DanLuat
Chào mừng bạn đến với Dân Luật . Để viết bài Tư vấn, Hỏi Luật Sư, kết nối với Luật sư và chuyên gia, … Bạn vui lòng ĐĂNG KÝ TÀI KHOẢN.
×

Thêm câu phản hồi

Quyết định giám đốc thẩm xét xử vụ án của Huỳnh Tấn Huy và nhiều bị cáo khác về các tội "Trộm cắp tài sản"; "chống người thi hành công vụ" và ...

Số hiệu

08/2010/HS-GĐT

Tiêu đề

Quyết định giám đốc thẩm xét xử vụ án của Huỳnh Tấn Huy và nhiều bị cáo khác về các tội "Trộm cắp tài sản"; "chống người thi hành công vụ" và "Cố ý gây thương tích"

Ngày ban hành

05/04/2010

Cấp xét xử

Giám đốc thẩm

Lĩnh vực

Hình sự

 

......

Ngày 05-4-2010, tại trụ sở Tòa án nhân dân tối cao mở phiên tòa giám đốc thẩm xét xử vụ án hình sự đối với:

1. Huỳnh Tấn Huy (tên gọi khác là Huỳnh Quốc Huy, Cu Đực) sinh ngày 25-12-1985; trú tại tổ 12, phường Mân Thái, quận Sơn Trà, thành phố Đà Nẵng; nghề nghiệp: thợ mỹ nghệ; trình độ học vấn: 02/12; con ông Huỳnh Tấn Được (đã chết) và bà Trương Thị Bê; tiền án: ngày 14-01-2004 bị Toà án nhân dân quận Sơn Trà, thành phố Đà Nẵng xử phạt 27 tháng tù về các tội “Trộm cắp tài sản” và “Chống người thi hành công vụ”; bị bắt giam ngày 26-4-2007; trong thời gian tạm giam bị Toà án nhân dân quận Sơn Trà xử phạt 24 tháng tù về tội “Cố ý gây thương tích” (bản án đã có hiệu lực pháp luật).

2. Phan Gia Lợi (tên gọi khác là Lợi điên) sinh năm 1975; đăng ký hộ khẩu thường trú: tổ 30, phường Hòa Thuận Tây, quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng, con ông Phan Huế và bà Nguyễn Thị Mùi (đã chết); tiền án: ngày 23-12-1997 bị Tòa án nhân dân quận Ngũ Hành Sơn, thành phố Đà Nẵng xử phạt 09 tháng tù về tội "Gây rối trật tự công cộng"; tháng 05-1999 bị Tòa án nhân dân quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng xử phạt 03 năm tù về tội cố ý gây thương tích"; ngày 06-4-2005 bị Tòa án nhân dân thành phố Đà Nẵng xử phạt 44 tháng tù về các tội “cố ý gây thương tích” và “gây rối trật tự công cộng”; bị bắt giam ngày 12-4-2007.

3. Nguyễn Việt Hùng (tên gọi khác là Hùng bát giới, Hùng chó) sinh năm 1981; đăng ký hộ khẩu thường trú: tổ 8, phường An Hải Bắc, quận Sơn Trà, thành phố Đà Nẵng; tạm trú: số 475 Ngô Quyền, thành phố Đà Nẵng; con ông Nguyễn Văn Mười và bà Phùng Thị Quảng; có vợ là Phan Tuyết Ni; tiền sự: ngày 16-8-2006 bị Công an quận Sơn Trà phạt tiền về hành vi cố ý gây thương tích; bị bắt giam ngày 12-4-2007.

4. Lê Quang Tiến sinh ngày 11-9-1987; đăng ký hộ khẩu thường trú: tổ 04, phường An Hải Bắc, quận Sơn Trà, thành phố Đà Nẵng; con ông Lê Trúc và bà Trần Thị Vốn; bị bắt giam ngày 15-4-2007 (bị cáo đã chấp hành xong hình phạt tù).

5. Trần Quốc Minh (tên gọi khác là Cu Lố) sinh ngày 16-4-1989; đăng ký hộ khẩu thường trú: tổ 7, phường An Hải Tây, quận Sơn Trà, thành phố Đà Nẵng; con ông Trần Văn Sự và bà Thạch Thị Huệ; bị bắt giam ngày 09-11-2007 (bị cáo đã chấp hành xong hình phạt tù).

6. Nguyễn Quang Long (tên gọi khác là Nguyễn Văn Long, Long Tố) sinh ngày 07-12-1989; đăng ký hộ khẩu thường trú: tổ 7, phường An Hải Tây, quận Sơn Trà, thành phố Đà Nẵng; học vấn: không biết chữ; con ông Nguyễn Văn Hùng (đã chết) và bà Nguyễn Thị Vang; bị bắt giam từ ngày 29-4-2007 đến ngày 31-7-2008 được trả tự do ngay tại phiên tòa sơ thẩm.

7. Hoàng Xuân Hùng (tên gọi khác là Hùng Trinh, Bi) sinh ngày 05-9-1990; đăng ký hộ khẩu thường trú: tổ 12 A, phường Thọ Quang, quận Sơn Trà, thành phố Đà Nẵng; con ông Hoàng Xuân Thiệp (đã chết) và bà Nguyễn Thị Trinh; tiền án: ngày 23-3-2007 bị Tòa án nhân dân thành phố Đà Nẵng xử phạt 15 tháng tù về tội “Phá hủy công trình, phương tiện quan trọng về an ninh quốc gia”; bị bắt giam ngày 07-5-2007; trong thời gian tạm giam bị Tòa án nhân dân quận Sơn Trà xử phạt 12 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”.

