DanLuat
Chào mừng bạn đến với Dân Luật . Để viết bài Tư vấn, Hỏi Luật Sư, kết nối với Luật sư và chuyên gia, … Bạn vui lòng ĐĂNG KÝ TÀI KHOẢN.
×

Thêm câu phản hồi

Quyết định giám đốc thẩm xét xử vụ án "Tranh chấp kiện đòi nhà và quyền sử dụng đất" của chị Trần Thị Tuyên

Số hiệu

41/2010/DS-GĐT

Tiêu đề

Quyết định giám đốc thẩm xét xử vụ án "Tranh chấp kiện đòi nhà và quyền sử dụng đất" của chị Trần Thị Tuyên

Ngày ban hành

21/09/2010

Cấp xét xử

Giám đốc thẩm

Lĩnh vực

Dân sự

 

Ngày 21 tháng 9 năm 2010, tại trụ sở Tòa án nhân dân tối cao đã mở phiên tòa giám đốc thẩm xét xử vụ án "Tranh chấp kiện đòi nhà và quyền sử dụng đất" giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Chị Trần Thị Tuyên; trú tại: thôn Bí Trung, xã Phương Đông, thị xã Uống Bí, tỉnh Quảng Ninh.

Đồng bị đơn:

1. Anh Vũ Văn Sinh và chị Trần Thị Nguyệt cùng trú tại: Khu Cầu Sến, xã Phương Đông, thị xã Uống Bí, tỉnh Quảng Ninh.

2. Ông Trần Đình Chiến; trú tại: thôn Bí Trung, xã Phương Đông, thị xã Uống Bí, tỉnh Quảng Ninh.

3. Ngân hàng Công thương Việt Nam - Chi nhánh Ngân hàng Công thương Uống Bí, tỉnh Quảng Ninh. Đại diện bà Nguyễn Thị Ngắn - Trưởng phòng khách hàng cá nhân (Theo giấy ủy quyền số l06/UQ, ngày 01/01/2005 của Tổng Giám đốc Ngân hàng Công thương Việt Nam).

NHẬN THẤY :

Theo đơn khởi kiện ngày 14/4/2003, đơn khởi kiện bổ sung ngày 10/4/2005, ngày 15/4/2005 và quá trình tố tụng, nguyên đơn chị Trần Thị Tuyên trình bày: Chị có ngôi nhà và công trình phụ trên thửa đất rộng 160m2 (có 60m2 đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất) tại khu Cầu Sến, xã Phương Đông, thị xã Uống Bí, tỉnh Quảng Ninh. Ngày 06/8/1994 chị đã dùng nhà và đất trên để ký hợp đồng bảo lãnh cho ông Trần Đình Chiến (bố đẻ chị) vay tiền của Ngân hàng Công thương Uống Bí, Quảng Ninh. Năm 1995, chị đi làm ăn xa, đến năm 1999 chị về thì thấy gia đình chị Trần Thị Nguyệt, anh Vũ Văn Sinh đang ở trên phần nhà đất của chị. Qua trên hiểu, chị được biết gia đình chị Nguyệt, anh Sinh đã mua nhà đất đó của bố chị và của Ngân hàng Công thương Uống Bí. Theo chị, việc mua bán trên là trái pháp luật nên chị làm đơn khởi kiện đề nghị Toà án huỷ hợp đồng mua bán nhà đất lập ngày 30/3/1999 giữa ông Chiến với vợ chồng anh Sinh, chị Nguyệt. Đồng thời chị yêu cầu anh Sinh, chị Nguyệt, ông Chiến và Ngân hàng Công thương Uống Bí trả lại cho chị nhà đất trên.

