DanLuat
Chào mừng bạn đến với Dân Luật . Để viết bài Tư vấn, Hỏi Luật Sư, kết nối với Luật sư và chuyên gia, … Bạn vui lòng ĐĂNG KÝ TÀI KHOẢN.
×

Thêm câu phản hồi

Quyết định giám đốc thẩm xét xử vụ án dân sự về việc "Yêu cầu chia tài sản chung" của bà Nguyễn Thị Khơi

Số hiệu

16/2010/DS-GĐT

Tiêu đề

Quyết định giám đốc thẩm xét xử vụ án dân sự về việc "Yêu cầu chia tài sản chung" của bà Nguyễn Thị Khơi

Ngày ban hành

07/04/2010

Cấp xét xử

Giám đốc thẩm

Lĩnh vực

Dân sự

….

Ngày 07 tháng 4 năm 2010, tại trụ sở Toà án nhân dân tối cao đã mở phiên toà giám đốc thẩm xét xử vụ án dân sự "Yêu cầu chia tài sản chung" giữa các đương sự:

Nguyên đơn:

1. Bà Nguyễn Thị Khơi sinh năm 1955; trú tại ấp Bắc, xã Hòa Long, thị xã Bà Rịa, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu.

2. Bà Nguyễn Thị Quá sinh năm 1959; trú tại ấp Tây, xã Hòa Long, thị xã Bà Rịa, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu.

3. Bà Lê Thị Ngọc Anh sinh năm 1940; trú tại Ô 1, ấp Bắc, xã Hòa Long, thị xã Bà Rịa, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu; ủy quyền cho anh Đặng Chí Đức sinh năm 1964; trú tại 1596, đường 3-4, phường 12, thành phố Vũng Tàu, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu đại diện.

Bị đơn: Bà Đặng Thị Hường sinh năm 1939, trú tại Ô 2, ấp Tây, xã Hòa Long, thị xã Bà Rịa, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu; ủy quyền cho anh Trần Văn Thành sinh năm 1975 và chị Đặng Thị Năm sinh năm 1968, trú tại ô 2, ấp Tây, xã Hòa Long, thị xã Bà Rịa, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu đại diện.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

1. Anh Đặng Văn Công sinh năm 1973; trú tại ấp Tây, xã Hòa Long, thị xã Bà Rịa, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu; ủy quyền cho anh Đặng Chí Đức sinh năm 1964; trú tại 1596 đường 30/ 4, phường 12, thành phố Vũng Tàu đại diện.

2. Bà Lê Thị Lan sinh năm 1930; cư trú tại Cộng hòa Liên bang Đức; ủy quyền cho bà Lê Thị Ngọc Anh, trú tại Ô 1, ấp Bắc, xã Hòa Long, thị xã Bà Rịa, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu đại diện.

3. Bà Lê Thị Kim Anh sinh năm 1977; trú tại khu phố 4, phường Phước Hưng, thị xã Bà Rịa, tỉnh Bà Rịa- Vũng Tàu.

4. Bà Lê Thị Lương sinh năm 1960; trú tại nhà số 101, đường Cách Mạng Tháng 8 , phường Long Hương, thị xã Bà Rịa, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu.

5. Ông Nguyễn Xuân Dự sinh năm 1953; trú tại nhà số 124/17, đường Bình Giã, phường 8, thành phố Vũng Tàu; ủy quyền cho anh Lê Thành Phú sinh năm 1978, trú tại nhà số 124/17, đường Bình Giã, phường 8, thành phố Vũng Tàu, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu đại diện.

 

NHẬN THẤY:

Tại đơn kiện ngày 22-10-2001 và trong quá trình tố tụng, các nguyên đơn là bà Nguyễn Thị Khơi, bà Nguyễn Thị Quá và bà Lê Thị Ngọc Anh trình bày:

Vợ chồng cố Đặng Văn Cử và cố Nguyễn Thị Kiều (cả hai cố chết từ thời Pháp thuộc) có 3 người con là: cụ Đặng Thị Mạo (chết năm 1994, có con là bà Lê Thị Lan và bà Lê Thị Ngọc Anh); cụ Đặng Văn Mộng (chết từ thời pháp thuộc, có con là bà Đặng Thị Hường và ông Đặng Văn Lập, nhưng ông Lập đã chết từ năm 1974 có con là anh Đặng Văn Công và anh Đặng Văn Lợi); cụ Đặng Thị Bay (chết năm 1972 , có con là bà Nguyễn Thì Khơi và bà Nguyễn Thị Quá) .

