Bàn về ủy quyền kháng cáo theo quy định tại khoản 6 Điều 272 BLTTDS năm 2015
Ảnh minh họa: ủy quyền kháng cáo So với quy định về người có quyền kháng cáo trong BLTTDS năm 2004, quy định trong BLTTDS năm 2015 đã có sửa đổi, bổ sung theo hướng quy định cụ thể hơn về chủ thể, đối tượng kháng cáo. Cụ thể, Điều 271 BLTTDS năm 2015 quy định: “Đương sự, người đại diện hợp pháp của đương sự, cơ quan, tổ chức, cá nhân khởi kiện có quyền kháng cáo bản án sơ thẩm, quyết định tạm đình chỉ giải quyết vụ án dân sự, quyết định đình chỉ giải quyết vụ án dân sự của Tòa án sơ thẩm để yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm giải quyết lại theo thủ tục phúc thẩm”. Như vậy, chủ thể có quyền kháng cáo là đương sự, người đại diện hợp pháp của đương sự, cơ quan, tổ chức, cá nhân khởi kiện. Đối tượng của việc kháng cáo bao gồm: Bản án sơ thẩm, quyết định tạm đình chỉ, quyết định đình chỉ giải quyết vụ án của Tòa án cấp sơ thẩm. Thủ tục thực hiện quyền kháng cáo là làm đơn kháng cáo, đơn kháng cáo phải được gửi cho Tòa án cấp sơ thẩm đã ra bản án, quyết định sơ thẩm bị kháng cáo. Tuy nhiên, qua công tác kiểm sát giải quyết các vụ án dân sự của Viện KSND thành phố Hà Nội, tác giả nêu lên một vấn đề hiện còn nhiều sự tranh cãi về mặt pháp lý cũng như các cách hiểu và áp dụng không thống nhất giữa những người tiến hành tố tụng với nhau cũng như giữa những người tiến hành tố tụng với luật sư bảo vệ quyền và lợi ích cho đương sự về ủy quyền kháng cáo theo quy định tại khoản 6 Điều 272 BLTTDS năm 2015. Để tìm hiểu kỹ hơn về vấn đề này tác giả đưa ra một ví dụ cụ thể sau đây: Ngày 22/06/2012, Ngân hàng TM TNHH MTV Dầu Khí Toàn Cầu (gọi tắt là GPBank) và anh Bùi Đ, chị Nguyễn L ký kết Hợp đồng tín dụng. Theo đó, GPBank cho anh Đ và chị L vay số tiền 3.000.000.000 đồng với mục đích tiêu dùng, thời gian vay 12 tháng kể từ ngày 22/6/2012. Để đảm bảo cho khoản vay trên ông Bùi Lê H và bà Đặng Thị D đã tự nguyện ký Hợp đồng thế chấp tại thửa đất số 35, tờ bản đồ số 08 tại xã T, huyện TT, Hà Nội diện tích 133m2, do UBND huyện TT, thành phố Hà Nội cấp ngày 22/09/2003 đứng tên Ông Bùi Lê H. Do anh Đ và chị L vi phạm nghĩa vụ thanh toán nên năm 2014, GPBank bán nợ lại cho Công ty TNHH MTV quản lý tài sản của các tổ chức tín dụng Việt Nam (VAMC). Ngày 19/8/2019, VAMC yêu cầu anh Đ và chị L phải trả cho VAMC tổng số tiền 8.486.727.733 đồng Trong đó: Nợ gốc: 3.000.000.000 đồng ; Nợ lãi trong hạn: 3.389.399.945 đồng; Nợ lãi quá hạn: 2.097.327.788 đồng. Trường hợp anh Đ và chị L không thanh toán được toàn bộ nghĩa vụ nợ gốc và lãi thì VAMC yêu cầu cơ quan thi hành án có thẩm quyền kê biên phát mại tài sản thế chấp là toàn bộ diện tích đất 133m2 và ngôi nhà 3 tầng trên thửa đất số 35 tờ bản đồ số 08 tại thôn H, xã T, huyện TT để thanh toán hết toàn bộ nghĩa vụ trả nợ cho VAMC. Quá trình giải quyết vụ án Bị đơn anh Bùi Đ và chị Nguyễn L xác nhận về thời gian ký kết hợp đồng và khoản tiền vay cũng như toàn bộ số nợ mà VAMC đề nghị VAMC cho anh, chị giãn nợ trả dần. Người có QLNVLQ ông Bùi Lê H và bà Đặng Thị D đề nghị Tòa án giải quyết theo quy định của pháp luật. Đối với ngôi nhà 3 tầng trên thửa đất số 35 tờ bản đồ số 08 tại thôn H, xã T, huyện TT là do anh Đặng Việt D xây dựng thuộc quyền sở hữu của anh D. Đề nghị Tòa án giải quyết theo quy định của pháp luật Tại bản án sơ thẩm ngày 15/10/2019, Toà án nhân dân huyện TT, thành phố H đã xử: 1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của VAMC. Buộc anh Bùi Đ và chị Nguyễn L phải trả cho VAMC số tiền phát sinh theo Hợp đồng tín dụng. Tổng số tiền 8.486.727.733 đồng (Trong đó: Nợ gốc: 3.000.000.000 đồng; Nợ lãi trong hạn: 3.389.399.945 đồng; Nợ lãi quá hạn: 2.097.327.788 đồng) Anh Đ và chị L còn phải thanh toán các khoản lãi theo thỏa thuận trong hợp đồng tín dụng các bên có thỏa thuận về việc điều chỉnh lãi suất cho vay theo từng thời kỳ của ngân hàng cho vay thì lãi suất mà khách hàng vay phải tiếp tục thanh toán cho VAMC cho vay theo quyết định của Tòa án cũng sẽ được điều chỉnh cho phù hợp với sự điều chỉnh lãi suất của Ngân hàng cho vay. 2. Trường hợp anh Bùi Đ và chị Nguyễn L không trả được nợ thì VAMC có quyền yêu cầu cơ quan thi hành án dân sự phát mại tài sản là Quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền trên thửa đất tại thửa số 35, tờ bản đồ số 08 tại xã H, huyện TT, thành phố H diện tích 133m2 do uỷ ban nhân dân huyện TT, thành phố H cấp ngày 22/09/2003 đứng tên ông Bùi Lê H. Theo Hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất của bên thứ ba số công chứng số 666/2010 ngày 