Phân biệt chế tài giữa chậm trả nợ và không trả nợ
Chế tài đối với người vay nợ khi chậm trả và không trả khác nhau thế nào? Phân biệt chế tài giữa 02 hành vi này và bên cho vay cần làm gì trong 02 trường hợp này. Bài viết sẽ cung cấp một số thông tin liên quan đến vấn đề này. Nghĩa vụ trả nợ của người vay Căn cứ theo Điều 466 Bộ luật Dân sự 2015 quy định về nghĩa vụ trả nợ của bên vay như sau: - Bên vay tài sản là tiền thì phải trả đủ tiền khi đến hạn; nếu tài sản là vật thì phải trả vật cùng loại đúng số lượng, chất lượng, trừ trường hợp có thỏa thuận khác. - Trường hợp bên vay không thể trả vật thì có thể trả bằng tiền theo trị giá của vật đã vay tại địa điểm và thời điểm trả nợ, nếu được bên cho vay đồng ý. - Địa điểm trả nợ là nơi cư trú hoặc nơi đặt trụ sở của bên cho vay, trừ trường hợp có thỏa thuận khác. Theo đó, người vay có nghĩa vụ trả đúng, đủ số tiền khi đến hạn. Tuy nhiên trong một số trường hợp người vay chậm trả hoặc không trả nợ, vậy chế tài dành cho 02 hành vi này được pháp luật quy định như thế nào? (1) Trường hợp người vay chậm trả nợ Trường hợp bên vay chậm trả tiền thì bên đó phải trả lãi đối với số tiền chậm trả tương ứng với thời gian chậm trả. Trong trường hợp này, nếu vay không có lãi mà khi đến hạn bên vay không trả nợ hoặc trả không đầy đủ thì bên cho vay có quyền yêu cầu trả tiền lãi với mức lãi suất theo quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật Dân sự 2015 trên số tiền chậm trả tương ứng với thời gian chậm trả, trừ trường hợp có thỏa thuận khác hoặc luật có quy định khác. Còn đối với trường hợp vay có lãi mà khi đến hạn bên vay không trả hoặc trả không đầy đủ thì bên vay phải trả lãi như sau: - Lãi trên nợ gốc theo lãi suất thỏa thuận trong hợp đồng tương ứng với thời hạn vay mà đến hạn chưa trả; trường hợp chậm trả thì còn phải trả lãi theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 của BLDS 2015; - Lãi trên nợ gốc quá hạn chưa trả bằng 150% lãi suất vay theo hợp đồng tương ứng với thời gian chậm trả, trừ trường hợp có thỏa thuận khác. Song, theo quy định của Bộ luật Dân sự 2015 tại Điều 353 quy định về chậm thực hiện nghĩa vụ như sau: Khi người vay chậm thực hiện nghĩa vụ là nghĩa vụ vẫn chưa được thực hiện hoặc chỉ được thực hiện một phần khi thời hạn thực hiện nghĩa vụ đã hết thì bên vay phải thông báo ngay cho bên cho vay biết về việc không thực hiện nghĩa vụ đúng thời hạn. Ngoài ra, nếu sau khi bên vi phạm nhận được thông báo và không thực hiện việc thanh toán cả phần nợ và phần lãi, bên cho vay có thể gửi đơn khởi kiện ra Tòa án nhân dân cấp huyện để khởi kiện về việc vi phạm hợp đồng của bên vay. Như vậy, khi chậm trả nợ người vay phải thông báo đến người cho vay biết về việc chậm thực nghĩa vụ trả nợ của mình. Đồng thời, sau đó người vay phải thực hiện thanh toán nợ gốc và cả lãi chậm trả tương ứng với thời gian chậm trả của