Theo biên bản lấy lời khai cùng các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, phía bị đơn: Chị Trần Thị Nguyệt và anh Vũ Văn Sinh trình bày: Vào đầu năm 1999 qua người quen giới thiệu nên anh, chị biết anh Bùi Thế Việt là Cán bộ Ngân hàng Công thương Uống Bí. Qua anh Việt, anh, chị được biết Ngân hàng Công thương Uống Bí đang cần bán ngôi nhà của chị Trần Thị Tuyên đang thế chấp cho ông Trần Đình Chiến vay nợ nhưng không có khả năng thanh toán. Được anh Việt hướng dẫn nên chị Nguyệt đã làm đơn gửi Ngân hàng xin mua nhà đất. Ngày 30/3/1999 vợ chồng chị và chị Trần Thị Liên (chị gái chị) đem 45.000.000 đồng đến Ngân hàng Công thương Uống Bí nộp. Cùng ngày, anh Việt và ông Chiến bàn giao ngôi nhà cùng giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho chị. Nay chị Tuyên khởi kiện đòi nhà và đất, quan điểm của anh, chị là đồng ý trả, nhưng chỉ trả lại cho Ngân hàng Công thương Uống Bí và Ngân hàng Công thương Uống Bí phải trả lại cho gia đình anh, chị số tiền là 1. 200.000.000 đồng.

Ông Trần Đình Chiến trình bày: ông thừa nhận có việc con gái ông là Trần Thị Tuyên đem nhà và đất bảo lãnh cho ông vay vốn Ngân hàng Công thương Uống Bí. Do không có khả năng thanh toán, nên khi anh Bùi Huy Việt gợi ý bán nhà, ông đã đồng ý bán. Sau đó, anh Việt đã tìm người mua nhà cho ông. Ngày 30/3/1999 anh Việt tìm ông để giới thiệu người mua nhà thì lúc này ông mới biết là bán nhà và đất cho chị Nguyệt với giá 45.000.000 đồng. Nay ông thừa nhận việc ông bán nhà cho chị Nguyệt trong khi không được sự đồng ý của chị Tuyên con gái ông là không đúng và trái với pháp luật. Do đó, ông đề nghị làm rõ trách nhiệm của từng người, riêng ông sẽ tự chịu bồi hoàn cho chị Nguyệt theo phần lỗi của ông.

Đại diện cho Chi nhánh Ngân hàng Công thương Uống Bí bà Nguyễn Thị Ngắn trình bày: Năm 1994, ông Trần Đình Chiến có vay tiền của Ngân hàng Công thương Uống Bí. Việc vay tiền của ông Chiến đã được con gái ông Chiến là chị Trần Thị Tuyên đứng ra bảo lãnh. Ngày 30/3/1999, chị Nguyệt đã nộp trả Ngân hàng 45.000.000 đồng để trả cho khế ước vay tiền của ông Chiến. Sau đó, Ngân hàng trả lại hồ sơ bảo lãnh theo điều 2 của Hợp đồng vay tiền cho ông Chiến. Sau khi nhận hồ sơ cùng các giấy tờ bảo lãnh, ông Chiến đã bán nhà đất đó cho ai thì Ngân hàng không biết. Do vậy, Ngân hàng không có trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong việc ông Chiến bán nhà cho chị Nguyệt, anh Sinh.

*Tại bản án dân sự sơ thẩm số 16/2003/DSST ngày 01/12/2003 của Tòa án nhân thị xã Uống Bí, tỉnh Quảng Ninh quyết định:

1- Chấp nhận yêu cầu của chị Trần Thị Tuyên .

2- Tuyên bố giao dịch mua bán giữa ông Trần Đình Chiến và chị Trần Thị Nguyệt là vô hiệu.

Buộc chị Trần Thị Nguyệt phải trả lại toàn bộ nhà và đất như nguyên trạng kèm theo giấy cấp quyền sử dụng đất mang tên Trần Thị Tuyên do UBND thị xã cấp ngày 26/8/1992 cho cho Tuyên sử dụng.

Chị Trần Thị Tuyên có trách nhiệm thanh toán cho chị Nguyệt số tiền tu bổ tôn tạo là 30.000.000đồng (Ba mươi triệu đồng).