5/02/2010 được lập tại Phòng công chứng số 7 thành phố Hà Nội. 3. Không chấp nhận yêu cầu độc lập của người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan là anh Đặng Việt D do ông Vũ Đình T làm đại diện. Ngoài ra Tòa án còn tuyên về án phí quyền kháng cáo, quyền thi hành án của các đương sự. Sau khi xét xử sơ thẩm, do không đồng ý với nội dung bản án sơ thẩm nên trong thời hạn kháng cáo, ông Vũ Đình T đã thay mặt anh Đặng Việt D kháng cáo đối với bản án sơ thẩm và nộp đơn kháng cáo cho TAND huyện TT. Đề nghị Tòa án cấp phúc thẩm: Công nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở đối với ngôi nhà 3 tầng trên thửa đất số 35 tờ bản đồ số 08 tại xã H huyện TT thuộc quyền sử dụng và sở hữu của anh Đặng Việt D. Ngày 25/12/2019, TAND TP H thụ lý phúc thẩm. Sau khi nghiên cứu hồ sơ vụ án và Văn bản ủy quyền được ký tại Văn phòng công chứng TT với nội dung và phạm vi uỷ quyền như sau: “Ông Vũ Đình T được đại diện cho anh Đặng Việt D tham gia tố tụng tại TAND các cấp; được thay mặt anh D thực hiện các quyền và nghĩa vụ của đương sự theo pháp luật quy định; được quyết định mọi việc có liên quan trong quá trình tham gia tố tụng giải quyết vụ án; anh Đặng Việt D cam kết chấp hành đúng những gì đã được xác lập trong tờ uỷ quyền và không khiếu nại về sau; thời gian uỷ quyền: cho đến khi vụ án được giải quyết xong”. Với nội dung trong văn bản ủy quyền như trên có hai quan điểm khác nhau: Quan điểm thứ nhất cho rằng: Không chấp nhận đơn kháng cáo của ông Vũ Đình T với lý do: ông T không được quyền kháng cáo thay cho anh D bởi văn bản uỷ quyền không ghi rõ là ông T được uỷ quyền kháng cáo theo quy định tại khoản 6 Điều 272 BLTTDS năm 2015. Do đó đơn kháng cáo không hợp lệ. Quan điểm thứ hai cho rằng: Đơn kháng cáo của ông Vũ Đình T hợp lệ. Bởi lẽ, nội dung và phạm vi uỷ quyền của anh Đặng Việt D ghi cụ thể là ông T được đại diện cho anh tham gia tố tụng tại TAND các cấp; được thay mặt anh D thực hiện các quyền và nghĩa vụ của đương sự theo pháp luật quy định bao gồm cả quyền kháng cáo bản án của Toà án. Qua nghiên cứu các quy định Điều 134 và Điều 562 của BLDS năm 2015 và các quy định tại Điều 85 BLTTDS năm 2015 quy định về người đại diện. Tác giả hoàn toàn đồng ý với quan điểm thứ hai, bởi lẽ, “toàn quyền giải quyết vụ án tại Tòa án nhân dân các cấp” nội hàm của nó đã bao gồm cả quyền kháng cáo. Bên cạnh đó, Điều 271 BLTTDS năm 2015 về người có quyền kháng cáo cũng quy định: “Đương sự, người đại diện hợp pháp của đương sự, cơ quan, tổ chức, cá nhân khởi kiện có quyền kháng cáo bản án sơ thẩm, quyết định tạm đình chỉ giải quyết vụ án dân sự, quyết định đình chỉ giải quyết vụ án dân sự của Tòa án cấp sơ thẩm để yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm giải quyết lại theo thủ tục phúc thẩm” mà như đã nêu ở trên, đại diện hợp pháp bao gồm đại diện theo pháp luật và theo ủy quyền. Khoản 6 Điều 272 BLTTDS năm 2015 quy định: Việc ủy quyền quy định tại các khoản 3, 4 và 5 Điều này phải được làm thành văn bản có công chứng, chứng thực hợp pháp, trừ trường hợp văn bản ủy quyền đó được lập tại Tòa án có sự chứng kiến của Thẩm phán hoặc người được Chánh án Tòa án phân công. Trong văn bản ủy quyền phải có nội dung đương sự ủy quyền cho người đại diện theo ủy quyền kháng cáo bản án, quyết định tạm đình chỉ, đình chỉ giải quyết vụ án của Tòa án cấp sơ thẩm. Như vậy, quy định tại khoản 6 Điều 272 BLTTDS năm 2015 được áp dụng cho trường hợp chưa có ủy quyền hoặc có ủy quyền nhưng phạm vi ủy quyền không bao gồm quyền kháng cáo hoặc tại thời hạn ủy quyền đã hết. Để hiểu rõ hơn tác giả đưa ra cụ thể vụ việc như sau: Ngày 17/7/2019 ông Nguyễn Văn G ủy quyền cho anh Nguyễn Văn P. Giấy ủy quyền được lập tại UBND xã Hồng Dương. Nội dung ủy quyền như sau: “Nay tôi ủy quyền toàn bộ quyền, lợi nghĩa vụ của tôi cho anh Nguyễn Văn P trực tiếp thay mặt tôi đến Tòa án nhân dân huyện TO giải quyết vụ việc “Đòi tài sản” có liên quan đến việc thi hành án dân sự tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện TO, thành phố H để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp cho tôi theo quy định của pháp luật”. Như vậy, với Giấy ủy quyền trên thì phạm vi ủy quyền của anh P chỉ được thay mặt cho ông G đến Tòa án nhân dân huyện TO giải quyết liên quan đến vụ việc “Đòi tài sản” và việc thi hành án dân sự tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện TO, thành phố H”. Do đó, trong vụ án này thì đơn kháng cáo của anh P không hợp lệ nên không được xem xét giải quyết. Qua phân tích và dẫn chứng vụ việc cụ thể như trên tác giả cho rằng: Đối với trường hợp đương sự đã ủy quyền cho người khác đại diện cho mình toàn quyền giải quyết vụ án tại Tòa án các cấp thì văn bản ủy quyền không cần thiết phải chi rõ nội dung là ủy quyền kháng cáo. Để phù hợp với tình hình thực tế, tránh việc áp dụng không đúng quy định tại Điều 272 của BLTTDS năm 2015, thiết nghĩ 02 ngành Tòa án và Viện kiểm sát cần có văn bản hướng dẫn đầy đủ, cụ thể và rõ ràng hơn để bảo đảm thống nhất áp dụng pháp luật việc ủy quyền kháng cáo theo quy định tại khoản 6 Điều 272 BLTTDS năm 2015. Lê Thị Hồng Hạnh - Phòng 9 (vkshanoi.gov.vn) Theo VKSNDTC
