khác, tại Điều 35 Luật Hôn nhân và Gia đình 2014 cũng có quy định cụ thể về về quyền của vợ chồng đối với tài sản chung như sau: - Việc chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản chung do vợ chồng thỏa thuận. - Việc định đoạt tài sản chung phải có sự thỏa thuận bằng văn bản của vợ chồng trong những trường hợp: + Bất động sản; + Động sản mà theo quy định của pháp luật phải đăng ký quyền sở hữu; + Tài sản đang là nguồn tạo ra thu nhập chủ yếu của gia đình. Từ các căn cứ trên, chúng ta đưa ra kết luận: khi nhà đất là tài sản chung của vợ chồng thì việc định đoạt nhà đất như chuyển nhượng quyền sử dụng đất phải có sự thỏa thuận bằng văn bản của cả vợ và chồng, tức là phải có sự thống nhất ý chí giữa hai vợ chồng. Do vậy, trường hợp chỉ có một bên vợ/chồng ký vào hợp đồng chuyển nhượng nhà đất thì cần xét đến 02 trường hợp sau: >>>TH1: Nếu giữa hai vợ chồng CÓ thỏa thuận về việc chỉ có một mình vợ/chồng ký tên vào hợp đồng thì hợp đồng đó vẫn có hiệu lực. Tuy nhiên, việc thỏa thuận chuyển nhượng quyền sử dụng đất chỉ do một người đứng tên phải được lập thành văn bản theo quy định của pháp luật. >>>TH2: Nếu giữa hai vợ chồng KHÔNG có thỏa thuận về việc chỉ có một mình vợ/chồng ký tên, giữa hai vợ chồng không có văn bản thỏa thuận việc một mình vợ/chồng ký tên vào hợp đồng nói trên thì hợp đồng chuyển nhượng nhà đất không có hiệu lực. Vì có rất nhiều trường hợp khi bán nhà đất chỉ có một mình vợ hoặc chồng đứng tên trên giấy chuyển nhượng, đến khi có tranh chấp lại lấy căn cứ do bán nhà đất không có sự đồng ý của vợ nên hợp đồng vô hiệu. Điều này dễ làm ảnh hưởng đến quyền lợi của bên nhận chuyển nhượng. Để giải quyết trường hợp này, Án lệ số 04/2016/AL đã làm rõ về việc chuyển nhượng đất chỉ có chữ ký của chồng trong hợp đồng. Án lệ số 04/2016 giải quyết Tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa bà Tý, ông Tiến với vợ chồng ông Ngự, bà Phấn. Theo đó: “Bà Tý và ông Tiến có mua nhà đất của vợ chồng ông Ngự bà Phấn thông qua hợp đồng mua bán nhà, đất ngày 26-4-1996. Việc chuyển nhượng nhà, đất diễn ra từ năm 1996, sau khi mua nhà, đất, ông Tiến, bà Tý đã trả đủ tiền, nhận nhà đất, tôn nền đất, sửa lại nhà và cho các cháu đến ở. Trong khi đó gia đình ông Ngự, bà Phấn vẫn ở trên diện tích đất còn lại, liền kề với nhà ông Tiến, bà Tý. Nhưng khi xảy ra tranh chấp, ông Ngự và bà Phấn cho rằng hợp đồng chuyển nhượng nói trên chỉ có chữ ký của ông Ngự, việc chuyển nhượng bà Phấn không biết nên hợp đồng chuyển nhượng không có hiệu lực, đất có tranh chấp vẫn là của ông bà. Tuy nhiên, theo lời khai của các người con ông Ngự, bà Phấn thì sau khi bán nhà, đất cho vợ chồng bà Tý, ông Ngự, bà Phấn đã phân chia vàng cho các người con. Mặt khác, sau khi chuyển nhượng và giao nhà đất cho ông Tiến, bà Tý thì ngày 26-4-1996, ông Ngự còn viết “giấy cam kết” có nội dung mượn lại phần nhà đất đã sang nhượng để ở khi