Quy định Trách nhiệm lấy ý kiến đề nghị xây dựng văn bản quy phạm pháp luật mới nhất?
Ngày 25/05/2024 Chính Phủ ban hành Nghị định 59/2024/NĐ-CP sửa đổi Nghị định 34/2016/NĐ-CP hướng dẫn Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật đã được sửa đổi theo Nghị định 154/2020/NĐ-CP. Theo đó, Nghị định sửa đổi một số quy định về Trách nhiệm lấy ý kiến đề nghị xây dựng văn bản quy phạm pháp luật. Trách nhiệm lấy ý kiến đề nghị xây dựng văn bản quy phạm pháp luật Tại Khoản 5 Điều 1 Nghị định 59/2024/NĐ-CP sửa đổi tên Điều 10 thành “Trách nhiệm lấy ý kiến đề nghị xây dựng văn bản quy phạm pháp luật” với nội dung như sau: - Cơ quan lập đề nghị xây dựng văn bản quy phạm pháp luật của cơ quan trung ương lấy ý kiến đối tượng chịu sự tác động trực tiếp của chính sách trong đề nghị xây dựng văn bản quy phạm pháp luật, các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và cơ quan, tổ chức có liên quan; lấy ý kiến Liên đoàn Thương mại và Công nghiệp Việt Nam đối với đề nghị xây dựng văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến quyền và nghĩa vụ của doanh nghiệp. - Cơ quan lập đề nghị xây dựng nghị quyết của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh lấy ý kiến đối tượng chịu sự tác động trực tiếp của chính sách trong đề nghị xây dựng nghị quyết, các cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cấp tỉnh và các cơ quan, tổ chức có liên quan. - Gửi hồ sơ đề nghị xây dựng văn bản quy phạm pháp luật của cơ quan trung ương đến các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, cơ quan, tổ chức có liên quan để lấy ý kiến. Đối với đề nghị xây dựng nghị quyết của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh, gửi hồ sơ đến cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, các bộ, cơ quan ngang bộ quản lý ngành, lĩnh vực có liên quan, cơ quan, tổ chức khác có liên quan để lấy ý kiến; - Gửi hồ sơ đề nghị xây dựng văn bản quy phạm pháp luật của cơ quan trung ương đến Ủy ban trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam; hồ sơ đề nghị xây dựng nghị quyết của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh đến Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cấp tỉnh; hồ sơ đề nghị xây dựng văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến quyền và nghĩa vụ của doanh nghiệp đến Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam để lấy ý kiến; - Trong trường hợp cần thiết có thể tổ chức họp để lấy ý kiến về những chính sách cơ bản trong đề nghị xây dựng văn bản quy phạm pháp luật; - Nghiên cứu ý kiến góp ý để hoàn thiện đề nghị xây dựng văn bản quy phạm pháp luật. Bản Tổng hợp, giải trình, tiếp thu ý kiến góp ý phải được đăng tải cùng với các tài liệu khác trong hồ sơ đề nghị xây dựng văn bản quy phạm pháp luật trên Cổng thông tin điện tử Chính phủ, Cổng thông tin điện tử của tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương và Cổng thông tin hoặc Trang thông tin điện tử của cơ quan lập đề nghị. Sự tham gia của tổ chức, cá nhân trong quá trình lập đề nghị xây dựng văn bản quy phạm pháp luật Trong quá trình lập đề nghị xây dựng văn bản quy phạm pháp luật, cơ quan, tổ chức lập đề nghị có thể huy động sự tham gia của các viện nghiên cứu, trường đại học, hội, hiệp hội, tổ chức khác có liên quan, các chuyên gia, nhà khoa học vào các hoạt động sau: - Tổng kết, đánh giá tình hình thi hành pháp luật; rà soát, đánh giá các văn bản quy phạm pháp luật hiện hành; - Khảo sát, điều tra xã hội học; đánh giá thực trạng quan hệ xã hội có liên quan đến các chính sách trong đề nghị xây dựng văn bản quy phạm pháp luật; - Tập hợp, nghiên cứu, so sánh tài liệu, điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên có liên quan đến các chính sách trong đề nghị xây dựng văn bản quy phạm pháp luật; - Đánh giá tác động của chính sách trong đề nghị xây dựng văn bản quy phạm pháp luật. Như vậy, đối tượng chịu sự tác động trực tiếp của các chính sách đã được liệt kê cụ thể so với quy định tại Nghị định 34/2016/NĐ-CP. Nghị định 59/2024/NĐ-CP có hiệu lực từ ngày 01/06/2024.
Vì sao Bộ trưởng ký ban hành Văn bản hợp nhất Nghị định Chính phủ?
Cho mình hỏi sao Văn bản hợp nhất 3/VBHN-BNV năm 2023 do Bộ Nội vụ ban hành ngày 03/8/2023 hợp nhất hai Nghị định mà lại do Bộ ban hành chứ không phải Chỉnh phủ? Văn bản hợp nhất là gì? Theo Pháp lệnh hợp nhất văn bản quy phạm pháp luật quy định: - Hợp nhất văn bản là việc đưa nội dung sửa đổi, bổ sung trong văn bản sửa đổi, bổ sung một số điều của văn bản đã được ban hành trước đó (sau đây gọi tắt là văn bản sửa đổi, bổ sung) vào văn bản được sửa đổi, bổ sung theo quy trình, kỹ thuật quy định tại Pháp lệnh này. - Văn bản được hợp nhất là văn bản sửa đổi, bổ sung và văn bản được sửa đổi, bổ sung. - Văn bản hợp nhất là văn bản được hình thành sau khi hợp nhất văn bản sửa đổi, bổ sung với văn bản được sửa đổi, bổ sung. Văn bản hợp nhất 3/VBHN-BNV năm 2023 hợp nhất hai văn bản là Nghị định 48/2023/NĐ-CP và Nghị định 90/2020/NĐ-CP. Thẩm quyền và thời hạn hợp nhất văn bản của Chính phủ Căn cứ Điều 6 Pháp lệnh hợp nhất văn bản quy phạm pháp luật: Thẩm quyền và thời hạn hợp nhất văn bản của Chủ tịch nước, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, văn bản liên tịch giữa Chính phủ với cơ quan trung ương của tổ chức chính trị - xã hội - Người đứng đầu cơ quan chủ trì soạn thảo văn bản được sửa đổi, bổ sung của Chủ tịch nước, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ tổ chức thực hiện việc hợp nhất và ký xác thực văn bản hợp nhất đối với văn bản của Chủ tịch nước, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, văn bản liên tịch giữa Chính phủ với cơ quan trung ương của tổ chức chính trị - xã hội. - Trong thời hạn 02 ngày làm việc, kể từ ngày ký ban hành, văn bản sửa đổi, bổ sung của Chủ tịch nước, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, văn bản sửa đổi, bổ sung văn bản liên tịch giữa Chính phủ với cơ quan trung ương của tổ chức chính trị - xã hội được gửi đến cơ quan chủ trì soạn thảo văn bản được sửa đổi, bổ sung để thực hiện việc hợp nhất văn bản. - Chậm nhất là 05 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được văn bản theo quy định tại khoản 2 Điều này, người đứng đầu cơ quan chủ trì soạn thảo văn bản được sửa đổi, bổ sung hoàn thành việc hợp nhất văn bản và ký xác thực văn bản hợp nhất." Nghị định 90/2020/NĐ-CP ban hành theo đề nghị của Bộ trưởng Bộ Nội vụ. Mà theo quy định của Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật 2015 được sửa đổi bởi Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật sửa đổi 2020 - Đề nghị xây dựng nghị định được áp dụng đối với việc xây dựng, ban hành nghị định để quy định: + Các biện pháp cụ thể để tổ chức thi hành Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết của Ủy ban thường vụ Quốc hội, lệnh, quyết định của Chủ tịch nước; các biện pháp để thực hiện chính sách kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh, tài chính, tiền tệ, ngân sách, thuế, dân tộc, tôn giáo, văn hóa, giáo dục, y tế, khoa học, công nghệ, môi trường, đối ngoại, chế độ công vụ, cán bộ, công chức, viên chức, quyền, nghĩa vụ của công dân và các vấn đề khác thuộc thẩm quyền quản lý, điều hành của Chính phủ; những vấn đề liên quan đến nhiệm vụ, quyền hạn của từ hai bộ, cơ quan ngang bộ trở lên; nhiệm vụ, quyền hạn, tổ chức bộ máy của các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ và các cơ quan khác thuộc thẩm quyền của Chính phủ. + Vấn đề cần thiết thuộc thẩm quyền của Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội nhưng chưa đủ điều kiện xây dựng thành luật hoặc pháp lệnh để đáp ứng yêu cầu quản lý nhà nước, quản lý kinh tế, quản lý xã hội. Trước khi ban hành nghị định này phải được sự đồng ý của Ủy ban thường vụ Quốc hội. - Bộ, cơ quan ngang bộ tự mình hoặc theo chỉ đạo của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, kiến nghị của cơ quan, tổ chức, cá nhân chuẩn bị đề nghị xây dựng nghị định thuộc phạm vi ngành, lĩnh vực được phân công phụ trách trình Chính phủ xem xét, thông qua đề nghị xây dựng nghị định quy định tại khoản 3 Điều 19 của Luật này hoặc trình Thủ tướng Chính phủ xem xét, quyết định đề nghị xây dựng nghị định quy định tại khoản 2 Điều 19 của Luật này. Như vậy, nếu Bộ trưởng Bộ Nội vụ là người đứng đầu cơ quan chủ trì soạn thảo văn bản Nghị định 90/2020/NĐ-CP thì Bộ trưởng Bộ Nội vụ tổ chức thực hiện hợp nhất và ký xác thực Văn bản hợp nhất 3/VBHN-BNV năm 2023 hợp nhất hai văn bản là Nghị định 48/2023/NĐ-CP và Nghị định 90/2020/NĐ-CP.
Nguyên tắc áp dụng văn bản đối với các văn bản có sửa đổi, bổ sung !
Ở đây ta xem xét đối tượng văn bản quy phạm pháp luật cụ thể là các Nghị định: - Nghị định số 17/2022/NĐ-CP ngày 31 tháng 01 năm 2022 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của các nghị định quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực hóa chất và vật liệu nổ công nghiệp; điện lực, an toàn đập thủy điện, sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả; hoạt động thương mại, sản xuất, buôn bán hàng giả, hàng cấm và bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng; hoạt động dầu khí, kinh doanh xăng dầu và khí. Ta xem xét Nghị định số 17/2022/NĐ-CP, như tên gọi, bản chất của Nghị định số 17/2022/NĐ-CP là nghị định quy định việc sửa đổi, bổ sung tại các tọa độ được quy định ở các Nghị định gốc. Thể hiện ở tên gọi tại các Điều 1, Điều 2, Điều 3 và Điều 4, trong đó Điều 3 có tên gọi cụ thể là: Trong đó bao gồm các điểm, khoản nêu cụ thể các tọa độ được sửa đổi, bổ sung tại Nghị định số 98/2020/NĐ-CP. Ví dụ cụ thể như: a) Bổ sung điểm l vào sau điểm k khoản 3 như sau: Ta có thể thấy, ở đây bản chất của điểm a khoản 1 Điều 1 là quy định sửa đổi, bổ sung tọa độ tại Nghị định số 98/2020/NĐ-CP, cụ thể ở đây là “Bổ sung điểm l vào sau điểm k khoản 3”. Mặt khác, tại khoản 1 Điều 6 Nghị định số 17/2022/NĐ-CP có quy định: 1. Nghị định này có hiệu lực từ ngày ký ban hành. (Tức là ngày 31/01/2022). Có thể thấy, bản chất của Nghị định số 17/2022/NĐ-CP là sửa đổi, bổ sung cho các Nghị định quy định chế tài và các vấn đề liên quan, trong đó có Nghị định số 98/2020/NĐ-CP. Do đó, khi Nghị định số 17/2022/NĐ-CP có hiệu lực thì các tọa độ được quy định là sửa đổi, bổ sung tại Nghị định số 98/2020/NĐ-CP sẽ được thay thế bằng các đoạn văn bản cụ thể trong Nghị định số 17/2022/NĐ-CP. Cụ thể với ví dụ nêu trên, cái có hiệu lực sẽ là: a) Bổ sung điểm l vào sau điểm k khoản 3 như sau: l) Buộc nộp lại giấy phép kinh doanh bị tẩy xóa, sửa chữa làm thay đổi nội dung cho cơ quan, người có thẩm quyền đã cấp giấy phép. 1. Nghị định này có hiệu lực thi hành từ ngày 15 tháng 10 năm 2020. Tóm lại, khi Nghị định sửa đổi, bổ sung có hiệu lực thì nó chỉ thực hiện đúng chức năng của nó là sửa đổi, bổ sung cái Nghị định gốc mà thôi, còn bản chất các “đoạn văn bản” nằm trong Nghị định sửa đổi, bổ sung quy định về quản lý hoặc chế tài.... sẽ có hiệu lực từ quá khứ theo Hiệu lực thi hành của Nghị định gốc. 3. Trong trường hợp các văn bản quy phạm pháp luật do cùng một cơ quan ban hành có quy định khác nhau về cùng một vấn đề thì áp dụng quy định của văn bản quy phạm pháp luật ban hành sau. Vì thế, với những suy nghĩ trên đây, theo mình khi xem xét khoản 3 Điều 156 Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật trong việc lựa chọn văn bản để áp dụng, trong trường hợp Nghị định sửa đổi, bổ sung (Ví dụ trên đây là Nghị định số 17/2022/NĐ-CP) không sửa đổi quy định liên quan đến thời điểm có hiệu lực thi hành của Nghị định gốc (Ví dụ trên đây là Nghị định số 98/2020/NĐ-CP) thì xem xét, đối chiếu ở THỜI ĐIỂM CÁC NGHỊ ĐỊNH GỐC CÓ HIỆU LỰC THI HÀNH, chứ không thể lấy thời điểm có hiệu lực của văn bản sửa đôi, bổ sung để xem xét, đối chiếu để lựa chọn áp dụng. Nguồn: nvqltt.org
Quyết định 118-ttg ngày 27/2/1997 hết hiệu lực khi nào, bị bãi bỏ khi nào
Quyết định 118-ttg ngày 27/2/1997 hết hiệu lực khi nào, bị bãi bỏ khi nào
Cần hỏi về hình thức ban hành văn bản?