Cách tính thời hạn kháng cáo vụ án dân sự
Điều 270 Bộ luật tố tụng dân sự 2015 (BLTTDS) quy định xét xử phúc thẩm là việc Tòa án cấp phúc thẩm trực tiếp xét xử lại vụ án mà bản án, quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật bị kháng cáo, kháng nghị. Theo đó, sau khi Tòa án sơ thẩm ban hành bản án thì các đương sự/người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan vẫn được quyền kháng cáo để tiếp tục xét xử theo thủ tục phúc thẩm. Điều 273 BLTTDS quy định về thời hạn kháng cáo như sau: Điều 273. Thời hạn kháng cáo 1. Thời hạn kháng cáo đối với bản án của Tòa án cấp sơ thẩm là 15 ngày, kể từ ngày tuyên án; đối với đương sự, đại diện cơ quan, tổ chức hoặc cá nhân khởi kiện không có mặt tại phiên tòa hoặc không có mặt khi tuyên án mà có lý do chính đáng thì thời hạn kháng cáo được tính từ ngày họ nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết. Đối với trường hợp đương sự, đại diện cơ quan, tổ chức hoặc cá nhân khởi kiện đã tham gia phiên tòa nhưng vắng mặt khi Tòa án tuyên án mà không có lý do chính đáng thì thời hạn kháng cáo được tính từ ngày tuyên án. 2. Thời hạn kháng cáo đối với quyết định tạm đình chỉ, đình chỉ giải quyết vụ án của Tòa án cấp sơ thẩm là 07 ngày, kể từ ngày đương sự, cơ quan, tổ chức, cá nhân khởi kiện nhận được quyết định hoặc kể từ ngày quyết định được niêm yết theo quy định của Bộ luật này. 3. Trường hợp đơn kháng cáo được gửi qua dịch vụ bưu chính thì ngày kháng cáo được xác định căn cứ vào ngày tổ chức dịch vụ bưu chính nơi gửi đóng dấu ở phong bì. Trường hợp người kháng cáo đang bị tạm giam thì ngày kháng cáo là ngày đơn kháng cáo được giám thị trại giam xác nhận. >>> Về cách tính thời hạn kháng cáo Thời điểm bắt đầu thời hạn kháng cáo Khoản 1 Điều 4 Nghị quyết 06/2012/NQ-HĐTP quy định về thời điểm bắt đầu thời hạn kháng cáo được tính như sau: “- Thời điểm bắt đầu tính thời hạn kháng cáo bản án sơ thẩm là ngày tiếp theo của ngày được xác định. - Ngày được xác định là ngày Toà án tuyên án đối với đương sự có mặt tại phiên toà sơ thẩm hoặc là ngày bản án sơ thẩm được giao hoặc được niêm yết đối với đương sự không có mặt tại phiên toà sơ thẩm.” Ví dụ về cách tính: Ngày 01/01/2020, Toà án xét xử sơ thẩm vụ án dân sự và cùng ngày 01/01/2020 Toà án tuyên án, thì ngày được xác định và thời điểm bắt đầu tính thời hạn kháng cáo như sau: + Đối với đương sự có mặt tại phiên toà sơ thẩm, thì ngày được xác định là ngày 01/01/2020 và thời điểm bắt đầu tính thời hạn kháng cáo 15 ngày là ngày 02/01/2020. + Đối với đương sự không có mặt tại phiên toà sơ thẩm và giả sử ngày 10/01/2020 Toà án cấp sơ thẩm mới giao bản án sơ thẩm cho đương sự, thì ngày được xác định là ngày 10/01/2020 và thời điểm bắt đầu tính thời hạn kháng cáo mười lăm ngày là ngày 11/01/2020. Nếu Toà án cấp sơ thẩm không thể giao trực tiếp bản án sơ thẩm cho đương sự mà phải niêm yết công khai và giả sử ngày niêm yết công khai tại trụ sở Uỷ ban nhân dân cấp xã nơi cư trú của đương sự là ngày 10/01/2020, thì ngày được xác định là ngày 10/01/2020 và thời điểm bắt đầu tính thời hạn kháng cáo mười lăm ngày là ngày 11/01/2020. Thời điểm kết thúc thời hạn kháng cáo Khoản 4 Điều 4 Nghị quyết 06/2012/NQ-HĐTP quy định về thời điểm kết thúc thời hạn kháng cáo được tính như sau: “- Thời điểm kết thúc thời hạn kháng cáo là thời điểm kết thúc ngày cuối cùng của thời hạn. - Nếu ngày cuối cùng của thời hạn là ngày nghỉ cuối tuần (thứ bảy, chủ nhật) hoặc ngày nghỉ lễ, thì thời hạn kháng cáo kết thúc vào lúc hai mươi tư giờ của ngày làm việc đầu tiên tiếp theo ngày nghỉ đó. - Trường hợp Tòa án phải tiến hành ủy thác tư pháp để tống đạt bản án, quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm cho đương sự đang cư trú ở nước ngoài thì thời điểm bắt đầu tính thời hạn kháng cáo là ngày nhận được ủy thác tư pháp, ngày nhận được ủy thác tư pháp được xác định theo quy định của pháp luật về ủy thác tư pháp.”
Thời điểm nào nguyên đơn được quyền thay đổi yêu cầu khởi kiện?