Ông Trần Đình Chiến có trách nhiệm hoàn trả cho chị Nguyệt sô tiền đã nhận và chênh lệch giá là 314.000.000 đồng (Ba trăm mười bốn triệu đồng)

Ngoài ra bản án sơ thẩm còn quyết định về án phí và quyền kháng cáo cho các bên đương sự.

Ngày 02/12/2003 chị Trần Thị Nguyệt có đơn kháng cáo toàn bộ bản án sơ thẩm.

 * Tại bản án dân sự phúc thẩm số 21/DSPT ngày 02/4/2004 của Toà án nhân dân tỉnh Quảng Ninh nhận định: Do có vi phạm về thủ tục tố tụng và việc xác minh của cấp sơ thẩm chưa đầy đủ nên đã quyết định:

Huỷ toàn bộ bản án sơ thẩm số 16/DSST ngày 01/12/2003 của Toà án nhân dân thị do Uống Bí.

Giao hồ sơ cho Toà án nhân dân thị xã Uống Bí để điều tra xét xử lại từ đầu theo quy định của pháp luật.

Ngoài ra bản án phúc thẩm còn tuyên về án phí.

* Tại bản án dân sự sơ thẩm số 11/DSST ngày 01/10/2004 của Tòa án nhân dân thị xã Uống Bí quyết định:

1. Chấp nhận yêu cầu của chị Trần Thị Tuyên.

2. Tuyên bố giao dịch mua bán nhà giữa ông Trần Đình Chiến và chị Trần Thị Nguyệt là vô hiệu.

Buộc chị Trần Thị Nguyệt phải trả lại toàn bộ nhà và đặt như nguyên trạng kèm theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số A500809 cấp ngày 26/8/1992 mang tên chị Trần Thị Tuyên do UBND thị xã Uống Bí cấp cho chị Trần Thị Tuyên sở hữu .

Ông Trần Đình Chiến phải có trách nhiệm hoàn trả lại cho chị Trần Thị Nguyệt sôi tiền đã nhận và chênh lệch giá là 500.000.000 đòng (năm trăm tỉ rêu đồng chẵn).

Ngoài ra bản án sơ thẩm còn quyết định về việc phải trả lãi do chậm thi hành án, về án phí và quyền kháng cáo cho các bên đương sự.

Ngày 10/10/2004 chỉ Trần Thị Nguyệt có đơn kháng cáo yêu cầu Ngân hàng Công thương Uống Bí phải có trách nhiệm trả tiền cho chị để chị trả nhà cho chị Tuyên.

Tại bản án dân sự phúc thẩm số 58/DSPT ngày 18/11/2004 của Toà án nhân dân tỉnh Quảng Ninh nhận định: Cấp sơ thẩm chưa xem xét lỗi của phía Ngân hàng và chưa giải quyết phần đất nằm ngoài "sổ đỏ" của chị Tuyên là chưa toàn diện nên đã quyết định:

Huỷ toàn bộ bản án sơ thẩm số 11/DSST ngày 01/10/2004 của Toà án nhân dân thị xã Uống Bí.

Giao hồ sơ cho Toà án nhân dân thị xã Uống Bí để điều tra xét xử lại theo đúng quy định của pháp luật.

Ngoài ra bản án phúc thẩm còn tuyên về án phí.

* Tại bản án dân sự sơ thẩm số08/TC-DSST ngày 27/6/2005 của Tòa án nhân dân thị xã Uống Bí đã quyết định:

Chấp nhận yêu cầu của chị Trần Thị Tuyên về việc đòi quyền sử dụng đất là tài sản gắn liền với đất.

Tuyên bố giao dịch mua bán nhà giữa ông Trần Đình Chiến với chị Trần Thị Nguyệt là vô hiệu.

Buộc chị Trần Thị Nguyệt phải trả lại toàn bộ nhà và đất đúng như nguyên trạng cùng với giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số A500809 do UBND thị xã Uống Bị cấp ngày 26/8/1992 mang tên Trần Thị Tuyên cho chị Trần Thị Tuyên.