xây dựng lại nhà trên phần đất còn lại và trong thực tế vợ chồng bà Phấn, ông Ngự đã sử dụng phần nhà đất của bà Tý, ông Tiến khi xây dựng nhà. Như vậy, có cơ sở xác định bà Phấn biết có việc chuyển nhượng nhà, đất giữa ông Ngự với vợ chồng ông Tiến và bà Tý, bà Phấn đã đồng ý, cùng thực hiện nên việc bà Phấn khiếu nại cho rằng ông Ngự chuyển nhượng nhà đất cho vợ chồng bà Tý bà không biết là không có căn cứ. Trong vụ tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất nêu trên, đất là tài sản chung của vợ chồng mà chỉ có một người đứng tên ký hợp đồng chuyển nhượng nhà đất đó cho người khác, người còn lại không ký tên trong hợp đồng; nếu có đủ căn cứ xác định bên chuyển nhượng đã nhận đủ số tiền theo thỏa thuận, người không ký tên trong hợp đồng biết và cùng sử dụng tiền chuyển nhượng nhà đất; bên nhận chuyển nhượng nhà đất đã nhận và quản lý, sử dụng nhà đất đó công khai; người không ký tên trong hợp đồng biết mà không có ý kiến phản đối gì thì phải xác định là người đó đồng ý với việc chuyển nhượng nhà đất. Từ các lập luận và phán quyết của Tòa án cho thấy việc chuyển nhượng đất mặc dù chỉ có một mình chồng ký tên vào hợp đồng nhưng để kết luận hợp đồng đó có hiệu lực hay không phải căn cứ vào việc thống nhất ý chí của vợ chồng.” Theo đó, nội dung án lệ trên đã xác định: nếu một bên vợ/chồng còn lại không ký tên vào hợp đồng nhưng biết việc chuyển nhượng nhà đất nhưng không phản đối hoặc đã thực hiện hợp đồng như nhận tiền, giao đất đây được xem là căn cứ chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng theo khoản 2 Điều 393 Bộ luật Dân sự 2015 (biết mà không phản đối chính là đồng ý). Vì vậy, hợp đồng chuyển nhượng vẫn có hiệu lực. Kết luận: để xác định hợp đồng chuyển nhượng nhà đất chỉ có chữ ký của một bên vợ/chồng liệu có hiệu lực hay không thì chúng ta phải xác định được tài sản đó có phải tài sản thuộc sở hữu chung của vợ chồng hay không, việc chuyển nhượng đất đó có được sự thống nhất ý chí của hai vợ chồng hay không.
Chuyển nhượng tài sản đang thế chấp Ngân hàng
Trường hợp này, tài sản chuyển nhượng là tài sản đang thế chấp để thực hiện nghĩa vụ - cụ thể là nghĩa vụ trả nợ cho NH. Nên nếu muốn chuyển nhượng thì sẽ phải có sự đồng ý của NH (bên nhận chuyển nhượng). Nếu NH đồng ý thì vấn đề sẽ khá đơn giản, thủ tục chỉ chủ yếu gồm 3 việc: - Hủy thế chấp với tài sản này: thủ tục này thực hiện theo quy định ở Nghị định 102/2017/NÐ-CP về đăng ký biện pháp bảo đảm: Điều 47. Hồ sơ xóa đăng ký biện pháp bảo đảm bằng quyền sử dụng đất, tài sản gắn liền với đất Tuy nhiên, thông thường sẽ rất khó để NH chấp nhận việc này; thường thì NH sẽ yêu cầu người mua phải tất toán khoản nợ tại NH thì NH mới cho phép giải phóng tài sản thế chấp. Còn về việc chị nói rằng công ty sẽ chịu lãi thay cho cá nhân thì chắc chắn sẽ không phải là phương án mà NH chấp nhận, công ty chị sẽ không thể thực hiện việc này được.