Trong quá trình giải quyết vụ án dân sự, nguyên tắc quyền quyết định và tự định đoạt của đương sự là nguyên tắc rất quan trọng được áp dụng xuyên suốt quá trình giải quyết vụ án. Nguyên tắc này được quy định tại Điều 5 Bộ luật tố tụng dân sự 2015 với nội dung như sau: Điều 5. Quyền quyết định và tự định đoạt của đương sự 1. Đương sự có quyền quyết định việc khởi kiện, yêu cầu Tòa án có thẩm quyền giải quyết vụ việc dân sự…. 2. Trong quá trình giải quyết vụ việc dân sự, đương sự có quyền chấm dứt, thay đổi yêu cầu của mình hoặc thỏa thuận với nhau một cách tự nguyện, không vi phạm điều cấm của luật và không trái đạo đức xã hội. Và nguyên tắc trên cũng được ghi nhận tại điều khoản về quyền và nghĩa vụ của đương sự, quy định cụ thể tại khoản 4 Điều 70, khoản 2 Điều 71 Bộ luật tố tụng dân sự 2015. Song, vấn đề đặt ra là có phải đương sự có quyền thay đổi, bổ sung yêu cầu trong bất kỳ giai đoạn nào của quá trình giải quyết vụ án hay không? Vấn đề trên đã được giải đáp tại phần IV.7 Công văn 01/2017/GĐ-TANDTC của Tòa án nhân dân tối cao ngày 07/4/2017 về giải đáp một số vấn đề nghiệp vụ của Tòa án các địa phương, theo đó, Tòa án nhân dân tối cao đã có hướng dẫn như sau: 7. Đề nghị hướng dẫn việc thay đổi, bổ sung yêu cầu khởi kiện trước khi mở phiên tòa như thế nào? Trường hợp nào thì Tòa án chấp nhận hay không chấp nhận việc thay đổi, bổ sung đó? Việc thay đổi địa vị tố tụng trước khi mở phiên tòa trong trường hợp nguyên đơn rút yêu cầu khởi kiện và bị đơn có yêu cầu phản tố? Theo quy định tại Điều 5, khoản 4 Điều 70, khoản 2 Điều 71, khoản 3 Điều 200, khoản 2 Điều 210, Điều 243 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 thì: - Tòa án chấp nhận việc nguyên đơn thay đổi, bổ sung yêu cầu khởi kiện nếu việc thay đổi, bổ sung được thực hiện trước thời điểm mở phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải. - Tại phiên họp và sau phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải thì Tòa án chỉ chấp nhận việc đương sự thay đổi yêu cầu khởi kiện nếu việc thay đổi yêu cầu của họ không vượt quá phạm vi khởi kiện ban đầu. Theo quy định trên, thời điểm thay đổi, bổ sung yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn được chia thành 02 thời điểm: - Trước thời điểm Tòa án mở phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải: Việc thay đổi, bổ sung yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn sẽ được chấp nhận. Trong đó, phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ là một thủ tục tố tụng hoàn toàn mới so với quy định tố tụng trước đây. Phiên họp này được tiến hành với mục đích xác định rõ các nội dung có ý nghĩa quan trọng trong việc quyết định Tòa án sẽ tiếp tục giải quyết vụ án như thế nào, với các nội dung về: yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn; việc sửa đổi, bổ sung, thay đổi, rút yêu cầu khởi kiện, yêu cầu phản tố, yêu cầu độc lập của các đương sự; những vấn đề các bên đương sự thống nhất được; những vấn đề các bên đương sự chưa thống nhất được và yêu cầu Tòa án giải quyết; các tài liệu, chứng cứ mà các bên đương sự đã giao nộp cho Tòa án và việc gửi tài liệu, chứng cứ cho đương sự khác;… - Từ thời điểm Tòa án mở phiên họp trở đi: Việc thay đổi yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn chỉ được chấp nhận nếu việc thay đổi yêu cầu của họ không vượt quá phạm vi khởi kiện ban đầu.
5 điểm mới bạn cần lưu ý tại Bộ luật tố tụng dân sự 2015
Bộ luật tố tụng dân sự 2015 được Quốc hội thông qua ngày 25/11/2015 và sẽ bắt đầu đi vào hiệu lực ngày 1/7/ 2016 thay thế cho Bộ luật tố tụng dân sự 2004 sửa đổi bổ sung năm 2011. BLTTDS 2015 đã ghi nhận nhiều điểm mới cũng như những bổ sung đáng kể so với bộ luật cũ. Dưới đây là 5 điểm mới cơ bản nhất của Bộ luật tố tụng dân sự 2015: Sự thừa nhận của nguyên tắc không có vụ việc dân sự nào bị từ chối giải quyết vì lý do không có luật để áp dụng Đây là nguyên tắc rất tiến bộ đã được luật hóa vào Bộ luật tố tụng dân sự 2015 tại khoản 2 Điều 4. Sự thừa nhận của nguyên tắc này sẽ đảm bảo cho việc các tranh chấp trong quan hệ dân sự sẽ được giải quyết một cách hiệu quả nhất. Bảo đảm nguyên tắc tranh tụng trong xét xử Thoạt đầu, đây có vẻ không phải là nguyên tắc xa lạ ngay cả khi đề cập đến BLTTDS 2004. Tuy nhiên, việc sử dụng từ ngữ đã có sự thay đổi nhỏ nhưng ý nghĩa của sự thay đổi này là rất lớn. Nếu như tại BLTTDS 2004, cụm từ “tranh luận” được sử dụng thì thay vào đó BLTTDS 2015 đã sử dụng cụm từ “tranh tụng”. Đây có thể xem là 1 bước tiến mới về tư duy trong vấn đề đổi mới hoạt động tư pháp hiện nay. Bổ sung cách thức gửi đơn khởi kiện bằng phương thức trực tuyến Theo đó, bên cạnh 2 phương thức gửi đơn khởi kiện truyền thống là phương thức nộp đơn trực tiếp hoặc thông qua bưu điện như tại BLTTDS cũ thì BLTTDS 2015 đã cho phép gửi đơn khởi kiện trực tuyến. Tuy nhiên, chúng ta cần chờ đợi thêm văn bản hướng dẫn thêm cho phương thức này. Thời hạn khiếu nại việc trả lại đơn khởi kiện Trong trường hợp đơn khởi kiện của bạn bị Tòa án trả lại, bạn sẽ có một thời hạn dài hơn là 10 ngày để thực hiện quyền khiếu nại đối với việc trả lại đơn khởi kiện này theo quy định tại khoản 1 Điều 194 BLTTDS 2015. Thời hạn khiếu nại là dài hơn tương đối nhiều so với khoảng thời gian 3 ngày tại BLTTDS 2004. Giải quyết vụ án dân sự theo thủ tục rút gọn Bên cạnh việc giải quyết vụ án dân sự theo thủ tục chung, Bộ luật tố tụng dân sự 2015 đã bổ sung thêm 1 thủ tục giải quyết vụ án dân sự nữa đó là thủ tục rút gọn ở cả 2 cấp sơ thẩm và phúc thẩm được quy định cụ thể tại Phần thứ tư của bộ luật này. Đúng như tên gọi của nó, một vụ việc dân sự khi thỏa mãn đủ các điều kiện tại Điều 317 BLTTDS 2015 thì sẽ được giải quyết với trình tự đơn giản hơn so với thủ tục thông thông thường.