8. Ngô Lê Trung Hiếu (tên gọi khác là Hiếu Lỳ, Hiếu Lai) sinh ngày 09-01- 1987; đăng ký hộ khẩu thường trú: xã Tam Điệp, huyện Núi Thành, tỉnh Quảng Nam; tạm trú: số 170 Nguyễn Công Trứ, thành phố Đà Nẵng; con ông Ngô Văn Dâng và bà Lê Thị Thu; tiền án: ngày 28-8-2005 bị Tòa án nhân dân quận Sơn Trà xử phạt 24 tháng tù về các tội “Trộm cắp tài sản” và “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”, bị bắt giam ngày 29-02-2008.

9. Trần Công Vinh (tên gọi khác là Tý) sinh năm 1971; đãng ký hộ khẩu thường trú: thôn Ngọc Tam, xã Điện An, huyện Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam; tạm trú: số 11 Lê Độ, thành phố Đà Nẵng; con ông Trần Công Minh và bà Nguyễn Thị Du; có vợ và có 01 con; bị bắt giam từ ngày 12-4-2007 đến ngày 3 -7-2008 được trả tự do ngay tại phiên tòa sơ thẩm.

10. Nguyễn Trần Thanh Quang (tên gọi khác là Cu Ky) sinh năm 1984; đăng ký hộ khẩu thường trú: tổ 29, phường Tân Chính, quận Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng; tạm trú: số 377/7 Hải Phòng, thành phố Đà Nẵng; con ông Nguyễn Trình và bà Trần Thị Tuyết Nhung, bị bắt giam từ ngày 23-4-2007 đến ngày 31-7-2008 được trả tự do ngay tại phiên tòa sơ thẩm.

(Trong vụ án còn có 11 bị cáo khác là Lê Đức Phong, Phan Thành Phước, Nguyễn Thế Hưng, Lê Văn Thanh, Huỳnh Thống, Nguyễn Hoàng Phương, Lê Như Lương, Đỗ Tuân, Hồ Đức Trọng, Phan Văn Thành và Đặng Ngọc Tuấn đều bị kết án về tội “Gây rối trật tự công cộng”).

 

Người bị hại:

1. Anh Lê Minh Sơn sinh năm 1976 (đã chết).

Người đại diện hợp pháp của người bị hại: ông Lê Văn Thương sinh năm 1946 (là bố anh Sơn) ; trú tại K122A/8 Trưng Nữ Vương, thành phố Đà Nẵng.

2. Anh Huỳnh Bá Trọng sinh năm 1985 (bị mất năng lực hành vi do hành vi phạm tội của các bị cáo gây ra).

Người đại diện hợp pháp của người bị hại: ông Huỳnh Vãn Khoa sinh năm 1955 (là bố anh Trọng); trú tại K382/26/3 Hùng Vương, thành phố Đà Nẵng.

NHẬN THẤY:

Khoảng 22 giờ 30 phút ngày 11-4-2007, tại quán bar nhạc trẻ “Number One” thuộc phường Hòa Cường Bắc, quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng một số thanh niên trong lúc khiêu vũ có dẫm đạp chân lên nhau dẫn đến xô xát và dùng ly, vỏ chai bia ném vào nhau làm Phan Gia Lợi, Trần Công Vinh, Nguyễn Trần Thanh Quang, Lê Hoàng Vĩnh Phước và Đặng Ngọc Tuấn bị thương. Khi bảo vệ của quán can ngăn thì số thanh niên này ra ngoài quán tạo thành 03 nhóm:

- Nhóm thứ nhất gồm có: Lê Minh Sơn, Huỳnh Bá Trọng, Phan Bá Nhân, Lê Xuân, Trần Phan Anh Vũ, Đặng Ngọc Tuấn, Phan Văn Thành, Hồ Đức Trọng, Huỳnh Thị Kim Liên (là bạn của Sơn), Quyền và 03 người bạn của Vũ (không xác định được lai lịch) do Lê Minh Sơn cầm đầu.

- Nhóm thứ hai gồm có: Phan Gia Lợi, Vũ, Hưng và Đù (đều không xác định được lai lịch).

- Nhóm thứ ba gồm có: Trần Công Vinh, Nguyễn Trần Thanh Quang và Lê Hoàng Vinh Phước do Trần Công Vinh (là bạn của Phan Gia Lợi) cầm đầu.

Sau khi rời khỏi quán, Huỳnh Bá Trọng đi về đường Nguyễn Văn Thoại tập hợp đồng bọn gồm Lê Đức Phong, Phan Thành Phước, Nguyễn Thế Hưng, Lê Văn Thanh, Huỳnh Thống, Nguyễn Hoàng Phương, Lê Như Lương, Đỗ Tuân và Trần Phan Anh Vũ chuẩn bị hung khí đi đánh nhau. Cả nhóm đi đến Trung tâm y tế quận Sơn Trà gặp Hồ Đức Trọng, Phan Văn Thành, Đặng Ngọc Tuấn, Lê Xuân, Phan Bá Nhân, Quyền và 03 người bạn của Trần Phan Anh Vũ cùng nhập vào nhóm rồi quay về tập trung tại quán bà Nguyệt trên đường Nguyễn Văn Thoại.

