Thứ nhất, không thể xác định phần đất đó là đất hoang được.
Theo thông tin bạn cung cấp là “Đến năm 1985 thực hiện Chỉ thị 299/TTg về tổng điều tra thống kê đất đai trên toàn quốc; ông Q được ghi nhận là người sử dụng đất đối với thửa đất đó trong bản đồ và sổ mục kê (lập năm 1985)”.
Như vậy tại thời điểm đó, chính quyền địa phương bạn đã xác nhận ông Q là người đang sử dụng đất đối với phần đất đó (chưa được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất) nên không thể xác định là đất hoang được.
Thứ hai, về vấn đề quản lý, thu hồi đất.
Đúng là theo quy định tại Khoản 2 Điều 14 Luật đất đai 1987 thì nhà nước sẽ thu hồi toàn bộ thửa đất của ông Q vì ông Q đã chết và không có thừa kế. Tuy nhiên, việc thu hồi không diễn ra do vậy đây thuộc về lỗi trong công tác quản lý, thu hồi đất tại địa phương bạn. Và nhà nước không thu hồi thì không thể coi đó là đất hoang được khi mà đã có tên ông Q trong sổ mục kê từ năm 1985.
Thứ ba, có được công nhận quyền sử dụng đối với thửa đất đó hay không ?
Theo ý kiến tôi, phần đất đó không được coi là đất hoang nên k thể áp dụng là đất khai hoang sử dụng lâu dài được và với trường hợp nếu ông B cạnh sát nhà ông Q và ở từ năm 1984 thì cũng đã được ít nhất 6 năm làm hàng xóm với ông Q. Nên khó có thể coi là không biết việc ông Q ở trên phần đất đó (trừ khi ông B mới chuyển đến) và nói đây là đất hoang được.
Theo quy định tại khoản 2 Điều 20 Thông tư 24/2014/TT-BTNMT quy định: “Sổ mục kê đất đai là sản phẩm của việc điều tra, đo đạc địa chính, để tổng hợp các thông tin thuộc tính của thửa đất và các đối tượng chiếm đất không tạo thành thửa đất gồm: Số hiệu tờ bản đồ, số hiệu thửa đất, diện tích, loại đất, tên người sử dụng đất và người được giao quản lý đất để phục vụ yêu cầu quản lý đất đai”.
Về mặt pháp lý, sổ mục kê ghi nhận các thông tin về thửa đất, trong đó có tên người sử dụng đất và người được giao quản lý đất. Đây được coi là căn cứ để cơ quan có thẩm quyền xem xét ai là người có quyền sử dụng, quyền được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Do đó, đất này vẫn xác định có giấy tờ, đó là sổ Mục kê mang tên ông Q.
Vì vậy, không thể xem xét căn cứ tại điều 20 nghị định 43/2014/NĐ-CP (sử dụng ổng định trước 15/10/1993, không có giấy tờ quy định tại Khoản 1 điều 100 Luật đất đai) để cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho ông B được. Trường hợp ông B xin cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, UBND cấp xã sẽ xem xét về nguồn gốc đất và có thể sẽ tiến hành tịch thu đối với phần đất này.
Đây là ý kiến thảo luận của tôi đối với phần câu hỏi, thắc mắc của bạn!!!