Bàn về ủy quyền kháng cáo theo quy định tại khoản 6 Điều 272 BLTTDS năm 2015
Ảnh minh họa: ủy quyền kháng cáo So với quy định về người có quyền kháng cáo trong BLTTDS năm 2004, quy định trong BLTTDS năm 2015 đã có sửa đổi, bổ sung theo hướng quy định cụ thể hơn về chủ thể, đối tượng kháng cáo. Cụ thể, Điều 271 BLTTDS năm 2015 quy định: “Đương sự, người đại diện hợp pháp của đương sự, cơ quan, tổ chức, cá nhân khởi kiện có quyền kháng cáo bản án sơ thẩm, quyết định tạm đình chỉ giải quyết vụ án dân sự, quyết định đình chỉ giải quyết vụ án dân sự của Tòa án sơ thẩm để yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm giải quyết lại theo thủ tục phúc thẩm”. Như vậy, chủ thể có quyền kháng cáo là đương sự, người đại diện hợp pháp của đương sự, cơ quan, tổ chức, cá nhân khởi kiện. Đối tượng của việc kháng cáo bao gồm: Bản án sơ thẩm, quyết định tạm đình chỉ, quyết định đình chỉ giải quyết vụ án của Tòa án cấp sơ thẩm. Thủ tục thực hiện quyền kháng cáo là làm đơn kháng cáo, đơn kháng cáo phải được gửi cho Tòa án cấp sơ thẩm đã ra bản án, quyết định sơ thẩm bị kháng cáo. Tuy nhiên, qua công tác kiểm sát giải quyết các vụ án dân sự của Viện KSND thành phố Hà Nội, tác giả nêu lên một vấn đề hiện còn nhiều sự tranh cãi về mặt pháp lý cũng như các cách hiểu và áp dụng không thống nhất giữa những người tiến hành tố tụng với nhau cũng như giữa những người tiến hành tố tụng với luật sư bảo vệ quyền và lợi ích cho đương sự về ủy quyền kháng cáo theo quy định tại khoản 6 Điều 272 BLTTDS năm 2015. Để tìm hiểu kỹ hơn về vấn đề này tác giả đưa ra một ví dụ cụ thể sau đây: Ngày 22/06/2012, Ngân hàng TM TNHH MTV Dầu Khí Toàn Cầu (gọi tắt là GPBank) và anh Bùi Đ, chị Nguyễn L ký kết Hợp đồng tín dụng. Theo đó, GPBank cho anh Đ và chị L vay số tiền 3.000.000.000 đồng với mục đích tiêu dùng, thời gian vay 12 tháng kể từ ngày 22/6/2012. Để đảm bảo cho khoản vay trên ông Bùi Lê H và bà Đặng Thị D đã tự nguyện ký Hợp đồng thế chấp tại thửa đất số 35, tờ bản đồ số 08 tại xã T, huyện TT, Hà Nội diện tích 133m2, do UBND huyện TT, thành phố Hà Nội cấp ngày 22/09/2003 đứng tên Ông Bùi Lê H. Do anh Đ và chị L vi phạm nghĩa vụ thanh toán nên năm 2014, GPBank bán nợ lại cho Công ty TNHH MTV quản lý tài sản của các tổ chức tín dụng Việt Nam (VAMC). Ngày 19/8/2019, VAMC yêu cầu anh Đ và chị L phải trả cho VAMC tổng số tiền 8.486.727.733 đồng Trong đó: Nợ gốc: 3.000.000.000 đồng ; Nợ lãi trong hạn: 3.389.399.945 đồng; Nợ lãi quá hạn: 2.097.327.788 đồng. Trường hợp anh Đ và chị L không thanh toán được toàn bộ nghĩa vụ nợ gốc và lãi thì VAMC yêu cầu cơ quan thi hành án có thẩm quyền kê biên phát mại tài sản thế chấp là toàn bộ diện tích đất 133m2 và ngôi nhà 3 tầng trên thửa đất số 35 tờ bản đồ số 08 tại thôn H, xã T, huyện TT để thanh toán hết toàn bộ nghĩa vụ trả nợ cho VAMC. Quá trình giải quyết vụ án Bị đơn anh Bùi Đ và chị Nguyễn L xác nhận về thời gian ký kết hợp đồng và khoản tiền vay cũng như toàn bộ số nợ mà VAMC đề nghị VAMC cho anh, chị giãn nợ trả dần. Người có QLNVLQ ông Bùi Lê H và bà Đặng Thị D đề nghị Tòa án giải quyết theo quy định của pháp luật. Đối với ngôi nhà 3 tầng trên thửa đất số 35 tờ bản đồ số 08 tại thôn H, xã T, huyện TT là do anh Đặng Việt D xây dựng thuộc quyền sở hữu của anh D. Đề nghị Tòa án giải quyết theo quy định của pháp luật Tại bản án sơ thẩm ngày 15/10/2019, Toà án nhân dân huyện TT, thành phố H đã xử: 1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của VAMC. Buộc anh Bùi Đ và chị Nguyễn L phải trả cho VAMC số tiền phát sinh theo Hợp đồng tín dụng. Tổng số tiền 8.486.727.733 đồng (Trong đó: Nợ gốc: 3.000.000.000 đồng; Nợ lãi trong hạn: 3.389.399.945 đồng; Nợ lãi quá hạn: 2.097.327.788 đồng) Anh Đ và chị L còn phải thanh toán các khoản lãi theo thỏa thuận trong hợp đồng tín dụng các bên có thỏa thuận về việc điều chỉnh lãi suất cho vay theo từng thời kỳ của ngân hàng cho vay thì lãi suất mà khách hàng vay phải tiếp tục thanh toán cho VAMC cho vay theo quyết định của Tòa án cũng sẽ được điều chỉnh cho phù hợp với sự điều chỉnh lãi suất của Ngân hàng cho vay. 2. Trường hợp anh Bùi Đ và chị Nguyễn L không trả được nợ thì VAMC có quyền yêu cầu cơ quan thi hành án dân sự phát mại tài sản là Quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền trên thửa đất tại thửa số 35, tờ bản đồ số 08 tại xã H, huyện TT, thành phố H diện tích 133m2 do uỷ ban nhân dân huyện TT, thành phố H cấp ngày 22/09/2003 đứng tên ông Bùi Lê H. Theo Hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất của bên thứ ba số công chứng số 666/2010 ngày 