8 chữ vàng Bác Hồ dành tặng cho phụ nữ Việt Nam và 8 chữ vàng dành cho phụ nữ hiện đại
“Anh hùng - Bất khuất - Trung hậu - Đảm đang” là 8 chữ vàng Bác Hồ dành tặng cho phụ nữ Việt Nam. Vậy ý nghĩa 8 chữ vàng trên là gì và 8 chữ vàng dành cho phụ nữ hiện đại là gì? 8 chữ vàng Bác Hồ dành tặng cho phụ nữ Việt Nam Ngày 8/3/1965, nhân kỷ niệm 55 năm ngày quốc tế phụ nữ (1910-1965) Bác dành tặng phụ nữ Việt Nam bức trướng thêu 8 chữ vàng: “Anh hùng - Bất khuất - Trung hậu - Đảm đang”. Với ý nghĩa của 8 chữ vàng như sau: - Hai chữ "Anh hùng" thể hiện tinh thần chiến đấu dũng cảm, hy sinh của phụ nữ Việt Nam trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. - Chữ "Bất khuất" thể hiện tinh thần kiên cường, bất khuất trước mọi khó khăn thử thách, không chịu khuất phục trước kẻ thù. - Chữ "Trung hậu" thể hiện phẩm chất đạo đức cao đẹp của người phụ nữ Việt Nam, luôn sống thủy chung, son sắt, hết lòng vì gia đình, xã hội. - Chữ "Đảm đang" thể hiện vai trò quan trọng của phụ nữ trong gia đình và xã hội, luôn đảm đang, chu đáo, khéo léo trong mọi công việc. 8 chữ vàng dành cho phụ nữ hiện đại Tiếp nối truyền thống, trong thời hiện đại hình tượng người phụ nữ Việt Năm gắn với 8 chữ vàng: “Tự tin - Tự trọng - Trung hậu - Đảm đang”. Đối với người phụ nữ, bốn phẩm chất đạo đức “Tự tin - Tự trọng - Trung hậu - Đảm đang” là những yếu tố quan trọng giúp họ nắm bắt cơ hội, tận dụng các yếu tố tích cực và tránh xa những ảnh hưởng tiêu cực trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập. Những phẩm chất này giúp phụ nữ vượt qua thách thức, khó khăn, từ đó trở thành những người thành công trong cuộc sống và sự nghiệp. Đồng thời, chúng cũng tạo điều kiện để phụ nữ sống có giá trị, sống thiện lương và hữu ích. Khi vai trò và vị trí của phụ nữ được nâng cao, họ sẽ có cơ hội đóng góp nhiều hơn cho sự phát triển của đất nước. Trong mỗi gia đình, bốn phẩm chất này giúp phụ nữ thực hiện tốt vai trò của người vợ, người mẹ, từ đó tạo ra ảnh hưởng tích cực đến các thành viên trong gia đình, góp phần xây dựng một mái ấm no đủ, tiến bộ và hạnh phúc bền vững. Đối với cộng đồng, những phẩm chất đạo đức này giúp phụ nữ thực hiện tốt trách nhiệm công dân, đóng góp tích cực vào sự phát triển của xã hội, góp phần đạt được các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội của địa phương và đất nước. Có các biện pháp nào nhằm thúc đẩy bình đẳng giới? Theo khoản 1 Điều 19 Luật Bình đẳng giới 2006 quy định biện pháp thúc đẩy bình đẳng giới bao gồm: - Quy định tỷ lệ nam, nữ hoặc bảo đảm tỷ lệ nữ thích đáng tham gia, thụ hưởng; - Đào tạo, bồi dưỡng để nâng cao trình độ năng lực cho nữ hoặc nam; - Hỗ trợ để tạo điều kiện, cơ hội cho nữ hoặc nam; - Quy định tiêu chuẩn, điều kiện đặc thù cho nữ hoặc nam; - Quy định nữ được quyền lựa chọn trong trường hợp nữ có đủ điều kiện, tiêu chuẩn như nam; - Quy định việc ưu tiên nữ trong trường hợp nữ có đủ điều kiện, tiêu chuẩn như nam; - Các biện pháp thúc đẩy bình đẳng giới được quy định tại khoản 5 Điều 11, khoản 2 Điều 12, khoản 3 Điều 13, khoản 5 Điều 14 Luật Bình đẳng giới 2006. Như vậy, sẽ có các biện pháp thúc đẩy bình đẳng giới như trên.
Lời chúc 20/10 ngắn gọn ý nghĩa? Bình đẳng giới trong gia đình thể hiện như thế nào?
Ngày 20/10/1930, Hội Phụ nữ phản đế Việt Nam (nay là Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam) được thành lập và Đảng ta đã chọn ngày 20/10 hàng năm làm Ngày Phụ nữ Việt Nam, để tôn vinh những đóng góp và vai trò của phụ nữ. Bài viết sau đây sẽ tổng hợp lời chúc 20/10 ngắn gọn ý nghĩa nhất. Lời chúc 20/10 ngắn gọn ý nghĩa? Ngày 20/10 là dịp để ghi nhận và tôn vinh những đóng góp của phụ nữ trong gia đình, xã hội và kinh tế. Sau đây là một số lời chúc 20/10 ngắn gọn ý nghĩa nhất: 1. Chúc mừng ngày Phụ nữ Việt Nam! Mong bạn luôn hạnh phúc và thành công trong cuộc sống. 2. Gửi đến bạn những lời chúc tốt đẹp nhất! Bạn là nguồn cảm hứng cho mọi người xung quanh. 3. Chúc mẹ luôn mạnh khỏe và vui vẻ! Mẹ là người phụ nữ tuyệt vời nhất trong đời con. 4. Nhân ngày 20/10, chúc bạn luôn tự tin và xinh đẹp! Bạn xứng đáng với điều tốt đẹp nhất. 5. Cảm ơn bạn đã mang đến niềm vui cho cuộc sống! Chúc bạn luôn được yêu thương và trân trọng. 6. Chúc bạn có một ngày ý nghĩa bên những người thân yêu! Hãy luôn giữ nụ cười trên môi. 7. Mỗi ngày đều là ngày của bạn! Hy vọng bạn luôn tìm thấy niềm vui trong cuộc sống. 8. Chúc bạn luôn mạnh mẽ và kiên cường! Bạn có thể vượt qua mọi thử thách. 9. Gửi đến bạn tình yêu và sự trân trọng nhất! Bạn là một phần không thể thiếu trong cuộc sống của chúng tôi. 10. Chúc bạn khám phá những điều mới mẻ và thú vị! Hãy sống hết mình với đam mê. 11. Ngày 20/10, chúc bạn luôn được bao quanh bởi tình yêu! Bạn là ánh sáng trong cuộc đời của nhiều người. 12. Chúc bạn có những khoảnh khắc đáng nhớ trong ngày hôm nay! Hãy tận hưởng những điều tốt đẹp. 13. Cảm ơn bạn đã là người bạn tuyệt vời! Chúc bạn luôn vui vẻ và hạnh phúc. 14. Chúc bạn luôn giữ vững ước mơ và khát vọng của mình! Đừng bao giờ từ bỏ! 15. Người phụ nữ mạnh mẽ như bạn xứng đáng với những điều tốt đẹp nhất! Chúc bạn luôn tỏa sáng. 16. Chúc bạn có sức khỏe dồi dào và tinh thần lạc quan! Hãy luôn yêu đời! 17. Gửi đến bạn những lời chúc chân thành nhất! Bạn là người phụ nữ tuyệt vời! 18. Chúc bạn luôn tìm thấy hạnh phúc trong những điều nhỏ bé! Cuộc sống sẽ thật đẹp nếu chúng ta biết trân trọng. 19. Ngày hôm nay là của bạn! Hãy tận hưởng nó và sống hết mình! 20. Chúc bạn luôn là nguồn động lực cho mọi người! Bạn làm cho thế giới này trở nên tốt đẹp hơn. Như vậy, trên đây là 20 lời chúc 20/10 ngắn gọn ý nghĩa nhất. 20/10 cũng là dịp để nhấn mạnh tầm quan trọng của việc thúc đẩy bình đẳng giới và quyền lợi của phụ nữ. Bình đẳng giới trong gia đình thể hiện như thế nào? Theo Điều 18 Luật Bình đẳng giới 2006 quy định về bình đẳng giới trong gia đình như sau: - Vợ, chồng bình đẳng với nhau trong quan hệ dân sự và các quan hệ khác liên quan đến hôn nhân và gia đình. - Vợ, chồng có quyền, nghĩa vụ ngang nhau trong sở hữu tài sản chung, bình đẳng trong sử dụng nguồn thu nhập chung của vợ chồng và quyết định các nguồn lực trong gia đình. - Vợ, chồng bình đẳng với nhau trong việc bàn bạc, quyết định lựa chọn và sử dụng biện pháp kế hoạch hoá gia đình phù hợp; sử dụng thời gian nghỉ chăm sóc con ốm theo quy định của pháp luật. - Con trai, con gái được gia đình chăm sóc, giáo dục và tạo điều kiện như nhau để học tập, lao động, vui chơi, giải trí và phát triển. - Các thành viên nam, nữ trong gia đình có trách nhiệm chia sẻ công việc gia đình. Như vậy, nội dung bình đẳng giới trong gia đình sẽ được thể hiện như trên. Những hành vi nào bị cấm trong bình đẳng giới? Theo Điều 10 Luật Bình đẳng giới 2006 quy định các hành vi bị nghiêm cấm bao gồm: - Cản trở nam, nữ thực hiện bình đẳng giới. - Phân biệt đối xử về giới dưới mọi hình thức. - Bạo lực trên cơ sở giới. - Các hành vi khác bị nghiêm cấm theo quy định của pháp luật. Như vậy, trong bình đẳng giới sẽ nghiêm cấm cản trở việc thực hiện bình đẳng giới, phân biệt đối xử về giới, bạo lực trên cơ sở giới tính và các hành vi khác.
Công ty sử dụng từ bao nhiêu lao động nữ thì phải trang bị phòng vắt sữa mẹ?
Công ty sử dụng từ bao nhiêu lao động nữ thì phải trang bị phòng vắt sữa mẹ? Không trang bị phòng vắt sữa mẹ cho lao động nữ theo quy định bị phạt bao nhiêu? Công ty sử dụng từ bao nhiêu lao động nữ thì phải trang bị phòng vắt sữa mẹ? Phòng vắt, trữ sữa mẹ là một không gian riêng tư, không phải buồng tắm hay buồng vệ sinh; có nguồn điện, nước, bàn, ghế, tủ lạnh bảo đảm vệ sinh, quạt hoặc điều hòa; bố trí ở vị trí thuận tiện sử dụng, được che chắn khỏi sự xâm phạm, tầm nhìn của đồng nghiệp và công cộng để lao động nữ có thể cho con bú hoặc vắt, trữ sữa (Điều 76 Nghị định 145/2020/NĐ-CP). Dẫn chiếu đến Điều 80 Nghị định 145/2020/NĐ-CP có đề cập khuyến khích người sử dụng lao động lắp đặt phòng vắt, trữ sữa mẹ phù hợp với điều kiện thực tế tại nơi làm việc, nhu cầu của lao động nữ và khả năng của người sử dụng lao động. Tuy nhiên với trường hợp sử dụng từ 1.000 người lao động nữ trở lên thì bắt buộc phải lắp đặt phòng vắt, trữ sữa mẹ tại nơi làm việc. Lưu ý: Bộ Y tế có trách nhiệm hướng dẫn triển khai phòng vắt, trữ sữa mẹ theo quy định khoản 5 Điều 80 Nghị định 145/2020/NĐ-CP. Số lượng phòng vắt sữa mẹ cần trang bị cho lao động nữ có con là bao nhiêu? Căn cứ tại Quyết định 5175/QĐ-BYT năm 2021 Hướng dẫn triển khai phòng vắt, trữ sữa mẹ tại nơi làm việc có đề cập về số lượng phòng vắt sữa như sau: - Số lượng lao động nữ dưới 100 thì số lượng phòng vắt trữ sữa mẹ tối thiểu là 01 phòng. - Số lượng lao động nữ từ 100 đến - Số lượng lao động nữ từ 500 đến - Số lượng lao động nữ từ 1000 lao động nữ trở lên thì số lượng phòng vắt trữ sữa mẹ tối thiểu từ 04 phòng (đảm bảo trung bình 300 lao động nữ/phòng). Không trang bị phòng vắt sữa mẹ cho lao động nữ theo quy định bị phạt bao nhiêu? Căn cứ khoản 2 Điều 28 Nghị định 12/2022/NĐ-CP và khoản 1 Điều 6 Nghị định 12/2022/NĐ-CP quy định như sau: Người sử dụng lao động là cá nhân không lắp đặt phòng vắt sữa mẹ tại nơi làm việc khi sử dụng từ 1.000 người lao động nữ trở lên thì có thể bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 20.000.000 đồng. Trường hợp người sử dụng lao động là tổ chức không lắp đặt phòng vắt sữa mẹ tại nơi làm việc khi sử dụng từ 1.000 người lao động nữ trở lên thì có thể bị phạt tiền từ 20.000.000 đồng đến 40.000.000 đồng. Trách nhiệm của công ty trong việc đảm bảo bình đẳng giới trong lao động quy định ra sao? Theo Điều 136 Bộ luật Lao động 2019 quy định công ty có những trách nhiệm sau trong việc đảm bảo bình đẳng giới như sau: - Bảo đảm thực hiện bình đẳng giới và các biện pháp thúc đẩy bình đẳng giới trong tuyển dụng, bố trí, sắp xếp việc làm, đào tạo, thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi, tiền lương và các chế độ khác. - Tham khảo ý kiến của lao động nữ hoặc đại diện của họ khi quyết định những vấn đề liên quan đến quyền và lợi ích của phụ nữ. - Bảo đảm có đủ buồng tắm và buồng vệ sinh phù hợp tại nơi làm việc. - Giúp đỡ, hỗ trợ xây dựng nhà trẻ, lớp mẫu giáo hoặc một phần chi phí gửi trẻ, mẫu giáo cho người lao động. Tóm lại, nếu công ty sử dụng từ 1.000 người lao động nữ trở lên thì bắt buộc phải lắp đặt phòng vắt, trữ sữa mẹ tại nơi làm việc.
Trọng nam khinh nữ là gì? Công ty trọng nam khinh nữ trong công việc thì bị phạt thế nào?