Chào Luật sư. Tôi có một câu hỏi muốn được hỏi ý kiến của Luật sư như sau: Hiểu như thế nào là Nghị quyết cá biệt, Quyết định cá biệt. Ví dụ như: Đối với quy chế hoạt động của Đoàn ĐBQH thì ban hành theo hình thức Nghị quyết hay Quyết định thì phù hợp? Rất mong sớm nhận được ý kiến của Luật sư. Xin cảm ơn./.
Hỏi về việc trình bày văn bản?
Thưa Luật sư: trong công tác văn thư về soạn thảo văn bản phần số, ký hiệu cụ thể: Số: 1234/SCT-VP+TC+TCKT ghi như vậy có được không? tối đa gồm mấy phòng?
Infographic: 05 nhóm trường hợp bắt buộc viết hoa theo NĐ 30/2020
Nghị định 30/2020/NĐ-CP quy định năm trường hợp bắt buộc phải viết hoa khi ban hành văn bản hành chính. Dưới đây là một số hình ảnh về các nhóm trường hợp bắt buộc phải viết hoa. >>> Xem thêm tại: 05 nhóm trường hợp Luật bắt buộc viết hoa
Trách nhiệm của phòng tư pháp đối với công tác ban hành văn bản quy phạm pháp luật
trách nhiệm của phòng tư pháp trong tham gia ý kiến đối với dự thảo văn bản QPPL do hội đồng nhân dân ban hành quy định ở điều luật nào ?
Chào luật sư! Luật sư cho tôi hỏi trong cơ quan nhà nước những ai có thẩm quyền ký ban hành công điện
Từ năm 2017 trở đi, sẽ không còn chuyện chậm trễ ban hành văn bản
Câu chuyện chậm trễ ban hành văn bản có lẽ không chỉ diễn ra vào năm ngoái mà đã diễn ra từ rất nhiều năm trước rồi, thế nhưng, năm nào cũng vậy, cũng báo cáo những văn bản đã được ban hành, những văn bản chưa được ban hành vì lý do này, lý do kia…rồi nhận lỗi, rút kinh nghiệm cho năm sau… Nhưng dường như đó chỉ là cái hình thức buộc phải có vào mỗi cuối năm, chứ nhìn nhận bản chất sự việc thì chưa phải là rút kinh nghiệm, bởi khi đã rút nghiệm rồi thì sẽ khắc phục được, ví dụ năm trước nợ 20 văn bản thì năm sau chỉ còn nợ 10 văn bản và năm sau nữa không còn nợ văn bản nào…còn thực tế thì khác. Năm nào cũng vậy, cứ gần hết năm là Shin đều có viết thư đòi nợ gửi lên Thủ tướng Chính phủ, Chủ tịch Quốc hội mà không thấy có hồi âm gì hết, nay lại nghe thông báo rằng “Từ năm 2017 trở đi, sẽ không còn chuyện chậm trễ ban hành văn bản” nữa thấy mừng ghê, chắc là do sự kiên trì năm nào cũng gửi thư đến mấy người này nên họ “cảm động” họ giải quyết cho. Cụ thể nội dung thông báo như thế này: Từ năm 2017 trở đi, sẽ không còn chuyện chậm trễ ban hành văn bản Kết thúc phiên họp Quốc hội cuối năm, các cơ quan, ban ngành có trách nhiệm khẩn trương ban hành các văn bản còn tồn đọng, đảm bảo đến đầu tháng 12 đã ban hành xong các văn bản như trong Danh mục đã cam kết, để kết thúc tháng 12 các cơ quan, ban ngành có trách nhiệm liên quan báo cáo tình hình ban hành văn bản. Trong trường hợp chậm trễ ban hành văn bản, chiếu theo cơ quan có trách nhiệm chính và cơ quan có liên quan cùng những người phụ trách để xử lý kỷ luật, tùy mức độ ảnh hưởng trực tiếp mà xử lý, từ hạ bậc lương đến giáng chức và buộc thôi việc. Các cơ quan có trách nhiệm cùng ký vào Bản cam kết hoàn thành nghĩa vụ ban hành văn bản trong năm 2017. Chủ tịch Quốc hội thông báo đến các cơ quan để biết và thực hiện. Sau khi nghe thông báo, người dân, nhất là những người có liên quan làm việc học tập bị ảnh hưởng nhiều bởi chính sách pháp luật không khỏi vui mừng, phấn khích, có chỗ còn cho nhân viên mình nghỉ làm ngày hôm đó để ăn mừng về việc này... Tít tít..tít tít…tít tít…ủa cái gì đang kêu vậy? À thì ra là cái chuông báo thức, thì ra là nãy giờ mình đang mơ…. Giấc mơ thì cũng chỉ là giấc mơ, không biết khi nào mới thành hiện thực đây… Nhật ký Shin bút chì ngày 01/4/2017
"Sinh viên Luật làm nóng hội trường Quốc hội"
Đây là những câu chất vấn của Sinh viên Luật làm nóng hội trường Quốc hội, mời quý thành viên Dân Luật cùng xem qua và cho ý kiến: Ảnh minh họa - Nguồn Internet - Sinh viên Luật: Thưa đồng chí! Văn bản hợp nhất có giá trị pháp lý hay không? - Đại biểu Quốc hội N (mỉm cười): Điều 4 của Pháp lệnh số 01/2012/UBTVQH13 ngày 22/3/2012 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định rằng “Văn bản hợp nhất được sử dụng chính thức trong việc áp dụng và thi hành pháp luật”; như vậy, văn bản hợp nhất có giá trị pháp lý. - Sinh viên Luật: Thưa đồng chí! Nếu văn bản hợp nhất có sai sót thì sao? - Đại biểu Quốc hội N (mỉm cười): Khoản 1 Điều 9 của Pháp lệnh số 01 quy định rõ như sau: “Trong trường hợp do sai sót về kỹ thuật dẫn đến nội dung của văn bản hợp nhất khác với nội dung của văn bản được hợp nhất thì áp dụng các quy định của văn bản được hợp nhất”. - Sinh viên Luật: Thưa đồng chí! Nếu vậy thì áp dụng văn bản hợp nhất sẽ dễ gặp phải rủi ro pháp lý, nó mà bị sai sót thì người dân phải gánh hậu quả… - Đại biểu Quốc hội N: Thưa đồng chí! Về vấn đề này tương đối dài dòng, tôi sẽ trả lời đồng chí bằng văn bản sau. - Sinh viên Luật: Thưa đồng chí! Khoản 4 Điều 154 của Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật 2015 quy định như sau: “Văn bản quy phạm pháp luật hết hiệu lực thì văn bản quy phạm pháp luật quy định chi tiết thi hành, văn bản đó cũng đồng thời hết hiệu lực”. Vậy giả sử Nghị định X hết hiệu lực, Thông tư Y hướng dẫn thi hành Nghị định X có hết hiệu lực hay không? Nếu Thông tư Y hết hiệu lực thì hết vào lúc nào? - Đại biểu Quốc hội M: Thông tư Y đương nhiên hết hiệu lực kể từ ngày Nghị định X hết hiệu lực. - Sinh viên Luật: Thưa đồng chí! Nhưng hiện nay chưa có Thông tư nào thay thế Thông tư Y (Chưa ban hành kịp Thông tư), thì chúng ta lấy cái gì để điều chỉnh quan hệ xã hội? Reng…reng…reng… Thì ra mình (Sinh viên Luật) đang mơ, giá như đồng hồ chưa báo thức thì biết đâu đã có câu trả lời. Nhưng nếu có cơ hội thì mình vẫn sẽ hỏi như trong mơ. Ai biết thì trả lời giúp em. P/s: Chuyện có thật từ một Sinh viên Luật.
Re:Tất cả điểm mới Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật 2015
50. Cụ thể nội dung báo cáo thẩm tra dự án luật, pháp lệnh, dự thảo nghị quyết - Báo cáo thẩm tra phải thể hiện rõ quan điểm của cơ quan thẩm tra về những vấn đề thuộc nội dung thẩm tra quy định, đề xuất những nội dung cần sửa đổi, bổ sung. - Báo cáo thẩm tra phải phản ánh đầy đủ ý kiến của thành viên cơ quan chủ trì thẩm tra, ý kiến của cơ quan tham gia thẩm tra về nội dung dự án, dự thảo; về việc dự án, dự thảo đủ hoặc chưa đủ điều kiện trình UBTVQH, Quốc hội. Trong trường hợp cơ quan chủ trì thẩm tra có ý kiến dự án, dự thảo chưa đủ điều kiện trình UBTVQH, Quốc hội thì báo cáo UBTVQH xem xét trả lại hồ sơ cho cơ quan trình dự án, dự thảo để tiếp tục chỉnh lý, hoàn thiện dự án, dự thảo. (Căn cứ Điều 67 Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật 2015) 51. Bổ sung nội dung thẩm tra việc lồng ghép vấn đề bình đẳng giới Nội dung thẩm tra việc lồng ghép vấn đề bình đẳng giới bao gồm: - Xác định vấn đề giới trong dự án, dự thảo. - Việc bảo đảm các nguyên tắc cơ bản về bình đẳng giới trong dự án, dự thảo. - Việc tuân thủ trình tự, thủ tục đánh giá việc lồng ghép vấn đề bình đẳng giới trong dự án, dự thảo. - Tính khả thi của các quy định trong dự án, dự thảo để bảo đảm bình đẳng giới. (Căn cứ Điều 69 Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật 2015) 52. Bổ sung nội dung vào trình tự xem xét, cho ý kiến của UBTVQH Đại diện Chính phủ phát biểu ý kiến về dự án, dự thảo không do Chính phủ trình; (Căn cứ Điều 71 Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật 2015) 53. Phân định vai trò cho Bộ Tư Pháp trong nghiên cứu, tiếp thu để chỉnh lý dự án, dự thảo - Trên cơ sở ý kiến của UBTVQH, cơ quan, tổ chức, đại biểu Quốc hội trình dự án luật, dự thảo nghị quyết có trách nhiệm nghiên cứu, tiếp thu để chỉnh lý dự án, dự thảo. Đối với dự án, dự thảo do Chính phủ trình thì người được Thủ tướng Chính phủ ủy quyền trình có trách nhiệm phối hợp với Bộ Tư pháp tổ chức nghiên cứu, tiếp thu để chỉnh lý dự án, dự thảo, trừ trường hợp cần báo cáo Thủ tướng Chính phủ xem xét, quyết định. - Trong trường hợp cơ quan, tổ chức, đại biểu Quốc hội trình dự án luật, dự thảo nghị quyết có ý kiến khác với ý kiến của UBTVQH thì báo cáo Quốc hội xem xét, quyết định. (Căn cứ Điều 72 Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật 2015) 54. Sửa đổi một số nội dung xem xét, thông qua dự án luật, pháp lệnh, dự thảo nghị quyết - Quốc hội xem xét, thông qua dự án luật, dự thảo nghị quyết tại một hoặc hai kỳ họp Quốc hội; trường hợp dự án luật lớn, nhiều điều, khoản có tính chất phức tạp thì Quốc hội có thể xem xét, thông qua tại ba kỳ họp. Chậm nhất là 20 ngày trước ngày khai mạc kỳ họp Quốc hội, hồ sơ dự án, dự thảo trình Quốc hội phải được gửi đến các đại biểu Quốc hội. - Tờ trình, dự thảo văn bản và báo cáo thẩm tra về dự án, dự thảo được gửi bằng bản giấy, các tài liệu còn lại được gửi bằng bản điện tử. (Căn cứ Điều 73 Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật 2015) 55. Sửa đổi nội dung tại các bước trong trình tự xem xét, thông qua dự án luật, dự thảo nghị quyết tại một kỳ họp Quốc hội Tại bước 6: Sau khi dự án, dự thảo được các đại biểu Quốc hội thảo luận, cho ý kiến, UBTVQH chỉ đạo, tổ chức việc nghiên cứu, giải trình, tiếp thu, chỉnh lý dự thảo theo trình tự sau: - Cơ quan chủ trì thẩm tra chủ trì, phối hợp với cơ quan, tổ chức, đại biểu Quốc hội trình dự án, Ủy ban pháp luật, Bộ Tư pháp và cơ quan, tổ chức có liên quan nghiên cứu, giải trình, tiếp thu, chỉnh lý dự thảo và xây dựng báo cáo giải trình, tiếp thu, chỉnh lý dự thảo trình Ủy ban thường vụ Quốc hội. - Chậm nhất là 07 ngày (hiện nay là 05 ngày) trước ngày Quốc hội biểu quyết thông qua, dự thảo được gửi đến Thường trực Ủy ban pháp, luật để rà soát, hoàn thiện về mặt kỹ thuật văn bản. Thường trực Ủy ban pháp luật chủ trì, phối hợp với Thường trực cơ quan chủ trì thẩm tra, đại diện cơ quan, tổ chức, đại biểu Quốc hội trình dự án, dự thảo tổ chức việc rà soát để bảo đảm tính hợp hiến, tính hợp pháp và tính thống nhất của dự thảo với hệ thống pháp luật. Tại bước 7. 