Chuyển nhượng tài sản nhằm trốn tránh nghĩa vụ trả nợ
-Em có một chút thắc mắc rất mong được các Luật sư quan tâm giúp đỡ. - Nội dung sự việc như sau: Vào tháng 6 năm 2018 gia đình em có cho ông A vay số tiền là 300.000.000 đồng (Không có thế chấp) và không tính lãi suất, ông A cam kết đến cuối năm 2018 (Tức ngày 31/12/2018) thì ông sẽ thực hiện việc hoàn trả toàn bộ số tiền 300.000.000 đồng trên cho gia đình em. Việc vay mượn này chỉ được xác lập bằng giấy viết tay, không có người làm chứng. Tuy nhiên, đến tháng 11/2018 thì ông A thực hiện việc chuyển nhượng toàn bộ tài sản qua cho cháu của mình đứng tên nhằm trốn tránh việc trả nợ cho gia đình em. - Các Luật sư cho em được hỏi: Bây giờ gia đình em có thể làm gì để tạm dừng việc ông A chuyển nhượng các tài sản này. - Em xin chân thành cảm ơn.!
Hỏi về xuất hóa đơn khi doanh nghiệp chuyển nhượng QSDĐ
Mình có tình huống mắc phải nhưng còn nhiều vấn đề chưa rõ, mong các thành viên tham khảo và hỗ trợ giúp mình, Năm 2017 Cty A mua 1 mảnh đất với giá 20 tỷ của công ty B ( giả định mảnh đất đó sổ đỏ chính chủ không tranh chấp, Cty B có đầy đủ quyền sử dụng đối với mảnh đất đó, thuế suất thuế TNDN Cty B là 20%) Nhờ anh / chị tư vấn giúp như sau: 1. Nếu cho rằng công ty B đó "chuyển quyền sử dụng đất " và cty B đó "chuyển nhượng lô đất" thì có phải là 2 trường hợp riêng biệt không?̣do mình còn mơ hồ 2 khái niệm này) Nếu đó là 2 trường hợp khác nhau thì cty B phải tính thuế GTGT và thuế TNDN cho từng trường hợp như thế nào? cty B có phải xuất hoá đơn GTGT cho cty A hay không? 2. Nếu cty B phải xuất hoá đơn thì làm thế nào để xác nhận được hoá đơn của cty B là hợp pháp? giá tính thuế trong trường hợp này là như thế nào? có thể xác định được công ty B đó có kê khai hoá đơn GTGT đó hay không? 3. Thủ tục chuyển nhượng được tiến hành như thế nào? Công ty A phải chi trả các khoản phí nào để thực hiện thủ tục này? Nếu có cơ sở pháp lý mọi người vui lòng dẫn giúp mình để tiện tham khảo, cảm ơn mọi người.
Nghĩa vụ chịu án phí khi yêu cầu tuyên bố hợp đồng vô hiệu
Án phí khi tuyên hợp đồng vô hiêu Khi hợp đồng vô hiệu mỗi bên phải trả lại tình trạng ban đầu của giao dịch, vậy án phí do ai thanh toán? Bài viết đưa ra hướng giải quyết án phí khi tuyên hợp đồng vô hiệu trên cơ sở phân tích trường hợp tuyên bố hợp đồng mua bán tài sản, chuyển nhượng quyền sử dụng đất vô hiệu. Đối với yêu cầu tuyên bố hợp đồng mua bán, chuyển nhượng vô hiệu và không có thêm yêu cầu khác Điểm a Khoản 3 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 quy định: “Trường hợp một bên yêu cầu công nhận hợp đồng mua bán tài sản, chuyển nhượng quyền sử dụng đất và một bên yêu cầu tuyên bố hợp đồng mua bán tài sản, chuyển nhượng quyền sử dụng đất vô hiệu và đều không có yêu cầu gì khác; nếu Tòa án tuyên bố hợp đồng vô hiệu thì bên yêu cầu công nhận hợp đồng phải chịu án phí như đối với trường hợp vụ án dân sự không có giá ngạch; nếu Tòa án tuyên bố công nhận hợp đồng