5/02/2010 được lập tại Phòng công chứng số 7 thành phố Hà Nội. 3. Không chấp nhận yêu cầu độc lập của người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan là anh Đặng Việt D do ông Vũ Đình T làm đại diện. Ngoài ra Tòa án còn tuyên về án phí quyền kháng cáo, quyền thi hành án của các đương sự. Sau khi xét xử sơ thẩm, do không đồng ý với nội dung bản án sơ thẩm nên trong thời hạn kháng cáo, ông Vũ Đình T đã thay mặt anh Đặng Việt D kháng cáo đối với bản án sơ thẩm và nộp đơn kháng cáo cho TAND huyện TT. Đề nghị Tòa án cấp phúc thẩm: Công nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở đối với ngôi nhà 3 tầng trên thửa đất số 35 tờ bản đồ số 08 tại xã H huyện TT thuộc quyền sử dụng và sở hữu của anh Đặng Việt D. Ngày 25/12/2019, TAND TP H thụ lý phúc thẩm. Sau khi nghiên cứu hồ sơ vụ án và Văn bản ủy quyền được ký tại Văn phòng công chứng TT với nội dung và phạm vi uỷ quyền như sau: “Ông Vũ Đình T được đại diện cho anh Đặng Việt D tham gia tố tụng tại TAND các cấp; được thay mặt anh D thực hiện các quyền và nghĩa vụ của đương sự theo pháp luật quy định; được quyết định mọi việc có liên quan trong quá trình tham gia tố tụng giải quyết vụ án; anh Đặng Việt D cam kết chấp hành đúng những gì đã được xác lập trong tờ uỷ quyền và không khiếu nại về sau; thời gian uỷ quyền: cho đến khi vụ án được giải quyết xong”. Với nội dung trong văn bản ủy quyền như trên có hai quan điểm khác nhau: Quan điểm thứ nhất cho rằng: Không chấp nhận đơn kháng cáo của ông Vũ Đình T với lý do: ông T không được quyền kháng cáo thay cho anh D bởi văn bản uỷ quyền không ghi rõ là ông T được uỷ quyền kháng cáo theo quy định tại khoản 6 Điều 272 BLTTDS năm 2015. Do đó đơn kháng cáo không hợp lệ. Quan điểm thứ hai cho rằng: Đơn kháng cáo của ông Vũ Đình T hợp lệ. Bởi lẽ, nội dung và phạm vi uỷ quyền của anh Đặng Việt D ghi cụ thể là ông T được đại diện cho anh tham gia tố tụng tại TAND các cấp; được thay mặt anh D thực hiện các quyền và nghĩa vụ của đương sự theo pháp luật quy định bao gồm cả quyền kháng cáo bản án của Toà án. Qua nghiên cứu các quy định Điều 134 và Điều 562 của BLDS năm 2015 và các quy định tại Điều 85 BLTTDS năm 2015 quy định về người đại diện. Tác giả hoàn toàn đồng ý với quan điểm thứ hai, bởi lẽ, “toàn quyền giải quyết vụ án tại Tòa án nhân dân các cấp” nội hàm của nó đã bao gồm cả quyền kháng cáo. Bên cạnh đó, Điều 271 BLTTDS năm 2015 về người có quyền kháng cáo cũng quy định: “Đương sự, người đại diện hợp pháp của đương sự, cơ quan, tổ chức, cá nhân khởi kiện có quyền kháng cáo bản án sơ thẩm, quyết định tạm đình chỉ giải quyết vụ án dân sự, quyết định đình chỉ giải quyết vụ án dân sự của Tòa án cấp sơ thẩm để yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm giải quyết lại theo thủ tục phúc thẩm” mà như đã nêu ở trên, đại diện hợp pháp bao gồm đại diện theo pháp luật và theo ủy quyền. Khoản 6 Điều 272 BLTTDS năm 2015 quy định: Việc ủy quyền quy định tại các khoản 3, 4 và 5 Điều này phải được làm thành văn bản có công chứng, chứng thực hợp pháp, trừ trường hợp văn bản ủy quyền đó được lập tại Tòa án có sự chứng kiến của Thẩm phán hoặc người được Chánh án Tòa án phân công. Trong văn bản ủy quyền phải có nội dung đương sự ủy quyền cho người đại diện theo ủy quyền kháng cáo bản án, quyết định tạm đình chỉ, đình chỉ giải quyết vụ án của Tòa án cấp sơ thẩm. Như vậy, quy định tại khoản 6 Điều 272 BLTTDS năm 2015 được áp dụng cho trường hợp chưa có ủy quyền hoặc có ủy quyền nhưng phạm vi ủy quyền không bao gồm quyền kháng cáo hoặc tại thời hạn ủy quyền đã hết. Để hiểu rõ hơn tác giả đưa ra cụ thể vụ việc như sau: Ngày 17/7/2019 ông Nguyễn Văn G ủy quyền cho anh Nguyễn Văn P. Giấy ủy quyền được lập tại UBND xã Hồng Dương. Nội dung ủy quyền như sau: “Nay tôi ủy quyền toàn bộ quyền, lợi nghĩa vụ của tôi cho anh Nguyễn Văn P trực tiếp thay mặt tôi đến Tòa án nhân dân huyện TO giải quyết vụ việc “Đòi tài sản” có liên quan đến việc thi hành án dân sự tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện TO, thành phố H để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp cho tôi theo quy định của pháp luật”. Như vậy, với Giấy ủy quyền trên thì phạm vi ủy quyền của anh P chỉ được thay mặt cho ông G đến Tòa án nhân dân huyện TO giải quyết liên quan đến vụ việc “Đòi tài sản” và việc thi hành án dân sự tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện TO, thành phố H”. Do đó, trong vụ án này thì đơn kháng cáo của anh P không hợp lệ nên không được xem xét giải quyết. Qua phân tích và dẫn chứng vụ việc cụ thể như trên tác giả cho rằng: Đối với trường hợp đương sự đã ủy quyền cho người khác đại diện cho mình toàn quyền giải quyết vụ án tại Tòa án các cấp thì văn bản ủy quyền không cần thiết phải chi rõ nội dung là ủy quyền kháng cáo. Để phù hợp với tình hình thực tế, tránh việc áp dụng không đúng quy định tại Điều 272 của BLTTDS năm 2015, thiết nghĩ 02 ngành Tòa án và Viện kiểm sát cần có văn bản hướng dẫn đầy đủ, cụ thể và rõ ràng hơn để bảo đảm thống nhất áp dụng pháp luật việc ủy quyền kháng cáo theo quy định tại khoản 6 Điều 272 BLTTDS năm 2015. Lê Thị Hồng Hạnh - Phòng 9 (vkshanoi.gov.vn) Theo VKSNDTC