mình. (2) Trường hợp người vay không trả nợ Vay tiền không trả thường có hai hậu quả: ngoài trường hợp vi phạm hợp đồng dân sự thì người vay có thể cấu thành tội phạm lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản, nếu như người vay thuộc một trong các trường hợp sau: - Đến thời hạn trả tiền, mặc dù hoàn toàn có khả năng trả tiền nhưng cố tình không trả (thường được biểu hiện bằng việc thách thức hoặc lẩn trốn không muốn trả) Dùng thủ đoạn gian dối chiếm đoạt tài sản vay (bằng lời nói hoặc tin nhắn bịa đặt những điều sai sự thật để kéo thời gian- mục đích không muốn trả) - Sử dụng tài sản vay vào mục đích bất hợp pháp dẫn đến không có khả năng trả lại tài sản vay (dùng tiền vay để đánh bạc, sử dụng ma túy… và không thể trả lại được). Điển hình như khi đến hạn trả nợ theo thỏa thuận cam kết, người cho vay tiền yêu cầu hoàn trả nợ như đã thỏa thuận thì người vay tiền có những hành vi gian dối như: hứa hẹn, khất lần, quanh co, đưa các thông tin giả về tài liệu cá nhân, nhân thân để tìm mọi cách để trì hoãn việc trả nợ, sau đó ẩn các thông tin cá nhân cung cấp ban đầu, tắt điện thoại, bỏ trốn khỏi nơi cư trú với mục đích chiếm đoạt toàn bộ số tiền vay để không phải trả nợ thì có thể có dấu hiệu hành vi vi phạm về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” tại Điều 174 hoặc “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản” tại Điều 175 được quy định Bộ luật hình sự năm 2015 (được sửa đổi bổ sung năm 2017) với mức hình phạt cao nhất là phạt tù đến 20 năm hoặc chung thân. Tuy nhiên, theo quy định của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 thì việc vay tiền không trả không phải lúc nào cũng trở thành tội phạm. Vậy nên, nếu như hành vi của bên vay chỉ dừng lại ở mức độ vi phạm dân sự thì không cấu thành tội phạm mà chỉ vi phạm hợp đồng dân sự - hợp đồng vay tiền; đó là trường hợp mặc dù đã đến hạn phải trả tiền mặc dù có thiện trí trả tiền nhưng người vay không có khả năng để trả, có thông báo hoặc cam kết với người cho vay. Do đó, để đảm bảo quyền lợi của mình, bên cho vay có thể nộp hồ sơ khởi kiện đến Tòa án nhân dân cấp huyện nơi cư trú. Đã bị phạt tù thì có phải trả nợ không? Trên thực tế có nhiều trường hợp bên vay chưa hoàn thành nghĩa vụ trả nợ nhưng phải đi tù. Vậy câu hỏi đặt ra bên vay có được xóa nợ nếu đi tù không? Trong trường hợp này bên vay có thể thỏa thuận với bên cho vay để hoãn thực hiện nghĩa vụ trả nợ đến khi thi hành án kết thúc và phải được bên cho vay đồng ý theo quy định tại Điều 354 Bộ luật Dân sự 2015. Ngoài ra, bên vay nợ có thể ủy quyền cho bên thứ ba để thực hiện nghĩa vụ trả nợ thay cho mình theo quy định tại Điều 283 Bộ luật Dân sự 2015. Như vậy, dù phải chấp hành hình phạt tù thì bên vay nợ vẫn phải hoàn thành nghĩa vụ trả nợ, tự mình trả nợ hoặc thông qua bên thứ ba.
Giam lương, giữ lương của NLĐ: Coi chừng vi phạm pháp luật!