Cũng trong thời gian này, Phan Gia Lợi từ quán “Number One” về nhà Nguyễn Việt Hùng thì gặp Huỳnh Tấn Huy, Nguyễn Quang Long, Lê Quang Tiến, Trần Quốc Minh, Hoàng Xuân Hùng, Ngô Lê Trung Hiếu, Nguyễn Quốc Việt và Linh (không xác định được lai lịch) - đều là người quen của Việt Hùng. Lợi kể việc mình bị nhóm của Lê Minh Sơn đánh ở quán “Number One” và rủ đi tìm nhóm của anh Sơn để đánh trả thù thì tất cả đều đồng ý và chuẩn bị hung khí (dao, mác, chai xăng). Lợi lấy điện thoại gọi taxi và đi vào trong nhà Việt Hùng nhờ chị Phan Tuyết Ni (là vợ Hùng) băng bó vết thương. Sau khi Long và Tiến đi lấy bao hung khí (dao, mác) về thì Việt Hùng về, Lợi rủ Việt Hùng đi đánh nhóm Sơn, Việt Hùng đồng ý. Khi đi Huy và Lợi đều cầm mác, Việt Hùng cầm dao. Khi taxi đến thì Huỳnh Tấn Huy, Phan Gia Lợi, Nguyễn Việt Hùng, Trần Quốc Minh, Lê Quang Tiến, Nguyễn Quang Long, Hoàng Xuân Hùng và Ngô Lê Trung Hiếu lên xe taxi, còn Nguyễn Quốc Việt và Linh đi xe máy cầm theo bao hung khí (dao, mác). Khi đi đến khu vực trước cổng Trung tâm y tế quận Sơn Trà thì phát hiện có nhóm thanh niên ở trước cổng, nhóm của Phan Gia Lợi nghi là nhóm của anh Lê Minh Sơn nên yêu cầu xe quay lại đến gần trường Lê Quí Đôn thì dừng lại, Lợi lấy máy điện thoại gọi cho nhóm của Trần Công Vinh hẹn đến Trung tâm y tế quận Sơn Trà để tìm đánh nhóm của anh Sơn. Lúc này Việt và Linh đến, Linh đi xe máy về, còn Việt bỏ bao hung khí xuống đất, Xuân Hùng lấy 01 con dao, Việt lấy 01 con dao, còn Huy, Việt Hùng, Long, Tiến, Minh và Hiếu lấy mỗi người 01 gậy gỗ (loại gỗ cốt pha) ở công trình xây dựng trong hẻm gần đó. Sau đó nhóm của Lợi đi bộ đến Trung tâm y tế. Khi đến trước cổng Trung tâm y tế thì gặp Trần Công Vinh, Nguyễn Trần Thanh Quang và Lê Hoàng Vĩnh Phước đến có mang theo hung khí (Quang cầm gậy gỗ, Vinh và Phước cầm dao). Nhóm của Vinh nhập vào nhóm của Lợi rồi đi lên ngã 3 Non Nước thuộc phường Mỹ An, quận Ngũ Hành Sơn.

Khoảng 23 giờ 30 phút cùng ngày, phát hiện nhóm của Lê Minh Sơn trên đường Nguyễn Văn Thoại thì nhóm của Lợi xông đến dùng gạch, đá, chai xăng đã châm lửa ném và dùng gậy gỗ, dao, mác đuổi đánh, cụ thể: Huy lấy đèn dầu của người bán trứng vịt lộn bên đường ném; Việt Hùng cầm gậy ném; Long cầm gậy đuổi đánh; Tiến và Minh nhặt đá ném và cầm gậy đuổi đánh; Xuân Hùng, Hiếu, Vinh, Quang và Phước nhặt gạch, đá ném. Nhóm Sơn vừa chống đỡ vừa bỏ chạy vào các hẻm xung quanh. Nhóm Lợi quay lại ngã 3 Non Nước thì phát hiện 02 xe máy từ trong hẻm 38 đường Nguyễn Văn Thoại chạy ra, một xe thấy nhóm của Lợi thì bỏ chạy, xe còn lại do Huỳnh Thị Kim Liên điều khiển chở Sơn dừng lại ngay ngã ba đầu hẻm, Sơn xuống xe và nói “Ty già đây” thì Huy cầm gậy gỗ (dài khoảng 01m, to bằng cổ tay do Huy lấy ở công trình xây dựng trong hẻm gần Trung tâm y tế quận Sơn Trà) đến đánh vào đầu Sơn, Sơn chạy quay lại hẻm thì Huy ném gậy theo. Sau đó Huy giật mác của đồng bọn cùng Lợi cầm mác và 02 thanh niên (là bạn của Lợi, không xác định được lai lịch) cầm hung khí (gậy, dao) đuổi theo Sơn vào hẻm. Lúc này Việt Hùng, Minh, Tiến, Long, Xuân Hùng, Hiếu, Vinh, Quang và Phước đều đứng ở khu vực ngã 3 đầu hẻm. Sơn bị vấp ngã cạnh bụi cây trên vỉa hè trước quán cà phê Trung Nguyên thì Huy dùng mác chém 03-04 nhát vào đầu, lưng Sơn; Lợi cầm mác và 02 thanh niên là bạn của Lợi cũng xông vào đánh, chém Sơn đến chết. Việt Hùng chạy vào thấy Sơn nằm im thì hô đồng bọn bỏ chạy. Sau đó Việt Hùng, Huy, Lợi và 02 bạn của Lợi chạy ra đường Nguyễn Văn Thoại rồi cùng đồng bọn lên ngã 3 Non Nước.