Trọng nam khinh nữ là gì? Công ty có hành vi trọng nam khinh nữ trong công việc thì bị xử phạt thế nào? 1. Trọng nam khinh nữ là gì? Trọng nam khinh nữ (thuật ngữ tiếng anh là Sexism) là một hệ thống tư tưởng có từ thời xưa tồn tại ở nhiều nơi trên thế giới, đặc biệt là dưới thời phong kiến. Ngay cả trong thế kỷ 21, khi mà quyền con người và sự công bằng được đề cao, những con người hiện đại, văn minh vẫn chưa hoàn toàn thoát khỏi quan niệm lạc hậu này. “Nam” và “nữ” là đại diện cho hai giới tính khác nhau trong xã hội. Còn “trọng” là sự ưu ái, coi trọng. Ngược lại, “khinh” là sự khinh thường, thiếu tôn trọng,... Những từ này được đặt xen kẽ trong câu tạo thành một tư tưởng về sự phân biệt giới tính. Theo đó, vai trò nam giới được đề cao, coi trọng hơn so với nữ giới trong mọi khía cạnh của đời sống xã hội. Đây từng là một hệ thống tư tưởng tồn tại ở nhiều nơi trên thế giới, đặc biệt là dưới chế độ phong kiến. Mặc dù hiện nay quyền phụ nữ được công nhận nhưng hệ thống tư tưởng trọng nam khinh nữ vẫn còn ở một số nước. Trọng nam khinh nữ là một lối tư tưởng sai lệch nhằm phân biệt đối xử dựa trên giới tính, trong đó coi nam giới quan trọng hơn phụ nữ. Đây là quan niệm cổ hủ, lạc hậu đáng bị lên án và xóa bỏ ngay lập tức. Mặc dù quan niệm “Trọng nam khinh nữ” không phổ biến trong xã hội hiện nay nhưng nó vẫn là ngọn lửa nhỏ cháy âm ỉ trong các gia đình qua nhiều thế hệ. Vì vậy, quan niệm này cần phải được xóa bỏ ngay lập tức để đảm bảo một xã hội văn minh, hiện đại và công bằng. 2. Công ty có hành vi trọng nam khinh nữ trong công việc thì bị xử phạt thế nào? Tại khoản 8 Điều 3 Bộ luật Lao động 2019 có giải thích về hành vi phân biệt đối xử trong lao động là hành vi phân biệt, loại trừ hoặc ưu tiên dựa trên chủng tộc, màu da, nguồn gốc quốc gia hoặc nguồn gốc xã hội, dân tộc, giới tính, độ tuổi, tình trạng thai sản, tình trạng hôn nhân, tôn giáo, tín ngưỡng, chính kiến, khuyết tật, trách nhiệm gia đình hoặc trên cơ sở tình trạng nhiễm HIV hoặc vì lý do thành lập, gia nhập và hoạt động công đoàn, tổ chức của người lao động tại doanh nghiệp có tác động làm ảnh hưởng đến bình đẳng về cơ hội việc làm hoặc nghề nghiệp. Như vậy, trọng nam khinh nữ được xem là hành vi phân biệt giới tính do đó nó một trong những hành vi được xem là phân biệt đối xử trong lao động. Đồng thời, tại khoản 1 Điều 8 Bộ luật Lao động 2019 có quy định các hành vi bị cấm trong lao động trong đó bao gồm hành vi phân biệt đối xử trong lao động. Như vậy, trường hợp công ty có hành vi phân biệt đối xử trong lao động là vi phạm vào những hành vi bị cấm trong lao động. Do đó, mức phạt đối với công ty trong trường hợp này được quy định như sau: Theo quy định tại khoản 2 Điều 8 Nghị định 12/2022/NĐ-CP, phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 10.000.000 đồng đối với người sử dụng lao động có một trong các hành vi sau đây: - Phân biệt đối xử trong lao động trừ các hành vi phân biệt đối xử quy định tại điểm d khoản 1 Điều 13, khoản 2 Điều 23, khoản 1 Điều 36 và khoản 2 Điều 37 Nghị định 12/2022/NĐ-CP; - Sử dụng lao động chưa qua đào tạo hoặc chưa có chứng chỉ kỹ năng nghề quốc gia đối với nghề, công việc phải sử dụng lao động đã được đào tạo hoặc phải có chứng chỉ kỹ năng nghề quốc gia; - Không báo cáo tình hình thay đổi về lao động theo quy định; - Không lập sổ quản lý lao động hoặc lập sổ quản lý lao động không đúng thời hạn hoặc không đảm bảo các nội dung cơ bản theo quy định pháp luật. Theo đó, trường hợp người sử dụng lao động có hành vi phân biệt đối xử trong lao động thì sẽ bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 10.000.000 đồng. Tuy nhiên, theo khoản 1 Điều 6 Nghị định 12/2022/NĐ-CP, mức phạt quy định trên đây là mức phạt đối với cá nhân. Mức phạt tiền đối với tổ chức bằng 02 lần mức phạt tiền đối với cá nhân. Ngoài ra, theo tại Điều 8 Nghị định 125/2021/NĐ-CP cũng có quy định về các hành vi vi phạm hành chính trong lĩnh vực bình đẳng giới liên quan đến lao động quy định: - Phạt cảnh cáo đối với hành vi vận động, xúi giục người khác lựa chọn việc làm, nơi làm việc, nghề nghiệp theo định kiến giới. - Phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 15.000.000 đồng đối với một trong các hành vi sau đây: + Phân biệt đối xử về giới trong bảo đảm an toàn lao động, vệ sinh lao động; + Ép buộc hoặc nghiêm cấm người khác lựa chọn việc làm, nơi làm việc, nghề nghiệp vì định kiến giới; + Phân biệt đối xử về giới trong phân công công việc dẫn đến chênh lệch về thu nhập; + Từ chối tuyển dụng hoặc tuyển dụng hạn chế người lao động thuộc một giới tính nhất định. - Phạt tiền từ 20.000.000 đồng đến 30.000.000 đồng đối với hành vi đặt ra và thực hiện các quy định, quy chế có sự phân biệt đối xử về giới. - Các hành vi vi phạm quy định riêng đối với lao động nữ và đảm bảo bình đẳng giới bị xử phạt theo quy định tại Nghị định của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực lao động, bảo hiểm xã hội, đưa người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng. - Biện pháp khắc phục hậu quả: + Buộc khôi phục lại quyền lợi hợp pháp của người bị xâm phạm đối với hành vi quy định tại khoản 2 Điều 8 Nghị định 125/2021/NĐ-CP; + Buộc sửa đổi hoặc bãi bỏ các quy định, quy chế của cơ quan, tổ chức, cá nhân có sự phân biệt đối xử về giới đối với hành vi quy định tại khoản 3 Điều 8 Nghị định 125/2021/NĐ-CP. Theo đó, trường hợp người sử dụng lao động có hành vi vi phạm trong lĩnh vực bình đẳng giới liên quan đến lao động thì sẽ bị xử phạt bằng hình thức cảnh cáo hoặc phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 30.000.000 đồng. Tại khoản 2 Điều 5 Nghị định 125/2021/NĐ-CP cũng quy định mức phạt quy định trên đây là mức phạt đối với cá nhân. Mức phạt tiền đối với tổ chức bằng 02 lần mức phạt tiền đối với cá nhân. Như vậy, tùy thuộc vào từng trường hợp cụ thể của hành vi trọng nam khinh nữ trong công việc mà có mức phạt tiền khác nhau và mức phạt đối với công ty có hành vi trọng nam khinh nữ trong công việc có thể là cảnh cáo hoặc phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 60.000.000 đồng.
Dâu là con, rể là khách là gì? Mẹ chồng bỏ nhà đi vì giận con dâu có được hòa giải ở cơ sở không?
Dâu là con, rể là khách là gì? Mẹ chồng mâu thuẫn với con dâu nên bỏ nhà đi có thuộc phạm vi hòa giải ở cơ sở theo quy định của pháp luật hay không? Dâu là con, rể là khách là gì? Câu tục ngữ “Dâu là con, rể là khách” thể hiện quan niệm của ông ta về mối quan hệ trong gia đình Việt từ ngày xưa: - Dâu là con: Người con dâu là một thành viên cùng ăn, cùng ở, cùng tạo ra vật chất, của cải trong gia đình. Có thể nói, vai trò của con dâu trong gia đình Việt ngày xưa có ý nghĩa và vị trí vô cùng quan trọng bởi mỗi khi đau ốm hay trái gió trở trời, bố mẹ, ông bà chồng đều được một tay cô con dâu chăm sóc; những lo toan trong gia đình được người con dâu cùng chung vai gánh vác. - Ngược lại “rể là khách”: giống như con dâu, con rể cũng là thành viên khác dòng máu đến gia nhập vào gia đình khác - là gia đình vợ. Nhưng thực tế con rể chỉ xuất hiện nhiều vào những ngày gia đình vợ có những công việc quan trọng. Thành viên này thường không gắn bó thường xuyên cả ngày với gia đình như người con dâu. Dưới góc độ xã hội hiện đại, thì quan niệm “dâu là con, rể là khách” nên được nhìn nhận lại một cách linh hoạt và sâu sắc hơn, bởi: Chúng ta đang sống trong một thế giới phẳng - nơi mà bình đẳng giới ngày càng được đề cao đi đôi với đó là cả con dâu và con rể đều có trách nhiệm chung trong việc xây dựng gia đình. Theo đó, có thể nói rằng dâu hay rể thì cũng đều là con. Đều có vai trò giống nhau trong gia đình. Vậy nên cần chú ý một số vấn đề trong việc vận dụng quan niệm “dâu là con, rể là khách” trong thực tế cuộc sống: - Tránh áp đặt quan niệm này một cách cứng nhắc, dẫn đến mâu thuẫn và bất hòa. - Tôn trọng sự khác biệt, thấu hiểu và yêu thương để xây dựng gia đình hạnh phúc. Ngoài ra, trong vấn đề hòa giải ở sở hòa giải viên có thể vận dụng câu nói này vào mâu thuẫn trong quan hệ mẹ chồng nàng dâu qua tình huống sau: Mẹ chồng mâu thuẫn với con dâu nên bỏ nhà đi. Mẹ chồng mâu thuẫn với con dâu nên bỏ nhà đi có thuộc phạm vi hòa giải ở cơ sở không? Căn cứ theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 5 Nghị định 15/2014/NĐ-CP thì hòa giải ở cơ sở được tiến hành đối với các mâu thuẫn, tranh chấp, vi phạm pháp luật sau đây: - Tranh chấp phát sinh từ quan hệ hôn nhân và gia đình như tranh chấp phát sinh từ quan hệ giữa vợ, chồng; quan hệ giữa cha mẹ và con; quan hệ giữa ông bà nội, ông bà ngoại và cháu, giữa anh, chị, em và giữa các thành viên khác trong gia đình; cấp dưỡng; xác định cha, mẹ, con; nuôi con nuôi; ly hôn; Như vậy, trong tình huống “Mẹ chồng mâu thuẫn với con dâu nên bỏ nhà đi” thuộc phạm vi hòa giải ở cơ sở. Lưu ý: theo quy định tại Điều 16 Luật hòa giải ở cơ sở năm 2013 thì hòa giải ở cơ sở được tiến hành khi có một trong các căn cứ sau đây: - Một bên hoặc các bên yêu cầu hòa giải; - Hòa giải viên chứng kiến hoặc biết vụ, việc thuộc phạm vi hòa giải; - Theo phân công của tổ trưởng tổ hòa giải hoặc đề nghị của cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan. Hòa giải viên khi tiến hành hòa giải quan hệ mẹ chồng nàng dâu phải đảm bảo những nguyên tắc hòa giải ở cơ sở nào? Hòa giải viên khi tiến hành hòa giải quan hệ mẹ chồng nàng dâu phải đảm bảo những nguyên tắc tổ chức, hoạt động hòa giải ở cơ sở theo quy định tại Điều 4 Luật hòa giải ở cơ sở năm 2013, cụ thể như sau: - Tôn trọng sự tự nguyện của các bên; không bắt buộc, áp đặt các bên trong hòa giải ở cơ sở. - Bảo đảm phù hợp với chính sách, pháp luật của Nhà nước, đạo đức xã hội, phong tục, tập quán tốt đẹp của nhân dân; phát huy tinh thần đoàn kết, tương trợ, giúp đỡ lẫn nhau giữa các thành viên trong gia đình, dòng họ và cộng đồng dân cư; quan tâm đến quyền, lợi ích hợp pháp của trẻ em, phụ nữ, người khuyết tật và người cao tuổi. - Khách quan, công bằng, kịp thời, có lý, có tình; giữ bí mật thông tin đời tư của các bên, trừ trường hợp quy định tại khoản 4 và khoản 5 Điều 10 của Luật này. - Tôn trọng ý chí, quyền và lợi ích hợp pháp của các bên, quyền và lợi ích hợp pháp của người khác; không xâm phạm lợi ích của Nhà nước, lợi ích công cộng. - Bảo đảm bình đẳng giới trong tổ chức và hoạt động hòa giải ở cơ sở. - Không lợi dụng hòa giải ở cơ sở để ngăn cản các bên liên quan bảo vệ quyền lợi của mình theo quy định của pháp luật hoặc trốn tránh việc xử lý vi phạm hành chính, xử lý về hình sự. Ngoài ra, khi tiến hành tổ chức hòa giải trong trường hợp “Mẹ chồng mâu thuẫn với con dâu nên bỏ nhà đi” hòa giải viên có thể dùng câu nói “Dâu là con, rể là khách” để xoa dịu mối quan hệ mẹ chồng nàng dâu từ cả hai phía mẹ chồng lẫn con dâu, đặc biệt là từ phía mẹ chồng bởi con nào thì cũng là con, không phân biệt là con mình hay con người khác. Để từ đó, giúp các bên có thể cùng nhìn nhận lại vấn đề, thấu hiểu nhau hơn và có một kết quả hòa giải thành công.
Thủ tướng phê duyệt Chương trình hành động quốc gia về Phụ nữ, hòa bình và an ninh
Phó Thủ tướng Trần Lưu Quang ký Quyết định 101/QĐ-TTg phê duyệt Chương trình hành động quốc gia về Phụ nữ, hòa bình và an ninh giai đoạn 2024 - 2030. Mục tiêu chung của Chương trình nhằm bảo đảm và thúc đẩy hơn nữa bình đẳng giới; nâng cao vai trò, vị thế, tiếng nói, quyền lợi và nghĩa vụ, trách nhiệm của phụ nữ trong tham gia các lĩnh vực hòa bình, an ninh, góp phần duy trì hoà bình, ổn định và sự phát triển bền vững của quốc gia và trên phạm vi quốc tế. Mục tiêu cụ thể đến năm 2030 là tăng cường sự tham gia đầy đủ, bình đẳng, có ý nghĩa của phụ nữ Việt Nam trong các lĩnh vực chính trị, đối ngoại, quốc phòng, an ninh và xử lý, ứng phó với các thách thức an ninh phi truyền thống của quốc gia, cũng như trong gìn giữ hoà bình, an ninh quốc tế. Phòng ngừa và ứng phó tốt hơn với bạo lực trên cơ sở giới trong bối cảnh sự cố, thảm họa và ứng phó với các thách thức an ninh phi truyền thống; Tăng cường lồng ghép giới trong hoạt động cứu trợ và phục hồi, bao gồm khắc phục hậu quả chiến tranh, phòng, chống, xử lý, ứng phó với sự cố, thảm họa và các thách thức an ninh phi truyền thống; Tăng cường hợp tác quốc tế trong lĩnh vực Phụ nữ, hòa bình và an ninh. Để đạt được mục tiêu trên, Chương trình đưa ra các nhiệm vụ và giải pháp cụ thể như: Rà soát và hoàn thiện cơ chế, chính sách, pháp luật nhằm tăng cường sự tham gia của phụ nữ trong lĩnh vực hoà bình, an ninh; trong khắc phục hậu quả chiến tranh và phòng, chống, xử lý, ứng phó với sự cố, thảm họa và các thách thức an ninh phi truyền thống. Nâng cao hiệu quả công tác phòng ngừa, ứng phó với bạo lực trên cơ sở giới, đáp ứng nhu cầu cụ thể và thúc đẩy sự tham gia có ý nghĩa của phụ nữ trong bối cảnh khắc phục hậu quả chiến tranh, phòng, chống, xử lý, ứng phó với sự cố, thảm họa và các thách thức an ninh phi truyền thống. Đồng thời, nâng cao năng lực và tăng cường sự tham gia của phụ nữ trong tham gia giải quyết các vấn đề hoà bình, an ninh quốc tế; tích cực thúc đẩy và tham gia các sáng kiến, giải pháp trong khuôn khổ hợp tác song phương, đa phương về Phụ nữ, hòa bình và an ninh; tăng cường trao đổi, chia sẻ kinh nghiệm, tranh thủ sự hỗ trợ của các đối tác quốc tế về thực hiện Chương trình hành động quốc gia về Phụ nữ, hòa bình, an ninh. Theo Chính phủ
Kế hoạch tuyên truyền vai trò của trẻ em, người cao tuổi, bình đẳng giới trong gia đình
Ngày 15/5/2023 Bộ VHTTDL vừa có Quyết định 1242/QĐ-BVHTTDL năm 2023 Ban hành Kế hoạch tổ chức thực hiện các nhiệm vụ về trẻ em, người cao tuổi, bình đẳng giới trong gia đình. Theo đó, tổ chức tuyên truyền vai trò của trẻ em, người cao tuổi, bình đẳng giới trong gia đình như sau: (1) Vai trò của gia đình trong việc thực hiện quyền và bổn phận của trẻ em - Tuyên truyền, phổ biến chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước về các quyền và bổn phận của trẻ em. - Các hoạt động của công tác gia đình có nội dung liên quan đến trẻ em trong gia đình trên cả nước. - Các kiến thức, kỹ năng cơ bản để gia đình thực hiện tốt các quyền và bổn phận của trẻ em theo quy định tại Luật Trẻ em 2016. - Những kinh nghiệm hay; nêu gương những tập thể, cá nhân đã có nhiều đóng góp vào việc thực hiện tốt công tác bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em trong gia đình. (2) Vai trò người cao tuổi trong gia đình trên phương tiện truyền thông đại chúng - Tuyên truyền, phổ biến chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước về người cao tuổi trong gia đình. - Việc phát huy vai trò của người cao tuổi trong gia đình. - Việc bảo vệ, chăm sóc người cao tuổi trong gia đình; hỗ trợ người cao tuổi được phát huy vai trò của mình. - Việc phát huy trí tuệ, kinh nghiệm của người cao tuổi trong việc giáo dục văn hóa ứng xử và xây dựng gia đình hạnh phúc. - Vị trí, vai trò và đóng góp của người cao tuổi trong việc giáo dục giá trị của gia đình; giáo dục đạo đức, lối sống cho thế hệ trẻ trong gia đình. - Những kinh nghiệm hay; những gương điển hình về thực hiện công tác người cao tuổi trong gia đình. (3) Bình đẳng giới trong gia đình trên phương tiện truyền thông đại chúng - Tuyên truyền, phổ biến chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước về bình đẳng giới trong gia đình. - Việc thực hiện công tác bình đẳng giới trong gia đình trên cả nước. - Các kiến thức, kỹ năng để thực hiện bình đẳng giới trong gia đình cho các thành viên gia đình. - Những kinh nghiệm hay; những gương điển hình về thực hiện bình đẳng giới trong gia đình. Xem thêm Quyết định 1242/QĐ-BVHTTDL năm 2023 ban hành ngày 15/5/2023.