Cố Đặng Văn Cử, cố Nguyễn Thị Kiều để lại 46.285m2 đất ruộng tại cánh đồng Nước Nhĩ, ấp Bắc, xã Hòa Long, thị xã Bà Rịa. Từ năm 1950 đến năm 1975, vợ chồng cụ Đặng Thị Bay canh tác, sử dụng đất. Năm 1975, gia tộc giao đất cho bà Hường quản lý.

- Ngày 8-5-1993, gia tộc họp có mặt bà Hường (con cụ Mộng); bà Quá và bà Khơi (con cụ Bay); bà Anh (con cụ Mạo), anh Đức (con bà Anh) thuận phân 46.285m2 đất của cố cử, Cố Kiều thành 4 phần. Trong đó, bà Hường và anh Công (con ông Lập) được chia chung một phần; bà Hường được giao quản lý một phần đất hương hỏa (hai phần đất này liền kề nhau, mặt tiền 170m giáp Quốc lộ 56); cụ thể:

+ Phần I: anh Đức (con bà Anh) được chia 11.050m2 (mặt tiền 80m giáp Quốc lộ 56);

+ Phần II: bà Quá, bà Khơi được chia 12.120m2(mặt tiền 89m giáp Quốc lộ 56);

+ Phần III và phần IV có mặt tiền 170m giáp Quốc lộ 56, diện tích 23.155m2; trong đó: Bà Hường, anh Công được chia (phần mi 11.580m2 (mặt tiền 85m); phần IV là 11.557m2 làm đất hương hỏa (mặt tiền 85m) giao cho bà Hường quản lý, canh tác lấy huê lợi thờ cúng ông bà. Những người được chia đất đã nhận đất sử dụng.

Bà Hường được giao quản lý phần đất hương hỏa 11.557m2 của gia tộc, nhưng tháng 11/2001 bà Hường tự ý chuyển nhượng một phần đất cho nhiều người khác (trong đó chuyển nhượng cho bà Lê Thị Lương thửa số 768, diện tích 594m2; chuyển nhượng cho ông Nguyễn Xuân Dự thửa 769, diện tích 3881m2; chuyển nhượng cho bà Lê Thị Kim Anh thửa 767, diện tích 1237m2; chuyển nhượng cho ông Đỗ Thanh Hà thửa 389, diện tích 750m2; chuyển nhượng cho ông Trần Thái Duy thửa 391, diện tích 750m2); hiện nay chỉ còn lại một phần đất hương hỏa.

 Do đó, các bà yêu cầu chia phần đất hương hỏa (11.557m2) cho con cháu cụ Mộng, cụ Mạo và cụ Bay.

Bị đơn là bà Đặng Thị Hường trình bày:

- Năm 1940 cố Cử được chế độ cũ cấp 39.200m2 đất (có lúc bà Hường khai là các cố để lại 4,6 mẫu ruộng- BL71). Trước giải phóng, cha mẹ bà Khơi, bà Quá quản lý, sử dụng đất này. Từ năm 1975, gia đình bà canh tác, sử dụng đất (mẹ bà chết năm 1997). Gia đình bà đã khai hoang, mở rộng thêm đất (giáp đất của gia tộc) nâng tổng diện tích đất mà gia đình bà quản lý, sử dụng lên trên 46.000m2. Năm 1992, bà được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất trồng lúa, diện tích 31.000m2.

- Năm 1993, gia tộc họp chia đất ruộng của các cố, nhưng lại chia cả 46.285m2 đất (tức là gộp cả phần đất gia đình bà khai hoang để chia). Theo đó, bà và anh Công (con ông Lập) được chia chung một phần (phần III) có mặt tiền 85m, diện tích 11.580m2; bà còn được nhận phần đất hương hỏa 11.557m2 để canh tác, lo việc cứng giỗ ông bà (hai phần đất này hèn kề nhau, mặt tiền 170m, tổng diện tích 23.155m2). Tại cuộc họp này, bà đã yêu cầu gia tộc không nhập phần đất mà gia đình bà khai hoang vào tài sản của các cố để chia, nhưng không được chấp nhận. Sau đó, phía anh Đức, bà Khơi, bà Quá đã chuyển nhượng hết phần đất của mình được chia.