thì bên yêu cầu tuyên bố hợp đồng vô hiệu phải chịu án phí như đối với trường hợp vụ án dân sự không có giá ngạch” Theo đó: - Khi hợp đồng bị tuyên vô hiệu, bên nào yêu cầu tuyên bố vô hiệu sẽ không phải chịu án phí - Khi hợp đồng được công nhận hiệu lực, bên nào yêu cầu tuyên bố vô hiệu sẽ phải chịu án phí Án phí trong trường hợp này tương tự án ví trong các vụ án dân sự không có giá ngạch, quy định tại Phụ lục Nghị quyết 326 như sau: TT Tên Mức án phí Mức tạm ứng án phí 1 Án phí dân sự sơ thẩm 1.1 Đối với tranh chấp về dân sự, hôn nhân và gia đình, lao động không có giá ngạch. 300.000 đồng 300.000 đồng 1.2 Đối với tranh chấp về kinh doanh, thương mại không có giá ngạch. 03 triệu đồng 03 triệu đồng 2 Án phí phúc thẩm 2.1 Tranh chấp về dân sự, hôn nhân và gia đình, lao động. 300.000 đồng 300.000 đồng 2.2 Tranh chấp về kinh doanh, thương mại. 02 triệu đồng 02 triệu đồng Đối với yêu cầu tuyên bố hợp đồng mua bán, chuyển nhượng vô hiệu và có yêu cầu giải quyết hậu quả của hợp đồng vô hiệu Điểm b Khoản 3 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 quy định: “b) Trường hợp một bên yêu cầu công nhận hợp đồng mua bán tài sản, chuyển nhượng quyền sử dụng đất và một bên yêu cầu tuyên bố hợp đồng mua bán tài sản, chuyển nhượng quyền sử dụng đất vô hiệu và có yêu cầu Tòa án giải quyết hậu quả của hợp đồng vô hiệu thì ngoài việc chịu án phí không có giá ngạch được quy định tại điểm a khoản 3 Điều này, người phải thực hiện nghĩa vụ về tài sản hoặc bồi thường thiệt hại phải chịu án phí như trường hợp vụ án dân sự có giá ngạch đối với giá trị tài sản phải thực hiện nghĩa vụ." Theo đó: - Nghĩa vụ đóng án phí thuộc về người phải thực hiện nghĩa vụ về tài sản hoặc bồi thường thiệt hại (tức bên thua kiện) - Án phí phải nộp bao gồm: (1) Án phí không có giá ngạch khi yêu cầu tuyên bố hợp đồng vô hiệu (2) Án phí có giá ngạch đối với phần tài sản phải thực hiện nghĩa vụ. Cụ thể về ngạch án phí quy định tại Phục lục Nghị quyết 326 như sau: Tên án phí Mức thu 1.3 Đối với tranh chấp về dân sự, hôn nhân và gia đình có giá ngạch a Từ 6.000.000 đồng trở xuống 300.000 đồng b Từ trên 6.000.000 đồng đến 400.000.000 đồng 5% giá trị tài sản có tranh chấp c Từ trên 400.000.000 đồng đến 800.000.000 đồng 20.000. 000 đồng + 4% của phần giá trị tài sản có tranh chấp vượt quá 400.000.000 đồng d Từ trên 800.000.000 đồng đến 2.000.000.000 đồng 36.000.000 đồng + 3% của phần giá trị tài sản có tranh chấp vượt 800.000.000 đồng đ Từ trên 2.000.000.000 đồng đến 4.000.000.000 đồng 72.000.000 đồng + 2% của phần giá trị tài sản có tranh chấp vượt 2.000.000.000 đồng e Từ trên 4.000.000.000 đồng 112.000.000 đồng + 0,1% của phần giá trị tài sản tranh chấp vượt 4.000.000.000 đồng. 1.4 Đối với tranh chấp về kinh doanh, thương mại có giá ngạch a Từ 60.000.000 đồng trở xuống 3.000.000 đồng b Từ trên 60.000.000 đồng đến 400.000.000 đồng 5% của giá trị tranh chấp c Từ trên 400.000.000 đồng đến 800.000.000 đồng 20.000.000 