Giam lương, giữ lương NLĐ Giam lương, giữ lương ở các doanh nghiệp là việc người sử dung lao động giữ lại một phần tiền lương của NLĐ sau mỗi tháng làm việc vì nhiều lý do khác nhau. Nhiều công ty chỉ giam lương nhiều nhất là 1 tuần, tuy nhiên có những công ty lại giam lương đến gần 20 ngày, vậy việc giam lương này có được pháp luật quản lý hay không? Mời tham khảo bài viết sau đây! 1. Giam lương có hợp pháp? Điều 94 Bộ luật lao động 2019 có quy định về nguyên tắc trả lương như sau: “1. Người sử dụng lao động phải trả lương trực tiếp, đầy đủ, đúng hạn cho người lao động. Trường hợp người lao động không thể nhận lương trực tiếp thì người sử dụng lao động có thể trả lương cho người được người lao động ủy quyền hợp pháp.” Tuy nhiên, giống như tất cả các điều khoản khác trong hợp đồng lao động, “giam lương” thực chất cũng là một thỏa thuận dân sự của hai bên. Việc trả lương đúng hạn này được hiểu là đúng hạn ghi trong hợp đồng. Kể cả khi NSDLĐ trả lương cho NLĐ vào cuối tháng làm việc tiếp theo, nhưng đó là thỏa thuận ngay từ đầu thì cũng không được coi là trà trả lương trễ hạn. Dù Nghị định 145/2020/NĐ-CP có nhắc đến căn cứ trả lương theo tháng, theo giờ, theo ngày, nghĩa là mỗi lần trả lương NLĐ sẽ trả công cho 1 tháng làm việc, tuy nhiên vẫn không có căn cứ để nói rằng “trả lương theo tháng” nghĩa là cứ đến đúng cuối tháng phải trả tiền! Có thể hiểu rằng việc giữ lại lương của người lao động thực chất không có quy định cụ thể để căn cứ áp dụng mà là thỏa thuận giữa hai bên, và trên thực tế thì những điều khoản dạng này sẽ được ghi nhận trực tiếp vào nội quy của công ty, chính vì vậy nếu NLĐ cảm thấy không hài lòng với phương thức trả lương chậm ngày, họ chỉ có thể chuyển sang làm ở nơi khác mà khó có thể thỏa thuận một điều khoản khác. 2. Vẫn có căn cứ để quy trách nhiệm Tại Điều 17 BLLĐ 2019 có quy định những hành vi người sử dụng lao động không được làm khi giao kết, thực hiện hợp đồng lao động, trong đó có: “2. Yêu cầu người lao động phải thực hiện biện pháp bảo đảm bằng tiền hoặc tài sản khác cho việc thực hiện hợp đồng lao động.” Như vậy nếu chứng minh được rằng việc giam lương của NSDLĐ cũng là hình thức yêu cầu NLĐ phải đảm bảo bằng tiền để thực hiện hợp đồng thì sẽ có căn cứ để cơ quan chức năng tiến hành xử phạt cơ sở lao động, tuy nhiên hiện nay BLLĐ vẫn chưa có Nghị định xử phạt hành chính cụ thể. Trước đây, hành vi này bị quy định xử phạt theo Điểm b Khoản 2 Điều 8 Nghị định 28/2020/NĐ-CP (Nghị định xử phạt hành chính áp dụng cho Bộ luật lao động 2012) với mức xử phạt lên tới 20 triệu đồng. Ngoài ra, theo Khoản 4 Điều 97 BLLĐ 2019. thậm chí Nếu thời gian trả lương chậm từ 15 ngày trở lên thì phải trả thêm một khoản tiền ít nhất bằng số tiền trả chậm nhân với lãi suất trần huy động tiền gửi có kỳ hạn 01 tháng do Ngân hàng Nhà nước Việt Nam công bố tại thời điểm trả lương.
Vay tiền ngân hàng chậm trả có bị khởi tố tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản không?
Thưa anh ! Thời gian qua em có vay của ngân hàng FE Credit một khoảng tiền với thời gian hôp đồng là 24 tháng trong giai đoạn trả góp mỗi kì cho đến tháng 15 thì em yêu cầu từ phía ngân hàng giải quyết hợp đồng cho em , nhưng khi nghe DT là giải quyết hợp đồng thì nhân viên tắt máy , và cu vạy kéo dài ra khoảng 1 tuần lễ lại gọi và yêu cầu em đóng tiền và thêm 1 khoảng tiền phạt vì đóng trễ , liên tục như vậy thêm vài tháng nữa và em không đóng tiếp vì yêu cầu giãi quyết hợp đồng cho em không thực hiện mà còn trì hoãn để em phải đóng thêm phí phạt , và bây giờ từ phía ngân hàng liên tục gọi điện thưa em ra tòa án và bắt em phải đóng tiếp 4 tháng còn lại và phải chịu thêm mức phạt do ngân hàng đưa ra là khoảng 9 tr tiền gốc và 3 tr tiền phạt , vậy xin anh cho em hỏi nếu thưa ra tòa với nội dung ngân hàng đưa ra lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản thì có đúng không ạ?