Buộc ông Trần Đình Chiến phải hoàn tra cho chị Trần Thị Nguyệt số tiền là 307.434.416 đồng (ba trăm linh bẩy triệu bốn trăm ba mươi tư nghìn bốn trăm mười sáu đồng).

Buộc Ngân hàng Công thương Uống Bí phải hoàn trả cho chị Trần Thị Nguyệt số tiền là 105.235.660 đồng (một trăm linh năm tỉ hai trăm ba mươi lăm nghìn sáu trăm sáu mươi đồng)

Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn quyết định về nghĩa vụ do chậm thi hành án, tiền án phí và quyền kháng cáo cho các đương sự.

Ngày 01/7/2005 Chi nhánh Ngân hàng Công thương thị xã Uống Bí kháng cáo cho rằng Toà án cấp sơ thẩm đưa Ngân hàng vào tham gia tố tụng với tư cách là bị đơn là không đúng. Vì Ngân hàng không có lỗi trong việc ông Chiến bán nhà đất của chị Tuyên.

Ngày 05/7/2005 ông Trần Đình Chiến kháng cáo với nội dung: Cấp sơ thẩm buộc ông phải chịu lỗi 60% để hoàn trả là không công bằng.

Ngày 08/7/2005 chị Trần Thị Nguyệt kháng cáo cho rằng giá trị tài sản mà Toà án định giá là thấp so với thực tế.

* Tại bản án dân sự phúc thẩm số 46/DSPT ngày 22/9/2005 của Toà án nhân dân tỉnh Quảng Ninh nhận định cần phải đưa anh Sinh (chồng chị Nguyệt) vào tham gia tố tụng và chỉ xem xét lỗi của Ngân hàng Công thương Uống Bí đối với phần nhà đất chị Tuyên bảo lãnh cho ông Chiến vay tiền nên đã quyết định;

Huỷ bản án dân sự sơ thẩm số 08 ngày 27/6/2005 của Toà án nhân dân thị xã Uống Bí. Chuyển hồ sơ cho Toà án cấp sơ thẩm giải quyết lại vụ án.

Ngoài ra, bản án phúc thẩm còn tuyên về án phí.

*Tại Công văn số19/CV-TA ngày 06/10/2005 của Toà án nhân dân thị xã Uống Bí kính đề nghị lãnh đạo Toà án nhân dân tỉnh Quảng Ninh xem xét rút hồ sơ vụ án lên giải quyết theo trình tự sơ thẩm vì hiện tại Toà án nhân dân thị xã Uống Bí không còn Thẩm phán để tham gia giải quyết.

* Tại bản án dân sự sơ thẩm số 07/2006/DSST ngày 08/9/2006 của Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Ninh quyết định:

- Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn chị Trần Thị Tuyên về việc đòi lại nhà đất.

- Tuyên bố giao dịch mua bán nhà và chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa ông Trần Đình Chiến và anh Vũ Văn Sinh, chị Trần Thị Nguyệt là vô hiệu.

- Buộc anh Vũ Văn Sinh, chị Trần Thị Nguyệt phải trả lại cho chị Trần Thị Tuyên toàn bộ nhà, công trình phụ như nguyên trạng và 60m2 đất ở khu Cầu Sến, xã Phương Đông, thị xã Uống Bí, tỉnh Quảng Ninh (mà anh Sinh- chị Nguyệt đang sử dụng có sơ đồ kèm theo đó là sơ đồ thửa đất số 49 khu Cầu Sến, xã Phương Đông, TX Uống Bí); cùng với giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số A500809, do UBND thị xã Uống Bí cấp ngày 26/8/1992 mang tên Trần Thị Tuyên.

- Tạm giao cho chị Tuyên phần diện tích đất 100m2 còn lại, được xác định bởi hình ABCDEFGHI (theo sơ đồ) trừ đi 60m2 là diện tích xây nhà chính mái bằng và bể nước. Chị Tuyên có trách nhiệm làm các thủ tục để UBND cấp có thẩm quyền xem xét giao quyền sử dụng và cấp giâý chứng nhận quyền sử đụng đất.