7. UBTVQH báo cáo Quốc hội về việc giải trình, tiếp thu, chỉnh lý dự thảo. Trường hợp cơ quan, tổ chức, đại biểu Quốc hội trình dự án, dự thảo có ý kiến khác hoặc Chính phủ có ý kiến khác đối với dự án, dự thảo không do Chính phủ trình thì Chính phủ, cơ quan, tổ chức, đại biểu Quốc hội báo cáo Quốc hội xem xét, quyết định. (Căn cứ Điều 74 Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật 2015) 56. Bổ sung vào các bước của trình tự xem xét, thông qua dự án luật, dự thảo nghị quyết tại 2 kỳ họp Quốc hội * Trong thời gian giữa hai kỳ họp Quốc hội, UBTVQH chỉ đạo, tổ chức việc nghiên cứu, giải trình, tiếp thu, chỉnh lý dự thảo theo trình tự: - Thường trực cơ quan chủ trì thẩm tra chủ trì, phối hợp với cơ quan, tổ chức, đại biểu Quốc hội trình dự án, dự thảo, Thường trực Ủy ban pháp luật, Bộ Tư pháp và cơ quan, tổ chức có liên quan nghiên cứu, giải trình, tiếp thu, chỉnh lý dự thảo và xây dựng dự thảo báo cáo giải trình, tiếp thu, chỉnh lý dự thảo. Cơ quan chủ trì thẩm tra tổ chức phiên họp có sự tham gia của cơ quan, tổ chức, đại biểu Quốc hội trình dự án, dự thảo, Ủy ban pháp luật, Bộ Tư pháp và cơ quan, tổ chức có liên quan để thảo luận về dự thảo báo cáo giải trình, tiếp thu, chỉnh lý và dự thảo văn bản đã được chỉnh lý. - UBTVQH xem xét, thảo luận về dự thảo báo cáo giải trình, tiếp thu, chỉnh lý và dự thảo văn bản đã được chỉnh lý; trường hợp cơ quan, tổ chức, đại biểu Quốc hội trình dự án, dự thảo có ý kiến khác với ý kiến của cơ quan thẩm tra trong việc giải trình, tiếp thu, chính lý dự thảo thì đại diện cơ quan, tổ chức, đại biểu Quốc hội trình, dự án, dự thảo báo cáo UBTVQH xem xét, quyết định. - UBTVQH gửi dự thảo đã được chỉnh lý và báo cáo giải trình, tiếp thụ, chỉnh lý dự thảo đến Đoàn đại biểu Quốc hội, Hội đồng dân tộc và các Ủy ban của Quốc hội chậm nhất là 45 ngày trước ngày khai mạc kỳ họp. Đoàn đại biểu Quốc hội, Thường trực Hội đồng dân tộc, Thường trực Ủy ban của Quốc hội có trách nhiệm tổ chức thảo luận, góp ý kiến và gửi báo cáo tổng hợp ý kiến đến cơ quan chủ trì thẩm tra chậm nhất là 20 ngày trước ngày khai mạc kỳ họp Quốc hội. - Cơ quan chủ trì thẩm tra tổng hợp ý kiến của đại biểu Quốc hội, Đoàn đại biểu Quốc hội, Hội đồng dân tộc và các Ủy ban của Quốc hội để phối hợp với cơ quan, tổ chức, đại biểu Quốc hội trình dự án, dự thảo nghiên cứu, giải trình, tiếp thu, chỉnh lý dự thảo và hoàn thiện báo cáo giải trình, tiếp thu, chỉnh lý dự thảo trình UBTVQH. * Tại kì họp thứ hai: - Đại diện Ủy ban thường vụ Quốc hội trình bày báo cáo giải trình, tiếp thu, chỉnh lý dự thảo. Trường hợp cơ quan, tổ chức, đại biểu Quốc hội trình dự án, dự thảo có ý kiến khác hoặc Chính phủ có ý kiến khác đối với dự án, dự thảo không do Chính phủ trình thì Chính phủ, cơ quan, tổ chức, đại biểu Quốc hội báo cáo Quốc hội xem xét, quyết định. - Quốc hội thảo luận về những nội dung còn có ý kiến khác nhau của dự án, dự thảo. - UBTVQH chỉ đạo, tổ chức việc nghiên cứu, giải trình, tiếp thu, chỉnh lý dự thảo. - Chậm nhất là 07 ngày trước (hiện nay là 05 ngày) ngày biểu quyết thông qua, dự thảo được gửi đến Thường trực Ủy ban pháp luật để rà soát, hoàn thiện về mặt kỹ thuật văn bản. Thường trực Ủy ban pháp luật chủ trì, phối hợp với Thường trực cơ quan chủ trì thẩm tra, đại diện cơ quan, tổ chức, đại biểu Quốc hội trình dự án, dự thảo tổ chức việc rà soát để bảo đảm tính hợp hiến, tính hợp pháp và tính thống nhất của dự thảo với hệ thống pháp luật. - Quốc hội biểu quyết thông qua dự thảo. Trong trường hợp dự thảo còn vấn đề có ý kiến khác nhau thì Quốc hội biểu quyết về vấn đề đó theo đề nghị của UBTVQH trước khi biểu quyết thông qua dự thảo. - Chủ tịch Quốc hội ký chứng thực luật, nghị quyết của Quốc hội. Trong trường hợp dự thảo chưa được thông qua hoặc mới được thông qua một phần thì Quốc hội xem xét, quyết định việc trình lại hoặc xem xét, thông qua tại kỳ họp tiếp theo theo đề nghị của UBTVQH. (Căn cứ Điều 75 Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật 2015) 57. Ban hành thêm quy định về trình tự xem xét, thông qua dự án luật tại ba kỳ họp Quốc hội Luật ban hành VBQPPL 2008 không quy định việc phát sinh có 3 kỳ họp Quốc hội, nhận thấy tình hình trước mắt nhiều dự án Luật lớn cần phải xem xét, thông qua trong 3 kỳ họp Quốc hội. Do vậy, Luật ban hành VBQPPL 2015 bổ sung thêm trình tự này: - Tại kỳ họp thứ nhất, trình tự xem xét, thảo luận dự án luật được thực hiện theo quy định nêu trên. - Trong thời gian giữa kỳ họp thứ nhất và kỳ họp thứ hai của Quốc hội, việc nghiên cứu, giải trình, tiếp thu, chỉnh lý dự thảo luật được thực hiện theo trình tự: + Cơ quan, tổ chức, đại biểu Quốc hội trình dự án luật chủ trì, phối hợp với cơ quan chủ trì thẩm tra, Ủy ban pháp luật, Bộ Tư pháp và cơ quan, tổ chức có liên quan nghiên cứu, giải trình, tiếp thu, chỉnh lý dự thảo luật và xây dựng dự thảo báo cáo giải trình, tiếp thu, chỉnh lý dự thảo luật. + Tổ chức lấy ý kiến Nhân dân về dự án luật theo quyết định của UBTVQH (nếu có). + Cơ quan chủ trì thẩm tra tổ chức thẩm tra dự án luật đã được chỉnh lý. + UBTVQH xem xét, cho ý kiến về việc chỉnh lý dự thảo luật theo trình tự quy định. Trên cơ sở ý kiến của UBTVQH, cơ quan, tổ chức, đại biểu Quốc hội trình dự án luật có trách nhiệm nghiên cứu, tiếp thu để chỉnh lý dự thảo luật theo quy định. - Tại kỳ họp thứ hai: + Đại diện cơ quan, tổ chức, đại diện Quốc hội trình dự án luật trình bày báo cáo giải trình, tiếp thu, chỉnh lý dự thảo luật, kết quả lấy ý kiến Nhân dân về dự án luật (nếu có). + Đại diện cơ quan chủ trì thẩm tra trình bày báo cáo thẩm tra dự án luật đã được chỉnh lý. + Quốc hội thảo luận tại phiên họp toàn thể về dự án luật. Trước khi thảo luận tại phiên họp toàn thể, dự án luật có thể được thảo luận ở Tổ đại biểu Quốc hội. Trong quá trình thảo luận, đại diện cơ quan, tổ chức, đại biểu Quốc hội trình dự án luật có trách nhiệm giải trình về những vấn đề liên quan đến dự án mà đại biểu Quốc hội nêu. + Đối với những vấn đề quan trọng, những vấn đề lớn của dự án luật còn có ý kiến khác nhau thì Quốc hội tiến hành biểu quyết theo đề nghị của Ủy ban thường vụ Quốc hội. Cơ quan chủ trì thẩm tra chủ trì, phối hợp với cơ quan, tổ chức, đại biểu Quốc hội trình dự án luật, Tổng thư ký Quốc hội và cơ quan, tổ chức có liên quan giúp UBTVQH dự kiến những vấn đề còn có ý kiến khác nhau của dự án luật trình Quốc hội biểu quyết. + UBTVQH chỉ đạo Tổng thư ký Quốc hội tổng hợp ý kiến của đại biểu Quốc hội và kết quả biểu quyết làm cơ sở cho việc chỉnh lý. - Trong thời gian giữa kỳ họp thứ hai và kỳ họp thứ ba của Quốc hội, UBTVQH chỉ đạo, tổ chức việc nghiên cứu, giải trình, tiếp thu, chỉnh lý dự thảo luật theo trình tự: + Cơ quan chủ trì thẩm tra chủ trì, phối hợp với cơ quan, tổ chức, đại biểu Quốc hội trình dự án luật, Ủy ban pháp luật, Bộ Tư pháp và cơ quan, tổ chức có liên quan nghiên cứu, giải trình, tiếp thu, chỉnh lý dự thảo luật và xây dựng dự thảo báo cáo giải trình, tiếp thu, chỉnh lý dự thảo luật. Cơ quan chủ trì thẩm tra tổ chức phiên họp có sự tham gia của cơ quan, tổ chức, đại biểu Quốc hội trình dự án luật, Ủy ban pháp luật, Bộ Tư pháp và cơ quan, tổ chức có liên quan để thảo luận về dự thảo báo cáo giải trình, tiếp thu, chỉnh lý và dự thảo luật đã được chỉnh lý. + UBTVQH xem xét, thảo luận về dự thảo báo cáo giải trình, tiếp thu, chỉnh lý và dự thảo luật đã được chỉnh lý; trong trường hợp cơ quan, tổ chức, đại biểu Quốc hội trình dự án luật có ý kiến khác với ý kiến của cơ quan thẩm tra trong việc giải trình, tiếp thu, chỉnh lý dự thảo thì đại diện cơ quan, tổ chức, đại biểu Quốc hội trình dự án luật báo cáo Ủy ban thường vụ Quốc hội xem xét, quyết định. + UBTVQH gửi dự thảo luật đã được chỉnh lý và dự thảo báo cáo giải trình, tiếp thu, chỉnh lý dự thảo đến Đoàn đại biểu Quốc hội, Hội đồng dân tộc và các Ủy ban của Quốc hội chậm nhất là 45 ngày trước ngày khai mạc kỳ họp. Đoàn đại biểu Quốc hội, Thường trực Hội đồng dân tộc, Thường trực Ủy ban của Quốc hội có trách nhiệm tổ chức thảo luận, góp ý kiến và gửi báo cáo tổng hợp ý kiến đến cơ quan chủ trì thẩm tra chậm nhất là 20 ngày trước ngày khai mạc kỳ họp Quốc hội. + Cơ quan chủ trì thẩm tra tổng hợp ý kiến của đại biểu Quốc hội, Đoàn đại biểu Quốc hội, Hội đồng dân tộc và các Ủy ban của Quốc hội để phối hợp với cơ quan, tổ chức, đại biểu Quốc hội trình dự án luật nghiên cứu, giải trình, tiếp thu, chỉnh lý dự thảo luật và hoàn thiện báo cáo giải trình, tiếp thu, chỉnh lý dự thảo trình UBTVQH. - Tại kỳ họp thứ ba, trình tự xem xét, thông qua dự thảo luật được thực hiện như đối với kỳ họp thứ 2 của Quốc hội theo quy định. Trong trường hợp dự thảo luật chưa được thông qua hoặc mới được thông qua một phần thì Quốc hội xem xét, quyết định theo đề nghị của UBTVQH. (Căn cứ Điều 76 Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật 2015) 58. Sửa đổi và bổ sung một số nội dung trình tự xem xét, thông qua dự án pháp lệnh, dự thảo nghị quyết của UBTVQH - UBTVQH xem xét, thông qua dự án pháp lệnh, dự thảo nghị quyết tại một phiên họp theo trình tự: + Đại diện cơ quan, tổ chức, đại biểu Quốc hội trình dự án, dự thảo thuyết trình về dự án, dự thảo. + Đại diện cơ quan chủ trì thẩm tra trình bày báo cáo thẩm tra. + Đại diện cơ quan, tổ chức, cá nhân được mời tham dự phiên họp phát biểu ý kiến. + UBTVQH thảo luận, chủ tọa phiên họp kết luận. + Thường trực cơ quan chủ trì thẩm tra chủ trì, phối hợp với cơ quan, tổ chức, đại biểu Quốc hội trình dự án, dự thảo, Thường trực Ủy ban pháp luật, Bộ Tư pháp và cơ quan, tổ chức có liên quan nghiên cứu, giải trình, tiếp thu, chỉnh lý dự thảo. Cơ quan chủ trì thẩm tra tổ chức phiên họp có sự tham gia của cơ quan, tổ chức, đại biểu Quốc hội trình dự án, dự thảo, Ủy ban pháp luật, Bộ Tư pháp và cơ quan, tổ chức có liên quan để thảo luận về dự thảo báo cáo giải trình, tiếp thu, chỉnh lý và dự thảo văn bản đã được chỉnh lý. + Chậm nhất là 07 ngày (hiện nay là 03 ngày) trước ngày biểu quyết thông qua, dự thảo được gửi đến Thường trực Ủy ban pháp luật để rà soát, hoàn thiện về mặt kỹ thuật văn bản. Thường trực Ủy ban pháp luật chủ trì, phối hợp với Thường trực cơ quan chủ trì thẩm tra, đại diện cơ quan, tổ chức, đại biểu Quốc hội trình dự án, dự thảo tổ chức việc rà soát để bảo đảm tính hợp hiến, tính hợp pháp và tính thống nhất của dự thảo với hệ thống pháp luật. + Đại diện cơ quan chủ trì thẩm tra báo cáo UBTVQH về việc giải trình, tiếp thu, chỉnh lý dự thảo. Trường hợp cơ quan, tổ chức, đại biểu Quốc hội trình dự án, dự thảo có ý kiến khác hoặc Chính phủ có ý kiến khác đối với dự án, dự thảo không do Chính phủ trình thì Chính phủ, cơ quan, tổ chức, đại biểu Quốc hội báo cáo UBTVQH xem xét, quyết định. + UBTVQH biểu quyết thông qua dự thảo. Trong trường hợp dự thảo còn vấn đề có ý kiến khác nhau thì Ủy ban thường vụ Quốc hội biểu quyết về những vấn đề đó theo đề nghị của chủ tọa phiên họp trước khi biểu quyết thông qua dự thảo. + Chủ tịch Quốc hội ký pháp lệnh, nghị quyết của UBTVQH. - UBTVQH xem xét, thông qua dự án pháp lệnh, dự thảo nghị quyết tại hai phiên họp theo trình tự: + Tại phiên họp thứ nhất, việc trình và thảo luận được thực hiện theo trình tự: Đại diện cơ quan, tổ chức, đại biểu Quốc hội trình dự án, dự thảo thuyết trình về dự án, dự thảo - Đại diện cơ quan chủ trì thẩm tra trình bày báo cáo thẩm tra - Đại diện cơ quan, tổ chức, cá nhân được mời tham dự phiên họp phát biểu ý kiến - UBTVQH thảo luận, chủ tọa phiên họp kết luận. UBTVQH thảo luận, biểu quyết những vấn đề quan trọng, những vấn đề lớn của dự án, dự thảo theo đề nghị của cơ quan chủ trì thẩm tra để làm cơ sở cho việc chỉnh lý. + Trong thời gian giữa hai phiên họp, cơ quan chủ trì thẩm tra chủ trì, phối hợp với cơ quan, tổ chức, đại biểu Quốc hội trình dự án, dự thảo, Thường trực Ủy ban pháp luật, Bộ Tư pháp và cơ quan, tổ chức có liên quan nghiên cứu, giải trình, tiếp thu, chỉnh lý dự thảo theo sự chỉ đạo của UBTVQH. Cơ quan chủ trì thẩm tra tổ chức phiên họp có sự tham gia của cơ quan, tổ chức, đại biểu Quốc hội trình dự án, dự thảo, Ủy ban pháp luật, Bộ Tư pháp và cơ quan, tổ chức có liên quan để thảo luận về dự thảo báo cáo giải trình, tiếp thu, chỉnh lý và dự thảo văn bản đã được chỉnh lý. + Chậm nhất là 05 ngày (hiện nay là 03 ngày) trước ngày biểu quyết thông qua, dự thảo được gửi đến Thường trực Ủy ban pháp luật để rà soát, hoàn thiện về mặt kỹ thuật văn bản. Thường trực Ủy ban pháp luật chủ trì, phối hợp với Thường trực cơ quan chủ trì thẩm tra, đại diện cơ quan, tổ chức, đại biểu Quốc hội trình dự án, dự thảo tổ chức việc rà soát để bảo đảm tính hợp hiến, tính hợp pháp và tính thống nhất của dự thảo với hệ thống pháp luật. + Tại phiên họp thứ hai, đại diện cơ quan chủ trì thẩm tra báo cáo UBTVQH về việc chỉnh lý dự thảo. Trường hợp cơ quan, tổ chức, đại biểu Quốc hội trình dự án, dự thảo có ý kiến khác hoặc Chính phủ có ý kiến khác đối với dự án, dự thảo không do Chính phủ trình thì Chính phủ, cơ quan, tổ chức, đại biểu Quốc hội báo cáo UBTVQH xem xét, quyết định. + UBTVQH biểu quyết thông qua dự thảo. Trong trường hợp dự thảo còn vấn đề có ý kiến khác nhau thì UBTVQH biểu quyết về vấn đề đó theo đề nghị của chủ tọa phiên họp trước khi biểu quyết thông qua dự thảo. + Chủ tịch Quốc hội ký pháp lệnh, nghị quyết của UBTVQH. (Căn cứ Điều 77 Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật 2015) 59. Công bố luật, pháp lệnh, nghị quyết Tại quy định này, bổ sung các nội dung về thời hạn công bố luật, pháp lệnh trong trường hợp được xây dựng và ban hành theo trình tự, thủ tục rút gọn. - Chủ tịch nước công bố luật, pháp lệnh chậm nhất là 15 ngày kể từ ngày luật, pháp lệnh được thông qua. Đối với pháp lệnh đã được UBTVQH thông qua mà Chủ tịch nước đề nghị UBTVQH xem xét lại theo quy định thì chậm nhất là 10 ngày kể từ ngày pháp lệnh được thông qua, Chủ tịch nước gửi văn bản đến UBTVQH yêu cầu xem xét lại. UBTVQH có trách nhiệm xem xét lại những vấn đề mà Chủ tịch nước có ý kiến tại phiên họp gần nhất. Sau khi pháp lệnh được UBTVQH biểu quyết, thông qua lại thì Chủ tịch nước công bố chậm nhất là 15 ngày kể từ ngày UBTVQH thông qua lại. Trong trường hợp Chủ tịch nước vẫn không nhất trí thì Chủ tịch nước trình Quốc hội quyết định tại kỳ họp gần nhất. Đối với luật, pháp lệnh được xây dựng, ban hành theo trình tự, thủ tục rút gọn thì Chủ tịch nước công bố luật, pháp lệnh chậm nhất là 05 ngày kể từ ngày luật, pháp lệnh được thông qua. - Tổng thư ký Quốc hội công bố nghị quyết của Quốc hội, nghị quyết của UBTVQH chậm nhất là 15 ngày kể từ ngày nghị quyết được thông qua. Đối với nghị quyết được xây dựng, ban hành theo trình tự, thủ tục rút gọn thì Tổng thư ký Quốc hội công bố nghị quyết chậm nhất là 05 ngày kể từ ngày nghị quyết được thông qua. (Căn cứ Điều 80 Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật 2015) (Còn nữa)
“Định mức” công việc dẫn đến phiền phức cho dân
Thường ngày Xoay tôi cứ bàn chuyện pháp luật, để rồi khen cũng có, khối người chê, lắm kẻ chửi khùng, bao lần vui cũng như nhiều lúc buồn. Mà thôi, tài hèn sức mọn như tôi sai cũng là lẽ thường tình, bị chửi cũng mở môi cười đón nhận, chỉ mong các bác đừng ghét hận gì tôi vì những lúc tranh luận hơi gay gắt nhé! Thôi rằng, bữa nay Pháp Luật cho em đi chơi với Thực Tiễn Vui, có gì không phải mong các bác lượng thứ bỏ qua. 1. Chuyện bắt đầu từ một xí nghiệp may: Mọi việc đều diễn ra một cách bình thường và trôi chãy nhưng một hôm Sếp thấy rằng có người may được 10 cái áo/ngày, nhưng người khác chỉ được 8 cái áo/ngày, và thậm chí có người chỉ đạt được 7 cái áo trên ngày. Sếp này muốn hiệu suất công việc được tốt hơn nên đưa ra khái niệm “Định mức”; mỗi người phải may ít nhất 10 cái áo/ngày, nếu ai vượt thì thưởng không đạt thì phạt. Vậy là trong tháng đó ai cũng vượt định mức, xí nghiệp phải chi một khoản thưởng khá lớn. Nhưng Áo thì bán không được vì số lượng có tăng còn chất lượng chẳng đạt. Vậy là, Sếp quy định lại: số lượng phải đi cùng với chất lượng, nên chữ “Định mức” được vận hành hiệu quả. 2. Rồi một hôm vị Giám đốc Công an tỉnh đến thăm xí nghiệp: Vị Giám đốc hỏi anh Sếp của xí nghiệp, tại sao anh điều hành công ty một cách hiệu quả và phát triển hùng mạnh đến thế? - Xí nghiệp em áp dụng hai chữ “Định mức” anh à! Cứ giao “Định mức”, ai vượt thì thưởng, không đạt thì phạt, vậy là mọi người cố gắng làm thôi. - Cái này nghe có lý, chắc cơ quan tôi phải học hỏi theo anh thì mới phát triển được. Thế là, Hôm sau vị Giám đốc Công an tỉnh giao định mức cho các đồng chí Cảnh sát giao thông phạt vi phạm giao thông; phạt vượt thì thưởng, không đạt thì phạt. Kết quả tiền xử phạt thu về nhiều hơn hẳn. 3. Rồi một hôm cấp trên nhận được báo cáo của Công an tỉnh: Cấp trên thấy tiền thu từ xử phạt cao hơn các tỉnh khác gấp nhiều lần nên hỏi lý do. Thì vị Công an tỉnh bảo rằng: vì giao “Định mức” đấy anh; phạt vượt thì thưởng, không đạt thì phạt. Cấp trên nghe thấy có lý, nên đề nghị các cơ quan, ban ngành trong việc ban hành văn bản pháp luật phải theo “Định mức”; ban hành vượt thì thưởng, không đạt thì phạt. Thế là dẫn đến hiện trạng mấy ngày cuối tháng sợ không đạt “Định mức” nên các bác phải chạy định mức bằng những văn bản “trời không dung đất không tha”, dư luận phản đối, ảnh hưởng đến quyền lợi người dân. Nhưng mà các bác ấy cũng được thưởng vì đã vượt “Định mức” trong tháng. Ôi trời! “Định mức” công việc như thế có nên hay không vậy các bác? Theo tôi thì tùy cái mà “Định mức”, chứ cái gì cũng “Định mức” thì chỉ có hại dân.
Phải bồi thường nếu ban hành văn bản trái luật
Trong thời gian qua, cơ quan nhà nước ban hành nhiều văn bản quy phạm pháp luật trái luật, không phù hợp thực tế gây rất nhiều phiền hà, thiệt hại cho người dân (xem tổng hợp văn bản trái luật, không phù hợp thực tế); Một ví dụ điển hình là quy định mỗi người chỉ được đứng tên 01 chiếc xe máy; vi phạm quyền sở hữu tài sản của dân theo quy định của Hiến pháp 1992; dẫn đến việc người dân muốn mua xe máy theo sở thích phải nhờ người khác đứng tên; sau này đổi lại phải mất khá nhiều chi phí, công sức. Ai phải bồi thường các khoản thiệt hại này cho dân? Vẫn lại là câu hỏi rơi vào dĩ vãng. Luật Trách nhiệm bồi thường nhà nước là nơi người dân có thể bấu víu, nhưng luật này lại hổng quy định vấn đề bồi thường do ban hành văn bản trái luật: Điều 13. Phạm vi trách nhiệm bồi thường trong hoạt động quản lý hành chính Nhà nước có trách nhiệm bồi thường thiệt hại do hành vi trái pháp luật của người thi hành công vụ gây ra trong các trường hợp sau đây: 1. Ban hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính; 2. Áp dụng biện pháp ngăn chặn vi phạm hành chính và bảo đảm việc xử lý vi phạm hành chính; 3. Áp dụng biện pháp buộc tháo dỡ nhà ở, công trình, vật kiến trúc và biện pháp cưỡng chế thi hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính khác; 4. Áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa người vào trường giáo dưỡng, đưa người vào cơ sở giáo dục hoặc đưa người vào cơ sở chữa bệnh; 5. Cấp, thu hồi Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh; Giấy chứng nhận đầu tư, giấy phép và các giấy tờ có giá trị như giấy phép; 6. Áp dụng thuế, phí, lệ phí; thu thuế, phí, lệ phí; truy thu thuế; thu tiền sử dụng đất; 7. Áp dụng thủ tục hải quan; 8. Giao đất, cho thuê đất, thu hồi đất, cho phép chuyển mục đích sử dụng đất; bồi thường, hỗ trợ, giải phóng mặt bằng, tái định cư; cấp hoặc thu hồi Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất; 9. Ban hành quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh; 10. Cấp văn bằng bảo hộ cho người không đủ điều kiện được cấp văn bằng bảo hộ; cấp văn bằng bảo hộ cho đối tượng sở hữu công nghiệp không đủ điều kiện được cấp văn bằng bảo hộ; ra quyết định chấm dứt hiệu lực của văn bằng bảo hộ; 11. Không cấp Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh, Giấy chứng nhận đầu tư, giấy phép và các giấy tờ có giá trị như giấy phép, văn bằng bảo hộ cho đối tượng có đủ điều kiện; 12. Các trường hợp được bồi thường khác do pháp luật quy định. Hiện nay, vấn đề xử lý văn bản trái luật còn chung chung, mang tính “cho có” chứ chưa đi vào thực chất; hoặc giới hạn ở mức độ xử lý trách nhiệm cá nhân mà chưa có chế định bồi thường. Nghị định40/2010/NĐ-CP quy định: Điều 34. Xem xét, xử lý trách nhiệm đối với người, cơ quan ban hành văn bản trái pháp luật 1. Việc xem xét, xử lý trách nhiệm đối với cơ quan, người đã ban hành văn bản trái pháp luật phải căn cứ vào nội dung, tính chất, mức độ trái pháp luật của văn bản và hậu quả của nội dung trái pháp luật gây ra đối với xã hội và trên cơ sở tính chất, mức độ lỗi của cơ quan, người đã ban hành, tham mưu ban hành văn bản đó. 2. Việc xem xét trách nhiệm tập thể, trách nhiệm cá nhân được thực hiện như sau: a) Cơ quan ban hành văn bản có nội dung trái pháp luật phải tổ chức việc kiểm điểm, xác định trách nhiệm của tập thể và báo cáo cơ quan cấp trên có thẩm quyền xem xét, quyết định theo quy định của pháp luật, đồng thời, xem xét trách nhiệm của người đứng đầu cơ quan trong việc ban hành văn bản có nội dung trái pháp luật; b) Cán bộ, công chức trong quá trình tham mưu soạn thảo, thẩm định, thẩm tra, thông qua văn bản có nội dung trái pháp luật, tùy theo tính chất, mức độ lỗi và nội dung trái pháp luật của văn bản, phải chịu trách nhiệm theo quy định của pháp luật về kỷ luật cán bộ, công chức. Thủ tục xử lý kỷ luật cán bộ, công chức thực hiện theo quy định của pháp luật về cán bộ, công chức; c) Trường hợp cán bộ, công chức có hành vi vi phạm trong quá trình soạn thảo, ban hành văn bản gây hậu quả nghiêm trọng thì có thể bị đề nghị xem xét, truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định của pháp luật. Để văn bản quy phạm pháp luật được ban hành một cách nghiêm túc, hợp hiến, hợp pháp, hợp thực tiễn; thiết nghĩ cần có chế tài xử phạt cụ thể, công khai hình thức xử lý người ban hành văn bản trái luật, đồng thời Nhà nước phải xây dựng trách nhiệm bồi thường do việc ban hành văn bản trái luật gây thiệt hại cho người dân.