Huỳnh Bá Trọng nghe tin Sơn bị nhóm Lợi đánh gục thì cùng Trần Phan Anh Vũ tập hợp đồng bọn để đánh lại. Khi thấy nhóm Trọng tự lên ngã ba Non Nước thì nhóm Lợi quay lại dùng gạch, đá ném và dùng gậy, dao, mác đuổi đánh. Huỳnh Bá Trọng ném dao về phía Huy, Huy tránh được và xông lên, Trọng lùi lại thì bị vấp ngã liền bị Huy dùng mác chém vào mặt, vai, một số người trong nhóm Lợi cũng xông vào đánh, chém Trọng. Cùng lúc này phát hiện có công an nên nhóm của Lợi bỏ chạy.

Tại Bản kết luận giám định pháp y về tử thi số 88/PY ngày 16-8-2007, Trung tâm pháp y Sở y tế thành phố Đà Nẵng kết luận anh Lê Minh Sơn bị các vết thương: 01 vết ở vùng trán-đỉnh trái làm rách da, bờ mép sắc gọn, dài 10cm; 01 vết ở vùng thái dương-đỉnh làm rách da, bờ mép sắc gọn, kích thước 09x15cm và làm vỡ xương hộp sọ, 02 vết ở vùng giữa đỉnh-chẩm làm rách da, bờ mép sắc gọn, trung bình mỗi vết dài 05cm; 01 vết ở vùng chẩm kích thước 20x08cm làm rách da, vỡ xương hộp sọ, bờ mép nham nhở, tổ chức não bị dập và lòi ra ngoài; 01 vết ở vùng trán thái dương đỉnh phải nối với vết thương vùng chẩm làm rách da và cơ, bờ mép sắc gọn, hộp sọ đứt sắc gọn và 02 vết ở vùng chẩm lệch trái làm dứt da, bờ mép sắc gọn, hướng nằm ngang, vết lớn dài 05cm, vết nhỏ dại 03cm. Ngoài ra anh Sơn còn bị các vết thương ở vùng vai, lưng, chân và tay. Anh Lê Minh Sơn bị chết là do chấn thương sọ não (vỡ toác xương hộp sọ, tổ chức não bị dập và lòi ra ngoài).

Tại Bản kết luận giám định pháp y về thương tích số 849/PY ngày 27-7-2007, Trung tâm pháp y Sở y tế thành phố Đà Nẵng kết luận anh Huỳnh Bá Trọng bị các vết thương: 01 vết ở vùng thái dương phải chạy ra vùng đuôi cung mày phải kích thước 10x0,2cm, đã lành sẹo; 01 vết ở vùng trán phải đi qua hốc mắt phải, qua má phải đến cằm kích thước 17x0,2cm; 01 vết ở vùng cổ phải chạy ra vùng chẩm phải đã lành sẹo kích thước 11x0,2cm và 01 vết ở vùng cố trái đã lành sẹo kích thước 06x0,3cm. Anh Huỳnh Bá Trọng bị chấn thương sọ não (nứt sọ ở trán phải) ; chấn thương hàm mặt (vỡ xoang hàm má phải, vỡ xương hàm trên phải, gãy răng 1.2-1.3 và răng 2.3-2.4); chấn thương đụng dập nhãn cầu mắt phải và các tổn thương phần mềm như đã nêu trên. Tỷ lệ thương tích 78%.

Tại Bản giám định pháp y tâm thần số 52/GĐPYTT ngày 13-8-2007, Tổ chức giám định pháp y tâm thần thành phố Đà Nẵng kết luận đối với anh Huỳnh Bá Trọng: lúc gây án anh Trọng không có biểu hiện rối loạn tâm thần. Do đó anh Trọng còn năng lực trách nhiệm hành vi lúc gây án. Còn hiện tại anh Trọng bị suy não sau chấn thương sọ não, do đó không còn năng lực trách nhiệm hành vi để tham gia tố tụng.