Buộc ông Trần Đình Chiến phải bồi thường thiệt hại, tra cho anh Vũ Văn Sinh- chị Trần Thị Nguyệt với số tiền là 436.665.736 đồng (bốn trăm ba mươi sáu triệu, sáu trăm sáu mươi lăm nghìn, bảy trăm ba sáu đồng). Nếu chậm trả, hàng tháng ông Chiến còn phải trả lãi bằng lãi suất nợ quá hạn do Ngân hàng Nhà nước quy định.

Nếu ông Chiến không có khả năng thi hành án thì phải lây tài sản bảo lãnh của chị Trần Thị Tuyên rõ bảo lãnh cho ông Chiến để đảm bảo thi hành án, theo trách nhiệm của người bảo lãnh.

Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn quyết định về án phí và quyền kháng cáo cho các bên đương sự.

Ngày 16/9/2006 chị Trần Thị Tuyên có đơn kháng cáo không chấp nhận với quyết định của bản án sơ thẩm.

* Tại bản án dân sự phúc thẩm số 02/2007/DSPT ngày 11/01/2007 của Toà phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao tại Hà Nội đã quyết định:

Không chấp nhận kháng cáo của nguyên đơn chị Trần Thị Tuyên.

1. Chấp nhận đơn khởi kiện của nguyên đơn chị Trần Thị Tuyên về việc đòi lại nhà đất.

2. Giao dịch mua bán nhà và chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa ông Trần Đình Chiến với anh Vũ Văn Sinh, chị Trần Thị Nguyệt là vô hiệu.

3- Buộc anh Vũ Văn Sinh, chị Trần Thị Nguyệt phải trả lại cho chị Trần Thị Tuyên toàn bộ nhà, công trình phụ như nguyên trạng trên 60m2 đất (theo chứng nhận quyền sử dụng đất ở khu Cầu Sến, xã Phương Đông, thị xã Uống Bí, tỉnh Quảng Ninh (nơi vợ chồng chị Nguyệt, anh Sinh đang sử dụng) cùng giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số A500809 do Uỷ ban nhân dân thị xã Uống Bí cấp ngày 26/8/1982 mang tên Trần Thị Tuyên.

4- Tạm giao cho chị Tuyên phần diện tích đất 100m2 còn lại, được xác định bởi hình ABCDEFGHI (theo sơ đồ) trừ đi 60m2 là diện tích xây nhà chính mái bằng và bể nước. Chị Tuyên có trách nhiệm làm các thủ tục để ủy ban nhân dân cấp có thẩm quyền xem xét giao quyền sử dụng và cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.

5- Buộc ông Trần Đình Chiến phải bồi thường thiệt hại trả cho anh Vũ Văn Sinh và chị Trần Thị Nguyệt với số tiền là 436.665.736 đồng (bốn trăm ba mươi sáu triệu sáu trăm sáu mươi năm nghìn bẩy trăm ba mươi sáu nghìn đồng). Nêu trả chậm, hàng tháng ông Chiến côn phải trả lãi bằng lãi suất nợ quá hạn do Ngân hàng Nhà nước quy định.

Nếu ông Chiến không có khả năng thi hành án thì p~ảỉ lây tài sản bảo lãnh của chị Trần Thị Tuyên đã bảo lãnh cho ông Chiến để bảo đảm thi hành án, theo trách nhiệm của người bảo lãnh.

Ngoài ra, bản án phúc thẩm còn tuyên về án phí.

Sau khi xét xử phúc thẩm, ngày 05/7/2007, ông Trần Đình Chiến có đơn khiếu nại theo thủ tục giám đốc thẩm.