Phân biệt chế tài giữa chậm trả nợ và không trả nợ
Chế tài đối với người vay nợ khi chậm trả và không trả khác nhau thế nào? Phân biệt chế tài giữa 02 hành vi này và bên cho vay cần làm gì trong 02 trường hợp này. Bài viết sẽ cung cấp một số thông tin liên quan đến vấn đề này. Nghĩa vụ trả nợ của người vay Căn cứ theo Điều 466 Bộ luật Dân sự 2015 quy định về nghĩa vụ trả nợ của bên vay như sau: - Bên vay tài sản là tiền thì phải trả đủ tiền khi đến hạn; nếu tài sản là vật thì phải trả vật cùng loại đúng số lượng, chất lượng, trừ trường hợp có thỏa thuận khác. - Trường hợp bên vay không thể trả vật thì có thể trả bằng tiền theo trị giá của vật đã vay tại địa điểm và thời điểm trả nợ, nếu được bên cho vay đồng ý. - Địa điểm trả nợ là nơi cư trú hoặc nơi đặt trụ sở của bên cho vay, trừ trường hợp có thỏa thuận khác. Theo đó, người vay có nghĩa vụ trả đúng, đủ số tiền khi đến hạn. Tuy nhiên trong một số trường hợp người vay chậm trả hoặc không trả nợ, vậy chế tài dành cho 02 hành vi này được pháp luật quy định như thế nào? (1) Trường hợp người vay chậm trả nợ Trường hợp bên vay chậm trả tiền thì bên đó phải trả lãi đối với số tiền chậm trả tương ứng với thời gian chậm trả. Trong trường hợp này, nếu vay không có lãi mà khi đến hạn bên vay không trả nợ hoặc trả không đầy đủ thì bên cho vay có quyền yêu cầu trả tiền lãi với mức lãi suất theo quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật Dân sự 2015 trên số tiền chậm trả tương ứng với thời gian chậm trả, trừ trường hợp có thỏa thuận khác hoặc luật có quy định khác. Còn đối với trường hợp vay có lãi mà khi đến hạn bên vay không trả hoặc trả không đầy đủ thì bên vay phải trả lãi như sau: - Lãi trên nợ gốc theo lãi suất thỏa thuận trong hợp đồng tương ứng với thời hạn vay mà đến hạn chưa trả; trường hợp chậm trả thì còn phải trả lãi theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 của BLDS 2015; - Lãi trên nợ gốc quá hạn chưa trả bằng 150% lãi suất vay theo hợp đồng tương ứng với thời gian chậm trả, trừ trường hợp có thỏa thuận khác. Song, theo quy định của Bộ luật Dân sự 2015 tại Điều 353 quy định về chậm thực hiện nghĩa vụ như sau: Khi người vay chậm thực hiện nghĩa vụ là nghĩa vụ vẫn chưa được thực hiện hoặc chỉ được thực hiện một phần khi thời hạn thực hiện nghĩa vụ đã hết thì bên vay phải thông báo ngay cho bên cho vay biết về việc không thực hiện nghĩa vụ đúng thời hạn. Ngoài ra, nếu sau khi bên vi phạm nhận được thông báo và không thực hiện việc thanh toán cả phần nợ và phần lãi, bên cho vay có thể gửi đơn khởi kiện ra Tòa án nhân dân cấp huyện để khởi kiện về việc vi phạm hợp đồng của bên vay. Như vậy, khi chậm trả nợ người vay phải thông báo đến người cho vay biết về việc chậm thực nghĩa vụ trả nợ của mình. Đồng thời, sau đó người vay phải thực hiện thanh toán nợ gốc và cả lãi chậm trả tương ứng với thời gian chậm trả của