Cản trở người tự ứng cử đại biểu Quốc hội bằng cách tuyên truyền sai sự thật do định kiến về giới
Hành vi cố ý tuyên truyền sai sự thật để cản trở người tự ứng cử, được giới thiệu ứng cử đại biểu Quốc hội do định kiến về giới là một hành vi vi phạm pháp luật. Cố ý tuyên truyền sai sự thật để cản trở người khác ứng cử đại biểu Quốc hội do định kiến giới Theo khoản 1 Điều 6 Nghị định 125/2021/NĐ-CP, phạt tiền từ 2.000.000 đồng đến 3.000.000 đồng đối với các hành vi vi phạm hành chính trong lĩnh vực bình đẳng giới liên quan đến chính trị như sau - Xúc phạm danh dự, nhân phẩm của người tự ứng cử, được giới thiệu ứng cử đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân, vào cơ quan lãnh đạo của tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức chính trị xã hội - nghề nghiệp, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp vì định kiến giới; - Xúc phạm danh dự, nhân phẩm nhằm cản trở việc bổ nhiệm người vào vị trí quản lý, lãnh đạo hoặc các chức danh chuyên môn vì định kiến giới; - Cố ý tuyên truyền sai sự thật để cản trở người tự ứng cử, được giới thiệu ứng cử đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân, vào cơ quan lãnh đạo của tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức chí Theo đó, hành vi cố ý tuyên truyền sai sự thật để cản trở người tự ứng cử, được giới thiệu ứng cử đại biểu Quốc hội có thể bị xử phạt vi phạm hành chính với mức phạt tiền từ 2.000.000 đồng đến 3.000.000 đồng. Đây là mức xử phạt vi phạm hành chính quy định đối với các hành vi vi phạm, trường hợp tổ chức có hành vi vi phạm hành chính như cá nhân thì mức phạt tiền bằng 02 lần mức phạt tiền đối với cá nhân. Bình đẳng giới trong lĩnh vực chính trị Theo Điều 11 Nghị định 125/2021/NĐ-CP quy định về bình đẳng giới trong lĩnh vực chính trị như sau: - Nam, nữ bình đẳng trong tham gia quản lý nhà nước, tham gia hoạt động xã hội. - Nam, nữ bình đẳng trong tham gia xây dựng và thực hiện hương ước, quy ước của cộng đồng hoặc quy định, quy chế của cơ quan, tổ chức. - Nam, nữ bình đẳng trong việc tự ứng cử và được giới thiệu ứng cử đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân; tự ứng cử và được giới thiệu ứng cử vào cơ quan lãnh đạo của tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức chính trị xã hội - nghề nghiệp, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp. - Nam, nữ bình đẳng về tiêu chuẩn chuyên môn, độ tuổi khi được đề bạt, bổ nhiệm vào cùng vị trí quản lý, lãnh đạo của cơ quan, tổ chức. - Các biện pháp thúc đẩy bình đẳng giới trong lĩnh vực chính trị bao gồm: + Bảo đảm tỷ lệ thích đáng nữ đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân phù hợp với mục tiêu quốc gia về bình đẳng giới; + Bảo đảm tỷ lệ nữ thích đáng trong bổ nhiệm các chức danh trong cơ quan nhà nước phù hợp với mục tiêu quốc gia về bình đẳng giới. Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã xử phạt hành chính đối với hành vi cố ý tuyên truyền sai sự thật để cản trở người khác ứng cử đại biểu Quốc hội do định kiến giới Theo khoản 1 Điều 14 Nghị định 125/2021/NĐ-CP, Chủ tịch Ủy ban nhân dân các cấp có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính theo chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn được giao đối với các hành vi vi phạm hành chính trong lĩnh vực bình đẳng giới được quy định trong Nghị định 125/2021/NĐ-CP. Theo khoản 1 Điều 15 Nghị định 125/2021/NĐ-CP, Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã có quyền: - Phạt cảnh cáo; - Phạt tiền đến 3.000.000 đồng; - Tịch thu tang vật, phương tiện vi phạm hành chính có giá trị không vượt quá 6.000.000 đồng. Trên đây là thẩm quyền phạt tiền đối với một hành vi vi phạm hành chính của cá nhân. Thẩm quyền phạt tiền đối với hành vi vi phạm hành chính của tổ chức gấp 02 lần thẩm quyền phạt tiền đối với cá nhân tức là Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã có thẩm quyền phạt tiền lên đến 6.000.000 đồng theo chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn được giao đối với các hành vi vi phạm hành chính của tổ chức trong lĩnh vực bình đẳng giới được quy định trong Nghị định 125/2021/NĐ-CP. Tóm lại, cố ý tuyên truyền sai sự thật để cản trở người tự ứng cử, được giới thiệu ứng cử đại biểu Quốc hội do định kiến về giới là một hành vi vi phạm pháp luật. Cá nhân, tổ chức có thể bị xử phạt vi phạm hành chính khi thực hiện hành vi này.
Công văn 912/LĐTBXH-BĐG: Đẩy mạnh bình đẳng giới và ứng phó với bạo lực
Ngày 16/3/2023 Bộ LĐTB&XH có ban hành Công văn 912/LĐTBXH-BĐG năm 2023 về việc hướng dẫn triển khai công tác bình đẳng giới năm 2023. Theo đó, nhằm thực hiện có hiệu quả các quy định của Luật Bình đẳng giới 2006 (BĐG), Chiến lược quốc gia yêu cầu các đơn vị liên quan tập trung triển khai một số nhiệm vụ trọng tâm về công tác bình đẳng giới trong năm 2023 như sau: (1) Triển khai Chiến lược phòng ngừa bình đẳng giới Cụ thể, Bộ sẽ triển khai, thực hiện các dự án sau: Thứ nhất: Chiến lược quốc gia về bình đẳng giới giai đoạn 2021-2030,. Thứ hai: Triển khai Chương trình phòng ngừa, ứng phó với bạo lực trên cơ sở giới giai đoạn 2021-2025. Thứ ba: Triển khai Chương trình truyền thông về bình đẳng giới đến năm 2030… Đặc biệt, đối với các bộ, ngành, cơ quan được giao nhiệm vụ cụ thể trong chiến lược và các chương trình nêu trên cần rà soát, đánh giá kết quả thực hiện của giai đoạn 2021-2023, dự báo khả năng, kết quả thực hiện đến năm 2025 để có các giải pháp phù hợp đạt được các mục tiêu, chỉ tiêu đề ra. Đồng thời, tiếp tục rà soát, đánh giá các mô hình thúc đẩy bình đẳng giới và phòng ngừa, ứng phó với bạo lực trên cơ sở giới đã và đang được triển khai để nâng cao hiệu quả hoạt động, tiếp tục duy trì, nhân rộng các mô hình ở những địa bàn, lĩnh vực còn tình trạng bất bình đẳng giới hoặc nguy cơ xảy ra bạo lực trên cơ sở giới. Bám sát các văn bản hướng dẫn để thực hiện có hiệu quả các nhiệm vụ về bình đẳng giới và phòng ngừa, ứng phó với bạo lực trên cơ sở giới trong các Chương trình mục tiêu quốc gia giai đoạn 2021-2025. Đối với các chương trình, đề án khác có nội dung liên quan đến công tác bình đẳng giới, đề nghị các bộ, ngành, cơ quan được phân công chủ trì, phối hợp xây dựng và triển khai kế hoạch thực hiện chương trình, đề án đảm bảo đạt các mục tiêu, chỉ tiêu đề ra góp phần thực hiện đạt các mục tiêu quốc gia về bình đẳng giới. (2) Đẩy mạnh tuyên truyền chính sách, pháp luật về bình đẳng giới Đẩy mạnh truyền thông về các chủ trương, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước về bình đẳng giới, vì sự tiến bộ của phụ nữ và phòng ngừa, ứng phó với bạo lực trên cơ sở giới. Ngoài ra, thực hiện tăng cường tuyên truyền, giới thiệu về các mô hình, dịch vụ hỗ trợ thực hiện bình đẳng giới, phòng ngừa và ứng phó với bạo lực trên cơ sở giới trong các lĩnh vực mới như biến đổi khí hậu, chuyển đổi số, vận động việc lập ngân sách có trách nhiệm giới,.... Ngoài ra, tích cực đấu tranh, phản bác những thông tin sai lệch về bình đẳng giới của Việt Nam. Xây dựng kế hoạch, tổ chức thực hiện Tháng hành động vì bình đẳng giới và phòng ngừa, ứng phó với bạo lực trên cơ sở giới năm 2023 hiệu quả, sáng tạo, phù hợp với điều kiện, tình hình cụ thể của bộ, ngành, địa phương. Tích cực xây dựng, phổ biến chính sách, pháp luật về bình đẳng giới và phòng ngừa, ứng phó với bạo lực trên cơ sở giới phù hợp với từng địa bàn, đối tượng cụ thể; thu hút sự tham gia của nam giới, trẻ em trai trong các hoạt động truyền thông về bình đẳng giới. Qua đó, đa dạng hóa các sản phẩm truyền thông về bình đẳng giới; khuyến khích phát triển, xuất bản các sản phẩm truyền thông bằng tiếng dân tộc thiểu số; tăng cường ứng dụng, khai thác lợi thế của công nghệ thông tin và các loại hình truyền thông trên nền tảng số. (3) Nâng cao năng lực và hiệu quả quản lý nhà nước về bình đẳng giới Chú trọng công tác phối hợp liên ngành giữa các cơ quan quản lý nhà nước và các tổ chức chính trị - xã hội trong xây dựng, triển khai và thanh tra, kiểm tra, giám sát việc thực hiện pháp luật, chính sách về bình đẳng giới. - Tổ chức các lớp tập huấn kỹ năng lồng ghép giới trong xây dựng văn bản quy phạm pháp luật, chiến lược, chương trình, dự án,... cho cán bộ phụ trách công tác pháp chế và xây dựng chính sách, pháp luật. Chủ yếu tập huấn kiến thức về giới, bình đẳng giới cho đội ngũ cán bộ thanh tra, tư pháp, cán bộ phụ trách công tác bình đẳng giới và thành viên Ban vì sự tiến bộ phụ nữ của các bộ, ngành, địa phương. - Tổ chức các lớp tập huấn giảng viên nguồn về giới cấp tỉnh để chủ động triển khai công tác bồi dưỡng, nâng cao năng lực cho đội ngũ cán bộ làm công tác bình đẳng giới phù hợp với yêu cầu của địa phương. - Tăng cường kiểm tra, thanh tra, xử lý nghiêm các vi phạm về bình đẳng giới; kịp thời xác minh, báo cáo những vấn đề, vụ việc liên quan đến công tác bình đẳng giới, bạo lực trên cơ sở giới cho cơ quan nhà nước có thẩm quyền để phối hợp giải quyết. - Khuyến khích thí điểm xây dựng và vận hành các sáng kiến, mô hình thúc đẩy bình đẳng giới và phòng ngừa, ứng phó với bạo lực trên cơ sở giới. - Thực hiện nghiêm chế độ thông tin, báo cáo về công tác bình đẳng giới, đảm bảo chất lượng và thời hạn của báo cáo theo yêu cầu. - Khen thưởng, biểu dương kịp thời các cá nhân, đơn vị có thành tích xuất sắc trong công tác bình đẳng giới và phòng ngừa, ứng phó với bạo lực trên cơ sở giới. Xem thêm Công văn 912/LĐTBXH-BĐG ban hành ngày 16/3/2023.
Bình đẳng giới trong lao động.
Với cuộc sống hiện đại ngày nay, những quan niệm lạc hậu, quan nhiệm trọng nam khinh nữ, phân biệt giới đã dần bị phá bỏ khi các quy định pháp luật về chính sách bình đẳng giới được tuyên truyền, phổ biến rộng rãi trong đời sống nhân dân. Tuy nhiên, vần còn đâu đó những hình ảnh phân biệt giới, thường thấy khá phổ biến trong lĩnh vực lao động, chúng ta dễ dàng bắt gặp những thông tin tuyển dụng ưu tiên tuyển dụng lao động theo một giới tính nhất định, chỉ tuyển dụng lao động trong một độ tuổi, chỉ đào tạo cho lao động nam không đào tạo an toàn cho lao động nữ,… Ngoài những công việc nặng nhọc bắt buộc phải lựa chọn lao động, thì vẫn có nhiều người lao động vẫn còn phân biệt lựa chọn lao động theo giới tính, theo tuổi tác. Trong quá trình làm việc, cùng một công việc nhưng có sự phân biệt về mức lương, chế độ đãi ngộ, phụ cấp, quá trình thăng tiến cũng có sự phân biệt về giới. Theo quy định tại Khoản 1 Điều 8 Bộ luật lao động 2019 hành vi phân biệt đối xử trong lao động là hành vi bị nghiêm cấm trong lĩnh vực lao động. Tại Điều 13 Luật đình đẳng giới 2006 quy định bình đẳng giới trong lĩnh vực lao động Đối với người sử dụng lao động có vi vi phạm bình đẳng giới liên quan đến lao động sẽ bị xử phạt từ cảnh cáo đến phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 30.000.000 đồng tùy thuộc vào từng hành vi vi phạm theo quy định tại Điều 8 Nghị định 125/2021/NĐ-CP xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bình đẳng giới.
Nghị định 125/2021: Tăng mạnh mức xử phạt với hành vi vi phạm hành chính về bình đẳng giới
Chính phủ vừa ban hành Nghị định 125/2021/NĐ-CP về quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bình đẳng giới. Theo đó nhiều hành vi bị tăng nặng mức xử phạt, cụ thể như sau: Trong lĩnh vực giáo dục, đào tạo: 1. Phạt cảnh cáo đối với hành vi vận động, xúi giục hoặc không cho người khác tới trường, học tập nâng cao hiểu biết vì lý do giới tính. 2. Phạt tiền từ 500.000 đồng đến 1.000.000 đồng đối với hành vi ép buộc hoặc cản trở người khác lựa chọn môn học, ngành, nghề học tập, đào tạo vì lý do giới tính. 3. Phạt tiền từ 2.000.000 đồng đến 3.000.000 đồng đối với hành vi vận động, ép buộc người khác nghỉ học vì lý do giới tính. 4. Phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 10.000.000 đồng đối với một trong các hành vi sau đây: - Vận động, ép buộc có tổ chức nhiều người nghỉ học vì lý do giới tính; - Từ chối tuyển sinh đối với người có đủ điều kiện vào các khóa đào tạo, bồi dưỡng vì lý do giới tính hoặc do việc mang thai, sinh con, nuôi con nhỏ. 5. Phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 15.000.000 đồng đối với hành vi quy định tuổi đào tạo, tuổi tuyển sinh khác nhau giữa nam và nữ. 6. Phạt tiền từ 15.000.000 đồng đến 20.000.000 đồng đối với một trong các hành vi tổ chức giáo dục hướng nghiệp, biên soạn, phổ biến sách giáo khoa, giáo trình, chương trình giảng dạy có nội dung định kiến giới. Trong lĩnh vực gia đình 1. Phạt tiền từ 3.000.000 đồng đến 5.000.000 đồng đối với một trong các hành vi sau đây: - Cản trở hoặc không cho thành viên trong gia đình thực hiện các hoạt động tạo thu nhập hoặc đáp ứng các nhu cầu khác của gia đình vì lý do giới tính; - Đối xử bất bình đẳng giữa các thành viên trong gia đình vì lý do giới tính. 2. Phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 7.000.000 đồng đối với một trong các hành vi sau đây: - Đe dọa dùng vũ lực hoặc uy hiếp tinh thần nhằm cản trở thành viên trong gia đình có đủ điều kiện theo quy định của pháp luật tham gia định đoạt tài sản thuộc sở hữu chung của hộ gia đình vì lý do giới tính; - Áp đặt việc thực hiện lao động gia đình, sử dụng biện pháp tránh thai, triệt sản như là trách nhiệm của thành viên trong gia đình thuộc một giới nhất định. 3. Phạt tiền từ 7.000.000 đồng đến 10.000.000 đồng đối với hành vi dùng vũ lực nhằm cản trở thành viên trong gia đình có đủ điều kiện theo quy định của pháp luật tham gia định đoạt tài sản thuộc sở hữu chung của hộ gia đình vì lý do giới tính. Trong lĩnh vực lao động 1. Phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 15.000.000 đồng đối với một trong các hành vi sau đây: a) Phân biệt đối xử về giới trong bảo đảm an toàn lao động, vệ sinh lao động; b) Ép buộc hoặc nghiêm cấm người khác lựa chọn việc làm, nơi làm việc, nghề nghiệp vì định kiến giới; c) Phân biệt đối xử về giới trong phân công công việc dẫn đến chênh lệch về thu nhập; d) Từ chối tuyển dụng hoặc tuyển dụng hạn chế người lao động thuộc một giới tính nhất định. 2. Phạt tiền từ 20.000.000 đồng đến 30.000.000 đồng đối với hành vi đặt ra và thực hiện các quy định, quy chế có sự phân biệt đối xử về giới. 3. Các hành vi vi phạm quy định riêng đối với lao động nữ và đảm bảo bình đẳng giới bị xử phạt theo quy định tại Nghị định của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực lao động, bảo hiểm xã hội, đưa người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng. .... Nghị định 125/2021 có hiệu lực từ ngày 01/01/2021 thay thế Nghị định 55/2009/NĐ-CP
Sắp tới: Các hành vi phân biệt đối xử vì giới tính trong gia đình có thể bị phạt đến 20 triệu đồng!