Quy định Trách nhiệm lấy ý kiến đề nghị xây dựng văn bản quy phạm pháp luật mới nhất?
Ngày 25/05/2024 Chính Phủ ban hành Nghị định 59/2024/NĐ-CP sửa đổi Nghị định 34/2016/NĐ-CP hướng dẫn Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật đã được sửa đổi theo Nghị định 154/2020/NĐ-CP. Theo đó, Nghị định sửa đổi một số quy định về Trách nhiệm lấy ý kiến đề nghị xây dựng văn bản quy phạm pháp luật. Trách nhiệm lấy ý kiến đề nghị xây dựng văn bản quy phạm pháp luật Tại Khoản 5 Điều 1 Nghị định 59/2024/NĐ-CP sửa đổi tên Điều 10 thành “Trách nhiệm lấy ý kiến đề nghị xây dựng văn bản quy phạm pháp luật” với nội dung như sau: - Cơ quan lập đề nghị xây dựng văn bản quy phạm pháp luật của cơ quan trung ương lấy ý kiến đối tượng chịu sự tác động trực tiếp của chính sách trong đề nghị xây dựng văn bản quy phạm pháp luật, các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và cơ quan, tổ chức có liên quan; lấy ý kiến Liên đoàn Thương mại và Công nghiệp Việt Nam đối với đề nghị xây dựng văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến quyền và nghĩa vụ của doanh nghiệp. - Cơ quan lập đề nghị xây dựng nghị quyết của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh lấy ý kiến đối tượng chịu sự tác động trực tiếp của chính sách trong đề nghị xây dựng nghị quyết, các cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cấp tỉnh và các cơ quan, tổ chức có liên quan. - Gửi hồ sơ đề nghị xây dựng văn bản quy phạm pháp luật của cơ quan trung ương đến các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, cơ quan, tổ chức có liên quan để lấy ý kiến. Đối với đề nghị xây dựng nghị quyết của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh, gửi hồ sơ đến cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, các bộ, cơ quan ngang bộ quản lý ngành, lĩnh vực có liên quan, cơ quan, tổ chức khác có liên quan để lấy ý kiến; - Gửi hồ sơ đề nghị xây dựng văn bản quy phạm pháp luật của cơ quan trung ương đến Ủy ban trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam; hồ sơ đề nghị xây dựng nghị quyết của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh đến Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cấp tỉnh; hồ sơ đề nghị xây dựng văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến quyền và nghĩa vụ của doanh nghiệp đến Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam để lấy ý kiến; - Trong trường hợp cần thiết có thể tổ chức họp để lấy ý kiến về những chính sách cơ bản trong đề nghị xây dựng văn bản quy phạm pháp luật; - Nghiên cứu ý kiến góp ý để hoàn thiện đề nghị xây dựng văn bản quy phạm pháp luật. Bản Tổng hợp, giải trình, tiếp thu ý kiến góp ý phải được đăng tải cùng với các tài liệu khác trong hồ sơ đề nghị xây dựng văn bản quy phạm pháp luật trên Cổng thông tin điện tử Chính phủ, Cổng thông tin điện tử của tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương và Cổng thông tin hoặc Trang thông tin điện tử của cơ quan lập đề nghị. Sự tham gia của tổ chức, cá nhân trong quá trình lập đề nghị xây dựng văn bản quy phạm pháp luật Trong quá trình lập đề nghị xây dựng văn bản quy phạm pháp luật, cơ quan, tổ chức lập đề nghị có thể huy động sự tham gia của các viện nghiên cứu, trường đại học, hội, hiệp hội, tổ chức khác có liên quan, các chuyên gia, nhà khoa học vào các hoạt động sau: - Tổng kết, đánh giá tình hình thi hành pháp luật; rà soát, đánh giá các văn bản quy phạm pháp luật hiện hành; - Khảo sát, điều tra xã hội học; đánh giá thực trạng quan hệ xã hội có liên quan đến các chính sách trong đề nghị xây dựng văn bản quy phạm pháp luật; - Tập hợp, nghiên cứu, so sánh tài liệu, điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên có liên quan đến các chính sách trong đề nghị xây dựng văn bản quy phạm pháp luật; - Đánh giá tác động của chính sách trong đề nghị xây dựng văn bản quy phạm pháp luật. Như vậy, đối tượng chịu sự tác động trực tiếp của các chính sách đã được liệt kê cụ thể so với quy định tại Nghị định 34/2016/NĐ-CP. Nghị định 59/2024/NĐ-CP có hiệu lực từ ngày 01/06/2024.
Vì sao Bộ trưởng ký ban hành Văn bản hợp nhất Nghị định Chính phủ?
Cho mình hỏi sao Văn bản hợp nhất 3/VBHN-BNV năm 2023 do Bộ Nội vụ ban hành ngày 03/8/2023 hợp nhất hai Nghị định mà lại do Bộ ban hành chứ không phải Chỉnh phủ? Văn bản hợp nhất là gì? Theo Pháp lệnh hợp nhất văn bản quy phạm pháp luật quy định: - Hợp nhất văn bản là việc đưa nội dung sửa đổi, bổ sung trong văn bản sửa đổi, bổ sung một số điều của văn bản đã được ban hành trước đó (sau đây gọi tắt là văn bản sửa đổi, bổ sung) vào văn bản được sửa đổi, bổ sung theo quy trình, kỹ thuật quy định tại Pháp lệnh này. - Văn bản được hợp nhất là văn bản sửa đổi, bổ sung và văn bản được sửa đổi, bổ sung. - Văn bản hợp nhất là văn bản được hình thành sau khi hợp nhất văn bản sửa đổi, bổ sung với văn bản được sửa đổi, bổ sung. Văn bản hợp nhất 3/VBHN-BNV năm 2023 hợp nhất hai văn bản là Nghị định 48/2023/NĐ-CP và Nghị định 90/2020/NĐ-CP. Thẩm quyền và thời hạn hợp nhất văn bản của Chính phủ Căn cứ Điều 6 Pháp lệnh hợp nhất văn bản quy phạm pháp luật: Thẩm quyền và thời hạn hợp nhất văn bản của Chủ tịch nước, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, văn bản liên tịch giữa Chính phủ với cơ quan trung ương của tổ chức chính trị - xã hội - Người đứng đầu cơ quan chủ trì soạn thảo văn bản được sửa đổi, bổ sung của Chủ tịch nước, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ tổ chức thực hiện việc hợp nhất và ký xác thực văn bản hợp nhất đối với văn bản của Chủ tịch nước, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, văn bản liên tịch giữa Chính phủ với cơ quan trung ương của tổ chức chính trị - xã hội. - Trong thời hạn 02 ngày làm việc, kể từ ngày ký ban hành, văn bản sửa đổi, bổ sung của Chủ tịch nước, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, văn bản sửa đổi, bổ sung văn bản liên tịch giữa Chính phủ với cơ quan trung ương của tổ chức chính trị - xã hội được gửi đến cơ quan chủ trì soạn thảo văn bản được sửa đổi, bổ sung để thực hiện việc hợp nhất văn bản. - Chậm nhất là 05 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được văn bản theo quy định tại khoản 2 Điều này, người đứng đầu cơ quan chủ trì soạn thảo văn bản được sửa đổi, bổ sung hoàn thành việc hợp nhất văn bản và ký xác thực văn bản hợp nhất." Nghị định 90/2020/NĐ-CP ban hành theo đề nghị của Bộ trưởng Bộ Nội vụ. Mà theo quy định của Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật 2015 được sửa đổi bởi Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật sửa đổi 2020 - Đề nghị xây dựng nghị định được áp dụng đối với việc xây dựng, ban hành nghị định để quy định: + Các biện pháp cụ thể để tổ chức thi hành Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết của Ủy ban thường vụ Quốc hội, lệnh, quyết định của Chủ tịch nước; các biện pháp để thực hiện chính sách kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh, tài chính, tiền tệ, ngân sách, thuế, dân tộc, tôn giáo, văn hóa, giáo dục, y tế, khoa học, công nghệ, môi trường, đối ngoại, chế độ công vụ, cán bộ, công chức, viên chức, quyền, nghĩa vụ của công dân và các vấn đề khác thuộc thẩm quyền quản lý, điều hành của Chính phủ; những vấn đề liên quan đến nhiệm vụ, quyền hạn của từ hai bộ, cơ quan ngang bộ trở lên; nhiệm vụ, quyền hạn, tổ chức bộ máy của các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ và các cơ quan khác thuộc thẩm quyền của Chính phủ. + Vấn đề cần thiết thuộc thẩm quyền của Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội nhưng chưa đủ điều kiện xây dựng thành luật hoặc pháp lệnh để đáp ứng yêu cầu quản lý nhà nước, quản lý kinh tế, quản lý xã hội. Trước khi ban hành nghị định này phải được sự đồng ý của Ủy ban thường vụ Quốc hội. - Bộ, cơ quan ngang bộ tự mình hoặc theo chỉ đạo của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, kiến nghị của cơ quan, tổ chức, cá nhân chuẩn bị đề nghị xây dựng nghị định thuộc phạm vi ngành, lĩnh vực được phân công phụ trách trình Chính phủ xem xét, thông qua đề nghị xây dựng nghị định quy định tại khoản 3 Điều 19 của Luật này hoặc trình Thủ tướng Chính phủ xem xét, quyết định đề nghị xây dựng nghị định quy định tại khoản 2 Điều 19 của Luật này. Như vậy, nếu Bộ trưởng Bộ Nội vụ là người đứng đầu cơ quan chủ trì soạn thảo văn bản Nghị định 90/2020/NĐ-CP thì Bộ trưởng Bộ Nội vụ tổ chức thực hiện hợp nhất và ký xác thực Văn bản hợp nhất 3/VBHN-BNV năm 2023 hợp nhất hai văn bản là Nghị định 48/2023/NĐ-CP và Nghị định 90/2020/NĐ-CP.
Nguyên tắc áp dụng văn bản đối với các văn bản có sửa đổi, bổ sung !
Ở đây ta xem xét đối tượng văn bản quy phạm pháp luật cụ thể là các Nghị định: - Nghị định số 17/2022/NĐ-CP ngày 31 tháng 01 năm 2022 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của các nghị định quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực hóa chất và vật liệu nổ công nghiệp; điện lực, an toàn đập thủy điện, sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả; hoạt động thương mại, sản xuất, buôn bán hàng giả, hàng cấm và bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng; hoạt động dầu khí, kinh doanh xăng dầu và khí. Ta xem xét Nghị định số 17/2022/NĐ-CP, như tên gọi, bản chất của Nghị định số 17/2022/NĐ-CP là nghị định quy định việc sửa đổi, bổ sung tại các tọa độ được quy định ở các Nghị định gốc. Thể hiện ở tên gọi tại các Điều 1, Điều 2, Điều 3 và Điều 4, trong đó Điều 3 có tên gọi cụ thể là: Trong đó bao gồm các điểm, khoản nêu cụ thể các tọa độ được sửa đổi, bổ sung tại Nghị định số 98/2020/NĐ-CP. Ví dụ cụ thể như: a) Bổ sung điểm l vào sau điểm k khoản 3 như sau: Ta có thể thấy, ở đây bản chất của điểm a khoản 1 Điều 1 là quy định sửa đổi, bổ sung tọa độ tại Nghị định số 98/2020/NĐ-CP, cụ thể ở đây là “Bổ sung điểm l vào sau điểm k khoản 3”. Mặt khác, tại khoản 1 Điều 6 Nghị định số 17/2022/NĐ-CP có quy định: 1. Nghị định này có hiệu lực từ ngày ký ban hành. (Tức là ngày 31/01/2022). Có thể thấy, bản chất của Nghị định số 17/2022/NĐ-CP là sửa đổi, bổ sung cho các Nghị định quy định chế tài và các vấn đề liên quan, trong đó có Nghị định số 98/2020/NĐ-CP. Do đó, khi Nghị định số 17/2022/NĐ-CP có hiệu lực thì các tọa độ được quy định là sửa đổi, bổ sung tại Nghị định số 98/2020/NĐ-CP sẽ được thay thế bằng các đoạn văn bản cụ thể trong Nghị định số 17/2022/NĐ-CP. Cụ thể với ví dụ nêu trên, cái có hiệu lực sẽ là: a) Bổ sung điểm l vào sau điểm k khoản 3 như sau: l) Buộc nộp lại giấy phép kinh doanh bị tẩy xóa, sửa chữa làm thay đổi nội dung cho cơ quan, người có thẩm quyền đã cấp giấy phép. 1. Nghị định này có hiệu lực thi hành từ ngày 15 tháng 10 năm 2020. Tóm lại, khi Nghị định sửa đổi, bổ sung có hiệu lực thì nó chỉ thực hiện đúng chức năng của nó là sửa đổi, bổ sung cái Nghị định gốc mà thôi, còn bản chất các “đoạn văn bản” nằm trong Nghị định sửa đổi, bổ sung quy định về quản lý hoặc chế tài.... sẽ có hiệu lực từ quá khứ theo Hiệu lực thi hành của Nghị định gốc. 3. Trong trường hợp các văn bản quy phạm pháp luật do cùng một cơ quan ban hành có quy định khác nhau về cùng một vấn đề thì áp dụng quy định của văn bản quy phạm pháp luật ban hành sau. Vì thế, với những suy nghĩ trên đây, theo mình khi xem xét khoản 3 Điều 156 Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật trong việc lựa chọn văn bản để áp dụng, trong trường hợp Nghị định sửa đổi, bổ sung (Ví dụ trên đây là Nghị định số 17/2022/NĐ-CP) không sửa đổi quy định liên quan đến thời điểm có hiệu lực thi hành của Nghị định gốc (Ví dụ trên đây là Nghị định số 98/2020/NĐ-CP) thì xem xét, đối chiếu ở THỜI ĐIỂM CÁC NGHỊ ĐỊNH GỐC CÓ HIỆU LỰC THI HÀNH, chứ không thể lấy thời điểm có hiệu lực của văn bản sửa đôi, bổ sung để xem xét, đối chiếu để lựa chọn áp dụng. Nguồn: nvqltt.org
Quyết định 118-ttg ngày 27/2/1997 hết hiệu lực khi nào, bị bãi bỏ khi nào
Quyết định 118-ttg ngày 27/2/1997 hết hiệu lực khi nào, bị bãi bỏ khi nào
Cần hỏi về hình thức ban hành văn bản?