mình. (2) Trường hợp người vay không trả nợ Vay tiền không trả thường có hai hậu quả: ngoài trường hợp vi phạm hợp đồng dân sự thì người vay có thể cấu thành tội phạm lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản, nếu như người vay thuộc một trong các trường hợp sau: - Đến thời hạn trả tiền, mặc dù hoàn toàn có khả năng trả tiền nhưng cố tình không trả (thường được biểu hiện bằng việc thách thức hoặc lẩn trốn không muốn trả) Dùng thủ đoạn gian dối chiếm đoạt tài sản vay (bằng lời nói hoặc tin nhắn bịa đặt những điều sai sự thật để kéo thời gian- mục đích không muốn trả) - Sử dụng tài sản vay vào mục đích bất hợp pháp dẫn đến không có khả năng trả lại tài sản vay (dùng tiền vay để đánh bạc, sử dụng ma túy… và không thể trả lại được). Điển hình như khi đến hạn trả nợ theo thỏa thuận cam kết, người cho vay tiền yêu cầu hoàn trả nợ như đã thỏa thuận thì người vay tiền có những hành vi gian dối như: hứa hẹn, khất lần, quanh co, đưa các thông tin giả về tài liệu cá nhân, nhân thân để tìm mọi cách để trì hoãn việc trả nợ, sau đó ẩn các thông tin cá nhân cung cấp ban đầu, tắt điện thoại, bỏ trốn khỏi nơi cư trú với mục đích chiếm đoạt toàn bộ số tiền vay để không phải trả nợ thì có thể có dấu hiệu hành vi vi phạm về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” tại Điều 174 hoặc “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản” tại Điều 175 được quy định Bộ luật hình sự năm 2015 (được sửa đổi bổ sung năm 2017) với mức hình phạt cao nhất là phạt tù đến 20 năm hoặc chung thân. Tuy nhiên, theo quy định của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 thì việc vay tiền không trả không phải lúc nào cũng trở thành tội phạm. Vậy nên, nếu như hành vi của bên vay chỉ dừng lại ở mức độ vi phạm dân sự thì không cấu thành tội phạm mà chỉ vi phạm hợp đồng dân sự - hợp đồng vay tiền; đó là trường hợp mặc dù đã đến hạn phải trả tiền mặc dù có thiện trí trả tiền nhưng người vay không có khả năng để trả, có thông báo hoặc cam kết với người cho vay. Do đó, để đảm bảo quyền lợi của mình, bên cho vay có thể nộp hồ sơ khởi kiện đến Tòa án nhân dân cấp huyện nơi cư trú. Đã bị phạt tù thì có phải trả nợ không? Trên thực tế có nhiều trường hợp bên vay chưa hoàn thành nghĩa vụ trả nợ nhưng phải đi tù. Vậy câu hỏi đặt ra bên vay có được xóa nợ nếu đi tù không? Trong trường hợp này bên vay có thể thỏa thuận với bên cho vay để hoãn thực hiện nghĩa vụ trả nợ đến khi thi hành án kết thúc và phải được bên cho vay đồng ý theo quy định tại Điều 354 Bộ luật Dân sự 2015. Ngoài ra, bên vay nợ có thể ủy quyền cho bên thứ ba để thực hiện nghĩa vụ trả nợ thay cho mình theo quy định tại Điều 283 Bộ luật Dân sự 2015. Như vậy, dù phải chấp hành hình phạt tù thì bên vay nợ vẫn phải hoàn thành nghĩa vụ trả nợ, tự mình trả nợ hoặc thông qua bên thứ ba.
Giam lương, giữ lương của NLĐ: Coi chừng vi phạm pháp luật!