- Từ năm 1998 đến năm 2000, bà cũng chuyển nhượng phần đất bà và anh Công được chia chung (anh Công, anh Lợi và bà không tranh chấp phần đất này). Tháng 9/2001 bà được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, trong đó có phần đất hương hỏa. Tháng 11/2001, bà chuyển nhượng một phần đất hương hỏa (giáp Quốc lộ) cho ông Dự, bà Lương và bà Kim Anh.

Thực tế, đất hương hỏa không đủ 85m mặt tiền như giấy phân chia đất năm 1993 đã ghi, mà chỉ bao gồm: phần đất bà đã chuyển nhượng cho ông Dự, bà Lương, bà Kim Anh; thửa 375 và thửa 376; còn các thửa đất bà chuyển nhượng cho ông Hà, ông Duy không phải đất hương hỏa (tại biên bản hòa giải ngày 20-2-2006, bà Hường tinh bày rằng đất hương hỏa còn một phần nữa ở phía sau tại thửa 437=365,3m2, thửa 429=90m2). Bà không đồng ý trả đất hương hỏa cho nguyên đơn, chỉ đồng ý giao phần đất hương hỏa còn lại cho anh Công và anh Lợi.

Tại phiên tòa sơ thẩm ngày 23-3-2006, anh Trần Văn Thành (đại diện theo ủy quyền của bà Hường) và bà Hường xác định rằng toàn bộ đất đã chuyển nhượng là đất của bà Hường, không có đất hương hỏa; bà Hường đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, nên không đồng ý chia đất theo yêu cầu của nguyên đơn.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là bà Lê Thị Lan trình bày: bà biết việc chia đất trong gia tộc. Bà Hường đã chuyển nhượng một phần đất hương hỏa của gia tộc, nên bà đồng ý với yêu cầu của nguyên đơn. Phần đất hương hỏa do bà Hường đã chuyển nhượng mà người nhận chuyển nhượng đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thì bà yêu cầu chia bằng giá trị; phần đất người nhận chuyển nhượng chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thì nhập vào phần đất hương hỏa còn lại để chia. Yêu cầu được chia một phần đất và bà ủy quyền cho con bà Lê Thị Ngọc Anh quản lý phần đất của bà được chia.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là anh Đặng Văn Công và anh Đặng Văn Lợi trình bày: các anh không tranh chấp phàn đất anh Công và bà Hường được chia chung mà bà Hường đã chuyển nhượng (anh Lợi khai là năm 1993 gia tộc chia đất của các cố cho con, cháu thì anh không được tham gia). Các anh yêu cầu khi chia đất hương hỏa, nhưng giữ lại một phần để các anh thờ cúng ông bà.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là bà Lê Thị Lương, ông Nguyễn Xuân Dự và bà Lê Thị Kim Anh trình bày: Ngày 9-11-2001, các bà và ông nhận chuyển nhượng đất của bà Hường, trong đó bà Lương nhận chuyển nhượng 594m2, ông Dự nhận chuyển nhượng 3881m2, bà Kim Anh nhận chuyển nhượng 1237m2 (lúc nhận chuyển nhượng, bà Hường đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất). Các bà và ông đã trả đủ tiền nhận chuyển nhượng đất cho bà Hường, đã nhận đất và đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử đụng đất tháng 12/2001. Năm 2003, gia đình bà Nguyễn Thị Khơi chiếm lại đất của các bà và ông đến nay. Yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền, lợi hợp pháp cho các bà và ông.

Tại bản án dân sự sơ thẩm số 08/2006/DSST ngày 23-3-2006, Toà án nhân dân tỉnh Bà Rịa -Vũng Tàu quyết định:

Áp dụng các điều 237,238, và 690 Bộ Luật dân sự.

Nghị quyết số02/2004/NQ- HĐTP ngày 10-8-2004 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao.