Tại Quyết định số14/2010/KN-DS ngày 08 tháng 01 năm 2010, Chánh án Tòa án Nhân dân tối cao kháng nghị Bản án dân sự phúc thẩm số 02/2007/DSPT ngày 11/01/2007 của Toà phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao tại Hà Nội; đề nghị Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao xét xử giám đốc thẩm huỷ Bản án dân sự phúc thẩm số 02/2007/DSPT ngày 11/01/2007 của Toà phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao tai Hà Nội và huỷ bản án dân sự sơ thẩm số 07/2006/DSST ngày 08/9/2006 của Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Ninh; giao hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Ninh xét xử sơ thẩm lại theo đúng quy định của pháp luật.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát Nhân dân tối cao nhất trí với kháng nghị của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao và đề nghị Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao xử hủy bản án dân sự phúc thẩm số 02/2007/DSPT ngày 11/01/2007 của Toà phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao tại Hà Nội và huỷ bản án dân sự sơ thẩm số 07/2006/DSST ngày 08/9!2006 của Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Ninh; giao hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Ninh xét xử sơ thẩm lại theo đúng quy định của pháp luật.

XÉT THẤY:

Căn cứ các tài liệu có trong hồ sơ vụ án thì có cơ sở xác định ngày 21/8/1994 ông Trần Đình Chiến có đơn xin vay, kiêm khế ước nhận nợ gửi chi nhánh Ngân hàng Công thương Uống Bí với số tiền 80.000.000 đồng, lãi suất 2,6%/ tháng, thời hạn vay 12 tháng. Kèm theo đơn xin vay còn có Hợp đồng thế chấp, cầm cố, bảo lãnh tài sản ngày 06/8/1994 của các con ông Chiến là chị Trần Thị Tuyên và chị Trần Thị Mận về việc bảo lãnh cho ông Chiến vay tiền của Ngân hàng Công thương Uống Bí. Hết thời hạn vay ông Chiến không trả được nợ cho Ngân hàng; tính đến ngày 21/8/1999 ông Chiến còn nợ Ngân hàng Công thương Uống Bí 52.750.000 đồng và không có khả năng thanh toán. Do đó ngày 20/3/1999 và ngày 29/3/1999, ông Chiến đã có đơn gửi Ngân hàng Công thương Uống Bí đề nghị cho bán tài sản bảo lãnh là nhà đất của chị Trần Thị Tuyên để trả nợ. Cũng trong khoảng thời gian trên chị Trần Thị Nguyệt đã có đơn gửi Ngân hàng Công thương Uống Bí xin mua nhà do chị Tuyên bảo lãnh cho ông Chiến, nhưng không được sự phê duyệt của Ngân hàng. Tuy nhiên, ngày 30/3/1999 chị Nguyệt đã nộp 45.000.000 đồng cho ngân hàng Công thương Uống Bí để trả nợ cho khế ước vay tiền Ngân hàng của ông Trần Đình Chiến. Cùng ngày 30/3/1999, ông Chiến đã viết giấy bán nhà và đất (mà chị Tuyên bảo lãnh tại Ngân hàng) cho vợ chồng chị Nguyệt, anh Sinh.