Giam lương, giữ lương NLĐ Giam lương, giữ lương ở các doanh nghiệp là việc người sử dung lao động giữ lại một phần tiền lương của NLĐ sau mỗi tháng làm việc vì nhiều lý do khác nhau. Nhiều công ty chỉ giam lương nhiều nhất là 1 tuần, tuy nhiên có những công ty lại giam lương đến gần 20 ngày, vậy việc giam lương này có được pháp luật quản lý hay không? Mời tham khảo bài viết sau đây! 1. Giam lương có hợp pháp? Điều 94 Bộ luật lao động 2019 có quy định về nguyên tắc trả lương như sau: “1. Người sử dụng lao động phải trả lương trực tiếp, đầy đủ, đúng hạn cho người lao động. Trường hợp người lao động không thể nhận lương trực tiếp thì người sử dụng lao động có thể trả lương cho người được người lao động ủy quyền hợp pháp.” Tuy nhiên, giống như tất cả các điều khoản khác trong hợp đồng lao động, “giam lương” thực chất cũng là một thỏa thuận dân sự của hai bên. Việc trả lương đúng hạn này được hiểu là đúng hạn ghi trong hợp đồng. Kể cả khi NSDLĐ trả lương cho NLĐ vào cuối tháng làm việc tiếp theo, nhưng đó là thỏa thuận ngay từ đầu thì cũng không được coi là trà trả lương trễ hạn. Dù Nghị định 145/2020/NĐ-CP có nhắc đến căn cứ trả lương theo tháng, theo giờ, theo ngày, nghĩa là mỗi lần trả lương NLĐ sẽ trả công cho 1 tháng làm việc, tuy nhiên vẫn không có căn cứ để nói rằng “trả lương theo tháng” nghĩa là cứ đến đúng cuối tháng phải trả tiền! Có thể hiểu rằng việc giữ lại lương của người lao động thực chất không có quy định cụ thể để căn cứ áp dụng mà là thỏa thuận giữa hai bên, và trên thực tế thì những điều khoản dạng này sẽ được ghi nhận trực tiếp vào nội quy của công ty, chính vì vậy nếu NLĐ cảm thấy không hài lòng với phương thức trả lương chậm ngày, họ chỉ có thể chuyển sang làm ở nơi khác mà khó có thể thỏa thuận một điều khoản khác. 2. Vẫn có căn cứ để quy trách nhiệm Tại Điều 17 BLLĐ 2019 có quy định những hành vi người sử dụng lao động không được làm khi giao kết, thực hiện hợp đồng lao động, trong đó có: “2. Yêu cầu người lao động phải thực hiện biện pháp bảo đảm bằng tiền hoặc tài sản khác cho việc thực hiện hợp đồng lao động.” Như vậy nếu chứng minh được rằng việc giam lương của NSDLĐ cũng là hình thức yêu cầu NLĐ phải đảm bảo bằng tiền để thực hiện hợp đồng thì sẽ có căn cứ để cơ quan chức năng tiến hành xử phạt cơ sở lao động, tuy nhiên hiện nay BLLĐ vẫn chưa có Nghị định xử phạt hành chính cụ thể. Trước đây, hành vi này bị quy định xử phạt theo Điểm b Khoản 2 Điều 8 Nghị định 28/2020/NĐ-CP (Nghị định xử phạt hành chính áp dụng cho Bộ luật lao động 2012) với mức xử phạt lên tới 20 triệu đồng. Ngoài ra, theo Khoản 4 Điều 97 BLLĐ 2019. thậm chí Nếu thời gian trả lương chậm từ 15 ngày trở lên thì phải trả thêm một khoản tiền ít nhất bằng số tiền trả chậm nhân với lãi suất trần huy động tiền gửi có kỳ hạn 01 tháng do Ngân hàng Nhà nước Việt Nam công bố tại thời điểm trả lương.
Vay tiền ngân hàng chậm trả có bị khởi tố tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản không?
Thưa anh ! Thời gian qua em có vay của ngân hàng FE Credit một khoảng tiền với thời gian hôp đồng là 24 tháng trong giai đoạn trả góp mỗi kì cho đến tháng 15 thì em yêu cầu từ phía ngân hàng giải quyết hợp đồng cho em , nhưng khi nghe DT là giải quyết hợp đồng thì nhân viên tắt máy , và cu vạy kéo dài ra khoảng 1 tuần lễ lại gọi và yêu cầu em đóng tiền và thêm 1 khoảng tiền phạt vì đóng trễ , liên tục như vậy thêm vài tháng nữa và em không đóng tiếp vì yêu cầu giãi quyết hợp đồng cho em không thực hiện mà còn trì hoãn để em phải đóng thêm phí phạt , và bây giờ từ phía ngân hàng liên tục gọi điện thưa em ra tòa án và bắt em phải đóng tiếp 4 tháng còn lại và phải chịu thêm mức phạt do ngân hàng đưa ra là khoảng 9 tr tiền gốc và 3 tr tiền phạt , vậy xin anh cho em hỏi nếu thưa ra tòa với nội dung ngân hàng đưa ra lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản thì có đúng không ạ?