Tuyên xử:

1. Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của bà Nguyễn Thị Khơi, Nguyễn Thị Quá, Lê Thị Ngọc Anh (đại diện theo ủy quyền là anh Đặng Chí Đức) về việc: “Yêu cầu chia tài sản chung là quyền sử dụng đất ".

- Xác định các thửa đất 767, 768, 769, 375 và 376 tờ bản đồ số 32 nay là thửa sô 04, 528, 449, 450 và 472 tờ bản đồ số 39 xã Hòa Long, có chiều ngang mặt tiền là 63m (Theo sơ đồ vị trí do Phòng Tài nguyên và Môi trường thị xã Bà Rịa lập 9-12-2005) là tài sản chung của các ông bà Nguyễn Thị Khơi, Nguyễn Thị Quá, Lê Thị Ngọc Anh, Lê Thị Lan, Đặng Thị Hường và Đặng Văn Công, Đặng Văn Lợi, mỗi người hưởng bằng nhau (Công và Lợi hưởng là 1 xuâts) là 10,5m mặt tiền =52,5 lượng vàng SJC.

Bà Hường có trách nhiệm giao cho bà Khơi, bà Quá, ông Đức, bà Anh và cháu Công, Lợi quyền sử dụng 02 thửa đất 375,376 nêu trên (tương đương 65 lượng vàng SJC) và Có trách nhiệm thanh toán lại phần tài sản chung còn thiếu gía trị bằng tiền cho các ông, bà như sau:

+ Bà Nguyễn Thị Khơi : 39,5 lượng vàng SJC.

+ Bà Nguyễn Thị Quá: 39,5 lượng vàng SJC.

+ Bà Lê Thị Ngọc Anh: 39,5 lượng vàng SJC.

+ Bà Lê Thị Lan: 39,5 lượng vàng SJC.

+ Ông Đặng Chí Công và Đặng Văn Lợi: 39,5 lượng vàng SJC .

(Tổng số vàng bà Hường phải thanh toán tại là 197,5 lượng vàng SJC x 10.650.000đ/ lượng =2.103.375.000đ).

Các đương sự có trách nhiệm liên hệ với cơ quan nhà nước có thẩm quyền để được quyền sử dụng chung diện tích đất thửa 375, 376 tờ bản đồ số 32 nêu trên theo quy định của pháp luật.

(Theo sơ đồ vị trí lập ngày 9-12-2005 của Phòng Tài nguyên và Môi trường thị xã Bà Rịa) .

- Công nhận quyền sử dụng đất hợp pháp theo GCNQSDĐ đã cấp cho các ông bà:

+ Nguyễn Xuân Dự : Thửa 449 (cũ là 769)

+ Lê Thị Lương:  Thửa 528 (cũ là 768)

+ Lê Thị Kim Anh:  Thửa 04 (cũ 767)

+ Nguyễn Thị Thái Hằng: Thửa 461 (cũ là 391)

+ Phạm Thị Thật: Thửa 393 (cũ là 389)

Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án, nếu bà Hường chậm thanh toán số tiền nêu trên thì hàng tháng còn phải trả cho bên được thi hành án 1 khoản tiền lãi theo mức lãi suất nợ quá hạn do ngân hàng Nhà nước quy định đối với số tiền và thời gian chưa thi hành án.

Ngoài ra, Toà án cấp sơ thẩm còn có quyết định về án phí.

Ngày22-3-2006, bà Đặng Thị Hường kháng cáo không đồng ý với quyết định của bản án sơ thẩm, yêu cầu xem xét lại nguồn gốc đất, quá trình bà canh tác, sử dụng đất; bà đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất từ năm 1992.

Ngày 5-4-2006 bà Nguyễn Thị Khơi, bà Nguyễn Thị Quá và anh Đặng Chí Đức kháng cáo cho rằng việc giải quyết cho bà Đặng Thị Hường được hưởng công sức 20m mặt tiền là không đúng; xin được nhận đất để canh tác, không nhận giá trị bằng tiền.

Tại bản án phúc thẩm số 270/2006/DSPT ngày 11-7-2006, Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại thành phố Hồ Chí Minh quyết định:

Chấp nhận kháng cáo của nguyên đơn, sửa án sơ thẩm.

Tuyên xử.