Phân biệt giới tính - Minh họa Chính phủ đang dự thảo Nghị định quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bình đẳng giới thay thế cho Nghị định 55/2009/NĐ-CP. Đáng chú ý trong dự thảo này là một số hành vi bị xử phạt đã được bổ sung, bên cạnh đó tất cả các mức phạt đều được tăng lên đáng kể. Về các hành vi vi phạm hành chính trong lĩnh vực bình đẳng giới liên quan đến gia đình, những hành vi bị xử phạt bao gồm: 1. Phạt cảnh cáo hoặc phạt tiền từ 1.000.000 đồng đến 2.000.000 đồng đối với hành vi cản trở, không cho thành viên trong gia đình tham gia sử dụng tài sản thuộc sở hữu chung của hộ gia đình. => Dường như quy định này chưa được hoàn thiện, bởi lẽ chỉ khi hành vi cản trở này là vì lý do phân biệt giới tính thì pháp luật mới có thể can thiệp! 2. Phạt cảnh cáo hoặc phạt tiền từ 2.000.000 đồng đến 3.000.000 đồng đối với một trong các hành vi sau đây: a) Xúc phạm danh dự, nhân phẩm nhằm cản trở thành viên trong gia đình có đủ điều kiện theo quy định của pháp luật tham gia định đoạt tài sản thuộc sở hữu chung của hộ gia đình vì lý do giới tính; b) Cản trở, không cho thành viên trong gia đình thực hiện các hoạt động tạo thu nhập hoặc đáp ứng các nhu cầu khác của gia đình vì định kiến giới; c) Đối xử bất bình đẳng giữa các thành viên trong gia đình vì lý do giới tính. 3. Phạt tiền từ 3.000.000 đồng đến 5.000.000 đồng đối với một trong các hành vi sau đây: a) Đe dọa dùng vũ lực hoặc uy hiếp tinh thần nhằm cản trở thành viên trong gia đình có đủ điều kiện theo quy định của pháp luật tham gia định đoạt tài sản thuộc sở hữu chung của hộ gia đình vì lý do giới tính. b) Không cho hành viên trong gia đình tham gia công tác xã hội vì định kiến giới; c) Áp đặt việc thực hiện lao động gia đình, sử dụng biện pháp tránh thai, triệt sản như là trách nhiệm của thành viên trong gia đình thuộc một giới nhất định. 4. Phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 7.000.000 đồng đối với hành vi dùng vũ lực nhằm cản trở thành viên trong gia đình có đủ điều kiện theo quy định của pháp luật tham gia định đoạt tài sản thuộc sở hữu chung của hộ gia đình vì lý do giới tính. 5. Phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 20.000.000 đồng đối với hành vi hành hạ, ngược đãi thành viên gia đình là phụ nữ có thai, phụ nữ nuôi con nhỏ. (Những phần bôi màu xanh là quy định chưa có trong Nghị định 55/2009/NĐ-CP) Hiện nay theo Nghị định 55, mức phạt cao nhất dành cho các hành vi vi phạm hành chính về bình đẳng giới trong gia đình chỉ là 3 triệu đồng. Xem chi tiết các mức phạt liên quan đến những hành vi phân biệt giới tính trong các lĩnh vực khác của Dự thảo tại file đính kèm.
Đến năm 2025, cứ 10 giám đốc doanh nghiệp ở VN thì sẽ có 3 người là nữ?
Chiến lược Quốc gia về bình đẳng giới - Minh họa Đây là một trong những mục tiêu của Chính phủ được đề ra tại Chiến lược quốc gia về bình đẳng giới giai đoạn 2021-2030, ban hành kèm theo Nghị quyết 28/NQ-CP ngày 3/3/2021. Mục tiêu thứ 2 của Chiến lược nằm trong lĩnh vực kinh tế, lao động, cụ thể có 3 chỉ tiêu: - Chỉ tiêu 1: Tăng tỷ lệ lao động nữ làm công hưởng lương lên đạt 50% vào năm 2025 và khoảng 60% vào năm 2030. - Chỉ tiêu 2: Giảm tỷ trọng lao động nữ làm việc trong khu vực nông nghiệp trong tổng số lao động nữ có việc làm xuống dưới 30% vào năm 2025 và dưới 25% vào năm 2030. - Chỉ tiêu 3: Tỷ lệ nữ giám đốc/chủ doanh nghiệp, hợp tác xã đạt ít nhất 27% vào năm 2025 và 30% vào năm 2030. Như vậy, Việt Nam sẽ phấn đấu để đến 2025, cứ 10 nữ giám đốc thì có khoảng 3 người là nữ Ngoài ra, một điểm đáng chú ý nữa trong Nghị quyết là Mục tiêu trong đời sống gia đình, và phòng ngừa, ứng phó với bạo lực trên cơ sở giới. Trong đó có những chỉ tiêu sau: - Chỉ tiêu 1: Giảm số giờ trung bình làm công việc nội trợ và chăm sóc trong gia đình không được trả công của phụ nữ còn 1,7 lần vào năm 2025 và 1,4 lần vào năm 2030 so với nam giới. - Chỉ tiêu 2: Đến năm 2025 đạt 80% và đến 2030 đạt 90% người bị bạo lực gia đình, bạo lực trên cơ sở giới được phát hiện được tiếp cận ít nhất một trong các dịch vụ hỗ trợ cơ bản; Đến năm 2025 đạt 50% và đến năm 2030 đạt 70% người gây bạo lực gia đình, bạo lực trên cơ sở giới được phát hiện ở mức chưa bị truy cứu trách nhiệm hình sự được tư vấn, tham vấn. - Chỉ tiêu 3: Từ năm 2025 trở đi, 100% số nạn nhân bị mua bán trở về được phát hiện có nhu cầu hỗ trợ được hưởng các dịch vụ hỗ trợ và tái hòa nhập cộng đồng. - Chỉ tiêu 4: Đến năm 2025 có 70% và năm 2030 có 100% cơ sở trợ giúp xã hội công lập triển khai các hoạt động trợ giúp, phòng ngừa và ứng phó với bạo lực trên cơ sở giới. Điều này có nghĩa, nếu một ngày nam giới bỏ ra 2 tiếng/1 ngày làm việc nhà không công thì phụ nữ chỉ phải bỏ ra 3,4 tiếng cho công việc tương tự! Tất nhiên, đây chỉ là kế hoạch, hoàn thành hay không phụ thuộc phần lớn vào ý thức của tất cả chúng ta! Xem chi tiết Nghị quyết tại file đính kèm dưới đây.
Tăng mức tiền phạt đối với hành vi không lập hồ sơ tham gia BHXH bắt buộc cho NLĐ
Nghị định 28/2020/NĐ-CP được ban hành đã điều chỉnh rất nhiều quy định về XPVPHC trong lĩnh vực lao động; trong đó nổi bật là việc tăng mức tiền phạt đối với nhiều hành vi VPHC trong lĩnh vực lao động, bảo hiểm đối với NSDLĐ, ví dụ điển hình như sau: Điều 40 Nghị định 28/2020/NĐ-CP quy định về mức phạt tiền đối với hành vi không lập hồ sơ tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc, bảo hiểm thất nghiệp cho người lao động trong thời hạn 30 ngày, kể từ ngày giao kết hợp đồng lao động, hợp đồng làm việc hoặc tuyển dụng là từ 2.000.000 đồng đến 4.000.000 đồng, tối đa không quá 75.000.000 đồng. Mức phạt đối với hành vi nêu trên tại Nghị định 95/2013/NĐ-CP chỉ là phạt tiền từ 500.000 đồng đến 1.000.000 đồng. Như vậy có thể thấy, mức phạt đối với hành vi không lập hồ sơ tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc, bảo hiểm thất nghiệp cho NLĐ tại Nghị định mới đã tăng đáng kể so với quy định hiện hành. Bên cạnh đó, Nghị định 28/2020/NĐ-CP đã tăng mức phạt tiền đối với nhiều hành vi vi phạm về tuyển dụng, quản lý lao động như không thông báo công khai kết quả tuyển lao động hoặc thông báo sau 05 ngày làm việc, kể từ ngày có kết quả tuyển lao động, không khai báo việc sử dụng lao động với cơ quan chức năng, không lập sổ quản lý lao động; lập không đúng thời hạn, không đủ nội dung; không cập nhật thông tin khi có sự thay đổi vào sổ... Nghị định 28/2020/NĐ-CP sẽ có hiệu lực ngày 15/04/2020; thay thế Nghị định 95/2013/NĐ-CP và Nghị định 88/2015/NĐ-CP về sửa đổi một số điều của Nghị định 95/2013/NĐ-CP./.
Do sự ít tìm hiểu và lười đọc sách nên bản thân biết tới cái Luật Bình đẳng giới hoi có bị muộn. Dù nó đã được ban hành cuối năm 2006 và bắt đầu có hiệu lực vào đầu năm 2007. Tình đến nay đây là Luật hiếm hoi, ít ỏi, đặc biệt trân quý vì chưa bị sửa đổi, bổ sung, thay thế gì cả. Vẫn vẹn nguyên như ngày đầu, chứ không như bao nhiêu luật khác rối ren ngoài kia. Vậy đây có phải là tín hiệu đáng mừng vì có một Luật được ban hành lần đầu tiên quy định về “Bình đẳng giới” và sử dụng được xuyên suốt 12 năm 6 tháng. Căn cứ Luật Bình đẳng giới 2006: “Điều 4. Mục tiêu bình đẳng giới Mục tiêu bình đẳng giới là xoá bỏ phân biệt đối xử về giới, tạo cơ hội như nhau cho nam và nữ trong phát triển kinh tế - xã hội và phát triển nguồn nhân lực, tiến tới bình đẳng giới thực chất giữa nam, nữ và thiết lập, củng cố quan hệ hợp tác, hỗ trợ giữa nam, nữ trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội và gia đình.” Khi đọc tới Điều 4 trên thì bản thân có dừng lại và suy nghĩ một chút. Các bạn đang được đọc Mục tiêu bình đẳng giới, đó là mục tiêu của bình đẳng giới đó. Nhưng mục tiêu từ khi được đặt ra, từ khi có hiệu lực tới bây giờ đã thực hiện được chưa hay đơn giản là thực hiện được bao nhiêu phần trăm rồi nhỉ? Có ai ghé ngang qua và cũng quan tâm tới điều đó như mình không? Một mục tiêu là xóa bỏ phân biệt đối xử về giới nhưng như thực tế hiện nay không qua khảo sát, đánh giá mà chỉ qua trải nghiệm thức tế thì tình hình sinh con trai hay là con gái vẫn đang là vấn đề chưa có ý định bớt nóng. Đây có được xem như một biểu hiện rõ rệt của việc phân biệt đối xử hay không? Hằng năm, tỷ lệ nam sinh ra cứ nhiều hơn nữ như vầy thì sau này các cô dâu Việt chắc sẽ có quốc tịch khác Việt Nam.
Phụ nữ lái xe thì sao? Tối qua, mạng xã hội facebook, chia sẻ clip về một vụ tai nạn mà người lái xe sau khi đâm phải 03 người đi bộ đã đạp ga cán qua những nạn nhân một lần nữa rồi bỏ chạy khỏi hiện trường. Khi xem clip chắc hẳn ai cũng có cảm giác gợn gợn ở sống lưng vì mức độ nguy hiểm của hành vi mà lái xe đã thực hiện. Và không lâu sau thì danh tính người gây tai nạn được xác định là phụ nữ và trong máu có nồng đột cồn vượt mức quy định khi điều khiển ô tô. Chuyện đúng sai như thế nào có pháp luật phân xử, người gây tai nạn sai đến đâu pháp luật xử đến đấy. Tuy nhiên, không biết các bạn có để ý giống tôi hay không? Cứ sau mỗi lần có tai nạn giao thông mà người gây tai nạn là phụ nữ thì trên khắp các mặt báo, truyền thông, mạng xã hội… khi đề cập đến vụ tai nạn đó thì chữ “PHỤ NỮ” luôn được đưa lên đầu tiên như một điểm nhấn của sự việc, rằng phụ nữ lái xe là một điều gì đó trái với tự nhiên và lẽ thường, và cái thành tố “PHỤ NỮ” đó gây cho độc giả hiểu vì là phụ nữ lái xe mới gây ra tai nạn. Và cũng từ những bài chia sẻ đó, cái câu “Bán xăng cho phụ nữ là tội ác” truyền tai, truyền miệng đi khắp nơi, dần dần hình thành nên suy nghĩ rằng phụ nữ lái xe ẩu, phụ nữ không biết lái xe hay thậm chí là phụ nữ lái xe mà gây ra tai nạn. Điều đó có đúng không? Đương nhiên là không. Hiện tại chưa có một bài thống kê nào về tỷ lệ nam nữ gây tai nạn trong những vụ tai nạn giao thông ở phạm vi nước ta cho nên khó mà có một kết luận định lượng thật sự chính xác. Nhưng thử làm một phép suy đoán nhỏ nhỏ, lâu lâu ta lại gặp những bài báo như tôi kể trên, “kể tội” của phụ nữ khi lái xe, vậy những vụ tai nạn còn lại, những vụ mà thành tố “phụ nữ” không được đưa vào những title báo, những post chia sẻ trên mạng xã hội thì do ai gây ra? Pháp luật dân sự Việt Nam hiện hành thì chỉ có 02 giới tính là Nam/Nữ, vậy những trường hợp tôi kể trên, khi mà không có thống kê thì xác suất xảy ra có phải là 50/50 giữa nam và nữ hay không? Có dấu hiệu vi phạm Luật bình đẳng giới “Nam, nữ bình đẳng trong các lĩnh vực của đời sống và gia đình.” Đây là nguyên tắc cơ bản trong việc thực hiệện bình đẳng giới đã được quy định tại Luật bình đẳng giới 2006. Ngoài ra, theo quy định tại Thông tư 12/2017/TT-BGTVT về việc đào tạo, sát hạch, cấp giấy phép lái xe cơ giới đường bộ, không có quy định nào về việc phân biệt giới tính khi đào tạo, sát hạch lái xe. Điều đó có nghĩa rằng những lập luận như phụ nữ phản xạ chậm hơn đàn ông, phụ nữ cảm quan không gian kém hơn đàn ông, phụ nữ lái xe kém hơn đàn ông… đều không có cơ sở lý luận về mặt pháp lý. Cho nên việc “phân biệt đối xử”, với những bình luận, nhận định như đã đề cập ở trên có dấu hiệu vi phạm pháp luật về công tác thực hiện bình đăng giới trong xã hội. Hằng ngày, hàng giờ, mọi lúc, mọi nơi… Chúng ta vẫn đang tuyên truyền thực hiện bình đẳng giới, tuy nhiên in sâu vào trong tiềm thức của nhiều người sự phân biệt giới tính vẫn còn đang hiện rõ, nó được thể hiện thông qua những hoạt động thường ngày từ những hành động nhỏ nhất khiến cho chúng ta không để ý đó là sự phân biệt đối xử, một cách vô lý, không có cơ sở. Phụ nữ lái xe thì sao?
KHÔNG TUYỂN LAO ĐỘNG NỮ LÀ VI PHẠM
Hiện nay, nhiều công ty tuyển dụng hạn chế tuyển nữ vì nhiều lý do: công việc cực nhọc, phải đi làm xa, đi công tác. Đó là những lý do có thể chấp nhận được. Nhưng bên cạnh đó, cũng có rất nhiều công ty đưa ra những lý do vô lý như: lao động nữ làm không bao lâu thì lấy chồng, lo cho chồng, nghỉ thai sản…gây thiệt hại cho công ty. Theo quy định, trừ những trường hợp tại điều 160 Bộ luật Lao động 2012 và Thông tư 26/2013/TT-BLĐTBXH, các doanh nghiệp không được hạn chế quyền lao động của nữ. Những trường hợp vi phạm có thể bị xử phạt theo Khoản 2 Điều 25 Nghị định 95/2013/NĐ-CP hoặc Điểm b Khoản 2 Điều 8 Nghị định 55/2009/NĐ-CP. Điều 25. Vi phạm những quy định khác 2. Phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 10.000.000 đồng đối với hành vi phân biệt đối xử về giới tính, dân tộc, màu da, thành phần xã hội, tình trạng hôn nhân, tín ngưỡng, tôn giáo, nhiễm HIV, khuyết tật trong tuyển dụng, sử dụng và quản lý lao động. Điều 8. Các hành vi vi phạm hành chính về bình đẳng giới trong lĩnh vực lao động. 2. Phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 10.000.000 đồng đối với một trong các hành vi sau đây: b) Từ chối tuyển dụng hoặc tuyển dụng hạn chế lao động nam hoặc lao động nữ vì lý do giới tính, trừ trường hợp áp dụng biện pháp thúc đẩy bình đẳng giới; sa thải hoặc cho thôi việc người lao động vì lý do giới tính hoặc do việc mang thai, sinh con, nuôi con nhỏ. Mặc dù có quy định như vậy, nhưng nhiều công ty vẫn thực hiện do khó có cơ sở để chứng minh sai phạm. Nên hay không việc các nhà làm Luật quy định tỷ lệ phần trăm lao động nữ trong các doanh nghiệp để đảm bảo sự công bằng?
Luật Bình đẳng giới là Luật bất bình đẳng?
Có phải rảnh rỗi sinh nông nỗi không nữa, hôm nay chạy vào Luật Bình đẳng giới chơi thì phát hiện đây là Luật bất bình đẳng nhất í bà con !!! Điều 4. Mục tiêu bình đẳng giới: “Mục tiêu bình đẳng giới là xoá bỏ phân biệt đối xử về giới, tạo cơ hội như nhau cho nam và nữ trong phát triển kinh tế - xã hội và phát triển nguồn nhân lực, tiến tới bình đẳng giới thực chất giữa nam, nữ và thiết lập, củng cố quan hệ hợp tác, hỗ trợ giữa nam, nữ trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội và gia đình.” Vậy là chỉ bình đẳng giữa giới nam và nữ còn các giới khác thì không bình đẳng hả ta ...?