Tại Bản cáo trạng số16/CT-KSĐT-TA ngày 02-5-2008, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Đà Nẵng truy tố 21 bị can trong đó 10 bị can thuộc nhóm Phan Gia Lợi gồm: Phan Gia Lợi về các tội “giết người” và “Gây rối trật tự công cộng” theo các điểm a, n, p khoản 1 Điều 93 và điểm e khoản 2 Điều 245 Bộ luật hình sự; Huỳnh Quốc Huy và Nguyễn Việt Hùng đều về các tội "Giết người' và “Gây rối trật tự công cộng” theo các điểm a, n khoản 1 Điều 93 và khoản 1 Điều 245 Bộ luật hình sự; Nguyễn Quang Long, Lê Quang Tiến, Trần Quốc Minh, Hoàng Xuân Hùng, Ngô Lê Trung Hiếu, Trần Công Vinh, Nguyễn Trần Thanh Quang đều về tội “Gây rối trật tự công cộng” theo khoản 1 Điều 245 Bộ luật hình sự và 11 bị can khác thuộc nhóm Lê Minh Sơn gồm: Lê Đức Phong, Phan Thành Phước, Nguyễn Thế Hưng, Lê Văn Thanh, Huỳnh Thống, Nguyễn Hoàng Phương, Lê Như Lương, Đỗ Tuân, Hồ Đức Trọng, Phan Văn Thành, Đặng Ngọc Tuấn đều về tội “Gây rối trật tự công cộng” theo khoản 1 Điều 245 Bộ luật hình sự.

Tại bản án hình sự sơ thẩm số 18/2008/HSST ngày 31-7-2008, Tòa án nhân dân thành phố Đà Nẵng áp dụng các điểm a, n khoản 1 Điều 93; khoản 1 Điều 245; điểm g khoản 1 Điều 48; các điểm b, p khoản 1 Điều 46; Điều 50 và Điều 51 Bộ luật hình sự, xử phạt Huỳnh Tấn Huy tử hình về tội “Giết người” và 02 năm tù về tội “Gây rối trật tự công cộng”; tổng hợp hình phạt buộc Huy phải chấp hành hình phạt chung cho cả hai tội là tử hình. Tổng hợp với 02 năm tù của bản án hình sự sơ thẩm số 29/2007/HSST ngày 31-7-2007 của Tòa án nhân dân quận Sơn Trà, buộc Huy phải chấp hành hình phạt chung cho cả hai bản án là tử hình; áp dụng các điểm a, n, p khoản 1 Điều 93; điểm e khoản 2 Điều 245; điểm p khoản 1 Điều 46; điểm n khoản 1 Điều 48 và Điều 50 Bộ luật hình sự, xử phạt Phan Gia Lợi tù chung thân về tội “Giết người” và 03 năm tù về tội “Gây rối trật tự công cộng”, tổng hợp hình phạt buộc Lợi phải chấp hành hình phạt chung cho cả hai tội là tù chung thân; áp dụng các điểm a, n khoản 1 Điều 93; khoản 1 Điều 245; các điểm b, p khoản 1, khoản 2 Điều 46; điểm n khoản 1 Điều 48 và Điều 50 Bộ luật hình. sự, xử phạt Nguyễn Việt Hùng 16 năm tù về tội “Giết người” và 02 năm tù về tội “Gây rối trật tự công cộng”, tổng hợp hình phạt buộc Hùng phải chấp hành hình phạt chung cho cả hai tội là 18 năm tù; áp dụng khoản 1 Điều 245s các điểm h, p khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự, xử phạt Lê Quang Tiến 18 tháng tù về tội “Gây rối trật tự công cộng”; áp dụng khoản 1 Điều 245; điểm p khoản 1 Điều 46; Điều 69 và Điều 74 Bộ luật hình sự, xử phạt Nguyễn Quang Long 15 tháng 05 ngày tù (bị cáo đã thụ hình xong), xử phạt Trần Quốc Minh 15 tháng tù đều về tội “Gây rối trật tự công cộng”; áp dụng khoản 1 Điều 245; điểm p khoản 1 Điều 46; điểm g khoản 1 Điều 48; Điều 69; Điều 74 và Điều 51 Bộ luật hình sự, xử phạt Hoàng Xuân Hùng 15 tháng tù về tội “Gây rối trật tự công cộng”. Tổng hợp với 27 tháng tù của bản án hình sự sơ thẩm số 35/ISST ngày 21-9-2007 của Tòa án nhân dân quận Sơn Trà, buộc Hùng phải chấp hành hình phạt chung cho cả hai bản án là 42 tháng tù; áp dụng khoản 1 Điều 245; điểm p khoản 1 Điều 46; điểm g khoản 1 Điều 48 Bộ luật hình sự, xử phạt Ngô Lê Trung Hiếu 18 tháng tù về tội “Gây rối trật tự công cộng”; áp dụng khoản 1 Điều 245; các điểm h, p khoản 1, khoản 2 Điều 46 Bộ luật hình sự, xử phạt Trần Công Vinh 15 tháng 19 ngày tù về tội “Gây rối trật tự công cộng” (bị cáo đã thụ hình xong); áp dụng khoản 1 Điều 245; các điểm h, o, p khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự, xử phạt Nguyễn Trần Thanh Quang 15 tháng 08 ngày tù về tội “Gây rối trật tự công cộng” (bị cáo đã thụ hình xong); về trách nhiệm dân sự: áp dụng Điều 42 Bộ luật hình sự; các điều 609, 610 Bộ luật dân sự, buộc các bị cáo Huỳnh án Huy, Phan Gia Lợi, Nguyễn Việt Hùng phải liên đới bồi thường cho gia đình bị hại Lê Minh Sơn tổng số tiền 52.107.000 đồng, trong đó phần mỗi bị cáo phải bồi thường là 17.369.000 đồng. Hàng tháng mỗi bị cáo có trách nhiệm cấp dưỡng cho cháu Lê Nguyễn Nhật Thanh (con của anh Sơn) 167.000 đồng cho đến tuổi trưởng thành (18 tuổi), thời gian cấp dưỡng tính từ ngày 12-4-2007; các bị cáo Huỳnh Tấn Huy, Phan Gia Lợi, Nguyễn Việt Hùng phải liên đới bồi thường cho người bị hại Huỳnh Bá Trọng tổng số tiền 19.169.077 đồng, trong đó phần mỗi bị cáo phải bồi thường 6.389.666 đồng. Tổng số tiền Huy phải bồi thường 23.758.666 đồng, đã bồi thường 2.000.000 đồng, còn phải tiếp tục bồi thường 21.758.666 đồng; Hùng phải bồi thường 23.758.666 đồng, đã bồi thường 2.000.000 đồng, còn phải tiếp tục bồi thường 21.758.666 đồng; Lợi phải bồi thường 23.758.666 đồng. Ngoài ra bản án sơ thẩm còn xử phạt các bị cáo khác thuộc nhóm Lê Minh Sơn gồm: Đỗ Tuân 12 tháng tù nhưng cho hưởng án treo và 10 bị cáo còn lại từ 15 tháng 07 ngày tù đến 18 tháng tù đều về tội “Gây rối trật tự công cộng”. (Đối với 05 bị cáo thuộc nhóm Phan Gia Lợi gồm: Nguyễn Quang Long, Trần Quốc Minh, Hoàng Xuân Hùng, Trần Công Vinh và Nguyễn Trần Thanh Quang đều không kháng cáo và không bị kháng nghị nên bản án sơ thẩm đã có hiệu lực đối với các bị cáo này).