1.Chấp nhận một phần yêu cầu khỉ kiện của bà Nguyên Thị Khơi, Nguyễn Thị Quá, Lê Thị Ngọc Anh (đại diện theo uy quyền là ông Đặng Chí Đức) về việc “Yêu cần chia tài sản chung là quyền sử dụng đất”

 - Xác định các thửa đất 767, 768, 769, 389, 391, 375, 376 tờ bản đồ 32 nay là thửa 04,528, 449, 450, 472, 461 và 393 tờ bản đồ số39 xã Hòa Long, thị xã Bà Rịa tỉnh Bà Ria - Vũng Tàu, có diện tích 7.811,1m2 và có chiều ngang mặt tiền là 83m (Theo sơ đồ vị trí do Phòng tài nguyên và môi trường thị xã Bà Rịa lập ngày 9/12/2005) là tài sản chung của các ông bà Nguyễn Thị Khơi, Nguyễn Thị Quá, Lê Thị Ngọc Anh, Lê Thị Lan, Đặng Thị Hường và Đặng Văn Công, Đặng Văn Lợi.

2 . Kiến nghị với ủy ban nhân dân thị xã Bà Rịa thu hồi các giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số T837938 ngày 12/12/2001 đã cấp cho bà cô Thị Lương; số T837939 ngày 12112112001 đã cấp cho bà Lê Thị Kim Anh và số T838940 đã cấp cho ông Nguyễn Xuân Dự, và số T7227679 ngày 24/9/2001 đã cấp cho bà Đặng Thị Hường đối với các thửa số 375 (số mới 450), 376 (số mới 472).

- Giao cho anh Đặng Chí Đức đại diện cho bà Khơi, bà Quá, bà Anh, bà Lan và anh Công nhận các thửa đất ruộng có số 449, 528, 04, 450 và 472 theo tờ bản đồ số39, xã Hòa Long và có trách nhiệm liên hệ với cơ quan Nhà nước có thẩm quyền để được cấp lại giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo quy định của pháp luật.

Bà Đặng Thị Hường được nhận thửa 393 và 461 tờ bản đồ số 39 xã Hòa Long (Hai thửa này đã bán cho bà Nguyễn Thị Thái Hằng và Phạm Thị Thật) .

3. Giành quyền khởi kiện cho ông bà Lê Thị Lương, Lê Thị Kim Anh, Nguyễn Xuân Dự đối với bà Đặng Thị Hường về việc tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất, nếu có yêu cầu.

Các quyết định khác của bản án dân sự sơ thẩm đã có hiệu lực pháp luật.

Ngoài ra, Toà án cấp phúc thẩm còn có quyết định về án phí.

Ngày 01-8-2006, Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao - Chủ tọa phiên tòa phúc thẩm ra "Thông báo sửa chữa, bổ sung bản án ' như sau:

Tại trang 1 dòng 1, 2 tính từ dưới lên ghi: ông Đặng Chí Đức. sinh năm 1964; trú tại 1596 đường 3-4. Nay được sửa chữa như sau: ông Đặng Chí Đức, sinh năm 1960, trú tại: 1596 đường 30-4.

Tại trang 2 dưới dòng 8 tính từ trên xuống bổ sung thêm: Bà Lê Thị Lan, sinh năm 1930 hiện trú tại Đức, ủy quyền cho bà Lê Thị Ngọc Anh.

Tại trang 8 dòng 6 tính từ dưới lên ghi: “ Hội đồng ít xử kiến nghị với ủy ban nhân dân thị xã Bà Rịa thu hồi các giấy chứng nhận quyền sử dụng đất... " Nay được sửa chữa như sau : “ Hội đồng xét xử thấy cần hủy các hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất và kiến nghị với ủy ban nhân dân thị xã Bà Rịa thu hồi các giấy chứng nhận quyền sư dụng đất...”

Và tại trang 10 dòng 1 tính từ trên xuống ghi: “ Kiến nghị ủy ban nhân dân thị xã Bà Rịa thu hồi các giấy phép số T838940 ngày 12-2-2001 đã cấp cho ông Nguyễn Xân Dự, và số T27679 ngày 24-9-2001 đã cấp cho bà Đặng Thị Hường ).