8 chữ vàng Bác Hồ dành tặng cho phụ nữ Việt Nam và 8 chữ vàng dành cho phụ nữ hiện đại
“Anh hùng - Bất khuất - Trung hậu - Đảm đang” là 8 chữ vàng Bác Hồ dành tặng cho phụ nữ Việt Nam. Vậy ý nghĩa 8 chữ vàng trên là gì và 8 chữ vàng dành cho phụ nữ hiện đại là gì? 8 chữ vàng Bác Hồ dành tặng cho phụ nữ Việt Nam Ngày 8/3/1965, nhân kỷ niệm 55 năm ngày quốc tế phụ nữ (1910-1965) Bác dành tặng phụ nữ Việt Nam bức trướng thêu 8 chữ vàng: “Anh hùng - Bất khuất - Trung hậu - Đảm đang”. Với ý nghĩa của 8 chữ vàng như sau: - Hai chữ "Anh hùng" thể hiện tinh thần chiến đấu dũng cảm, hy sinh của phụ nữ Việt Nam trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. - Chữ "Bất khuất" thể hiện tinh thần kiên cường, bất khuất trước mọi khó khăn thử thách, không chịu khuất phục trước kẻ thù. - Chữ "Trung hậu" thể hiện phẩm chất đạo đức cao đẹp của người phụ nữ Việt Nam, luôn sống thủy chung, son sắt, hết lòng vì gia đình, xã hội. - Chữ "Đảm đang" thể hiện vai trò quan trọng của phụ nữ trong gia đình và xã hội, luôn đảm đang, chu đáo, khéo léo trong mọi công việc. 8 chữ vàng dành cho phụ nữ hiện đại Tiếp nối truyền thống, trong thời hiện đại hình tượng người phụ nữ Việt Năm gắn với 8 chữ vàng: “Tự tin - Tự trọng - Trung hậu - Đảm đang”. Đối với người phụ nữ, bốn phẩm chất đạo đức “Tự tin - Tự trọng - Trung hậu - Đảm đang” là những yếu tố quan trọng giúp họ nắm bắt cơ hội, tận dụng các yếu tố tích cực và tránh xa những ảnh hưởng tiêu cực trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập. Những phẩm chất này giúp phụ nữ vượt qua thách thức, khó khăn, từ đó trở thành những người thành công trong cuộc sống và sự nghiệp. Đồng thời, chúng cũng tạo điều kiện để phụ nữ sống có giá trị, sống thiện lương và hữu ích. Khi vai trò và vị trí của phụ nữ được nâng cao, họ sẽ có cơ hội đóng góp nhiều hơn cho sự phát triển của đất nước. Trong mỗi gia đình, bốn phẩm chất này giúp phụ nữ thực hiện tốt vai trò của người vợ, người mẹ, từ đó tạo ra ảnh hưởng tích cực đến các thành viên trong gia đình, góp phần xây dựng một mái ấm no đủ, tiến bộ và hạnh phúc bền vững. Đối với cộng đồng, những phẩm chất đạo đức này giúp phụ nữ thực hiện tốt trách nhiệm công dân, đóng góp tích cực vào sự phát triển của xã hội, góp phần đạt được các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội của địa phương và đất nước. Có các biện pháp nào nhằm thúc đẩy bình đẳng giới? Theo khoản 1 Điều 19 Luật Bình đẳng giới 2006 quy định biện pháp thúc đẩy bình đẳng giới bao gồm: - Quy định tỷ lệ nam, nữ hoặc bảo đảm tỷ lệ nữ thích đáng tham gia, thụ hưởng; - Đào tạo, bồi dưỡng để nâng cao trình độ năng lực cho nữ hoặc nam; - Hỗ trợ để tạo điều kiện, cơ hội cho nữ hoặc nam; - Quy định tiêu chuẩn, điều kiện đặc thù cho nữ hoặc nam; - Quy định nữ được quyền lựa chọn trong trường hợp nữ có đủ điều kiện, tiêu chuẩn như nam; - Quy định việc ưu tiên nữ trong trường hợp nữ có đủ điều kiện, tiêu chuẩn như nam; - Các biện pháp thúc đẩy bình đẳng giới được quy định tại khoản 5 Điều 11, khoản 2 Điều 12, khoản 3 Điều 13, khoản 5 Điều 14 Luật Bình đẳng giới 2006. Như vậy, sẽ có các biện pháp thúc đẩy bình đẳng giới như trên.
Lời chúc 20/10 ngắn gọn ý nghĩa? Bình đẳng giới trong gia đình thể hiện như thế nào?
Ngày 20/10/1930, Hội Phụ nữ phản đế Việt Nam (nay là Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam) được thành lập và Đảng ta đã chọn ngày 20/10 hàng năm làm Ngày Phụ nữ Việt Nam, để tôn vinh những đóng góp và vai trò của phụ nữ. Bài viết sau đây sẽ tổng hợp lời chúc 20/10 ngắn gọn ý nghĩa nhất. Lời chúc 20/10 ngắn gọn ý nghĩa? Ngày 20/10 là dịp để ghi nhận và tôn vinh những đóng góp của phụ nữ trong gia đình, xã hội và kinh tế. Sau đây là một số lời chúc 20/10 ngắn gọn ý nghĩa nhất: 1. Chúc mừng ngày Phụ nữ Việt Nam! Mong bạn luôn hạnh phúc và thành công trong cuộc sống. 2. Gửi đến bạn những lời chúc tốt đẹp nhất! Bạn là nguồn cảm hứng cho mọi người xung quanh. 3. Chúc mẹ luôn mạnh khỏe và vui vẻ! Mẹ là người phụ nữ tuyệt vời nhất trong đời con. 4. Nhân ngày 20/10, chúc bạn luôn tự tin và xinh đẹp! Bạn xứng đáng với điều tốt đẹp nhất. 5. Cảm ơn bạn đã mang đến niềm vui cho cuộc sống! Chúc bạn luôn được yêu thương và trân trọng. 6. Chúc bạn có một ngày ý nghĩa bên những người thân yêu! Hãy luôn giữ nụ cười trên môi. 7. Mỗi ngày đều là ngày của bạn! Hy vọng bạn luôn tìm thấy niềm vui trong cuộc sống. 8. Chúc bạn luôn mạnh mẽ và kiên cường! Bạn có thể vượt qua mọi thử thách. 9. Gửi đến bạn tình yêu và sự trân trọng nhất! Bạn là một phần không thể thiếu trong cuộc sống của chúng tôi. 10. Chúc bạn khám phá những điều mới mẻ và thú vị! Hãy sống hết mình với đam mê. 11. Ngày 20/10, chúc bạn luôn được bao quanh bởi tình yêu! Bạn là ánh sáng trong cuộc đời của nhiều người. 12. Chúc bạn có những khoảnh khắc đáng nhớ trong ngày hôm nay! Hãy tận hưởng những điều tốt đẹp. 13. Cảm ơn bạn đã là người bạn tuyệt vời! Chúc bạn luôn vui vẻ và hạnh phúc. 14. Chúc bạn luôn giữ vững ước mơ và khát vọng của mình! Đừng bao giờ từ bỏ! 15. Người phụ nữ mạnh mẽ như bạn xứng đáng với những điều tốt đẹp nhất! Chúc bạn luôn tỏa sáng. 16. Chúc bạn có sức khỏe dồi dào và tinh thần lạc quan! Hãy luôn yêu đời! 17. Gửi đến bạn những lời chúc chân thành nhất! Bạn là người phụ nữ tuyệt vời! 18. Chúc bạn luôn tìm thấy hạnh phúc trong những điều nhỏ bé! Cuộc sống sẽ thật đẹp nếu chúng ta biết trân trọng. 19. Ngày hôm nay là của bạn! Hãy tận hưởng nó và sống hết mình! 20. Chúc bạn luôn là nguồn động lực cho mọi người! Bạn làm cho thế giới này trở nên tốt đẹp hơn. Như vậy, trên đây là 20 lời chúc 20/10 ngắn gọn ý nghĩa nhất. 20/10 cũng là dịp để nhấn mạnh tầm quan trọng của việc thúc đẩy bình đẳng giới và quyền lợi của phụ nữ. Bình đẳng giới trong gia đình thể hiện như thế nào? Theo Điều 18 Luật Bình đẳng giới 2006 quy định về bình đẳng giới trong gia đình như sau: - Vợ, chồng bình đẳng với nhau trong quan hệ dân sự và các quan hệ khác liên quan đến hôn nhân và gia đình. - Vợ, chồng có quyền, nghĩa vụ ngang nhau trong sở hữu tài sản chung, bình đẳng trong sử dụng nguồn thu nhập chung của vợ chồng và quyết định các nguồn lực trong gia đình. - Vợ, chồng bình đẳng với nhau trong việc bàn bạc, quyết định lựa chọn và sử dụng biện pháp kế hoạch hoá gia đình phù hợp; sử dụng thời gian nghỉ chăm sóc con ốm theo quy định của pháp luật. - Con trai, con gái được gia đình chăm sóc, giáo dục và tạo điều kiện như nhau để học tập, lao động, vui chơi, giải trí và phát triển. - Các thành viên nam, nữ trong gia đình có trách nhiệm chia sẻ công việc gia đình. Như vậy, nội dung bình đẳng giới trong gia đình sẽ được thể hiện như trên. Những hành vi nào bị cấm trong bình đẳng giới? Theo Điều 10 Luật Bình đẳng giới 2006 quy định các hành vi bị nghiêm cấm bao gồm: - Cản trở nam, nữ thực hiện bình đẳng giới. - Phân biệt đối xử về giới dưới mọi hình thức. - Bạo lực trên cơ sở giới. - Các hành vi khác bị nghiêm cấm theo quy định của pháp luật. Như vậy, trong bình đẳng giới sẽ nghiêm cấm cản trở việc thực hiện bình đẳng giới, phân biệt đối xử về giới, bạo lực trên cơ sở giới tính và các hành vi khác.
Công ty sử dụng từ bao nhiêu lao động nữ thì phải trang bị phòng vắt sữa mẹ?
Công ty sử dụng từ bao nhiêu lao động nữ thì phải trang bị phòng vắt sữa mẹ? Không trang bị phòng vắt sữa mẹ cho lao động nữ theo quy định bị phạt bao nhiêu? Công ty sử dụng từ bao nhiêu lao động nữ thì phải trang bị phòng vắt sữa mẹ? Phòng vắt, trữ sữa mẹ là một không gian riêng tư, không phải buồng tắm hay buồng vệ sinh; có nguồn điện, nước, bàn, ghế, tủ lạnh bảo đảm vệ sinh, quạt hoặc điều hòa; bố trí ở vị trí thuận tiện sử dụng, được che chắn khỏi sự xâm phạm, tầm nhìn của đồng nghiệp và công cộng để lao động nữ có thể cho con bú hoặc vắt, trữ sữa (Điều 76 Nghị định 145/2020/NĐ-CP). Dẫn chiếu đến Điều 80 Nghị định 145/2020/NĐ-CP có đề cập khuyến khích người sử dụng lao động lắp đặt phòng vắt, trữ sữa mẹ phù hợp với điều kiện thực tế tại nơi làm việc, nhu cầu của lao động nữ và khả năng của người sử dụng lao động. Tuy nhiên với trường hợp sử dụng từ 1.000 người lao động nữ trở lên thì bắt buộc phải lắp đặt phòng vắt, trữ sữa mẹ tại nơi làm việc. Lưu ý: Bộ Y tế có trách nhiệm hướng dẫn triển khai phòng vắt, trữ sữa mẹ theo quy định khoản 5 Điều 80 Nghị định 145/2020/NĐ-CP. Số lượng phòng vắt sữa mẹ cần trang bị cho lao động nữ có con là bao nhiêu? Căn cứ tại Quyết định 5175/QĐ-BYT năm 2021 Hướng dẫn triển khai phòng vắt, trữ sữa mẹ tại nơi làm việc có đề cập về số lượng phòng vắt sữa như sau: - Số lượng lao động nữ dưới 100 thì số lượng phòng vắt trữ sữa mẹ tối thiểu là 01 phòng. - Số lượng lao động nữ từ 100 đến - Số lượng lao động nữ từ 500 đến - Số lượng lao động nữ từ 1000 lao động nữ trở lên thì số lượng phòng vắt trữ sữa mẹ tối thiểu từ 04 phòng (đảm bảo trung bình 300 lao động nữ/phòng). Không trang bị phòng vắt sữa mẹ cho lao động nữ theo quy định bị phạt bao nhiêu? Căn cứ khoản 2 Điều 28 Nghị định 12/2022/NĐ-CP và khoản 1 Điều 6 Nghị định 12/2022/NĐ-CP quy định như sau: Người sử dụng lao động là cá nhân không lắp đặt phòng vắt sữa mẹ tại nơi làm việc khi sử dụng từ 1.000 người lao động nữ trở lên thì có thể bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 20.000.000 đồng. Trường hợp người sử dụng lao động là tổ chức không lắp đặt phòng vắt sữa mẹ tại nơi làm việc khi sử dụng từ 1.000 người lao động nữ trở lên thì có thể bị phạt tiền từ 20.000.000 đồng đến 40.000.000 đồng. Trách nhiệm của công ty trong việc đảm bảo bình đẳng giới trong lao động quy định ra sao? Theo Điều 136 Bộ luật Lao động 2019 quy định công ty có những trách nhiệm sau trong việc đảm bảo bình đẳng giới như sau: - Bảo đảm thực hiện bình đẳng giới và các biện pháp thúc đẩy bình đẳng giới trong tuyển dụng, bố trí, sắp xếp việc làm, đào tạo, thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi, tiền lương và các chế độ khác. - Tham khảo ý kiến của lao động nữ hoặc đại diện của họ khi quyết định những vấn đề liên quan đến quyền và lợi ích của phụ nữ. - Bảo đảm có đủ buồng tắm và buồng vệ sinh phù hợp tại nơi làm việc. - Giúp đỡ, hỗ trợ xây dựng nhà trẻ, lớp mẫu giáo hoặc một phần chi phí gửi trẻ, mẫu giáo cho người lao động. Tóm lại, nếu công ty sử dụng từ 1.000 người lao động nữ trở lên thì bắt buộc phải lắp đặt phòng vắt, trữ sữa mẹ tại nơi làm việc.
Trọng nam khinh nữ là gì? Công ty trọng nam khinh nữ trong công việc thì bị phạt thế nào?