Ngày 05-8-2008, Lê Quang Tiến, Ngô Lê Trung Hiếu, Huỳnh Thống, Nguyễn Hoàng Phương, Phan Thành Phước và Phan Văn Thành đều kháng cáo xin giảm hình phạt.

Ngày 07-8-2008, Huỳnh Tấn Huy kháng cáo với lý do mức án mà Tòa án cấp sơ thẩm áp dụng đối với bị cáo là quá nặng vì bị cáo là người bị lôi kéo dẫn đến phạm tội; Phan Gia Lợi và Nguyễn Việt Hùng đều kháng cáo kêu oan.

Ngày 12-8-2008, Huỳnh Tấn Huy có đơn kêu oan với lý do bị cáo không phải là người rủ rê đồng bọn phạm tội, không phải mình bị cáo gây ra cái chết cho anh Lê Minh Sơn và thương tích cho anh Huỳnh Bá Trọng.

Tại phiên tòa phúc thẩm, các bị cáo Lê Quang Tiến, Phan Thành Phước, Huỳnh Thống, Nguyễn Hoàng Phương và Phan Văn Thành đều rút đơn kháng cáo.

Tại bản án hình sự phúc thẩm số 01/2008/HSPT ngày 10-10-2008, Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại Đà Nẵng đình chỉ xét xử phúc thẩm đối với các bị cáo Lê Quang Tiến, Phan Thành Phước, Huỳnh Thống, Nguyền Hoàng Phương và Phan Văn Thành; giữ nguyên quyết định của bản án hình sự sơ thẩm đối với các bị cáo Huỳnh Tấn Huy, Phan Gia Lợi, Nguyễn Việt Hùng và Ngô Lê Trung Hiếu (bản án phúc thẩm không áp dụng điểm a (giết nhiều người) khoản 1 Điều 93 Bộ luật hình sự đối với các bị cáo Phan Gia Lợi và Nguyễn Việt Hùng).

Tại Quyết định kháng nghị giám đốc thẩm số13/2009/HS-TK ngày 06-5-2009, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao đã kháng nghị bản án hình sự sơ thẩm số 18/2008/HSST ngày 31-7-2008 của Tòa án nhân dân thành phố Đà Nẵng và bản án hình sự phúc thẩm số 01/2008/HSPT ngày 10-10-2008 của Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại Đà Nẵng đối với các bị cáo Huỳnh Tấn Huy, Phan Gia Lợi, Nguyễn Việt Hùng, Lê Quang Tiến, Trần Quốc Minh, Nguyễn Quang Long, Hoàng Xuân Hùng, Ngô Lê Trung Hiếu, Trần Công Vinh và Nguyễn Trần Thanh Quang (đều thuộc nhóm Phan Gia Lợi); đề nghị Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hủy bản án hình sự sơ thẩm nêu trên về phần quyết định tội danh và hình phạt (đã có hiệu lực pháp luật) đối với các bị cáo Lê Quang Tiến, Trần Công Vinh, Nguyễn Trần Thanh Quang, Nguyễn Quang Long, Trần Quốc Minh, Hoàng Xuân Hùng và phần quyết định trách nhiệm dân sự (đã có hiệu lực pháp luật) đối với các bị cáo Huỳnh Tấn Huy, Phan Gia Lợi và Nguyễn Việt Hùng; hủy bản án hình sự phúc thẩm nêu trên về phần quyết định tội danh và hình phạt đối với các bị cáo Huỳnh Tấn Huy, Phan Gia Lợi, Nguyễn Việt Hùng và Ngô Lê Trung Hiếu để điều tra lại.

Tại phiên tòa giám đốc thẩm, đại diện Viện kiểm sát nhân dân tối cao nhất trí với kháng nghị của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao.