Nay được bồ sung, sửa chữa như sau: “ 2. Hủy các hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa bà Đặng Thị Hường và các ông bà Nguyễn Xuân Dự, Lê Thị Lương, Lê Thị Kim Anh. Kiến nghị với ủy ban nhân dân thị xã Bà Rịa thu hồi các giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số T837940 ngày 12-12-2001 đã cấp cho ông Nguyễn Xuân Dự và số T27679 ngày 24-9-2001 đã cấp cho bà Đặng Thị Hường".

Sau đó, chị Đặng Thị Năm (đại điện theo ủy quyền của bà Hường), ông Nguyễn Xuân Dự, bà Lê Thị Lương và bà Lê Thị Kim Anh có đơn khiếu nại bản án phúc thẩm nêu trên.

Tại Quyết định số313/2009/DS-KN ngày 25-6-2009, Chánh án Toà án nhân dân tối cao kháng nghị bản án dân sự phúc thẩm số 270/2006/DSPT ngày 11  -7-2006 của Toà Phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại thành phố Hồ Chí Minh; đề nghị Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao xét xử giám đốc thẩm hủy bản án dân sự phúc thẩm nêu trên và hủy bản án dân sự sơ thẩm số 08/2006/DSST ngày 23-3-2006 của Tha án nhân dân tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu; giao hồ sơ cho Tòa án nhân dân tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu xét xử sơ thẩm lại theo quy định của pháp luật.

Tại phiên toà giám đốc thẩm, đại diện Viện kiểm sát nhân dân tối cao đề nghị Hội đồng thẩm phán Toà án nhân dân tối cao chấp nhận kháng nghị của Chánh án Toà án nhân dân tối cao; huỷ bản án dân sự phúc thẩm số 270/2006/DSPT ngày 11-7-2006 của Toà Phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao tại thành phố Hồ Chí Minh và bản án dân sự sơ thẩm số 08/2006/DSST ngày 23-03-2006 của Toà án nhân dân tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu; giao hồ sơ vụ án cho Toà án nhân dân tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu xét xử sơ thẩm lại theo quy định của pháp luật.

 

XÉT THẤY:

 1. Về tố tụng:

Bà Đặng Thị Hường chuyển nhượng một phần đất cho ông Trần Thái Duy (sau đó ông Duy chuyển nhượng lại cho chị Phạm Thị Thật; chị Thật cho rằng chị chỉ đứng tên giùm cho ông Nguyễn Minh Châu và bà Đỗ Thị Quyên) và ông Đỗ Thanh Hà (sau đó ông Hà chuyển nhượng cho chị Nguyễn Thị Thái Hằng). Tòa án cấp sơ thẩm chỉ đưa chị Hằng, chị Thật, ông Châu và bà Quyên tham gia tố tụng, mà không đưa ông Duy và ông Hà tham gia tố tụng; còn Tòa án cấp phúc thẩm không phát hiện được sai sót của Tòa án cấp sơ thẩm trong việc không đưa ông Duy và ông Hà tham gia tố tụng, mặt khác lại không đưa chị Hằng, chị Thật, ông Châu, bà Quyên tham gia tố tụng, là thiếu sót.

Anh Đặng Văn Công và anh Đặng Văn Lợi (đều là con ông Đặng Văn Lập) không phải là người khởi kiện, nhưng có yêu cầu giải quyết phần đất hương hỏa. Tòa án cấp sơ thẩm đưa anh Công và anh Lợi tham gia tố tụng với tư cách là người có quyền, nghĩa vụ liên quan; nhưng Tòa án cấp phúc thẩm lại không đưa anh Lợi tham gia tố tụng là thiếu sót.

Theo quy định tại khoản 1 Điều 240 Bộ luật tố tụng dân sự thì "Sau khi tuyên án xong thì không được sửa chữa, bổ sưng bản án, trừ trường hợp phát hiện lỗi rõ ràng về chính tả, về số liệu do nhầm lẫn hoặc tính toán sai". Trong trường hợp này sau khi tuyên án xong, Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao - Chủ tọa phiên tòa phúc thẩm lại ban hành công văn (không số, ngày 01-8-2006) thông báo việc sửa chữa, bổ sung bản án, nhưng thực tế lại quyết định thêm nội dung mới là “ Hủy các hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa bà Đặng Thị Hường và các ông bà Nguyễn Xuân Dự, Lê Thị Lương, Lê Thị Kim Anh". Như vậy, Thông báo sửa chữa, bổ sung bản án này vi phạm nghiêm trọng quy định tại khoản 1 Điều 240 Bộ Luật tố tụng dân sự.