đồng + 4% của phần giá trị tranh chấp vượt quá 400.000.000 đồng d Từ trên 800.000.000 đồng đến 2.000.000.000 đồng 36.000.000 đồng + 3% của phần giá trị tranh chấp vượt quá 800.000.000 đồng đ Từ trên 2.000.000.000 đồng đến 4.000.000.000 đồng 72.000.000 đồng + 2% của phần giá trị tranh chấp vượt 2.000.000.000 đồng e Từ trên 4.000.000.000 đồng 112.000.000 đồng + 0,1% của phần giá trị tranh chấp vượt 4.000.000.000 đồng 1.5 Đối với tranh chấp về lao động có giá ngạch a Từ 6.000.000 đồng trở xuống 300.000 đồng b Từ trên 6.000.000 đồng đến 400.000.000 đồng 3% giá trị tranh chấp, nhưng không thấp hơn 300.000 đồng c Từ trên 400.000.000 đồng đến 2.000.000.000 đồng 12.000.000 đồng + 2% của phần giá trị có tranh chấp vượt quá 400.000.000 đồng d Từ trên 2.000.000.000 đồng 44.000.000 đồng + 0,1% của phần giá trị có tranh chấp vượt 2.000.000.000 đồng Đối với các loại hợp đồng khác Đối với các hợp đồng khác, khi giải quyết trường hợp yêu cầu tuyên bố hợp đồng vô hiệu hoặc có hiệu lực, yêu cầu của bên nào được chấp thuận thì bên đó sẽ không phải chịu án phí. Người phải thực hiện nghĩa vụ về tài sản hoặc bồi thường thiệt hại khi tuyên hợp đồng vô hiệu phải chịu án phí như trường hợp vụ án dân sự có giá ngạch đối với giá trị tài sản phải thực hiện nghĩa vụ.
Người vay tẩu tán tài sản, cố tình không muốn trả nợ thì phải làm sao?
Chào luật sư Em tên Hà. Mẹ em có cho ông A mượn một khoản tiền là 1 tỷ vì mẹ e có buôn bán nông sản một thời gian ông A không muốn trả mặc dù mẹ e nói nhiều lần. Ông A tuyên bố k trả và đã chuyển nhượng hết đất đai tài sản cho con cái. Trường hợp này mẹ em nên giải quyết như thế nào ạ? Em cảm ơn luật sư nhiều
Chuyển nhượng tài sản trước khi mất
Em có một trường hợp muốn được sự tư vấn của các luật sư ạ ông A và bà B kết hôn từ năm 1983, sinh ra 2 người con gái là C,D bà B có 1 người con riêng với chồng cũ là E. Từ năm 1983 đến nay chung sống với nhau rất tìm cảm và ổn định. khi kết hôn thì bà chuyển đến sống với ông tại 1 ngôi nhà 120m2 ( đã nhập hộ khẩu), đến nay ông A sức khỏe không tốt, thường xuyên bị ốm nặng, nên ông đã lập di chúc cho 3 người con gái C,D ( C,D đang định cư tại nước ngoài), vì sợ rằng bà B nhận thừa kế và chia sẻ tài sản thừa kế cho người con riêng của mình nên ko di chúc cho bà B. Trong thời gian chung sống bà B ăn lên làm ra chăm bẵn gia đình hỗ trợ gia đình giúp 2 người con gái định cư nước ngoài và sửa sang nhà cửa, và rất hết mực tin tưởng ông A nên các tài khoản ngân hàng và sổ tiết kiệm đều đứng tên ông A. Đến nay ông có sức khỏe không tốt đã lập di chúc như trên và đang có hành vi tẩu tán tài sản và có ý định chuyển nhượng quyền sử dụng đất cho 2 người con gái kía! Em muốn hỏi là: bà B không cần toàn bộ số tiền tiết kiệm, tài khoản ngân hàng. nhưng có trường hợp nào ông A tự ý quyết định chuyển nhượng ngôi nhà kia không hay khai báo đó là tài sản riêng không.
Hiệu lực của hợp đồng khi chuyển nhượng nhà đất chỉ có chữ ký một bên vợ/chồng?