Cách tính thời hạn kháng cáo vụ án dân sự
Điều 270 Bộ luật tố tụng dân sự 2015 (BLTTDS) quy định xét xử phúc thẩm là việc Tòa án cấp phúc thẩm trực tiếp xét xử lại vụ án mà bản án, quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật bị kháng cáo, kháng nghị. Theo đó, sau khi Tòa án sơ thẩm ban hành bản án thì các đương sự/người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan vẫn được quyền kháng cáo để tiếp tục xét xử theo thủ tục phúc thẩm. Điều 273 BLTTDS quy định về thời hạn kháng cáo như sau: Điều 273. Thời hạn kháng cáo 1. Thời hạn kháng cáo đối với bản án của Tòa án cấp sơ thẩm là 15 ngày, kể từ ngày tuyên án; đối với đương sự, đại diện cơ quan, tổ chức hoặc cá nhân khởi kiện không có mặt tại phiên tòa hoặc không có mặt khi tuyên án mà có lý do chính đáng thì thời hạn kháng cáo được tính từ ngày họ nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết. Đối với trường hợp đương sự, đại diện cơ quan, tổ chức hoặc cá nhân khởi kiện đã tham gia phiên tòa nhưng vắng mặt khi Tòa án tuyên án mà không có lý do chính đáng thì thời hạn kháng cáo được tính từ ngày tuyên án. 2. Thời hạn kháng cáo đối với quyết định tạm đình chỉ, đình chỉ giải quyết vụ án của Tòa án cấp sơ thẩm là 07 ngày, kể từ ngày đương sự, cơ quan, tổ chức, cá nhân khởi kiện nhận được quyết định hoặc kể từ ngày quyết định được niêm yết theo quy định của Bộ luật này. 3. Trường hợp đơn kháng cáo được gửi qua dịch vụ bưu chính thì ngày kháng cáo được xác định căn cứ vào ngày tổ chức dịch vụ bưu chính nơi gửi đóng dấu ở phong bì. Trường hợp người kháng cáo đang bị tạm giam thì ngày kháng cáo là ngày đơn kháng cáo được giám thị trại giam xác nhận. >>> Về cách tính thời hạn kháng cáo Thời điểm bắt đầu thời hạn kháng cáo Khoản 1 Điều 4 Nghị quyết 06/2012/NQ-HĐTP quy định về thời điểm bắt đầu thời hạn kháng cáo được tính như sau: “- Thời điểm bắt đầu tính thời hạn kháng cáo bản án sơ thẩm là ngày tiếp theo của ngày được xác định. - Ngày được xác định là ngày Toà án tuyên án đối với đương sự có mặt tại phiên toà sơ thẩm hoặc là ngày bản án sơ thẩm được giao hoặc được niêm yết đối với đương sự không có mặt tại phiên toà sơ thẩm.” Ví dụ về cách tính: Ngày 01/01/2020, Toà án xét xử sơ thẩm vụ án dân sự và cùng ngày 01/01/2020 Toà án tuyên án, thì ngày được xác định và thời điểm bắt đầu tính thời hạn kháng cáo như sau: + Đối với đương sự có mặt tại phiên toà sơ thẩm, thì ngày được xác định là ngày 01/01/2020 và thời điểm bắt đầu tính thời hạn kháng cáo 15 ngày là ngày 02/01/2020. + Đối với đương sự không có mặt tại phiên toà sơ thẩm và giả sử ngày 10/01/2020 Toà án cấp sơ thẩm mới giao bản án sơ thẩm cho đương sự, thì ngày được xác định là ngày 10/01/2020 và thời điểm bắt đầu tính thời hạn kháng cáo mười lăm ngày là ngày 11/01/2020. Nếu Toà án cấp sơ thẩm không thể giao trực tiếp bản án sơ thẩm cho đương sự mà phải niêm yết công khai và giả sử ngày niêm yết công khai tại trụ sở Uỷ ban nhân dân cấp xã nơi cư trú của đương sự là ngày 10/01/2020, thì ngày được xác định là ngày 10/01/2020 và thời điểm bắt đầu tính thời hạn kháng cáo mười lăm ngày là ngày 11/01/2020. Thời điểm kết thúc thời hạn kháng cáo Khoản 4 Điều 4 Nghị quyết 06/2012/NQ-HĐTP quy định về thời điểm kết thúc thời hạn kháng cáo được tính như sau: “- Thời điểm kết thúc thời hạn kháng cáo là thời điểm kết thúc ngày cuối cùng của thời hạn. - Nếu ngày cuối cùng của thời hạn là ngày nghỉ cuối tuần (thứ bảy, chủ nhật) hoặc ngày nghỉ lễ, thì thời hạn kháng cáo kết thúc vào lúc hai mươi tư giờ của ngày làm việc đầu tiên tiếp theo ngày nghỉ đó. - Trường hợp Tòa án phải tiến hành ủy thác tư pháp để tống đạt bản án, quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm cho đương sự đang cư trú ở nước ngoài thì thời điểm bắt đầu tính thời hạn kháng cáo là ngày nhận được ủy thác tư pháp, ngày nhận được ủy thác tư pháp được xác định theo quy định của pháp luật về ủy thác tư pháp.”
Thời điểm nào nguyên đơn được quyền thay đổi yêu cầu khởi kiện?