2. Về nội dung:

- Cố Đặng Văn Cử và cố Nguyễn Thị Kiều đã chết từ thời Pháp thuộc, không để lại di chúc. Hai cố để lại phần đất ruộng tại cánh đồng Nước Nhĩ, ấp Bắc, xã Hòa Long, thị xã Bà Ria (bà Khơi, bà Quá và bà Ngọc Anh cho rằng hai cố để lại 46.285m2 đất; còn bà Hường xác định hai cố để lại 39.200m2 đất). Sau khi hai cố chết, gia đình cụ Đặng Thị Bay (mẹ bà Khơi, bà Quá) canh tác đất. Từ năm 1975, gia đình bà Đặng Thị Hường canh tác, sử dụng đất.

Ngày 08-5-1993, bà Nguyễn Thị Khơi và bà Nguyễn Thị Quá (đều là con cụ Đặng Thị Bay), bà Đặng Thị Hường (con cụ Đặng Văn Mộng), anh Đặng Chí Đức (con bà Lê Thị Ngọc Anh; bà Anh là con cụ Đặng Văn Mạo) đã góp mặt và lập giấy thuận phân 46.285m2 đất thành 4 phần; theo đó, bà Hường được ưu tiên chia hai phần (một phần hương hỏa 11.557m2 và một phần chia chung cho bà Hường và anh Đặng Văn Công), bà Lê Thị Ngọc Anh (mẹ anh Đức) được chia một phần, phần còn lại bà Khơi và bà Quá được chia chung.

Tại cuộc họp bàn phân chia đất nêu trên, bà Đặng Thị Hường đã trình bày rằng gia đình bà có khai hoang một phần đất; yêu cầu để riêng phần đất ấy cho gia đình bà; không nhập vào tài sản chung của các cố để chia, nhưng đề nghị của bà Hường không được chấp nhận; gia tộc vẫn phân chia đất và trích ra một phần đất làm hương hỏa và giao cho bà Hường quản lý phần đất này. Khi có tranh chấp tại Tòa án thì các nguyên đơn yêu cầu phân chia phần đất hương hỏa. Còn bị đơn là bà Đặng Thị Hường chứng minh rằng theo giấy tờ của chế độ cũ thì cố Đặng Văn Cử chỉ đứng tên 3,92ha đất (bà Hường xuất trình Quyết định số 3575 ngày 20-6-1940 của Chính phủ Nam phần "cấp nhượng" cho cố Đặng Văn Cử sở hữu lô đất số 55, tờ số 4, diện tích 3,92ha tại làng Long Kiên tỉnh Bà Rịa), còn trong quá trình quản lý đất (từ năm 1975) gia đình bà đã khai hoang thêm đất, nên tổng diện tích đất lên tới 46.285m2; yêu cẩu công nhận phần đất khai hoang cho gia đình bà. Trong trường hợp này cần làm rõ lô đất của hai cố để lại (theo giấy tờ của chế độ cũ) có vị trí, ranh đất như thế nào? nếu gia đình bà Hường có khai hoang thêm đất thì phần đất khai hoang thêm có vị trí, ranh giới ra sao? nếu phần đất khai hoang thêm nằm ngoài phần đất của hai cố để lại, thì gia đình bà Hường được sứ dụng phần đất khai hoang. Nếu phần đất đang tranh chấp là đất hương hỏa thì bà Hường không có quyền chuyển nhượng; phần đất chưa chuyển nhượng tự không được chuyển nhượng nữa; các thành viên trong gia tộc thỏa thuận lại việc sử dụng phần đất hương hỏa đó.