Trọng nam khinh nữ là gì? Công ty có hành vi trọng nam khinh nữ trong công việc thì bị xử phạt thế nào? 1. Trọng nam khinh nữ là gì? Trọng nam khinh nữ (thuật ngữ tiếng anh là Sexism) là một hệ thống tư tưởng có từ thời xưa tồn tại ở nhiều nơi trên thế giới, đặc biệt là dưới thời phong kiến. Ngay cả trong thế kỷ 21, khi mà quyền con người và sự công bằng được đề cao, những con người hiện đại, văn minh vẫn chưa hoàn toàn thoát khỏi quan niệm lạc hậu này. “Nam” và “nữ” là đại diện cho hai giới tính khác nhau trong xã hội. Còn “trọng” là sự ưu ái, coi trọng. Ngược lại, “khinh” là sự khinh thường, thiếu tôn trọng,... Những từ này được đặt xen kẽ trong câu tạo thành một tư tưởng về sự phân biệt giới tính. Theo đó, vai trò nam giới được đề cao, coi trọng hơn so với nữ giới trong mọi khía cạnh của đời sống xã hội. Đây từng là một hệ thống tư tưởng tồn tại ở nhiều nơi trên thế giới, đặc biệt là dưới chế độ phong kiến. Mặc dù hiện nay quyền phụ nữ được công nhận nhưng hệ thống tư tưởng trọng nam khinh nữ vẫn còn ở một số nước. Trọng nam khinh nữ là một lối tư tưởng sai lệch nhằm phân biệt đối xử dựa trên giới tính, trong đó coi nam giới quan trọng hơn phụ nữ. Đây là quan niệm cổ hủ, lạc hậu đáng bị lên án và xóa bỏ ngay lập tức. Mặc dù quan niệm “Trọng nam khinh nữ” không phổ biến trong xã hội hiện nay nhưng nó vẫn là ngọn lửa nhỏ cháy âm ỉ trong các gia đình qua nhiều thế hệ. Vì vậy, quan niệm này cần phải được xóa bỏ ngay lập tức để đảm bảo một xã hội văn minh, hiện đại và công bằng. 2. Công ty có hành vi trọng nam khinh nữ trong công việc thì bị xử phạt thế nào? Tại khoản 8 Điều 3 Bộ luật Lao động 2019 có giải thích về hành vi phân biệt đối xử trong lao động là hành vi phân biệt, loại trừ hoặc ưu tiên dựa trên chủng tộc, màu da, nguồn gốc quốc gia hoặc nguồn gốc xã hội, dân tộc, giới tính, độ tuổi, tình trạng thai sản, tình trạng hôn nhân, tôn giáo, tín ngưỡng, chính kiến, khuyết tật, trách nhiệm gia đình hoặc trên cơ sở tình trạng nhiễm HIV hoặc vì lý do thành lập, gia nhập và hoạt động công đoàn, tổ chức của người lao động tại doanh nghiệp có tác động làm ảnh hưởng đến bình đẳng về cơ hội việc làm hoặc nghề nghiệp. Như vậy, trọng nam khinh nữ được xem là hành vi phân biệt giới tính do đó nó một trong những hành vi được xem là phân biệt đối xử trong lao động. Đồng thời, tại khoản 1 Điều 8 Bộ luật Lao động 2019 có quy định các hành vi bị cấm trong lao động trong đó bao gồm hành vi phân biệt đối xử trong lao động. Như vậy, trường hợp công ty có hành vi phân biệt đối xử trong lao động là vi phạm vào những hành vi bị cấm trong lao động. Do đó, mức phạt đối với công ty trong trường hợp này được quy định như sau: Theo quy định tại khoản 2 Điều 8 Nghị định 12/2022/NĐ-CP, phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 10.000.000 đồng đối với người sử dụng lao động có một trong các hành vi sau đây: - Phân biệt đối xử trong lao động trừ các hành vi phân biệt đối xử quy định tại điểm d khoản 1 Điều 13, khoản 2 Điều 23, khoản 1 Điều 36 và khoản 2 Điều 37 Nghị định 12/2022/NĐ-CP; - Sử dụng lao động chưa qua đào tạo hoặc chưa có chứng chỉ kỹ năng nghề quốc gia đối với nghề, công việc phải sử dụng lao động đã được đào tạo hoặc phải có chứng chỉ kỹ năng nghề quốc gia; - Không báo cáo tình hình thay đổi về lao động theo quy định; - Không lập sổ quản lý lao động hoặc lập sổ quản lý lao động không đúng thời hạn hoặc không đảm bảo các nội dung cơ bản theo quy định pháp luật. Theo đó, trường hợp người sử dụng lao động có hành vi phân biệt đối xử trong lao động thì sẽ bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 10.000.000 đồng. Tuy nhiên, theo khoản 1 Điều 6 Nghị định 12/2022/NĐ-CP, mức phạt quy định trên đây là mức phạt đối với cá nhân. Mức phạt tiền đối với tổ chức bằng 02 lần mức phạt tiền đối với cá nhân. Ngoài ra, theo tại Điều 8 Nghị định 125/2021/NĐ-CP cũng có quy định về các hành vi vi phạm hành chính trong lĩnh vực bình đẳng giới liên quan đến lao động quy định: - Phạt cảnh cáo đối với hành vi vận động, xúi giục người khác lựa chọn việc làm, nơi làm việc, nghề nghiệp theo định kiến giới. - Phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 15.000.000 đồng đối với một trong các hành vi sau đây: + Phân biệt đối xử về giới trong bảo đảm an toàn lao động, vệ sinh lao động; + Ép buộc hoặc nghiêm cấm người khác lựa chọn việc làm, nơi làm việc, nghề nghiệp vì định kiến giới; + Phân biệt đối xử về giới trong phân công công việc dẫn đến chênh lệch về thu nhập; + Từ chối tuyển dụng hoặc tuyển dụng hạn chế người lao động thuộc một giới tính nhất định. - Phạt tiền từ 20.000.000 đồng đến 30.000.000 đồng đối với hành vi đặt ra và thực hiện các quy định, quy chế có sự phân biệt đối xử về giới. - Các hành vi vi phạm quy định riêng đối với lao động nữ và đảm bảo bình đẳng giới bị xử phạt theo quy định tại Nghị định của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực lao động, bảo hiểm xã hội, đưa người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng. - Biện pháp khắc phục hậu quả: + Buộc khôi phục lại quyền lợi hợp pháp của người bị xâm phạm đối với hành vi quy định tại khoản 2 Điều 8 Nghị định 125/2021/NĐ-CP; + Buộc sửa đổi hoặc bãi bỏ các quy định, quy chế của cơ quan, tổ chức, cá nhân có sự phân biệt đối xử về giới đối với hành vi quy định tại khoản 3 Điều 8 Nghị định 125/2021/NĐ-CP. Theo đó, trường hợp người sử dụng lao động có hành vi vi phạm trong lĩnh vực bình đẳng giới liên quan đến lao động thì sẽ bị xử phạt bằng hình thức cảnh cáo hoặc phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 30.000.000 đồng. Tại khoản 2 Điều 5 Nghị định 125/2021/NĐ-CP cũng quy định mức phạt quy định trên đây là mức phạt đối với cá nhân. Mức phạt tiền đối với tổ chức bằng 02 lần mức phạt tiền đối với cá nhân. Như vậy, tùy thuộc vào từng trường hợp cụ thể của hành vi trọng nam khinh nữ trong công việc mà có mức phạt tiền khác nhau và mức phạt đối với công ty có hành vi trọng nam khinh nữ trong công việc có thể là cảnh cáo hoặc phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 60.000.000 đồng.
Dâu là con, rể là khách là gì? Mẹ chồng bỏ nhà đi vì giận con dâu có được hòa giải ở cơ sở không?
Dâu là con, rể là khách là gì? Mẹ chồng mâu thuẫn với con dâu nên bỏ nhà đi có thuộc phạm vi hòa giải ở cơ sở theo quy định của pháp luật hay không? Dâu là con, rể là khách là gì? Câu tục ngữ “Dâu là con, rể là khách” thể hiện quan niệm của ông ta về mối quan hệ trong gia đình Việt từ ngày xưa: - Dâu là con: Người con dâu là một thành viên cùng ăn, cùng ở, cùng tạo ra vật chất, của cải trong gia đình. Có thể nói, vai trò của con dâu trong gia đình Việt ngày xưa có ý nghĩa và vị trí vô cùng quan trọng bởi mỗi khi đau ốm hay trái gió trở trời, bố mẹ, ông bà chồng đều được một tay cô con dâu chăm sóc; những lo toan trong gia đình được người con dâu cùng chung vai gánh vác. - Ngược lại “rể là khách”: giống như con dâu, con rể cũng là thành viên khác dòng máu đến gia nhập vào gia đình khác - là gia đình vợ. Nhưng thực tế con rể chỉ xuất hiện nhiều vào những ngày gia đình vợ có những công việc quan trọng. Thành viên này thường không gắn bó thường xuyên cả ngày với gia đình như người con dâu. Dưới góc độ xã hội hiện đại, thì quan niệm “dâu là con, rể là khách” nên được nhìn nhận lại một cách linh hoạt và sâu sắc hơn, bởi: Chúng ta đang sống trong một thế giới phẳng - nơi mà bình đẳng giới ngày càng được đề cao đi đôi với đó là cả con dâu và con rể đều có trách nhiệm chung trong việc xây dựng gia đình. Theo đó, có thể nói rằng dâu hay rể thì cũng đều là con. Đều có vai trò giống nhau trong gia đình. Vậy nên cần chú ý một số vấn đề trong việc vận dụng quan niệm “dâu là con, rể là khách” trong thực tế cuộc sống: - Tránh áp đặt quan niệm này một cách cứng nhắc, dẫn đến mâu thuẫn và bất hòa. - Tôn trọng sự khác biệt, thấu hiểu và yêu thương để xây dựng gia đình hạnh phúc. Ngoài ra, trong vấn đề hòa giải ở sở hòa giải viên có thể vận dụng câu nói này vào mâu thuẫn trong quan hệ mẹ chồng nàng dâu qua tình huống sau: Mẹ chồng mâu thuẫn với con dâu nên bỏ nhà đi. Mẹ chồng mâu thuẫn với con dâu nên bỏ nhà đi có thuộc phạm vi hòa giải ở cơ sở không? Căn cứ theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 5 Nghị định 15/2014/NĐ-CP thì hòa giải ở cơ sở được tiến hành đối với các mâu thuẫn, tranh chấp, vi phạm pháp luật sau đây: - Tranh chấp phát sinh từ quan hệ hôn nhân và gia đình như tranh chấp phát sinh từ quan hệ giữa vợ, chồng; quan hệ giữa cha mẹ và con; quan hệ giữa ông bà nội, ông bà ngoại và cháu, giữa anh, chị, em và giữa các thành viên khác trong gia đình; cấp dưỡng; xác định cha, mẹ, con; nuôi con nuôi; ly hôn; Như vậy, trong tình huống “Mẹ chồng mâu thuẫn với con dâu nên bỏ nhà đi” thuộc phạm vi hòa giải ở cơ sở. Lưu ý: theo quy định tại Điều 16 Luật hòa giải ở cơ sở năm 2013 thì hòa giải ở cơ sở được tiến hành khi có một trong các căn cứ sau đây: - Một bên hoặc các bên yêu cầu hòa giải; - Hòa giải viên chứng kiến hoặc biết vụ, việc thuộc phạm vi hòa giải; - Theo phân công của tổ trưởng tổ hòa giải hoặc đề nghị của cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan. Hòa giải viên khi tiến hành hòa giải quan hệ mẹ chồng nàng dâu phải đảm bảo những nguyên tắc hòa giải ở cơ sở nào? Hòa giải viên khi tiến hành hòa giải quan hệ mẹ chồng nàng dâu phải đảm bảo những nguyên tắc tổ chức, hoạt động hòa giải ở cơ sở theo quy định tại Điều 4 Luật hòa giải ở cơ sở năm 2013, cụ thể như sau: - Tôn trọng sự tự nguyện của các bên; không bắt buộc, áp đặt các bên trong hòa giải ở cơ sở. - Bảo đảm phù hợp với chính sách, pháp luật của Nhà nước, đạo đức xã hội, phong tục, tập quán tốt đẹp của nhân dân; phát huy tinh thần đoàn kết, tương trợ, giúp đỡ lẫn nhau giữa các thành viên trong gia đình, dòng họ và cộng đồng dân cư; quan tâm đến quyền, lợi ích hợp pháp của trẻ em, phụ nữ, người khuyết tật và người cao tuổi. - Khách quan, công bằng, kịp thời, có lý, có tình; giữ bí mật thông tin đời tư của các bên, trừ trường hợp quy định tại khoản 4 và khoản 5 Điều 10 của Luật này. - Tôn trọng ý chí, quyền và lợi ích hợp pháp của các bên, quyền và lợi ích hợp pháp của người khác; không xâm phạm lợi ích của Nhà nước, lợi ích công cộng. - Bảo đảm bình đẳng giới trong tổ chức và hoạt động hòa giải ở cơ sở. - Không lợi dụng hòa giải ở cơ sở để ngăn cản các bên liên quan bảo vệ quyền lợi của mình theo quy định của pháp luật hoặc trốn tránh việc xử lý vi phạm hành chính, xử lý về hình sự. Ngoài ra, khi tiến hành tổ chức hòa giải trong trường hợp “Mẹ chồng mâu thuẫn với con dâu nên bỏ nhà đi” hòa giải viên có thể dùng câu nói “Dâu là con, rể là khách” để xoa dịu mối quan hệ mẹ chồng nàng dâu từ cả hai phía mẹ chồng lẫn con dâu, đặc biệt là từ phía mẹ chồng bởi con nào thì cũng là con, không phân biệt là con mình hay con người khác. Để từ đó, giúp các bên có thể cùng nhìn nhận lại vấn đề, thấu hiểu nhau hơn và có một kết quả hòa giải thành công.
Thủ tướng phê duyệt Chương trình hành động quốc gia về Phụ nữ, hòa bình và an ninh
Phó Thủ tướng Trần Lưu Quang ký Quyết định 101/QĐ-TTg phê duyệt Chương trình hành động quốc gia về Phụ nữ, hòa bình và an ninh giai đoạn 2024 - 2030. Mục tiêu chung của Chương trình nhằm bảo đảm và thúc đẩy hơn nữa bình đẳng giới; nâng cao vai trò, vị thế, tiếng nói, quyền lợi và nghĩa vụ, trách nhiệm của phụ nữ trong tham gia các lĩnh vực hòa bình, an ninh, góp phần duy trì hoà bình, ổn định và sự phát triển bền vững của quốc gia và trên phạm vi quốc tế. Mục tiêu cụ thể đến năm 2030 là tăng cường sự tham gia đầy đủ, bình đẳng, có ý nghĩa của phụ nữ Việt Nam trong các lĩnh vực chính trị, đối ngoại, quốc phòng, an ninh và xử lý, ứng phó với các thách thức an ninh phi truyền thống của quốc gia, cũng như trong gìn giữ hoà bình, an ninh quốc tế. Phòng ngừa và ứng phó tốt hơn với bạo lực trên cơ sở giới trong bối cảnh sự cố, thảm họa và ứng phó với các thách thức an ninh phi truyền thống; Tăng cường lồng ghép giới trong hoạt động cứu trợ và phục hồi, bao gồm khắc phục hậu quả chiến tranh, phòng, chống, xử lý, ứng phó với sự cố, thảm họa và các thách thức an ninh phi truyền thống; Tăng cường hợp tác quốc tế trong lĩnh vực Phụ nữ, hòa bình và an ninh. Để đạt được mục tiêu trên, Chương trình đưa ra các nhiệm vụ và giải pháp cụ thể như: Rà soát và hoàn thiện cơ chế, chính sách, pháp luật nhằm tăng cường sự tham gia của phụ nữ trong lĩnh vực hoà bình, an ninh; trong khắc phục hậu quả chiến tranh và phòng, chống, xử lý, ứng phó với sự cố, thảm họa và các thách thức an ninh phi truyền thống. Nâng cao hiệu quả công tác phòng ngừa, ứng phó với bạo lực trên cơ sở giới, đáp ứng nhu cầu cụ thể và thúc đẩy sự tham gia có ý nghĩa của phụ nữ trong bối cảnh khắc phục hậu quả chiến tranh, phòng, chống, xử lý, ứng phó với sự cố, thảm họa và các thách thức an ninh phi truyền thống. Đồng thời, nâng cao năng lực và tăng cường sự tham gia của phụ nữ trong tham gia giải quyết các vấn đề hoà bình, an ninh quốc tế; tích cực thúc đẩy và tham gia các sáng kiến, giải pháp trong khuôn khổ hợp tác song phương, đa phương về Phụ nữ, hòa bình và an ninh; tăng cường trao đổi, chia sẻ kinh nghiệm, tranh thủ sự hỗ trợ của các đối tác quốc tế về thực hiện Chương trình hành động quốc gia về Phụ nữ, hòa bình, an ninh. Theo Chính phủ
Kế hoạch tuyên truyền vai trò của trẻ em, người cao tuổi, bình đẳng giới trong gia đình
Ngày 15/5/2023 Bộ VHTTDL vừa có Quyết định 1242/QĐ-BVHTTDL năm 2023 Ban hành Kế hoạch tổ chức thực hiện các nhiệm vụ về trẻ em, người cao tuổi, bình đẳng giới trong gia đình. Theo đó, tổ chức tuyên truyền vai trò của trẻ em, người cao tuổi, bình đẳng giới trong gia đình như sau: (1) Vai trò của gia đình trong việc thực hiện quyền và bổn phận của trẻ em - Tuyên truyền, phổ biến chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước về các quyền và bổn phận của trẻ em. - Các hoạt động của công tác gia đình có nội dung liên quan đến trẻ em trong gia đình trên cả nước. - Các kiến thức, kỹ năng cơ bản để gia đình thực hiện tốt các quyền và bổn phận của trẻ em theo quy định tại Luật Trẻ em 2016. - Những kinh nghiệm hay; nêu gương những tập thể, cá nhân đã có nhiều đóng góp vào việc thực hiện tốt công tác bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em trong gia đình. (2) Vai trò người cao tuổi trong gia đình trên phương tiện truyền thông đại chúng - Tuyên truyền, phổ biến chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước về người cao tuổi trong gia đình. - Việc phát huy vai trò của người cao tuổi trong gia đình. - Việc bảo vệ, chăm sóc người cao tuổi trong gia đình; hỗ trợ người cao tuổi được phát huy vai trò của mình. - Việc phát huy trí tuệ, kinh nghiệm của người cao tuổi trong việc giáo dục văn hóa ứng xử và xây dựng gia đình hạnh phúc. - Vị trí, vai trò và đóng góp của người cao tuổi trong việc giáo dục giá trị của gia đình; giáo dục đạo đức, lối sống cho thế hệ trẻ trong gia đình. - Những kinh nghiệm hay; những gương điển hình về thực hiện công tác người cao tuổi trong gia đình. (3) Bình đẳng giới trong gia đình trên phương tiện truyền thông đại chúng - Tuyên truyền, phổ biến chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước về bình đẳng giới trong gia đình. - Việc thực hiện công tác bình đẳng giới trong gia đình trên cả nước. - Các kiến thức, kỹ năng để thực hiện bình đẳng giới trong gia đình cho các thành viên gia đình. - Những kinh nghiệm hay; những gương điển hình về thực hiện bình đẳng giới trong gia đình. Xem thêm Quyết định 1242/QĐ-BVHTTDL năm 2023 ban hành ngày 15/5/2023.