XÉT THẤY:

1. Về tội danh.

Chỉ vì những mâu thuẫn nhỏ nhặt mà các bị cáo Huỳnh Tấn Huy, Phan Gia Lợi, Nguyễn Việt Hùng, Nguyễn Quang Long, Lê Quang Tiến, Trần Quốc Minh, Hoàng Xuân Hùng, Ngô Lê Trung Hiếu, Trần Công Vinh và Nguyễn Trần Thanh Quang đã cùng nhau bàn bạc đem theo hung khí đi tìm đánh nhóm anh Lê Minh Sơn để trả thù. Hậu quả là anh Lê Minh Sơn bị chết, anh Huỳnh Bá Trọng bị thương với tỷ lệ thương tật 78%. Việc anh Trọng không chết là ngoài ý muốn của các bị cáo (thuộc trường hợp phạm tội chưa đạt). Mặc dù không có sự phân công vai trò cụ thể giữa các bị cáo, nhưng khi Lợi rủ đi đánh nhau thì tất cả các bị cáo đều đồng ý và chuẩn bị hung khí. Các bị cáo Long, Tiến, Minh, Xuân Hùng, Hiếu, Vinh và Quang không trực tiếp chém chết anh Sơn và chém anh Trọng bị thương nhưng khi thấy Lợi, Huy và Việt Hùng đuổi đánh anh Sơn và đồng bọn của anh Sơn thì các bị cáo này cũng cầm hung khí xông vào cùng Lợi, Huy và Việt Hùng đánh nhóm của anh Sơn. Các bị cáo đã tham gia đánh nhau trong suốt quá trình diễn ra vụ án. Hành vi của các bị cáo là giúp sức cho Lợi, Huy và Việt Hùng thực hiện tội phạm nên phải cùng Lợi, Huy và Việt Hùng chịu trách nhiệm về hậu quả cua vụ án.

Viện kiểm sát nhân dân thành phố Đà Nẵng truy tố Huỳnh Tấn Huy, Phan Gia Lợi và Nguyễn Việt Hùng về hai tội “Giết người” và “Gây rối trật tự công cộng”, là không đúng vì hành vi phạm tội của các bị cáo này đã trực tiếp gây ra cái chết cho anh Sơn và làm anh Trọng bị thương nên các bị cáo này chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự về tội “Giết người”; truy tố Nguyễn Quang Long, Lê Quang Tiến, Trần Quốc Minh, Hoàng Xuân Hùng, Ngô Lê Trung Hiếu, Trần Công Vinh và Nguyễn Trần Thanh Quang đều về tội “Gây rối trật tự công cộng” là không đúng tính chất, mức độ hành vi phạm tội của các bị cáo vì đã có đủ cơ sở kết luận các bị cáo này đồng phạm với Phan Gia Lợi, Huỳnh Tấn Huy và Nguyễn Việt Hùng về tội “Giết người”.

Trước khi xét xử sơ thẩm, lẽ ra Tòa án cấp sơ thẩm phải trả hồ sơ cho Viện kiểm sát nhân dân thành phố Đà Nẵng để đề nghị truy tố cả 10 bị cáo trên về tội “Giết người”, nhưng Tòa án cấp sơ thẩm không phát hiện ra việc Viện kiểm sát truy tố không đúng tội danh nên đã không trả hồ sơ cho Viện kiểm sát mà vẫn xét xử các bị cáo theo như Cáo trạng đã truy tố là sai lầm nghiêm trọng.

2. Về đường lối xử lý.

Theo các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án thì cả Phan Gia Lợi và Huỳnh Tấn Huy đều chém anh Lê Minh Sơn, trong đó Huy chém 3-4 nhát (theo lời khai nhận của Huy). Việc điều tra chưa làm rõ Lợi chém anh Sơn mấy nhát, nguyên nhân trực tiếp gây ra cái chết cho anh Sơn là do ai chém. Tòa án cấp sơ thẩm chỉ buộc một mình Huy phải chịu trách nhiệm chính về cái chết của anh Sơn là chưa đủ căn cứ vững chắc; do đó, cần phải điều tra lại để làm rõ những vấn đề nêu trên. Trường hợp điều tra lại không đủ căn cứ kết luận nguyên nhân trực tiếp gây ra cái chết cho anh Sơn là do ai chém thì cũng phải xử phạt cả Lợi và Huy mức án cao nhất vì Huy là tên thực hiện tội phạm tích cực, có một tiền án và lần phạm tội này thuộc trường hợp tái phạm, còn Lợi có nhân thân xấu (có ba tiền án, phạm tội thuộc trường hợp tái phạm nguy hiểm), là tên khởi xướng và rủ rê các bị cáo khác tham gia vào việc thực hiện tội phạm, đồng thời Lợi cũng là tên thực hiện tội phạm tích cực.