Chào Luật sư. Tôi có một câu hỏi muốn được hỏi ý kiến của Luật sư như sau: Hiểu như thế nào là Nghị quyết cá biệt, Quyết định cá biệt. Ví dụ như: Đối với quy chế hoạt động của Đoàn ĐBQH thì ban hành theo hình thức Nghị quyết hay Quyết định thì phù hợp? Rất mong sớm nhận được ý kiến của Luật sư. Xin cảm ơn./.
Hỏi về việc trình bày văn bản?
Thưa Luật sư: trong công tác văn thư về soạn thảo văn bản phần số, ký hiệu cụ thể: Số: 1234/SCT-VP+TC+TCKT ghi như vậy có được không? tối đa gồm mấy phòng?
Infographic: 05 nhóm trường hợp bắt buộc viết hoa theo NĐ 30/2020
Nghị định 30/2020/NĐ-CP quy định năm trường hợp bắt buộc phải viết hoa khi ban hành văn bản hành chính. Dưới đây là một số hình ảnh về các nhóm trường hợp bắt buộc phải viết hoa. >>> Xem thêm tại: 05 nhóm trường hợp Luật bắt buộc viết hoa
Trách nhiệm của phòng tư pháp đối với công tác ban hành văn bản quy phạm pháp luật
trách nhiệm của phòng tư pháp trong tham gia ý kiến đối với dự thảo văn bản QPPL do hội đồng nhân dân ban hành quy định ở điều luật nào ?
Chào luật sư! Luật sư cho tôi hỏi trong cơ quan nhà nước những ai có thẩm quyền ký ban hành công điện
Từ năm 2017 trở đi, sẽ không còn chuyện chậm trễ ban hành văn bản
Câu chuyện chậm trễ ban hành văn bản có lẽ không chỉ diễn ra vào năm ngoái mà đã diễn ra từ rất nhiều năm trước rồi, thế nhưng, năm nào cũng vậy, cũng báo cáo những văn bản đã được ban hành, những văn bản chưa được ban hành vì lý do này, lý do kia…rồi nhận lỗi, rút kinh nghiệm cho năm sau… Nhưng dường như đó chỉ là cái hình thức buộc phải có vào mỗi cuối năm, chứ nhìn nhận bản chất sự việc thì chưa phải là rút kinh nghiệm, bởi khi đã rút nghiệm rồi thì sẽ khắc phục được, ví dụ năm trước nợ 20 văn bản thì năm sau chỉ còn nợ 10 văn bản và năm sau nữa không còn nợ văn bản nào…còn thực tế thì khác. Năm nào cũng vậy, cứ gần hết năm là Shin đều có viết thư đòi nợ gửi lên Thủ tướng Chính phủ, Chủ tịch Quốc hội mà không thấy có hồi âm gì hết, nay lại nghe thông báo rằng “Từ năm 2017 trở đi, sẽ không còn chuyện chậm trễ ban hành văn bản” nữa thấy mừng ghê, chắc là do sự kiên trì năm nào cũng gửi thư đến mấy người này nên họ “cảm động” họ giải quyết cho. Cụ thể nội dung thông báo như thế này: Từ năm 2017 trở đi, sẽ không còn chuyện chậm trễ ban hành văn bản Kết thúc phiên họp Quốc hội cuối năm, các cơ quan, ban ngành có trách nhiệm khẩn trương ban hành các văn bản còn tồn đọng, đảm bảo đến đầu tháng 12 đã ban hành xong các văn bản như trong Danh mục đã cam kết, để kết thúc tháng 12 các cơ quan, ban ngành có trách nhiệm liên quan báo cáo tình hình ban hành văn bản. Trong trường hợp chậm trễ ban hành văn bản, chiếu theo cơ quan có trách nhiệm chính và cơ quan có liên quan cùng những người phụ trách để xử lý kỷ luật, tùy mức độ ảnh hưởng trực tiếp mà xử lý, từ hạ bậc lương đến giáng chức và buộc thôi việc. Các cơ quan có trách nhiệm cùng ký vào Bản cam kết hoàn thành nghĩa vụ ban hành văn bản trong năm 2017. Chủ tịch Quốc hội thông báo đến các cơ quan để biết và thực hiện. Sau khi nghe thông báo, người dân, nhất là những người có liên quan làm việc học tập bị ảnh hưởng nhiều bởi chính sách pháp luật không khỏi vui mừng, phấn khích, có chỗ còn cho nhân viên mình nghỉ làm ngày hôm đó để ăn mừng về việc này... Tít tít..tít tít…tít tít…ủa cái gì đang kêu vậy? À thì ra là cái chuông báo thức, thì ra là nãy giờ mình đang mơ…. Giấc mơ thì cũng chỉ là giấc mơ, không biết khi nào mới thành hiện thực đây… Nhật ký Shin bút chì ngày 01/4/2017
"Sinh viên Luật làm nóng hội trường Quốc hội"
Đây là những câu chất vấn của Sinh viên Luật làm nóng hội trường Quốc hội, mời quý thành viên Dân Luật cùng xem qua và cho ý kiến: Ảnh minh họa - Nguồn Internet - Sinh viên Luật: Thưa đồng chí! Văn bản hợp nhất có giá trị pháp lý hay không? - Đại biểu Quốc hội N (mỉm cười): Điều 4 của Pháp lệnh số 01/2012/UBTVQH13 ngày 22/3/2012 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định rằng “Văn bản hợp nhất được sử dụng chính thức trong việc áp dụng và thi hành pháp luật”; như vậy, văn bản hợp nhất có giá trị pháp lý. - Sinh viên Luật: Thưa đồng chí! Nếu văn bản hợp nhất có sai sót thì sao? - Đại biểu Quốc hội N (mỉm cười): Khoản 1 Điều 9 của Pháp lệnh số 01 quy định rõ như sau: “Trong trường hợp do sai sót về kỹ thuật dẫn đến nội dung của văn bản hợp nhất khác với nội dung của văn bản được hợp nhất thì áp dụng các quy định của văn bản được hợp nhất”. - Sinh viên Luật: Thưa đồng chí! Nếu vậy thì áp dụng văn bản hợp nhất sẽ dễ gặp phải rủi ro pháp lý, nó mà bị sai sót thì người dân phải gánh hậu quả… - Đại biểu Quốc hội N: Thưa đồng chí! Về vấn đề này tương đối dài dòng, tôi sẽ trả lời đồng chí bằng văn bản sau. - Sinh viên Luật: Thưa đồng chí! Khoản 4 Điều 154 của Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật 2015 quy định như sau: “Văn bản quy phạm pháp luật hết hiệu lực thì văn bản quy phạm pháp luật quy định chi tiết thi hành, văn bản đó cũng đồng thời hết hiệu lực”. Vậy giả sử Nghị định X hết hiệu lực, Thông tư Y hướng dẫn thi hành Nghị định X có hết hiệu lực hay không? Nếu Thông tư Y hết hiệu lực thì hết vào lúc nào? - Đại biểu Quốc hội M: Thông tư Y đương nhiên hết hiệu lực kể từ ngày Nghị định X hết hiệu lực. - Sinh viên Luật: Thưa đồng chí! Nhưng hiện nay chưa có Thông tư nào thay thế Thông tư Y (Chưa ban hành kịp Thông tư), thì chúng ta lấy cái gì để điều chỉnh quan hệ xã hội? Reng…reng…reng… Thì ra mình (Sinh viên Luật) đang mơ, giá như đồng hồ chưa báo thức thì biết đâu đã có câu trả lời. Nhưng nếu có cơ hội thì mình vẫn sẽ hỏi như trong mơ. Ai biết thì trả lời giúp em. P/s: Chuyện có thật từ một Sinh viên Luật.
Re:Tất cả điểm mới Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật 2015
50. Cụ thể nội dung báo cáo thẩm tra dự án luật, pháp lệnh, dự thảo nghị quyết - Báo cáo thẩm tra phải thể hiện rõ quan điểm của cơ quan thẩm tra về những vấn đề thuộc nội dung thẩm tra quy định, đề xuất những nội dung cần sửa đổi, bổ sung. - Báo cáo thẩm tra phải phản ánh đầy đủ ý kiến của thành viên cơ quan chủ trì thẩm tra, ý kiến của cơ quan tham gia thẩm tra về nội dung dự án, dự thảo; về việc dự án, dự thảo đủ hoặc chưa đủ điều kiện trình UBTVQH, Quốc hội. Trong trường hợp cơ quan chủ trì thẩm tra có ý kiến dự án, dự thảo chưa đủ điều kiện trình UBTVQH, Quốc hội thì báo cáo UBTVQH xem xét trả lại hồ sơ cho cơ quan trình dự án, dự thảo để tiếp tục chỉnh lý, hoàn thiện dự án, dự thảo. (Căn cứ Điều 67 Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật 2015) 51. Bổ sung nội dung thẩm tra việc lồng ghép vấn đề bình đẳng giới Nội dung thẩm tra việc lồng ghép vấn đề bình đẳng giới bao gồm: - Xác định vấn đề giới trong dự án, dự thảo. - Việc bảo đảm các nguyên tắc cơ bản về bình đẳng giới trong dự án, dự thảo. - Việc tuân thủ trình tự, thủ tục đánh giá việc lồng ghép vấn đề bình đẳng giới trong dự án, dự thảo. - Tính khả thi của các quy định trong dự án, dự thảo để bảo đảm bình đẳng giới. (Căn cứ Điều 69 Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật 2015) 52. Bổ sung nội dung vào trình tự xem xét, cho ý kiến của UBTVQH Đại diện Chính phủ phát biểu ý kiến về dự án, dự thảo không do Chính phủ trình; (Căn cứ Điều 71 Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật 2015) 53. Phân định vai trò cho Bộ Tư Pháp trong nghiên cứu, tiếp thu để chỉnh lý dự án, dự thảo - Trên cơ sở ý kiến của UBTVQH, cơ quan, tổ chức, đại biểu Quốc hội trình dự án luật, dự thảo nghị quyết có trách nhiệm nghiên cứu, tiếp thu để chỉnh lý dự án, dự thảo. Đối với dự án, dự thảo do Chính phủ trình thì người được Thủ tướng Chính phủ ủy quyền trình có trách nhiệm phối hợp với Bộ Tư pháp tổ chức nghiên cứu, tiếp thu để chỉnh lý dự án, dự thảo, trừ trường hợp cần báo cáo Thủ tướng Chính phủ xem xét, quyết định. - Trong trường hợp cơ quan, tổ chức, đại biểu Quốc hội trình dự án luật, dự thảo nghị quyết có ý kiến khác với ý kiến của UBTVQH thì báo cáo Quốc hội xem xét, quyết định. (Căn cứ Điều 72 Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật 2015) 54. Sửa đổi một số nội dung xem xét, thông qua dự án luật, pháp lệnh, dự thảo nghị quyết - Quốc hội xem xét, thông qua dự án luật, dự thảo nghị quyết tại một hoặc hai kỳ họp Quốc hội; trường hợp dự án luật lớn, nhiều điều, khoản có tính chất phức tạp thì Quốc hội có thể xem xét, thông qua tại ba kỳ họp. Chậm nhất là 20 ngày trước ngày khai mạc kỳ họp Quốc hội, hồ sơ dự án, dự thảo trình Quốc hội phải được gửi đến các đại biểu Quốc hội. - Tờ trình, dự thảo văn bản và báo cáo thẩm tra về dự án, dự thảo được gửi bằng bản giấy, các tài liệu còn lại được gửi bằng bản điện tử. (Căn cứ Điều 73 Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật 2015) 55. Sửa đổi nội dung tại các bước trong trình tự xem xét, thông qua dự án luật, dự thảo nghị quyết tại một kỳ họp Quốc hội Tại bước 6: Sau khi dự án, dự thảo được các đại biểu Quốc hội thảo luận, cho ý kiến, UBTVQH chỉ đạo, tổ chức việc nghiên cứu, giải trình, tiếp thu, chỉnh lý dự thảo theo trình tự sau: - Cơ quan chủ trì thẩm tra chủ trì, phối hợp với cơ quan, tổ chức, đại biểu Quốc hội trình dự án, Ủy ban pháp luật, Bộ Tư pháp và cơ quan, tổ chức có liên quan nghiên cứu, giải trình, tiếp thu, chỉnh lý dự thảo và xây dựng báo cáo giải trình, tiếp thu, chỉnh lý dự thảo trình Ủy ban thường vụ Quốc hội. - Chậm nhất là 07 ngày (hiện nay là 05 ngày) trước ngày Quốc hội biểu quyết thông qua, dự thảo được gửi đến Thường trực Ủy ban pháp, luật để rà soát, hoàn thiện về mặt kỹ thuật văn bản. Thường trực Ủy ban pháp luật chủ trì, phối hợp với Thường trực cơ quan chủ trì thẩm tra, đại diện cơ quan, tổ chức, đại biểu Quốc hội trình dự án, dự thảo tổ chức việc rà soát để bảo đảm tính hợp hiến, tính hợp pháp và tính thống nhất của dự thảo với hệ thống pháp luật. Tại bước 7. 