Cản trở người tự ứng cử đại biểu Quốc hội bằng cách tuyên truyền sai sự thật do định kiến về giới
Hành vi cố ý tuyên truyền sai sự thật để cản trở người tự ứng cử, được giới thiệu ứng cử đại biểu Quốc hội do định kiến về giới là một hành vi vi phạm pháp luật. Cố ý tuyên truyền sai sự thật để cản trở người khác ứng cử đại biểu Quốc hội do định kiến giới Theo khoản 1 Điều 6 Nghị định 125/2021/NĐ-CP, phạt tiền từ 2.000.000 đồng đến 3.000.000 đồng đối với các hành vi vi phạm hành chính trong lĩnh vực bình đẳng giới liên quan đến chính trị như sau - Xúc phạm danh dự, nhân phẩm của người tự ứng cử, được giới thiệu ứng cử đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân, vào cơ quan lãnh đạo của tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức chính trị xã hội - nghề nghiệp, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp vì định kiến giới; - Xúc phạm danh dự, nhân phẩm nhằm cản trở việc bổ nhiệm người vào vị trí quản lý, lãnh đạo hoặc các chức danh chuyên môn vì định kiến giới; - Cố ý tuyên truyền sai sự thật để cản trở người tự ứng cử, được giới thiệu ứng cử đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân, vào cơ quan lãnh đạo của tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức chí Theo đó, hành vi cố ý tuyên truyền sai sự thật để cản trở người tự ứng cử, được giới thiệu ứng cử đại biểu Quốc hội có thể bị xử phạt vi phạm hành chính với mức phạt tiền từ 2.000.000 đồng đến 3.000.000 đồng. Đây là mức xử phạt vi phạm hành chính quy định đối với các hành vi vi phạm, trường hợp tổ chức có hành vi vi phạm hành chính như cá nhân thì mức phạt tiền bằng 02 lần mức phạt tiền đối với cá nhân. Bình đẳng giới trong lĩnh vực chính trị Theo Điều 11 Nghị định 125/2021/NĐ-CP quy định về bình đẳng giới trong lĩnh vực chính trị như sau: - Nam, nữ bình đẳng trong tham gia quản lý nhà nước, tham gia hoạt động xã hội. - Nam, nữ bình đẳng trong tham gia xây dựng và thực hiện hương ước, quy ước của cộng đồng hoặc quy định, quy chế của cơ quan, tổ chức. - Nam, nữ bình đẳng trong việc tự ứng cử và được giới thiệu ứng cử đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân; tự ứng cử và được giới thiệu ứng cử vào cơ quan lãnh đạo của tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức chính trị xã hội - nghề nghiệp, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp. - Nam, nữ bình đẳng về tiêu chuẩn chuyên môn, độ tuổi khi được đề bạt, bổ nhiệm vào cùng vị trí quản lý, lãnh đạo của cơ quan, tổ chức. - Các biện pháp thúc đẩy bình đẳng giới trong lĩnh vực chính trị bao gồm: + Bảo đảm tỷ lệ thích đáng nữ đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân phù hợp với mục tiêu quốc gia về bình đẳng giới; + Bảo đảm tỷ lệ nữ thích đáng trong bổ nhiệm các chức danh trong cơ quan nhà nước phù hợp với mục tiêu quốc gia về bình đẳng giới. Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã xử phạt hành chính đối với hành vi cố ý tuyên truyền sai sự thật để cản trở người khác ứng cử đại biểu Quốc hội do định kiến giới Theo khoản 1 Điều 14 Nghị định 125/2021/NĐ-CP, Chủ tịch Ủy ban nhân dân các cấp có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính theo chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn được giao đối với các hành vi vi phạm hành chính trong lĩnh vực bình đẳng giới được quy định trong Nghị định 125/2021/NĐ-CP. Theo khoản 1 Điều 15 Nghị định 125/2021/NĐ-CP, Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã có quyền: - Phạt cảnh cáo; - Phạt tiền đến 3.000.000 đồng; - Tịch thu tang vật, phương tiện vi phạm hành chính có giá trị không vượt quá 6.000.000 đồng. Trên đây là thẩm quyền phạt tiền đối với một hành vi vi phạm hành chính của cá nhân. Thẩm quyền phạt tiền đối với hành vi vi phạm hành chính của tổ chức gấp 02 lần thẩm quyền phạt tiền đối với cá nhân tức là Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã có thẩm quyền phạt tiền lên đến 6.000.000 đồng theo chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn được giao đối với các hành vi vi phạm hành chính của tổ chức trong lĩnh vực bình đẳng giới được quy định trong Nghị định 125/2021/NĐ-CP. Tóm lại, cố ý tuyên truyền sai sự thật để cản trở người tự ứng cử, được giới thiệu ứng cử đại biểu Quốc hội do định kiến về giới là một hành vi vi phạm pháp luật. Cá nhân, tổ chức có thể bị xử phạt vi phạm hành chính khi thực hiện hành vi này.
Công văn 912/LĐTBXH-BĐG: Đẩy mạnh bình đẳng giới và ứng phó với bạo lực
Ngày 16/3/2023 Bộ LĐTB&XH có ban hành Công văn 912/LĐTBXH-BĐG năm 2023 về việc hướng dẫn triển khai công tác bình đẳng giới năm 2023. Theo đó, nhằm thực hiện có hiệu quả các quy định của Luật Bình đẳng giới 2006 (BĐG), Chiến lược quốc gia yêu cầu các đơn vị liên quan tập trung triển khai một số nhiệm vụ trọng tâm về công tác bình đẳng giới trong năm 2023 như sau: (1) Triển khai Chiến lược phòng ngừa bình đẳng giới Cụ thể, Bộ sẽ triển khai, thực hiện các dự án sau: Thứ nhất: Chiến lược quốc gia về bình đẳng giới giai đoạn 2021-2030,. Thứ hai: Triển khai Chương trình phòng ngừa, ứng phó với bạo lực trên cơ sở giới giai đoạn 2021-2025. Thứ ba: Triển khai Chương trình truyền thông về bình đẳng giới đến năm 2030… Đặc biệt, đối với các bộ, ngành, cơ quan được giao nhiệm vụ cụ thể trong chiến lược và các chương trình nêu trên cần rà soát, đánh giá kết quả thực hiện của giai đoạn 2021-2023, dự báo khả năng, kết quả thực hiện đến năm 2025 để có các giải pháp phù hợp đạt được các mục tiêu, chỉ tiêu đề ra. Đồng thời, tiếp tục rà soát, đánh giá các mô hình thúc đẩy bình đẳng giới và phòng ngừa, ứng phó với bạo lực trên cơ sở giới đã và đang được triển khai để nâng cao hiệu quả hoạt động, tiếp tục duy trì, nhân rộng các mô hình ở những địa bàn, lĩnh vực còn tình trạng bất bình đẳng giới hoặc nguy cơ xảy ra bạo lực trên cơ sở giới. Bám sát các văn bản hướng dẫn để thực hiện có hiệu quả các nhiệm vụ về bình đẳng giới và phòng ngừa, ứng phó với bạo lực trên cơ sở giới trong các Chương trình mục tiêu quốc gia giai đoạn 2021-2025. Đối với các chương trình, đề án khác có nội dung liên quan đến công tác bình đẳng giới, đề nghị các bộ, ngành, cơ quan được phân công chủ trì, phối hợp xây dựng và triển khai kế hoạch thực hiện chương trình, đề án đảm bảo đạt các mục tiêu, chỉ tiêu đề ra góp phần thực hiện đạt các mục tiêu quốc gia về bình đẳng giới. (2) Đẩy mạnh tuyên truyền chính sách, pháp luật về bình đẳng giới Đẩy mạnh truyền thông về các chủ trương, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước về bình đẳng giới, vì sự tiến bộ của phụ nữ và phòng ngừa, ứng phó với bạo lực trên cơ sở giới. Ngoài ra, thực hiện tăng cường tuyên truyền, giới thiệu về các mô hình, dịch vụ hỗ trợ thực hiện bình đẳng giới, phòng ngừa và ứng phó với bạo lực trên cơ sở giới trong các lĩnh vực mới như biến đổi khí hậu, chuyển đổi số, vận động việc lập ngân sách có trách nhiệm giới,.... Ngoài ra, tích cực đấu tranh, phản bác những thông tin sai lệch về bình đẳng giới của Việt Nam. Xây dựng kế hoạch, tổ chức thực hiện Tháng hành động vì bình đẳng giới và phòng ngừa, ứng phó với bạo lực trên cơ sở giới năm 2023 hiệu quả, sáng tạo, phù hợp với điều kiện, tình hình cụ thể của bộ, ngành, địa phương. Tích cực xây dựng, phổ biến chính sách, pháp luật về bình đẳng giới và phòng ngừa, ứng phó với bạo lực trên cơ sở giới phù hợp với từng địa bàn, đối tượng cụ thể; thu hút sự tham gia của nam giới, trẻ em trai trong các hoạt động truyền thông về bình đẳng giới. Qua đó, đa dạng hóa các sản phẩm truyền thông về bình đẳng giới; khuyến khích phát triển, xuất bản các sản phẩm truyền thông bằng tiếng dân tộc thiểu số; tăng cường ứng dụng, khai thác lợi thế của công nghệ thông tin và các loại hình truyền thông trên nền tảng số. (3) Nâng cao năng lực và hiệu quả quản lý nhà nước về bình đẳng giới Chú trọng công tác phối hợp liên ngành giữa các cơ quan quản lý nhà nước và các tổ chức chính trị - xã hội trong xây dựng, triển khai và thanh tra, kiểm tra, giám sát việc thực hiện pháp luật, chính sách về bình đẳng giới. - Tổ chức các lớp tập huấn kỹ năng lồng ghép giới trong xây dựng văn bản quy phạm pháp luật, chiến lược, chương trình, dự án,... cho cán bộ phụ trách công tác pháp chế và xây dựng chính sách, pháp luật. Chủ yếu tập huấn kiến thức về giới, bình đẳng giới cho đội ngũ cán bộ thanh tra, tư pháp, cán bộ phụ trách công tác bình đẳng giới và thành viên Ban vì sự tiến bộ phụ nữ của các bộ, ngành, địa phương. - Tổ chức các lớp tập huấn giảng viên nguồn về giới cấp tỉnh để chủ động triển khai công tác bồi dưỡng, nâng cao năng lực cho đội ngũ cán bộ làm công tác bình đẳng giới phù hợp với yêu cầu của địa phương. - Tăng cường kiểm tra, thanh tra, xử lý nghiêm các vi phạm về bình đẳng giới; kịp thời xác minh, báo cáo những vấn đề, vụ việc liên quan đến công tác bình đẳng giới, bạo lực trên cơ sở giới cho cơ quan nhà nước có thẩm quyền để phối hợp giải quyết. - Khuyến khích thí điểm xây dựng và vận hành các sáng kiến, mô hình thúc đẩy bình đẳng giới và phòng ngừa, ứng phó với bạo lực trên cơ sở giới. - Thực hiện nghiêm chế độ thông tin, báo cáo về công tác bình đẳng giới, đảm bảo chất lượng và thời hạn của báo cáo theo yêu cầu. - Khen thưởng, biểu dương kịp thời các cá nhân, đơn vị có thành tích xuất sắc trong công tác bình đẳng giới và phòng ngừa, ứng phó với bạo lực trên cơ sở giới. Xem thêm Công văn 912/LĐTBXH-BĐG ban hành ngày 16/3/2023.
Bình đẳng giới trong lao động.
Với cuộc sống hiện đại ngày nay, những quan niệm lạc hậu, quan nhiệm trọng nam khinh nữ, phân biệt giới đã dần bị phá bỏ khi các quy định pháp luật về chính sách bình đẳng giới được tuyên truyền, phổ biến rộng rãi trong đời sống nhân dân. Tuy nhiên, vần còn đâu đó những hình ảnh phân biệt giới, thường thấy khá phổ biến trong lĩnh vực lao động, chúng ta dễ dàng bắt gặp những thông tin tuyển dụng ưu tiên tuyển dụng lao động theo một giới tính nhất định, chỉ tuyển dụng lao động trong một độ tuổi, chỉ đào tạo cho lao động nam không đào tạo an toàn cho lao động nữ,… Ngoài những công việc nặng nhọc bắt buộc phải lựa chọn lao động, thì vẫn có nhiều người lao động vẫn còn phân biệt lựa chọn lao động theo giới tính, theo tuổi tác. Trong quá trình làm việc, cùng một công việc nhưng có sự phân biệt về mức lương, chế độ đãi ngộ, phụ cấp, quá trình thăng tiến cũng có sự phân biệt về giới. Theo quy định tại Khoản 1 Điều 8 Bộ luật lao động 2019 hành vi phân biệt đối xử trong lao động là hành vi bị nghiêm cấm trong lĩnh vực lao động. Tại Điều 13 Luật đình đẳng giới 2006 quy định bình đẳng giới trong lĩnh vực lao động Đối với người sử dụng lao động có vi vi phạm bình đẳng giới liên quan đến lao động sẽ bị xử phạt từ cảnh cáo đến phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 30.000.000 đồng tùy thuộc vào từng hành vi vi phạm theo quy định tại Điều 8 Nghị định 125/2021/NĐ-CP xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bình đẳng giới.
Nghị định 125/2021: Tăng mạnh mức xử phạt với hành vi vi phạm hành chính về bình đẳng giới
Chính phủ vừa ban hành Nghị định 125/2021/NĐ-CP về quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bình đẳng giới. Theo đó nhiều hành vi bị tăng nặng mức xử phạt, cụ thể như sau: Trong lĩnh vực giáo dục, đào tạo: 1. Phạt cảnh cáo đối với hành vi vận động, xúi giục hoặc không cho người khác tới trường, học tập nâng cao hiểu biết vì lý do giới tính. 2. Phạt tiền từ 500.000 đồng đến 1.000.000 đồng đối với hành vi ép buộc hoặc cản trở người khác lựa chọn môn học, ngành, nghề học tập, đào tạo vì lý do giới tính. 3. Phạt tiền từ 2.000.000 đồng đến 3.000.000 đồng đối với hành vi vận động, ép buộc người khác nghỉ học vì lý do giới tính. 4. Phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 10.000.000 đồng đối với một trong các hành vi sau đây: - Vận động, ép buộc có tổ chức nhiều người nghỉ học vì lý do giới tính; - Từ chối tuyển sinh đối với người có đủ điều kiện vào các khóa đào tạo, bồi dưỡng vì lý do giới tính hoặc do việc mang thai, sinh con, nuôi con nhỏ. 5. Phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 15.000.000 đồng đối với hành vi quy định tuổi đào tạo, tuổi tuyển sinh khác nhau giữa nam và nữ. 6. Phạt tiền từ 15.000.000 đồng đến 20.000.000 đồng đối với một trong các hành vi tổ chức giáo dục hướng nghiệp, biên soạn, phổ biến sách giáo khoa, giáo trình, chương trình giảng dạy có nội dung định kiến giới. Trong lĩnh vực gia đình 1. Phạt tiền từ 3.000.000 đồng đến 5.000.000 đồng đối với một trong các hành vi sau đây: - Cản trở hoặc không cho thành viên trong gia đình thực hiện các hoạt động tạo thu nhập hoặc đáp ứng các nhu cầu khác của gia đình vì lý do giới tính; - Đối xử bất bình đẳng giữa các thành viên trong gia đình vì lý do giới tính. 2. Phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 7.000.000 đồng đối với một trong các hành vi sau đây: - Đe dọa dùng vũ lực hoặc uy hiếp tinh thần nhằm cản trở thành viên trong gia đình có đủ điều kiện theo quy định của pháp luật tham gia định đoạt tài sản thuộc sở hữu chung của hộ gia đình vì lý do giới tính; - Áp đặt việc thực hiện lao động gia đình, sử dụng biện pháp tránh thai, triệt sản như là trách nhiệm của thành viên trong gia đình thuộc một giới nhất định. 3. Phạt tiền từ 7.000.000 đồng đến 10.000.000 đồng đối với hành vi dùng vũ lực nhằm cản trở thành viên trong gia đình có đủ điều kiện theo quy định của pháp luật tham gia định đoạt tài sản thuộc sở hữu chung của hộ gia đình vì lý do giới tính. Trong lĩnh vực lao động 1. Phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 15.000.000 đồng đối với một trong các hành vi sau đây: a) Phân biệt đối xử về giới trong bảo đảm an toàn lao động, vệ sinh lao động; b) Ép buộc hoặc nghiêm cấm người khác lựa chọn việc làm, nơi làm việc, nghề nghiệp vì định kiến giới; c) Phân biệt đối xử về giới trong phân công công việc dẫn đến chênh lệch về thu nhập; d) Từ chối tuyển dụng hoặc tuyển dụng hạn chế người lao động thuộc một giới tính nhất định. 2. Phạt tiền từ 20.000.000 đồng đến 30.000.000 đồng đối với hành vi đặt ra và thực hiện các quy định, quy chế có sự phân biệt đối xử về giới. 3. Các hành vi vi phạm quy định riêng đối với lao động nữ và đảm bảo bình đẳng giới bị xử phạt theo quy định tại Nghị định của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực lao động, bảo hiểm xã hội, đưa người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng. .... Nghị định 125/2021 có hiệu lực từ ngày 01/01/2021 thay thế Nghị định 55/2009/NĐ-CP
Sắp tới: Các hành vi phân biệt đối xử vì giới tính trong gia đình có thể bị phạt đến 20 triệu đồng!