>>> 03 câu hỏi thường gặp về tài sản của vợ chồng khi ly hôn >>> Cách chứng minh “tài sản riêng của vợ, chồng” trong thời kỳ hôn nhân? Thực tế vẫn xảy ra nhiều trường hợp vợ chồng chuyển nhượng tài sản chung là nhà đất nhưng hợp đồng chỉ có chữ ký của một bên vợ hoặc chồng. Liệu việc thiếu chữ ký của bên còn lại có làm cho hợp đồng bị vô hiệu hay không? Cùng theo dõi lời giải đáp tại bài viết dưới đây nhé! Pháp luật hôn nhân và gia đình ghi nhận, tài sản chung của vợ chồng thuộc sở hữu chung hợp nhất, được dùng để bảo đảm nhu cầu của gia đình, thực hiện nghĩa vụ chung của vợ chồng (khoản 2 Điều 33 Luật Hôn nhân và gia đình 2014). Trong đó, “sở hữu chung hợp nhất” được hiểu là sở hữu chung mà phần quyền sở hữu của mỗi chủ sở hữu chung không được xác định đối với tài sản chung (Điều 210 Bộ luật Dân sự 2015). Xét về vấn đề định đoạt tài sản chung: Các chủ sở hữu chung hợp nhất có quyền, nghĩa vụ ngang nhau đối với tài sản thuộc sở hữu chung (Khoản 2 Điều 210 Bộ luật Dân sự 2015). Mặt khác, tại Điều 35 Luật Hôn nhân và Gia đình 2014 cũng có quy định cụ thể về về quyền của vợ chồng đối với tài sản chung như sau: - Việc chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản chung do vợ chồng thỏa thuận. - Việc định đoạt tài sản chung phải có sự thỏa thuận bằng văn bản của vợ chồng trong những trường hợp: + Bất động sản; + Động sản mà theo quy định của pháp luật phải đăng ký quyền sở hữu; + Tài sản đang là nguồn tạo ra thu nhập chủ yếu của gia đình. Từ các căn cứ trên, chúng ta đưa ra kết luận: khi nhà đất là tài sản chung của vợ chồng thì việc định đoạt nhà đất như chuyển nhượng quyền sử dụng đất phải có sự thỏa thuận bằng văn bản của cả vợ và chồng, tức là phải có sự thống nhất ý chí giữa hai vợ chồng. Do vậy, trường hợp chỉ có một bên vợ/chồng ký vào hợp đồng chuyển nhượng nhà đất thì cần xét đến 02 trường hợp sau: >>>TH1: Nếu giữa hai vợ chồng CÓ thỏa thuận về việc chỉ có một mình vợ/chồng ký tên vào hợp đồng thì hợp đồng đó vẫn có hiệu lực. Tuy nhiên, việc thỏa thuận chuyển nhượng quyền sử dụng đất chỉ do một người đứng tên phải được lập thành văn bản theo quy định của pháp luật. >>>TH2: Nếu giữa hai vợ chồng KHÔNG có thỏa thuận về việc chỉ có một mình vợ/chồng ký tên, giữa hai vợ chồng không có văn bản thỏa thuận việc một mình vợ/chồng ký tên vào hợp đồng nói trên thì hợp đồng chuyển nhượng nhà đất không có hiệu lực. Vì có rất nhiều trường hợp khi bán nhà đất chỉ có một mình vợ hoặc chồng đứng tên trên giấy chuyển nhượng, đến khi có tranh chấp lại lấy căn cứ do bán nhà đất không có sự đồng ý của vợ nên hợp đồng vô hiệu. Điều này dễ làm ảnh hưởng đến quyền lợi của bên nhận chuyển nhượng. Để giải quyết trường hợp này, Án lệ số 04/2016/AL đã làm rõ về việc chuyển nhượng đất chỉ có chữ ký của chồng trong hợp đồng. Án lệ số 04/2016 giải quyết Tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa bà Tý, ông Tiến với vợ chồng ông Ngự, bà Phấn. Theo đó: “Bà Tý và ông Tiến