7. UBTVQH báo cáo Quốc hội về việc giải trình, tiếp thu, chỉnh lý dự thảo. Trường hợp cơ quan, tổ chức, đại biểu Quốc hội trình dự án, dự thảo có ý kiến khác hoặc Chính phủ có ý kiến khác đối với dự án, dự thảo không do Chính phủ trình thì Chính phủ, cơ quan, tổ chức, đại biểu Quốc hội báo cáo Quốc hội xem xét, quyết định. (Căn cứ Điều 74 Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật 2015) 56. Bổ sung vào các bước của trình tự xem xét, thông qua dự án luật, dự thảo nghị quyết tại 2 kỳ họp Quốc hội * Trong thời gian giữa hai kỳ họp Quốc hội, UBTVQH chỉ đạo, tổ chức việc nghiên cứu, giải trình, tiếp thu, chỉnh lý dự thảo theo trình tự: - Thường trực cơ quan chủ trì thẩm tra chủ trì, phối hợp với cơ quan, tổ chức, đại biểu Quốc hội trình dự án, dự thảo, Thường trực Ủy ban pháp luật, Bộ Tư pháp và cơ quan, tổ chức có liên quan nghiên cứu, giải trình, tiếp thu, chỉnh lý dự thảo và xây dựng dự thảo báo cáo giải trình, tiếp thu, chỉnh lý dự thảo. Cơ quan chủ trì thẩm tra tổ chức phiên họp có sự tham gia của cơ quan, tổ chức, đại biểu Quốc hội trình dự án, dự thảo, Ủy ban pháp luật, Bộ Tư pháp và cơ quan, tổ chức có liên quan để thảo luận về dự thảo báo cáo giải trình, tiếp thu, chỉnh lý và dự thảo văn bản đã được chỉnh lý. - UBTVQH xem xét, thảo luận về dự thảo báo cáo giải trình, tiếp thu, chỉnh lý và dự thảo văn bản đã được chỉnh lý; trường hợp cơ quan, tổ chức, đại biểu Quốc hội trình dự án, dự thảo có ý kiến khác với ý kiến của cơ quan thẩm tra trong việc giải trình, tiếp thu, chính lý dự thảo thì đại diện cơ quan, tổ chức, đại biểu Quốc hội trình, dự án, dự thảo báo cáo UBTVQH xem xét, quyết định. - UBTVQH gửi dự thảo đã được chỉnh lý và báo cáo giải trình, tiếp thụ, chỉnh lý dự thảo đến Đoàn đại biểu Quốc hội, Hội đồng dân tộc và các Ủy ban của Quốc hội chậm nhất là 45 ngày trước ngày khai mạc kỳ họp. Đoàn đại biểu Quốc hội, Thường trực Hội đồng dân tộc, Thường trực Ủy ban của Quốc hội có trách nhiệm tổ chức thảo luận, góp ý kiến và gửi báo cáo tổng hợp ý kiến đến cơ quan chủ trì thẩm tra chậm nhất là 20 ngày trước ngày khai mạc kỳ họp Quốc hội. - Cơ quan chủ trì thẩm tra tổng hợp ý kiến của đại biểu Quốc hội, Đoàn đại biểu Quốc hội, Hội đồng dân tộc và các Ủy ban của Quốc hội để phối hợp với cơ quan, tổ chức, đại biểu Quốc hội trình dự án, dự thảo nghiên cứu, giải trình, tiếp thu, chỉnh lý dự thảo và hoàn thiện báo cáo giải trình, tiếp thu, chỉnh lý dự thảo trình UBTVQH. * Tại kì họp thứ hai: - Đại diện Ủy ban thường vụ Quốc hội trình bày báo cáo giải trình, tiếp thu, chỉnh lý dự thảo. Trường hợp cơ quan, tổ chức, đại biểu Quốc hội trình dự án, dự thảo có ý kiến khác hoặc Chính phủ có ý kiến khác đối với dự án, dự thảo không do Chính phủ trình thì Chính phủ, cơ quan, tổ chức, đại biểu Quốc hội báo cáo Quốc hội xem xét, quyết định. - Quốc hội thảo luận về những nội dung còn có ý kiến khác nhau của dự án, dự thảo. - UBTVQH chỉ đạo, tổ chức việc nghiên cứu, giải trình, tiếp thu, chỉnh lý dự thảo. - Chậm nhất là 07 ngày trước (hiện nay là 05 ngày) ngày biểu quyết thông qua, dự thảo được gửi đến Thường trực Ủy ban pháp luật để rà soát, hoàn thiện về mặt kỹ thuật văn bản. Thường trực Ủy ban pháp luật chủ trì, phối hợp với Thường trực cơ quan chủ trì thẩm tra, đại diện cơ quan, tổ chức, đại biểu Quốc hội trình dự án, dự thảo tổ chức việc rà soát để bảo đảm tính hợp hiến, tính hợp pháp và tính thống nhất của dự thảo với hệ thống pháp luật. - Quốc hội biểu quyết thông qua dự thảo. Trong trường hợp dự thảo còn vấn đề có ý kiến khác nhau thì Quốc hội biểu quyết về vấn đề đó theo đề nghị của UBTVQH trước khi biểu quyết thông qua dự thảo. - Chủ tịch Quốc hội ký chứng thực luật, nghị quyết của Quốc hội. Trong trường hợp dự thảo chưa được thông qua hoặc mới được thông qua một phần thì Quốc hội xem xét, quyết định việc trình lại hoặc xem xét, thông qua tại kỳ họp tiếp theo theo đề nghị của UBTVQH. (Căn cứ Điều 75 Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật 2015) 57. Ban hành thêm quy định về trình tự xem xét, thông qua dự án luật tại ba kỳ họp Quốc hội Luật ban hành VBQPPL 2008 không quy định việc phát sinh có 3 kỳ họp Quốc hội, nhận thấy tình hình trước mắt nhiều dự án Luật lớn cần phải xem xét, thông qua trong 3 kỳ họp Quốc hội. Do vậy, Luật ban hành VBQPPL 2015 bổ sung thêm trình tự này: - Tại kỳ họp thứ nhất, trình tự xem xét, thảo luận dự án luật được thực hiện theo quy định nêu trên. - Trong thời gian giữa kỳ họp thứ nhất và kỳ họp thứ hai của Quốc hội, việc nghiên cứu, giải trình, tiếp thu, chỉnh lý dự thảo luật được thực hiện theo trình tự: + Cơ quan, tổ chức, đại biểu Quốc hội trình dự án luật chủ trì, phối hợp với cơ quan chủ trì thẩm tra, Ủy ban pháp luật, Bộ Tư pháp và cơ quan, tổ chức có liên quan nghiên cứu, giải trình, tiếp thu, chỉnh lý dự thảo luật và xây dựng dự thảo báo cáo giải trình, tiếp thu, chỉnh lý dự thảo luật. + Tổ chức lấy ý kiến Nhân dân về dự án luật theo quyết định của UBTVQH (nếu có). + Cơ quan chủ trì thẩm tra tổ chức thẩm tra dự án luật đã được chỉnh lý. + UBTVQH xem xét, cho ý kiến về việc chỉnh lý dự thảo luật theo trình tự quy định. Trên cơ sở ý kiến của UBTVQH, cơ quan, tổ chức, đại biểu Quốc hội trình dự án luật có trách nhiệm nghiên cứu, tiếp thu để chỉnh lý dự thảo luật theo quy định. - Tại kỳ họp thứ hai: + Đại diện cơ quan, tổ chức, đại diện Quốc hội trình dự án luật trình bày báo cáo giải trình, tiếp thu, chỉnh lý dự thảo luật, kết quả lấy ý kiến Nhân dân về dự án luật (nếu có). + Đại diện cơ quan chủ trì thẩm tra trình bày báo cáo thẩm tra dự án luật đã được chỉnh lý. + Quốc hội thảo luận tại phiên họp toàn thể về dự án luật. Trước khi thảo luận tại phiên họp toàn thể, dự án luật có thể được thảo luận ở Tổ đại biểu Quốc hội. Trong quá trình thảo luận, đại diện cơ quan, tổ chức, đại biểu Quốc hội trình dự án luật có trách nhiệm giải trình về những vấn đề liên quan đến dự án mà đại biểu Quốc hội nêu. + Đối với những vấn đề quan trọng, những vấn đề lớn của dự án luật còn có ý kiến khác nhau thì Quốc hội tiến hành biểu quyết theo đề nghị của Ủy ban thường vụ Quốc hội. Cơ quan chủ trì thẩm tra chủ trì, phối hợp với cơ quan, tổ chức, đại biểu Quốc hội trình dự án luật, Tổng thư ký Quốc hội và cơ quan, tổ chức có liên quan giúp UBTVQH dự kiến những vấn đề còn có ý kiến khác nhau của dự án luật trình Quốc hội biểu quyết. + UBTVQH chỉ đạo Tổng thư ký Quốc hội tổng hợp ý kiến của đại biểu Quốc hội và kết quả biểu quyết làm cơ sở cho việc chỉnh lý. - Trong thời gian giữa kỳ họp thứ hai và kỳ họp thứ ba của Quốc hội, UBTVQH chỉ đạo, tổ chức việc nghiên cứu, giải trình, tiếp thu, chỉnh lý dự thảo luật theo trình tự: + Cơ quan chủ trì thẩm tra chủ trì, phối hợp với cơ quan, tổ chức, đại biểu Quốc hội trình dự án luật, Ủy ban pháp luật, Bộ Tư pháp và cơ quan, tổ chức có liên quan nghiên cứu, giải trình, tiếp thu, chỉnh lý dự thảo luật và xây dựng dự thảo báo cáo giải trình, tiếp thu, chỉnh lý dự thảo luật. Cơ quan chủ trì thẩm tra tổ chức phiên họp có sự tham gia của cơ quan, tổ chức, đại biểu Quốc hội trình dự án luật, Ủy ban pháp luật, Bộ Tư pháp và cơ quan, tổ chức có liên quan để thảo luận về dự thảo báo cáo giải trình, tiếp thu, chỉnh lý và dự thảo luật đã được chỉnh lý. + UBTVQH xem xét, thảo luận về dự thảo báo cáo giải trình, tiếp thu, chỉnh lý và dự thảo luật đã được chỉnh lý; trong trường hợp cơ quan, tổ chức, đại biểu Quốc hội trình dự án luật có ý kiến khác với ý kiến của cơ quan thẩm tra trong việc giải trình, tiếp thu, chỉnh lý dự thảo thì đại diện cơ quan, tổ chức, đại biểu Quốc hội trình dự án luật báo cáo Ủy ban thường vụ Quốc hội xem xét, quyết định. + UBTVQH gửi dự thảo luật đã được chỉnh lý và dự thảo báo cáo giải trình, tiếp thu, chỉnh lý dự thảo đến Đoàn đại biểu Quốc hội, Hội đồng dân tộc và các Ủy ban của Quốc hội chậm nhất là 45 ngày trước ngày khai mạc kỳ họp. Đoàn đại biểu Quốc hội, Thường trực Hội đồng dân tộc, Thường trực Ủy ban của Quốc hội có trách nhiệm tổ chức thảo luận, góp ý kiến và gửi báo cáo tổng hợp ý kiến đến cơ quan chủ trì thẩm tra chậm nhất là 20 ngày trước ngày khai mạc kỳ họp Quốc hội. + Cơ quan chủ trì thẩm tra tổng hợp ý kiến của đại biểu Quốc hội, Đoàn đại biểu Quốc hội, Hội đồng dân tộc và các Ủy ban của Quốc hội để phối hợp với cơ quan, tổ chức, đại biểu Quốc hội trình dự án luật nghiên cứu, giải trình, tiếp thu, chỉnh lý dự thảo luật và hoàn thiện báo cáo giải trình, tiếp thu, chỉnh lý dự thảo trình UBTVQH. - Tại kỳ họp thứ ba, trình tự xem xét, thông qua dự thảo luật được thực hiện như đối với kỳ họp thứ 2 của Quốc hội theo quy định. Trong trường hợp dự thảo luật chưa được thông qua hoặc mới được thông qua một phần thì Quốc hội xem xét, quyết định theo đề nghị của UBTVQH. (Căn cứ Điều 76 Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật 2015) 58. Sửa đổi và bổ sung một số nội dung trình tự xem xét, thông qua dự án pháp lệnh, dự thảo nghị quyết của UBTVQH - UBTVQH xem xét, thông qua dự án pháp lệnh, dự thảo nghị quyết tại một phiên họp theo trình tự: + Đại diện cơ quan, tổ chức, đại biểu Quốc hội trình dự án, dự thảo thuyết trình về dự án, dự thảo. + Đại diện cơ quan chủ trì thẩm tra trình bày báo cáo thẩm tra. + Đại diện cơ quan, tổ chức, cá nhân được mời tham dự phiên họp phát biểu ý kiến. + UBTVQH thảo luận, chủ tọa phiên họp kết luận. + Thường trực cơ quan chủ trì thẩm tra chủ trì, phối hợp với cơ quan, tổ chức, đại biểu Quốc hội trình dự án, dự thảo, Thường trực Ủy ban pháp luật, Bộ Tư pháp và cơ quan, tổ chức có liên quan nghiên cứu, giải trình, tiếp thu, chỉnh lý dự thảo. Cơ quan chủ trì thẩm tra tổ chức phiên họp có sự tham gia của cơ quan, tổ chức, đại biểu Quốc hội trình dự án, dự thảo, Ủy ban pháp luật, Bộ Tư pháp và cơ quan, tổ chức có liên quan để thảo luận về dự thảo báo cáo giải trình, tiếp thu, chỉnh lý và dự thảo văn bản đã được chỉnh lý. + Chậm nhất là 07 ngày (hiện nay là 03 ngày) trước ngày biểu quyết thông qua, dự thảo được gửi đến Thường trực Ủy ban pháp luật để rà soát, hoàn thiện về mặt kỹ thuật văn bản. Thường trực Ủy ban pháp luật chủ trì, phối hợp với Thường trực cơ quan chủ trì thẩm tra, đại diện cơ quan, tổ chức, đại biểu Quốc hội trình dự án, dự thảo tổ chức việc rà soát để bảo đảm tính hợp hiến, tính hợp pháp và tính thống nhất của dự thảo với hệ thống pháp luật. + Đại diện cơ quan chủ trì thẩm tra báo cáo UBTVQH về việc giải trình, tiếp thu, chỉnh lý dự thảo. Trường hợp cơ quan, tổ chức, đại biểu Quốc hội trình dự án, dự thảo có ý kiến khác hoặc Chính phủ có ý kiến khác đối với dự án, dự thảo không do Chính phủ trình thì Chính phủ, cơ quan, tổ chức, đại biểu Quốc hội báo cáo UBTVQH xem xét, quyết định. + UBTVQH biểu quyết thông qua dự thảo. Trong trường hợp dự thảo còn vấn đề có ý kiến khác nhau thì Ủy ban thường vụ Quốc hội biểu quyết về những vấn đề đó theo đề nghị của chủ tọa phiên họp trước khi biểu quyết thông qua dự thảo. + Chủ tịch Quốc hội ký pháp lệnh, nghị quyết của UBTVQH. - UBTVQH xem xét, thông qua dự án pháp lệnh, dự thảo nghị quyết tại hai phiên họp theo trình tự: + Tại phiên họp thứ nhất, việc trình và thảo luận được thực hiện theo trình tự: Đại diện cơ quan, tổ chức, đại biểu Quốc hội trình dự án, dự thảo thuyết trình về dự án, dự thảo - Đại diện cơ quan chủ trì thẩm tra trình bày báo cáo thẩm tra - Đại diện cơ quan, tổ chức, cá nhân được mời tham dự phiên họp phát biểu ý kiến - UBTVQH thảo luận, chủ tọa phiên họp kết luận. UBTVQH thảo luận, biểu quyết những vấn đề quan trọng, những vấn đề lớn của dự án, dự thảo theo đề nghị của cơ quan chủ trì thẩm tra để làm cơ sở cho việc chỉnh lý. + Trong thời gian giữa hai phiên họp, cơ quan chủ trì thẩm tra chủ trì, phối hợp với cơ quan, tổ chức, đại biểu Quốc hội trình dự án, dự thảo, Thường trực Ủy ban pháp luật, Bộ Tư pháp và cơ quan, tổ chức có liên quan nghiên cứu, giải trình, tiếp thu, chỉnh lý dự thảo theo sự chỉ đạo của UBTVQH. Cơ quan chủ trì thẩm tra tổ chức phiên họp có sự tham gia của cơ quan, tổ chức, đại biểu Quốc hội trình dự án, dự thảo, Ủy ban pháp luật, Bộ Tư pháp và cơ quan, tổ chức có liên quan để thảo luận về dự thảo báo cáo giải trình, tiếp thu, chỉnh lý và dự thảo văn bản đã được chỉnh lý. + Chậm nhất là 05 ngày (hiện nay là 03 ngày) trước ngày biểu quyết thông qua, dự thảo được gửi đến Thường trực Ủy ban pháp luật để rà soát, hoàn thiện về mặt kỹ thuật văn bản. Thường trực Ủy ban pháp luật chủ trì, phối hợp với Thường trực cơ quan chủ trì thẩm tra, đại diện cơ quan, tổ chức, đại biểu Quốc hội trình dự án, dự thảo tổ chức việc rà soát để bảo đảm tính hợp hiến, tính hợp pháp và tính thống nhất của dự thảo với hệ thống pháp luật. + Tại phiên họp thứ hai, đại diện cơ quan chủ trì thẩm tra báo cáo UBTVQH về việc chỉnh lý dự thảo. Trường hợp cơ quan, tổ chức, đại biểu Quốc hội trình dự án, dự thảo có ý kiến khác hoặc Chính phủ có ý kiến khác đối với dự án, dự thảo không do Chính phủ trình thì Chính phủ, cơ quan, tổ chức, đại biểu Quốc hội báo cáo UBTVQH xem xét, quyết định. + UBTVQH biểu quyết thông qua dự thảo. Trong trường hợp dự thảo còn vấn đề có ý kiến khác nhau thì UBTVQH biểu quyết về vấn đề đó theo đề nghị của chủ tọa phiên họp trước khi biểu quyết thông qua dự thảo. + Chủ tịch Quốc hội ký pháp lệnh, nghị quyết của UBTVQH. (Căn cứ Điều 77 Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật 2015) 59. Công bố luật, pháp lệnh, nghị quyết Tại quy định này, bổ sung các nội dung về thời hạn công bố luật, pháp lệnh trong trường hợp được xây dựng và ban hành theo trình tự, thủ tục rút gọn. - Chủ tịch nước công bố luật, pháp lệnh chậm nhất là 15 ngày kể từ ngày luật, pháp lệnh được thông qua. Đối với pháp lệnh đã được UBTVQH thông qua mà Chủ tịch nước đề nghị UBTVQH xem xét lại theo quy định thì chậm nhất là 10 ngày kể từ ngày pháp lệnh được thông qua, Chủ tịch nước gửi văn bản đến UBTVQH yêu cầu xem xét lại. UBTVQH có trách nhiệm xem xét lại những vấn đề mà Chủ tịch nước có ý kiến tại phiên họp gần nhất. Sau khi pháp lệnh được UBTVQH biểu quyết, thông qua lại thì Chủ tịch nước công bố chậm nhất là 15 ngày kể từ ngày UBTVQH thông qua lại. Trong trường hợp Chủ tịch nước vẫn không nhất trí thì Chủ tịch nước trình Quốc hội quyết định tại kỳ họp gần nhất. Đối với luật, pháp lệnh được xây dựng, ban hành theo trình tự, thủ tục rút gọn thì Chủ tịch nước công bố luật, pháp lệnh chậm nhất là 05 ngày kể từ ngày luật, pháp lệnh được thông qua. - Tổng thư ký Quốc hội công bố nghị quyết của Quốc hội, nghị quyết của UBTVQH chậm nhất là 15 ngày kể từ ngày nghị quyết được thông qua. Đối với nghị quyết được xây dựng, ban hành theo trình tự, thủ tục rút gọn thì Tổng thư ký Quốc hội công bố nghị quyết chậm nhất là 05 ngày kể từ ngày nghị quyết được thông qua. (Căn cứ Điều 80 Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật 2015) (Còn nữa)
“Định mức” công việc dẫn đến phiền phức cho dân
Thường ngày Xoay tôi cứ bàn chuyện pháp luật, để rồi khen cũng có, khối người chê, lắm kẻ chửi khùng, bao lần vui cũng như nhiều lúc buồn. Mà thôi, tài hèn sức mọn như tôi sai cũng là lẽ thường tình, bị chửi cũng mở môi cười đón nhận, chỉ mong các bác đừng ghét hận gì tôi vì những lúc tranh luận hơi gay gắt nhé! Thôi rằng, bữa nay Pháp Luật cho em đi chơi với Thực Tiễn Vui, có gì không phải mong các bác lượng thứ bỏ qua. 1. Chuyện bắt đầu từ một xí nghiệp may: Mọi việc đều diễn ra một cách bình thường và trôi chãy nhưng một hôm Sếp thấy rằng có người may được 10 cái áo/ngày, nhưng người khác chỉ được 8 cái áo/ngày, và thậm chí có người chỉ đạt được 7 cái áo trên ngày. Sếp này muốn hiệu suất công việc được tốt hơn nên đưa ra khái niệm “Định mức”; mỗi người phải may ít nhất 10 cái áo/ngày, nếu ai vượt thì thưởng không đạt thì phạt. Vậy là trong tháng đó ai cũng vượt định mức, xí nghiệp phải chi một khoản thưởng khá lớn. Nhưng Áo thì bán không được vì số lượng có tăng còn chất lượng chẳng đạt. Vậy là, Sếp quy định lại: số lượng phải đi cùng với chất lượng, nên chữ “Định mức” được vận hành hiệu quả. 2. Rồi một hôm vị Giám đốc Công an tỉnh đến thăm xí nghiệp: Vị Giám đốc hỏi anh Sếp của xí nghiệp, tại sao anh điều hành công ty một cách hiệu quả và phát triển hùng mạnh đến thế? - Xí nghiệp em áp dụng hai chữ “Định mức” anh à! Cứ giao “Định mức”, ai vượt thì thưởng, không đạt thì phạt, vậy là mọi người cố gắng làm thôi. - Cái này nghe có lý, chắc cơ quan tôi phải học hỏi theo anh thì mới phát triển được. Thế là, Hôm sau vị Giám đốc Công an tỉnh giao định mức cho các đồng chí Cảnh sát giao thông phạt vi phạm giao thông; phạt vượt thì thưởng, không đạt thì phạt. Kết quả tiền xử phạt thu về nhiều hơn hẳn. 3. Rồi một hôm cấp trên nhận được báo cáo của Công an tỉnh: Cấp trên thấy tiền thu từ xử phạt cao hơn các tỉnh khác gấp nhiều lần nên hỏi lý do. Thì vị Công an tỉnh bảo rằng: vì giao “Định mức” đấy anh; phạt vượt thì thưởng, không đạt thì phạt. Cấp trên nghe thấy có lý, nên đề nghị các cơ quan, ban ngành trong việc ban hành văn bản pháp luật phải theo “Định mức”; ban hành vượt thì thưởng, không đạt thì phạt. Thế là dẫn đến hiện trạng mấy ngày cuối tháng sợ không đạt “Định mức” nên các bác phải chạy định mức bằng những văn bản “trời không dung đất không tha”, dư luận phản đối, ảnh hưởng đến quyền lợi người dân. Nhưng mà các bác ấy cũng được thưởng vì đã vượt “Định mức” trong tháng. Ôi trời! “Định mức” công việc như thế có nên hay không vậy các bác? Theo tôi thì tùy cái mà “Định mức”, chứ cái gì cũng “Định mức” thì chỉ có hại dân.
Phải bồi thường nếu ban hành văn bản trái luật
Trong thời gian qua, cơ quan nhà nước ban hành nhiều văn bản quy phạm pháp luật trái luật, không phù hợp thực tế gây rất nhiều phiền hà, thiệt hại cho người dân (xem tổng hợp văn bản trái luật, không phù hợp thực tế); Một ví dụ điển hình là quy định mỗi người chỉ được đứng tên 01 chiếc xe máy; vi phạm quyền sở hữu tài sản của dân theo quy định của Hiến pháp 1992; dẫn đến việc người dân muốn mua xe máy theo sở thích phải nhờ người khác đứng tên; sau này đổi lại phải mất khá nhiều chi phí, công sức. Ai phải bồi thường các khoản thiệt hại này cho dân? Vẫn lại là câu hỏi rơi vào dĩ vãng. Luật Trách nhiệm bồi thường nhà nước là nơi người dân có thể bấu víu, nhưng luật này lại hổng quy định vấn đề bồi thường do ban hành văn bản trái luật: Điều 13. Phạm vi trách nhiệm bồi thường trong hoạt động quản lý hành chính Nhà nước có trách nhiệm bồi thường thiệt hại do hành vi trái pháp luật của người thi hành công vụ gây ra trong các trường hợp sau đây: 1. Ban hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính; 2. Áp dụng biện pháp ngăn chặn vi phạm hành chính và bảo đảm việc xử lý vi phạm hành chính; 3. Áp dụng biện pháp buộc tháo dỡ nhà ở, công trình, vật kiến trúc và biện pháp cưỡng chế thi hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính khác; 4. Áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa người vào trường giáo dưỡng, đưa người vào cơ sở giáo dục hoặc đưa người vào cơ sở chữa bệnh; 5. Cấp, thu hồi Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh; Giấy chứng nhận đầu tư, giấy phép và các giấy tờ có giá trị như giấy phép; 6. Áp dụng thuế, phí, lệ phí; thu thuế, phí, lệ phí; truy thu thuế; thu tiền sử dụng đất; 7. Áp dụng thủ tục hải quan; 8. Giao đất, cho thuê đất, thu hồi đất, cho phép chuyển mục đích sử dụng đất; bồi thường, hỗ trợ, giải phóng mặt bằng, tái định cư; cấp hoặc thu hồi Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất; 9. Ban hành quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh; 10. Cấp văn bằng bảo hộ cho người không đủ điều kiện được cấp văn bằng bảo hộ; cấp văn bằng bảo hộ cho đối tượng sở hữu công nghiệp không đủ điều kiện được cấp văn bằng bảo hộ; ra quyết định chấm dứt hiệu lực của văn bằng bảo hộ; 11. Không cấp Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh, Giấy chứng nhận đầu tư, giấy phép và các giấy tờ có giá trị như giấy phép, văn bằng bảo hộ cho đối tượng có đủ điều kiện; 12. Các trường hợp được bồi thường khác do pháp luật quy định. Hiện nay, vấn đề xử lý văn bản trái luật còn chung chung, mang tính “cho có” chứ chưa đi vào thực chất; hoặc giới hạn ở mức độ xử lý trách nhiệm cá nhân mà chưa có chế định bồi thường. Nghị định40/2010/NĐ-CP quy định: Điều 34. Xem xét, xử lý trách nhiệm đối với người, cơ quan ban hành văn bản trái pháp luật 1. Việc xem xét, xử lý trách nhiệm đối với cơ quan, người đã ban hành văn bản trái pháp luật phải căn cứ vào nội dung, tính chất, mức độ trái pháp luật của văn bản và hậu quả của nội dung trái pháp luật gây ra đối với xã hội và trên cơ sở tính chất, mức độ lỗi của cơ quan, người đã ban hành, tham mưu ban hành văn bản đó. 2. Việc xem xét trách nhiệm tập thể, trách nhiệm cá nhân được thực hiện như sau: a) Cơ quan ban hành văn bản có nội dung trái pháp luật phải tổ chức việc kiểm điểm, xác định trách nhiệm của tập thể và báo cáo cơ quan cấp trên có thẩm quyền xem xét, quyết định theo quy định của pháp luật, đồng thời, xem xét trách nhiệm của người đứng đầu cơ quan trong việc ban hành văn bản có nội dung trái pháp luật; b) Cán bộ, công chức trong quá trình tham mưu soạn thảo, thẩm định, thẩm tra, thông qua văn bản có nội dung trái pháp luật, tùy theo tính chất, mức độ lỗi và nội dung trái pháp luật của văn bản, phải chịu trách nhiệm theo quy định của pháp luật về kỷ luật cán bộ, công chức. Thủ tục xử lý kỷ luật cán bộ, công chức thực hiện theo quy định của pháp luật về cán bộ, công chức; c) Trường hợp cán bộ, công chức có hành vi vi phạm trong quá trình soạn thảo, ban hành văn bản gây hậu quả nghiêm trọng thì có thể bị đề nghị xem xét, truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định của pháp luật. Để văn bản quy phạm pháp luật được ban hành một cách nghiêm túc, hợp hiến, hợp pháp, hợp thực tiễn; thiết nghĩ cần có chế tài xử phạt cụ thể, công khai hình thức xử lý người ban hành văn bản trái luật, đồng thời Nhà nước phải xây dựng trách nhiệm bồi thường do việc ban hành văn bản trái luật gây thiệt hại cho người dân.