 Như vậy, hợp đồng mua bán nhà đất giữa ông Chiến với chị Nguyệt, anh Sinh đã vi phạm cả về hình thức lẫn nội dung. Về hình thức: Hợp đồng chưa được Công chứng, chứng thực. Về nội dung: ông Chiến lấy tài sản là nhà đất của chị Tuyên bán cho vợ chồng anh Sinh, chị Nguyệt trong khi không được sự đồng ý của chủ sở hữu tài sản là chị Tuyên. Do đó, Toà án cấp sơ thẩm, Toà án cấp phúc thẩm đã quyết định giao dịch mua bán nhà và chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa ông Trần Đình Chiến với anh Vũ Văn Sinh, chị Trần Thị Nguyệt vô hiệu là có căn cứ và đúng pháp luật. Tuy nhiên, khi giải quyết vụ án, Toà án cấp sơ thẩm, Toà án cấp phúc thẩm không xem xét lỗi của các bên để giải quyết hậu quả hợp đồng vô hiệu mà lại xác định lỗi hoàn toàn là do ông Chiến là chưa đủ cơ sở. Bởi lẽ, khi mua nhà đất từ ông Chiến thì chị Nguyệt, anh Sinh đều biết ông Chiến bán tài sản không phải của ông Chiến là chủ sở hữu. Do vậy, cần xác định người mua là chị Nguyệt, anh Sinh cũng có một phần lỗi đối với chi nhánh Ngân hàng Công thương Uống Bí thì tại Điều 1 mục 1 của Hợp đồng thế chấp, cầm cố, bảo lãnh tài sản và vay vốn Ngân hàng quy định: "Riêng trường hợp bảo lãnh có giấy bảo lãnh bằng tài sản của người bảo lãnh kèm theo" và tại Điều 2 khoản 1 điểm C của Hợp đồng thể hiện: "Ngân hàng có trách nhiệm bảo quản hồ sơ tài sản thế chấp, bảo quản tài sản cầm cố đối với loại tài sản do Ngân hàng giữ và trả lại giấy tờ chứng nhận quyền sở hữu và tài sản cầm cố cho bên vay khi bên vay đã trả hết nợ và không có nhu cầu vay vốn Ngân hàng". Như vậy, trường hợp chị Tuyên bảo lãnh cho ông Chiến vay tiền, Ngân hàng không yêu cầu chị Tuyên làm giấy bảo lãnh. Theo quy định tại điểm C khoản 1 điều 2 nêu trên là áp dụng cho việc Thế chấp, cầm cố tài sản Việc Ngân hàng trả lại giấy tờ về tài sản của chị Tuyên cho ông Chiến là không đúng quy định trong hợp đồng. Hơn nữa, Hợp đồng bảo lãnh giữa Ngân hàng với chị Tuyên chưa được thanh lý. Do đó cần xác định Ngân hàng cũng có lỗi vì trả lại giấy tờ về tài sản không trả cho đúng chủ sở hữu tài sản.

Ngoài ra, Tòa án cấp sơ thẩm và Toà án cấp phúc thẩm quyết định "Nêú ông Chiến không có khả năng thi hành án thì phải lấy tài sản bảo lãnh của chị Trần Thị Tuyên đã bảo lãnh cho ông Chiến để bảo đảm thi hành án, theo trách nhiệm của người bảo lãnh" là không đúng vì trong thực tế, chị Trần Thị Tuyên chỉ bảo lãnh bằng tài sản là nhà, đất cho ông Trần Đình Chiến vay tiền tại chi nhánh Ngân hàng Công thương Uống Bí chứ không bảo lãnh cho giao dịch mua bán nhà đất giữa ông Chiến với chị Nguyệt, anh Sinh. Do đó, Tòa án hai cấp quyết định lấy tài sản của chị Tuyên để bảo lãnh cho giao dịch mua bán giữa ông Chiến với chị Nguyệt, anh Sinh là không đúng quy định của pháp luật.

Bởi các lẽ trên, căn cứ khoản 3 Điều 291; khoản 3 Điều 297 và Điều 299 Bộ luật tố tụng dân sự.

QUYẾT ĐỊNH:

1. Hủy bản án dân sự phúc thẩm số 02/2007/DSPT ngày 11/01/2007 của Toà phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao tại Hà Nội, hủy bản án dân sự sơ thẩm số 07/2006/DSST ngày 08/9/2006 của Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Ninh về vụ án “Tranh chấp kiện đòi nhà và quyền sử dụng đất” giữa nguyên đơn là chị Trần Thị Tuyên với bị đơn là anh Vũ Văn Sinh; chị Trần Thị Nguyệt; ông Trần Đình Chiến và Ngân hàng Công thương Việt Nam - Chi nhánh Ngân hàng Công thương Uống Bí, Quảng Ninh.

2. Giao hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Ninh xét xử sơ thẩm lại theo đúng quy định của pháp luật.

 

  •  4786
  •  Cảm ơn
  •  Phản hồi

Chủ đề đang được đánh giá

0 Lượt cảm ơn
câu phản hồi
Click vào bảng để xem hiển thị đầy đủ thông tin

Bạn vui lòng đăng nhập hoặc Đăng ký tại đây để tham gia thảo luận

Loading…