có mua nhà đất của vợ chồng ông Ngự bà Phấn thông qua hợp đồng mua bán nhà, đất ngày 26-4-1996. Việc chuyển nhượng nhà, đất diễn ra từ năm 1996, sau khi mua nhà, đất, ông Tiến, bà Tý đã trả đủ tiền, nhận nhà đất, tôn nền đất, sửa lại nhà và cho các cháu đến ở. Trong khi đó gia đình ông Ngự, bà Phấn vẫn ở trên diện tích đất còn lại, liền kề với nhà ông Tiến, bà Tý. Nhưng khi xảy ra tranh chấp, ông Ngự và bà Phấn cho rằng hợp đồng chuyển nhượng nói trên chỉ có chữ ký của ông Ngự, việc chuyển nhượng bà Phấn không biết nên hợp đồng chuyển nhượng không có hiệu lực, đất có tranh chấp vẫn là của ông bà. Tuy nhiên, theo lời khai của các người con ông Ngự, bà Phấn thì sau khi bán nhà, đất cho vợ chồng bà Tý, ông Ngự, bà Phấn đã phân chia vàng cho các người con. Mặt khác, sau khi chuyển nhượng và giao nhà đất cho ông Tiến, bà Tý thì ngày 26-4-1996, ông Ngự còn viết “giấy cam kết” có nội dung mượn lại phần nhà đất đã sang nhượng để ở khi xây dựng lại nhà trên phần đất còn lại và trong thực tế vợ chồng bà Phấn, ông Ngự đã sử dụng phần nhà đất của bà Tý, ông Tiến khi xây dựng nhà. Như vậy, có cơ sở xác định bà Phấn biết có việc chuyển nhượng nhà, đất giữa ông Ngự với vợ chồng ông Tiến và bà Tý, bà Phấn đã đồng ý, cùng thực hiện nên việc bà Phấn khiếu nại cho rằng ông Ngự chuyển nhượng nhà đất cho vợ chồng bà Tý bà không biết là không có căn cứ. Trong vụ tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất nêu trên, đất là tài sản chung của vợ chồng mà chỉ có một người đứng tên ký hợp đồng chuyển nhượng nhà đất đó cho người khác, người còn lại không ký tên trong hợp đồng; nếu có đủ căn cứ xác định bên chuyển nhượng đã nhận đủ số tiền theo thỏa thuận, người không ký tên trong hợp đồng biết và cùng sử dụng tiền chuyển nhượng nhà đất; bên nhận chuyển nhượng nhà đất đã nhận và quản lý, sử dụng nhà đất đó công khai; người không ký tên trong hợp đồng biết mà không có ý kiến phản đối gì thì phải xác định là người đó đồng ý với việc chuyển nhượng nhà đất. Từ các lập luận và phán quyết của Tòa án cho thấy việc chuyển nhượng đất mặc dù chỉ có một mình chồng ký tên vào hợp đồng nhưng để kết luận hợp đồng đó có hiệu lực hay không phải căn cứ vào việc thống nhất ý chí của vợ chồng.” Theo đó, nội dung án lệ trên đã xác định: nếu một bên vợ/chồng còn lại không ký tên vào hợp đồng nhưng biết việc chuyển nhượng nhà đất nhưng không phản đối hoặc đã thực hiện hợp đồng như nhận tiền, giao đất đây được xem là căn cứ chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng theo khoản 2 Điều 393 Bộ luật Dân sự 2015 (biết mà không phản đối chính là đồng ý). Vì vậy, hợp đồng chuyển nhượng vẫn có hiệu lực. Kết luận: để xác định hợp đồng chuyển nhượng nhà đất chỉ có chữ ký của một bên vợ/chồng liệu có hiệu lực hay không thì chúng ta phải xác định được tài sản đó có phải tài sản thuộc sở hữu chung của vợ chồng hay không, việc chuyển nhượng đất đó có được sự thống nhất ý chí của hai vợ chồng hay không.