Trong quá trình giải quyết vụ án dân sự, nguyên tắc quyền quyết định và tự định đoạt của đương sự là nguyên tắc rất quan trọng được áp dụng xuyên suốt quá trình giải quyết vụ án. Nguyên tắc này được quy định tại Điều 5 Bộ luật tố tụng dân sự 2015 với nội dung như sau: Điều 5. Quyền quyết định và tự định đoạt của đương sự 1. Đương sự có quyền quyết định việc khởi kiện, yêu cầu Tòa án có thẩm quyền giải quyết vụ việc dân sự…. 2. Trong quá trình giải quyết vụ việc dân sự, đương sự có quyền chấm dứt, thay đổi yêu cầu của mình hoặc thỏa thuận với nhau một cách tự nguyện, không vi phạm điều cấm của luật và không trái đạo đức xã hội. Và nguyên tắc trên cũng được ghi nhận tại điều khoản về quyền và nghĩa vụ của đương sự, quy định cụ thể tại khoản 4 Điều 70, khoản 2 Điều 71 Bộ luật tố tụng dân sự 2015. Song, vấn đề đặt ra là có phải đương sự có quyền thay đổi, bổ sung yêu cầu trong bất kỳ giai đoạn nào của quá trình giải quyết vụ án hay không? Vấn đề trên đã được giải đáp tại phần IV.7 Công văn 01/2017/GĐ-TANDTC của Tòa án nhân dân tối cao ngày 07/4/2017 về giải đáp một số vấn đề nghiệp vụ của Tòa án các địa phương, theo đó, Tòa án nhân dân tối cao đã có hướng dẫn như sau: 7. Đề nghị hướng dẫn việc thay đổi, bổ sung yêu cầu khởi kiện trước khi mở phiên tòa như thế nào? Trường hợp nào thì Tòa án chấp nhận hay không chấp nhận việc thay đổi, bổ sung đó? Việc thay đổi địa vị tố tụng trước khi mở phiên tòa trong trường hợp nguyên đơn rút yêu cầu khởi kiện và bị đơn có yêu cầu phản tố? Theo quy định tại Điều 5, khoản 4 Điều 70, khoản 2 Điều 71, khoản 3 Điều 200, khoản 2 Điều 210, Điều 243 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 thì: - Tòa án chấp nhận việc nguyên đơn thay đổi, bổ sung yêu cầu khởi kiện nếu việc thay đổi, bổ sung được thực hiện trước thời điểm mở phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải. - Tại phiên họp và sau phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải thì Tòa án chỉ chấp nhận việc đương sự thay đổi yêu cầu khởi kiện nếu việc thay đổi yêu cầu của họ không vượt quá phạm vi khởi kiện ban đầu. Theo quy định trên, thời điểm thay đổi, bổ sung yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn được chia thành 02 thời điểm: - Trước thời điểm Tòa án mở phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải: Việc thay đổi, bổ sung yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn sẽ được chấp nhận. Trong đó, phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ là một thủ tục tố tụng hoàn toàn mới so với quy định tố tụng trước đây. Phiên họp này được tiến hành với mục đích xác định rõ các nội dung có ý nghĩa quan trọng trong việc quyết định Tòa án sẽ tiếp tục giải quyết vụ án như thế nào, với các nội dung về: yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn; việc sửa đổi, bổ sung, thay đổi, rút yêu cầu khởi kiện, yêu cầu phản tố, yêu cầu độc lập của các đương sự; những vấn đề các bên đương sự thống nhất được; những vấn đề các bên đương sự chưa thống nhất được và yêu cầu Tòa án giải quyết; các tài liệu, chứng cứ mà các bên đương sự đã giao nộp cho Tòa án và việc gửi tài liệu, chứng cứ cho đương sự khác;… - Từ thời điểm Tòa án mở phiên họp trở đi: Việc thay đổi yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn chỉ được chấp nhận nếu việc thay đổi yêu cầu của họ không vượt quá phạm vi khởi kiện ban đầu.
5 điểm mới bạn cần lưu ý tại Bộ luật tố tụng dân sự 2015
Bộ luật tố tụng dân sự 2015 được Quốc hội thông qua ngày 25/11/2015 và sẽ bắt đầu đi vào hiệu lực ngày 1/7/ 2016 thay thế cho Bộ luật tố tụng dân sự 2004 sửa đổi bổ sung năm 2011. BLTTDS 2015 đã ghi nhận nhiều điểm mới cũng như những bổ sung đáng kể so với bộ luật cũ. Dưới đây là 5 điểm mới cơ bản nhất của Bộ luật tố tụng dân sự 2015: Sự thừa nhận của nguyên tắc không có vụ việc dân sự nào bị từ chối giải quyết vì lý do không có luật để áp dụng Đây là nguyên tắc rất tiến bộ đã được luật hóa vào Bộ luật tố tụng dân sự 2015 tại khoản 2 Điều 4. Sự thừa nhận của nguyên tắc này sẽ đảm bảo cho việc các tranh chấp trong quan hệ dân sự sẽ được giải quyết một cách hiệu quả nhất. Bảo đảm nguyên tắc tranh tụng trong xét xử Thoạt đầu, đây có vẻ không phải là nguyên tắc xa lạ ngay cả khi đề cập đến BLTTDS 2004. Tuy nhiên, việc sử dụng từ ngữ đã có sự thay đổi nhỏ nhưng ý nghĩa của sự thay đổi này là rất lớn. Nếu như tại BLTTDS 2004, cụm từ “tranh luận” được sử dụng thì thay vào đó BLTTDS 2015 đã sử dụng cụm từ “tranh tụng”. Đây có thể xem là 1 bước tiến mới về tư duy trong vấn đề đổi mới hoạt động tư pháp hiện nay. Bổ sung cách thức gửi đơn khởi kiện bằng phương thức trực tuyến Theo đó, bên cạnh 2 phương thức gửi đơn khởi kiện truyền thống là phương thức nộp đơn trực tiếp hoặc thông qua bưu điện như tại BLTTDS cũ thì BLTTDS 2015 đã cho phép gửi đơn khởi kiện trực tuyến. Tuy nhiên, chúng ta cần chờ đợi thêm văn bản hướng dẫn thêm cho phương thức này. Thời hạn khiếu nại việc trả lại đơn khởi kiện Trong trường hợp đơn khởi kiện của bạn bị Tòa án trả lại, bạn sẽ có một thời hạn dài hơn là 10 ngày để thực hiện quyền khiếu nại đối với việc trả lại đơn khởi kiện này theo quy định tại khoản 1 Điều 194 BLTTDS 2015. Thời hạn khiếu nại là dài hơn tương đối nhiều so với khoảng thời gian 3 ngày tại BLTTDS 2004. Giải quyết vụ án dân sự theo thủ tục rút gọn Bên cạnh việc giải quyết vụ án dân sự theo thủ tục chung, Bộ luật tố tụng dân sự 2015 đã bổ sung thêm 1 thủ tục giải quyết vụ án dân sự nữa đó là thủ tục rút gọn ở cả 2 cấp sơ thẩm và phúc thẩm được quy định cụ thể tại Phần thứ tư của bộ luật này. Đúng như tên gọi của nó, một vụ việc dân sự khi thỏa mãn đủ các điều kiện tại Điều 317 BLTTDS 2015 thì sẽ được giải quyết với trình tự đơn giản hơn so với thủ tục thông thông thường.