Mặt khác, cũng cần làm rõ bà Hường được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất năm 1992 hay hộ bà Đặng Thị Hươngf được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất năm 1992; nếu hộ bà Hường được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thì các thành viên trong hộ (tại thời điểm được cấp giấy chứng nhận) có quyền có ý kiến về giấy thuận phân đất nêu trên (trong đó có phần đất gia tộc giao cho bà Hường quản lý làm hương hỏa). Về mặt pháp lý, giấy thuận phân đất được lập sau khi phía bà Hường được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và trước khi Luật đất đai năm 1993 có hiệu lực (Luật đất đai có hiệu lực từ ngày 15-10-1993). Sau ngày Luật đất đai năm 1993 có hiệu lực mà có đủ các thành viên trong gia tộc (giấy thuận phân ngày 8-5-1993 mới có 4/7 thành viên trong gia tộc ký tên) đồng ý để một phần đất làm hương hỏa (nếu phần đất này có nguồn gốc của cố Cử, cố điều để lại) thì giấy thuận phân tiếp tục có giá trị.

Quá trình sử dụng đất này, bà Đặng Thị Hường đã chuyển nhượng một phần đất cho nhiều người (trong đó có ông Nguyễn Xuân Dự, bà Lê Thị Lương, bà Lê Thị Khu Anh). Ông Dự, bà Lương, bà Kim Anh đã trả đủ tiền cho bà Hường, đã nhận đất và được cấp giây chứng nhận quyền sứ dựng đất. Tòa án cấp sơ thẩm đã công nhận quyền sử dụng đất theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất mà những người nhận chuyển nhượng đất được cấp. Tòa án cấp phúc thẩm hủy các hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa bà Hường với ông Nguyễn Xuân Dự, bà Lê Thị Lương, bà Lê Thị Khu Anh; buộc những người này trả lại đất đã nhận chuyển nhượng trước đây, nhưng lại không giải quyết hậu quả của hợp đồng bị hủy trong cùng vụ án, mà lại giành cho ông Dự, bà Lương, bà Kim Anh quyền khởi kiện bà Hường về việc tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất bằng một vụ án dân sự khác nếu có yêu cầu, là không giải quyết triệt để vụ án, làm ảnh hưởng quyền lợi hợp Pháp của những người nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất.

Theo Công văn số 607/THA ngày 04-9-2009 của Thi hành án dân sự tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu về việc thi hành bản án phúc thẩm nêu trên thì ngày 17-8-2006 Thi hành án dân sự tinh Bà Rịa- Vũng Tàu đã giao đất theo quyết định của bản án phúc thẩm cho anh Đặng Chí Đức (đại diện theo ủy quyền của bà Khơi, bà Quá, bà Lan, bà Ngọc Anh và anh Công) với sự tham gia chứng kiến của các cơ quan có thẩm quyền và việc thi hành khoản giao quyền sử dụng đất theo quyết định của bản án phúc thẩm đã được thực hiện xong. Vì vậy, khi giải quyết lại vụ án, nếu những người được thi hành án đã chuyển nhượng đất cho người khác một cách hợp pháp thì công nhận hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất đó theo quy định tại khoản 2 Điều 138 Bộ luật dân sự năm 2005; trong trường hợp này chỉ giải quyết số tiền chuyển nhượng quyền sử dụng đất theo đứng quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên căn cứ khoản 3 Điều 291, khoản 3 Điều 297 Bộ luật tố tụng dân sự;

QUYẾT ĐỊNH:

Hủy bản án dân sự phúc thẩm số 270/2006/DSPT ngày 11-7-2006 của Toà phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại thành phố Hồ Chí Minh và bản án dân sự sơ thẩm số 08/20061DSST ngày 23-3-2006 của Tòa án nhân dân tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu về vụ án "yêu cầu chia tài sản chung" giữa nguyên đơn là bà Nguyên Thị Khơi bà Nguyễn Thị Quá, bà Lê Thị ngọc Anh với bị đơn là bà Đặng Thị Hường; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là anh Đặng Văn Công, bà Lê Thị Lan , bà Lê Thị Kim Anh, bà Lê Thị Lương và ông Nguyễn Xuân Dự.

Giao hồ sơ vụ án cho Toà án nhân dân tinh Bà Rịa - Vũng Tàu xét xử sơ thẩm lại theo quy định của pháp luật.

 

  •  4538
  •  Cảm ơn
  •  Phản hồi

Chủ đề đang được đánh giá

0 Lượt cảm ơn
câu phản hồi
Click vào bảng để xem hiển thị đầy đủ thông tin

Bạn vui lòng đăng nhập hoặc Đăng ký tại đây để tham gia thảo luận

Loading…