Phân biệt giới tính - Minh họa Chính phủ đang dự thảo Nghị định quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bình đẳng giới thay thế cho Nghị định 55/2009/NĐ-CP. Đáng chú ý trong dự thảo này là một số hành vi bị xử phạt đã được bổ sung, bên cạnh đó tất cả các mức phạt đều được tăng lên đáng kể. Về các hành vi vi phạm hành chính trong lĩnh vực bình đẳng giới liên quan đến gia đình, những hành vi bị xử phạt bao gồm: 1. Phạt cảnh cáo hoặc phạt tiền từ 1.000.000 đồng đến 2.000.000 đồng đối với hành vi cản trở, không cho thành viên trong gia đình tham gia sử dụng tài sản thuộc sở hữu chung của hộ gia đình. => Dường như quy định này chưa được hoàn thiện, bởi lẽ chỉ khi hành vi cản trở này là vì lý do phân biệt giới tính thì pháp luật mới có thể can thiệp! 2. Phạt cảnh cáo hoặc phạt tiền từ 2.000.000 đồng đến 3.000.000 đồng đối với một trong các hành vi sau đây: a) Xúc phạm danh dự, nhân phẩm nhằm cản trở thành viên trong gia đình có đủ điều kiện theo quy định của pháp luật tham gia định đoạt tài sản thuộc sở hữu chung của hộ gia đình vì lý do giới tính; b) Cản trở, không cho thành viên trong gia đình thực hiện các hoạt động tạo thu nhập hoặc đáp ứng các nhu cầu khác của gia đình vì định kiến giới; c) Đối xử bất bình đẳng giữa các thành viên trong gia đình vì lý do giới tính. 3. Phạt tiền từ 3.000.000 đồng đến 5.000.000 đồng đối với một trong các hành vi sau đây: a) Đe dọa dùng vũ lực hoặc uy hiếp tinh thần nhằm cản trở thành viên trong gia đình có đủ điều kiện theo quy định của pháp luật tham gia định đoạt tài sản thuộc sở hữu chung của hộ gia đình vì lý do giới tính. b) Không cho hành viên trong gia đình tham gia công tác xã hội vì định kiến giới; c) Áp đặt việc thực hiện lao động gia đình, sử dụng biện pháp tránh thai, triệt sản như là trách nhiệm của thành viên trong gia đình thuộc một giới nhất định. 4. Phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 7.000.000 đồng đối với hành vi dùng vũ lực nhằm cản trở thành viên trong gia đình có đủ điều kiện theo quy định của pháp luật tham gia định đoạt tài sản thuộc sở hữu chung của hộ gia đình vì lý do giới tính. 5. Phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 20.000.000 đồng đối với hành vi hành hạ, ngược đãi thành viên gia đình là phụ nữ có thai, phụ nữ nuôi con nhỏ. (Những phần bôi màu xanh là quy định chưa có trong Nghị định 55/2009/NĐ-CP) Hiện nay theo Nghị định 55, mức phạt cao nhất dành cho các hành vi vi phạm hành chính về bình đẳng giới trong gia đình chỉ là 3 triệu đồng. Xem chi tiết các mức phạt liên quan đến những hành vi phân biệt giới tính trong các lĩnh vực khác của Dự thảo tại file đính kèm.
Đến năm 2025, cứ 10 giám đốc doanh nghiệp ở VN thì sẽ có 3 người là nữ?
Chiến lược Quốc gia về bình đẳng giới - Minh họa Đây là một trong những mục tiêu của Chính phủ được đề ra tại Chiến lược quốc gia về bình đẳng giới giai đoạn 2021-2030, ban hành kèm theo Nghị quyết 28/NQ-CP ngày 3/3/2021. Mục tiêu thứ 2 của Chiến lược nằm trong lĩnh vực kinh tế, lao động, cụ thể có 3 chỉ tiêu: - Chỉ tiêu 1: Tăng tỷ lệ lao động nữ làm công hưởng lương lên đạt 50% vào năm 2025 và khoảng 60% vào năm 2030. - Chỉ tiêu 2: Giảm tỷ trọng lao động nữ làm việc trong khu vực nông nghiệp trong tổng số lao động nữ có việc làm xuống dưới 30% vào năm 2025 và dưới 25% vào năm 2030. - Chỉ tiêu 3: Tỷ lệ nữ giám đốc/chủ doanh nghiệp, hợp tác xã đạt ít nhất 27% vào năm 2025 và 30% vào năm 2030. Như vậy, Việt Nam sẽ phấn đấu để đến 2025, cứ 10 nữ giám đốc thì có khoảng 3 người là nữ Ngoài ra, một điểm đáng chú ý nữa trong Nghị quyết là Mục tiêu trong đời sống gia đình, và phòng ngừa, ứng phó với bạo lực trên cơ sở giới. Trong đó có những chỉ tiêu sau: - Chỉ tiêu 1: Giảm số giờ trung bình làm công việc nội trợ và chăm sóc trong gia đình không được trả công của phụ nữ còn 1,7 lần vào năm 2025 và 1,4 lần vào năm 2030 so với nam giới. - Chỉ tiêu 2: Đến năm 2025 đạt 80% và đến 2030 đạt 90% người bị bạo lực gia đình, bạo lực trên cơ sở giới được phát hiện được tiếp cận ít nhất một trong các dịch vụ hỗ trợ cơ bản; Đến năm 2025 đạt 50% và đến năm 2030 đạt 70% người gây bạo lực gia đình, bạo lực trên cơ sở giới được phát hiện ở mức chưa bị truy cứu trách nhiệm hình sự được tư vấn, tham vấn. - Chỉ tiêu 3: Từ năm 2025 trở đi, 100% số nạn nhân bị mua bán trở về được phát hiện có nhu cầu hỗ trợ được hưởng các dịch vụ hỗ trợ và tái hòa nhập cộng đồng. - Chỉ tiêu 4: Đến năm 2025 có 70% và năm 2030 có 100% cơ sở trợ giúp xã hội công lập triển khai các hoạt động trợ giúp, phòng ngừa và ứng phó với bạo lực trên cơ sở giới. Điều này có nghĩa, nếu một ngày nam giới bỏ ra 2 tiếng/1 ngày làm việc nhà không công thì phụ nữ chỉ phải bỏ ra 3,4 tiếng cho công việc tương tự! Tất nhiên, đây chỉ là kế hoạch, hoàn thành hay không phụ thuộc phần lớn vào ý thức của tất cả chúng ta! Xem chi tiết Nghị quyết tại file đính kèm dưới đây.
Tăng mức tiền phạt đối với hành vi không lập hồ sơ tham gia BHXH bắt buộc cho NLĐ
Nghị định 28/2020/NĐ-CP được ban hành đã điều chỉnh rất nhiều quy định về XPVPHC trong lĩnh vực lao động; trong đó nổi bật là việc tăng mức tiền phạt đối với nhiều hành vi VPHC trong lĩnh vực lao động, bảo hiểm đối với NSDLĐ, ví dụ điển hình như sau: Điều 40 Nghị định 28/2020/NĐ-CP quy định về mức phạt tiền đối với hành vi không lập hồ sơ tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc, bảo hiểm thất nghiệp cho người lao động trong thời hạn 30 ngày, kể từ ngày giao kết hợp đồng lao động, hợp đồng làm việc hoặc tuyển dụng là từ 2.000.000 đồng đến 4.000.000 đồng, tối đa không quá 75.000.000 đồng. Mức phạt đối với hành vi nêu trên tại Nghị định 95/2013/NĐ-CP chỉ là phạt tiền từ 500.000 đồng đến 1.000.000 đồng. Như vậy có thể thấy, mức phạt đối với hành vi không lập hồ sơ tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc, bảo hiểm thất nghiệp cho NLĐ tại Nghị định mới đã tăng đáng kể so với quy định hiện hành. Bên cạnh đó, Nghị định 28/2020/NĐ-CP đã tăng mức phạt tiền đối với nhiều hành vi vi phạm về tuyển dụng, quản lý lao động như không thông báo công khai kết quả tuyển lao động hoặc thông báo sau 05 ngày làm việc, kể từ ngày có kết quả tuyển lao động, không khai báo việc sử dụng lao động với cơ quan chức năng, không lập sổ quản lý lao động; lập không đúng thời hạn, không đủ nội dung; không cập nhật thông tin khi có sự thay đổi vào sổ... Nghị định 28/2020/NĐ-CP sẽ có hiệu lực ngày 15/04/2020; thay thế Nghị định 95/2013/NĐ-CP và Nghị định 88/2015/NĐ-CP về sửa đổi một số điều của Nghị định 95/2013/NĐ-CP./.
Do sự ít tìm hiểu và lười đọc sách nên bản thân biết tới cái Luật Bình đẳng giới hoi có bị muộn. Dù nó đã được ban hành cuối năm 2006 và bắt đầu có hiệu lực vào đầu năm 2007. Tình đến nay đây là Luật hiếm hoi, ít ỏi, đặc biệt trân quý vì chưa bị sửa đổi, bổ sung, thay thế gì cả. Vẫn vẹn nguyên như ngày đầu, chứ không như bao nhiêu luật khác rối ren ngoài kia. Vậy đây có phải là tín hiệu đáng mừng vì có một Luật được ban hành lần đầu tiên quy định về “Bình đẳng giới” và sử dụng được xuyên suốt 12 năm 6 tháng. Căn cứ Luật Bình đẳng giới 2006: “Điều 4. Mục tiêu bình đẳng giới Mục tiêu bình đẳng giới là xoá bỏ phân biệt đối xử về giới, tạo cơ hội như nhau cho nam và nữ trong phát triển kinh tế - xã hội và phát triển nguồn nhân lực, tiến tới bình đẳng giới thực chất giữa nam, nữ và thiết lập, củng cố quan hệ hợp tác, hỗ trợ giữa nam, nữ trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội và gia đình.” Khi đọc tới Điều 4 trên thì bản thân có dừng lại và suy nghĩ một chút. Các bạn đang được đọc Mục tiêu bình đẳng giới, đó là mục tiêu của bình đẳng giới đó. Nhưng mục tiêu từ khi được đặt ra, từ khi có hiệu lực tới bây giờ đã thực hiện được chưa hay đơn giản là thực hiện được bao nhiêu phần trăm rồi nhỉ? Có ai ghé ngang qua và cũng quan tâm tới điều đó như mình không? Một mục tiêu là xóa bỏ phân biệt đối xử về giới nhưng như thực tế hiện nay không qua khảo sát, đánh giá mà chỉ qua trải nghiệm thức tế thì tình hình sinh con trai hay là con gái vẫn đang là vấn đề chưa có ý định bớt nóng. Đây có được xem như một biểu hiện rõ rệt của việc phân biệt đối xử hay không? Hằng năm, tỷ lệ nam sinh ra cứ nhiều hơn nữ như vầy thì sau này các cô dâu Việt chắc sẽ có quốc tịch khác Việt Nam.
Phụ nữ lái xe thì sao? Tối qua, mạng xã hội facebook, chia sẻ clip về một vụ tai nạn mà người lái xe sau khi đâm phải 03 người đi bộ đã đạp ga cán qua những nạn nhân một lần nữa rồi bỏ chạy khỏi hiện trường. Khi xem clip chắc hẳn ai cũng có cảm giác gợn gợn ở sống lưng vì mức độ nguy hiểm của hành vi mà lái xe đã thực hiện. Và không lâu sau thì danh tính người gây tai nạn được xác định là phụ nữ và trong máu có nồng đột cồn vượt mức quy định khi điều khiển ô tô. Chuyện đúng sai như thế nào có pháp luật phân xử, người gây tai nạn sai đến đâu pháp luật xử đến đấy. Tuy nhiên, không biết các bạn có để ý giống tôi hay không? Cứ sau mỗi lần có tai nạn giao thông mà người gây tai nạn là phụ nữ thì trên khắp các mặt báo, truyền thông, mạng xã hội… khi đề cập đến vụ tai nạn đó thì chữ “PHỤ NỮ” luôn được đưa lên đầu tiên như một điểm nhấn của sự việc, rằng phụ nữ lái xe là một điều gì đó trái với tự nhiên và lẽ thường, và cái thành tố “PHỤ NỮ” đó gây cho độc giả hiểu vì là phụ nữ lái xe mới gây ra tai nạn. Và cũng từ những bài chia sẻ đó, cái câu “Bán xăng cho phụ nữ là tội ác” truyền tai, truyền miệng đi khắp nơi, dần dần hình thành nên suy nghĩ rằng phụ nữ lái xe ẩu, phụ nữ không biết lái xe hay thậm chí là phụ nữ lái xe mà gây ra tai nạn. Điều đó có đúng không? Đương nhiên là không. Hiện tại chưa có một bài thống kê nào về tỷ lệ nam nữ gây tai nạn trong những vụ tai nạn giao thông ở phạm vi nước ta cho nên khó mà có một kết luận định lượng thật sự chính xác. Nhưng thử làm một phép suy đoán nhỏ nhỏ, lâu lâu ta lại gặp những bài báo như tôi kể trên, “kể tội” của phụ nữ khi lái xe, vậy những vụ tai nạn còn lại, những vụ mà thành tố “phụ nữ” không được đưa vào những title báo, những post chia sẻ trên mạng xã hội thì do ai gây ra? Pháp luật dân sự Việt Nam hiện hành thì chỉ có 02 giới tính là Nam/Nữ, vậy những trường hợp tôi kể trên, khi mà không có thống kê thì xác suất xảy ra có phải là 50/50 giữa nam và nữ hay không? Có dấu hiệu vi phạm Luật bình đẳng giới “Nam, nữ bình đẳng trong các lĩnh vực của đời sống và gia đình.” Đây là nguyên tắc cơ bản trong việc thực hiệện bình đẳng giới đã được quy định tại Luật bình đẳng giới 2006. Ngoài ra, theo quy định tại Thông tư 12/2017/TT-BGTVT về việc đào tạo, sát hạch, cấp giấy phép lái xe cơ giới đường bộ, không có quy định nào về việc phân biệt giới tính khi đào tạo, sát hạch lái xe. Điều đó có nghĩa rằng những lập luận như phụ nữ phản xạ chậm hơn đàn ông, phụ nữ cảm quan không gian kém hơn đàn ông, phụ nữ lái xe kém hơn đàn ông… đều không có cơ sở lý luận về mặt pháp lý. Cho nên việc “phân biệt đối xử”, với những bình luận, nhận định như đã đề cập ở trên có dấu hiệu vi phạm pháp luật về công tác thực hiện bình đăng giới trong xã hội. Hằng ngày, hàng giờ, mọi lúc, mọi nơi… Chúng ta vẫn đang tuyên truyền thực hiện bình đẳng giới, tuy nhiên in sâu vào trong tiềm thức của nhiều người sự phân biệt giới tính vẫn còn đang hiện rõ, nó được thể hiện thông qua những hoạt động thường ngày từ những hành động nhỏ nhất khiến cho chúng ta không để ý đó là sự phân biệt đối xử, một cách vô lý, không có cơ sở. Phụ nữ lái xe thì sao?
KHÔNG TUYỂN LAO ĐỘNG NỮ LÀ VI PHẠM
Hiện nay, nhiều công ty tuyển dụng hạn chế tuyển nữ vì nhiều lý do: công việc cực nhọc, phải đi làm xa, đi công tác. Đó là những lý do có thể chấp nhận được. Nhưng bên cạnh đó, cũng có rất nhiều công ty đưa ra những lý do vô lý như: lao động nữ làm không bao lâu thì lấy chồng, lo cho chồng, nghỉ thai sản…gây thiệt hại cho công ty. Theo quy định, trừ những trường hợp tại điều 160 Bộ luật Lao động 2012 và Thông tư 26/2013/TT-BLĐTBXH, các doanh nghiệp không được hạn chế quyền lao động của nữ. Những trường hợp vi phạm có thể bị xử phạt theo Khoản 2 Điều 25 Nghị định 95/2013/NĐ-CP hoặc Điểm b Khoản 2 Điều 8 Nghị định 55/2009/NĐ-CP. Điều 25. Vi phạm những quy định khác 2. Phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 10.000.000 đồng đối với hành vi phân biệt đối xử về giới tính, dân tộc, màu da, thành phần xã hội, tình trạng hôn nhân, tín ngưỡng, tôn giáo, nhiễm HIV, khuyết tật trong tuyển dụng, sử dụng và quản lý lao động. Điều 8. Các hành vi vi phạm hành chính về bình đẳng giới trong lĩnh vực lao động. 2. Phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 10.000.000 đồng đối với một trong các hành vi sau đây: b) Từ chối tuyển dụng hoặc tuyển dụng hạn chế lao động nam hoặc lao động nữ vì lý do giới tính, trừ trường hợp áp dụng biện pháp thúc đẩy bình đẳng giới; sa thải hoặc cho thôi việc người lao động vì lý do giới tính hoặc do việc mang thai, sinh con, nuôi con nhỏ. Mặc dù có quy định như vậy, nhưng nhiều công ty vẫn thực hiện do khó có cơ sở để chứng minh sai phạm. Nên hay không việc các nhà làm Luật quy định tỷ lệ phần trăm lao động nữ trong các doanh nghiệp để đảm bảo sự công bằng?
Luật Bình đẳng giới là Luật bất bình đẳng?
Có phải rảnh rỗi sinh nông nỗi không nữa, hôm nay chạy vào Luật Bình đẳng giới chơi thì phát hiện đây là Luật bất bình đẳng nhất í bà con !!! Điều 4. Mục tiêu bình đẳng giới: “Mục tiêu bình đẳng giới là xoá bỏ phân biệt đối xử về giới, tạo cơ hội như nhau cho nam và nữ trong phát triển kinh tế - xã hội và phát triển nguồn nhân lực, tiến tới bình đẳng giới thực chất giữa nam, nữ và thiết lập, củng cố quan hệ hợp tác, hỗ trợ giữa nam, nữ trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội và gia đình.” Vậy là chỉ bình đẳng giữa giới nam và nữ còn các giới khác thì không bình đẳng hả ta ...?