Chuyển nhượng tài sản đang thế chấp Ngân hàng
Trường hợp này, tài sản chuyển nhượng là tài sản đang thế chấp để thực hiện nghĩa vụ - cụ thể là nghĩa vụ trả nợ cho NH. Nên nếu muốn chuyển nhượng thì sẽ phải có sự đồng ý của NH (bên nhận chuyển nhượng). Nếu NH đồng ý thì vấn đề sẽ khá đơn giản, thủ tục chỉ chủ yếu gồm 3 việc: - Hủy thế chấp với tài sản này: thủ tục này thực hiện theo quy định ở Nghị định 102/2017/NÐ-CP về đăng ký biện pháp bảo đảm: Điều 47. Hồ sơ xóa đăng ký biện pháp bảo đảm bằng quyền sử dụng đất, tài sản gắn liền với đất Tuy nhiên, thông thường sẽ rất khó để NH chấp nhận việc này; thường thì NH sẽ yêu cầu người mua phải tất toán khoản nợ tại NH thì NH mới cho phép giải phóng tài sản thế chấp. Còn về việc chị nói rằng công ty sẽ chịu lãi thay cho cá nhân thì chắc chắn sẽ không phải là phương án mà NH chấp nhận, công ty chị sẽ không thể thực hiện việc này được.
Chuyển nhượng tài sản nhằm trốn tránh nghĩa vụ trả nợ
-Em có một chút thắc mắc rất mong được các Luật sư quan tâm giúp đỡ. - Nội dung sự việc như sau: Vào tháng 6 năm 2018 gia đình em có cho ông A vay số tiền là 300.000.000 đồng (Không có thế chấp) và không tính lãi suất, ông A cam kết đến cuối năm 2018 (Tức ngày 31/12/2018) thì ông sẽ thực hiện việc hoàn trả toàn bộ số tiền 300.000.000 đồng trên cho gia đình em. Việc vay mượn này chỉ được xác lập bằng giấy viết tay, không có người làm chứng. Tuy nhiên, đến tháng 11/2018 thì ông A thực hiện việc chuyển nhượng toàn bộ tài sản qua cho cháu của mình đứng tên nhằm trốn tránh việc trả nợ cho gia đình em. - Các Luật sư cho em được hỏi: Bây giờ gia đình em có thể làm gì để tạm dừng việc ông A chuyển nhượng các tài sản này. - Em xin chân thành cảm ơn.!
Hỏi về xuất hóa đơn khi doanh nghiệp chuyển nhượng QSDĐ
Mình có tình huống mắc phải nhưng còn nhiều vấn đề chưa rõ, mong các thành viên tham khảo và hỗ trợ giúp mình, Năm 2017 Cty A mua 1 mảnh đất với giá 20 tỷ của công ty B ( giả định mảnh đất đó sổ đỏ chính chủ không tranh chấp, Cty B có đầy đủ quyền sử dụng đối với mảnh đất đó, thuế suất thuế TNDN Cty B là 20%) Nhờ anh / chị tư vấn giúp như sau: 1. Nếu cho rằng công ty B đó "chuyển quyền sử dụng đất " và cty B đó "chuyển nhượng lô đất" thì có phải là 2 trường hợp riêng biệt không?̣do mình còn mơ hồ 2 khái niệm này) Nếu đó là 2 trường hợp khác nhau thì cty B phải tính thuế GTGT và thuế TNDN cho từng trường hợp như thế nào? cty B có phải xuất hoá đơn GTGT cho cty A hay không? 2. Nếu cty B phải xuất hoá đơn thì làm thế nào để xác nhận được hoá đơn của cty B là hợp pháp? giá tính thuế trong trường hợp này là như thế nào? có thể xác định được công ty B đó có kê khai hoá đơn GTGT đó hay không? 3. Thủ tục chuyển nhượng được tiến hành như thế nào? Công ty A phải chi trả các khoản phí nào để thực hiện thủ tục này? Nếu có cơ sở pháp lý mọi người vui lòng dẫn giúp mình để tiện tham khảo, cảm ơn mọi người.