Đối với các bị cáo Nguyễn Quang Long, Lê Quang Tiến, Trần Quốc Minh, Hoàng Xuân Hùng, Ngô Lê Trung Hiếu, Trần Công Vinh và Nguyễn Trần Thanh Quang đã tham gia vào việc thực hiện tội phạm cùng với Phan Gia Lợi, Huỳnh Tấn Huy và Nguyễn Việt Hùng gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng, dù có xét xử các bị cáo về tội “Gây rối trật tự công cộng” nhưng Tòa án cấp sơ thẩm chỉ xử phạt các bị cáo này từ 15 tháng tù đến 18 tháng tù là quá nhẹ và chưa đánh giá đúng tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội và hậu quả của tội phạm mà các bị cáo gây ra. Đối với các bị cáo Hoàng Xuân Hùng, Ngô Lê Trung Hiếu đều có 01 tiền án, phạm tội lần này thuộc trường hợp tái phạm, nhưng Toà án cấp sơ thẩm chỉ xử phạt Hoàng Xuân Hùng 15 tháng tù và Ngô Lê Trung Hiếu 18 tháng tù là chưa đánh giá đúng tính chất, mức độ phạm tội của các bị cáo.

Khi xét xử phúc thẩm, Tòa án cấp phúc thẩm cho rằng chỉ mình Huỳnh Tấn Huy chém anh Huỳnh Bá Trọng nên chỉ áp dụng tình tiết định khung “giết nhiều người” quy định tại điểm a khoản 1 Điều 93 Bộ luật hình sự đối với Huỳnh Tấn Huy là không đúng vì mặc dù các bị cáo Phan Gia Lợi, Nguyễn Việt Hùng, Nguyễn Quang Long, Lệ.Quang Tiến, Trần Quốc Minh, Hoàng Xuân Hùng, Ngô Lê Trung Hiếu, Trần công Vinh và Nguyễn Trần Thanh Quang không trực tiếp chém anh Trọng nhưng các bị cáo này phải chịu trách nhiệm hình sự về tội “Giết người” và đều phải chịu tình tiết định khung “Giết nhiều người” quy định tại điểm a khoản 1 Điều 93 Bộ luật hình sự. Do không có kháng nghị của Viện kiểm sát theo hướng bất lợi đối với các bị cáo nên Tòa án cấp phúc thẩm vẫn giữ nguyên quyết định của bản án sơ thẩm về tội danh và hình phạt đối với các bị cáo Huỳnh Tấn Huy, Phan Gia Lợi, Nguyễn Việt Hùng và Ngô Lê Trung Hiếu là đúng, nhưng Tòa án cấp phúc thẩm không phát hiện được sai lầm của Tòa án cấp sơ thẩm về tội danh và hình phạt đối với 10 bị cáo nhóm Phan Gia Lợi, không thông báo cho người có quyền kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm để xem xét lại tội danh và hình phạt đối với cả 10 bị cáo nhóm Phan Gia Lợi là không đúng với quy định tại Điều 274 Bộ luật tố tụng hình sự.

3. Về trách nhiệm dân sự

Tòa án cấp sơ thẩm và Tòa án cấp phúc thẩm chỉ buộc các bị cáo Huỳnh Tấn Huy, Phan Gia Lợi và Nguyễn Việt Hùng liên đới bồi thường thiệt hại cho các gia đình bị hại anh Lê Minh Sơn, anh Huỳnh Bá Trọng là sai lầm nghiêm trọng vì hậu quả anh Sơn bị chết, anh Trọng bị thương với tỷ lệ thương tật 78% là do hành vi phạm tội của 10 bị cáo nhóm Phan Gia Lợi gây ra. Theo quy định tại các điều 604, 616 Bộ luật dân sự và tiểu mục 1 mục I Nghị quyết số03/2006/NQ-HĐTP ngày 08-7-2006 của Hội đồng thẩm phán Toà án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy định của Bộ luật dân sự năm 2005 về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng thì cả 10 bị cáo nhóm Phan Gia Lợi phải liên đới bồi thường thiệt hại cho các gia đình anh Sơn, anh Trọng.

Vì các lẽ trên, căn cứ vào khoản 3 Điều 285, Điều 287 và Điều 289 Bộ luật tố tụng hình sự;

QUYẾT ĐỊNH:

1. Hủy bản án hình sự sơ thẩm số 18/2008/HSST ngày 31-7-2008 của Toà án nhân dân thành phố Đà Nẵng về phần quyết định tội danh và hình phạt đối với các bị cáo Nguyễn Quang Long, Lê Quang Tiến, Trần Quốc Minh, Hoàng Xuân Hùng, Trần Công Vinh, Nguyễn Trần Thanh Quang và phần quyết định trách nhiệm dân sự đối với các bị cáo Huỳnh Tấn Huy, Phan Gia Lợi, Nguyễn Việt Hùng và hủy bản án hình sự phúc thẩm số 0 1/2008/HSPT ngày 10-10-2008 của Tòa phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao tại Đà Nẵng về phần quyết định tội danh và hình phạt đối với các bị cáo Huỳnh Tấn Huy, Phan Gia Lợi, Nguyễn Việt Hùng và Ngô Lê Trung Hiếu.

2. Giao hồ sơ vụ án cho Viện kiểm sát nhân dám tối cao để điều tra tại theo thủ tục chung.

 

  •  7818
  •  Cảm ơn
  •  Phản hồi

Chủ đề đang được đánh giá

0 Lượt cảm ơn
câu phản hồi
Click vào bảng để xem hiển thị đầy đủ thông tin

Bạn vui lòng đăng nhập hoặc Đăng ký tại đây để tham gia thảo luận

Loading…