DanLuat
Chào mừng bạn đến với Dân Luật . Để viết bài Tư vấn, Hỏi Luật Sư, kết nối với Luật sư và chuyên gia, … Bạn vui lòng ĐĂNG KÝ TÀI KHOẢN.
×

Thêm câu phản hồi

Quyết định giám đốc thẩm về vụ án "Tranh chấp chia tài sản sau ly hôn"

Số hiệu

41/2008/DS-GĐT

Tiêu đề

Quyết định giám đốc thẩm về vụ án "Tranh chấp chia tài sản sau ly hôn"

Ngày ban hành

23/12/2008

Cấp xét xử

Giám đốc thẩm

Lĩnh vực

Dân sự

 

     ……..

Ngày 23 tháng 12 năm 2008, tại trụ sở Tòa án nhân dân tối cao đã mở phiên tòa giám đốc thẩm xét xử vụ án dân sự tranh chấp về chia tài sản sau ly hôn, giữa:

Nguyên đơn: Bà Ngô Thị Bích Thủy, sinh năm 1969. trú tại: 64/2C Lê Văn Thọ, phường 11 (nay là phường 8), quận Gò Vấp, thành phố Hồ Chí Minh.

Bị đơn: Ông Trần Quốc Tuấn, sinh năm 1966; trú tại: cùng địa chỉ với nguyên đơn.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

1. Cụ Trần Văn Mỹ, sinh 1920;

2. Ông Trần Văn Tuyến, sinh1951;

3. Bà Trần Thị Thúy Hằng, sinh năm 1957;

4. Ông Trần Quốc Dũng, sinh 1959;

5. Bà Trần Thị Thu Trang, sinh 1964;

6. Ông Trần Quốc Thúc, sinh 1968;

Tất cả các ông, bà có tên nêu trên đều trú cùng địa chỉ với nguyên đơn, bị đơn.

7. Bà Trần Thị Thu Thủy, sinh 1962;

Địa chỉ: 48 Hoàng Diệu, phường 5, thành phố Đà Lạt, Lâm Đồng;

8. Bà Trần Thị Thúy Loan, sinh năm 1965, cư trú tại Mỹ.

NHẬN THẤY:

Bà Ngô Thị Bích Thủy và ông Trần Quốc Tuấn đăng ký kết hôn từ năm 1993, có một con chung. Năm 2001 phát sinh mâu thuẫn, ông Tuấn xin ly hôn. Tại bản án dân sự sơ thẩm số 257/DSST ngày 10-6-2003, Tòa án nhân dân quận Gò Vấp, thành phố Hồ Chí Minh đã xử cho ông Tuấn được ly hôn bà Thủy, bà Thủy được nuôi dưỡng con chung là Trần Quốc Thắng (sinh năm 1995). Về tài sản: công nhận sự thỏa thuận của hai bên, bà Thủy được chia các đồ dùng trong gia đình, ông Tuấn mua cho bà Thủy một căn nhà cấp 4 tại phường 11, quận Gò Vấp, diện tích 3,5m x 6m, có gác gỗ để đủ diện tích sử dụng là 40m2, thời hạn giao nhà là 06 tháng. Ông Tuấn được sử dụng và đăng ký quyền sở hữu căn nhà 64/2A1 Lê Văn Thọ, phường 11, quận Gò Vấp, và nhận trả toàn bộ số nợ của ông Mỹ.

Ngày 20-6-2003, bà Thủy có đơn kháng cáo: không đồng ý thỏa thuận với ngôi nhà mà ông Tuấn sẽ mua cho, xin được chia tài sản bằng tiền.

Tại bản án dân sự phúc thẩm số 472/HNPT ngày 22-3-2004, Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh đã giữ nguyên phần giải quyết về việc ly hôn, việc nuôi dưỡng con chung nhưng hủy về phần chia tài sản để đảm bảo quyền lợi của đương sự.

Ngày 06-10-2005, Tòa án nhân dân quận Gò Vấp, thành phố Hồ Chí Minh thụ lý vụ án để giải quyết lại phần chia tài sản chung của vợ chồng.

Tại bản án sơ thẩm (lần 2) số130/CTS-HNST ngày 16-3-2005, Tòa án nhân dân quận Gò Vấp, thành phố Hồ Chí Minh đã xử: chấp nhận một phần yêu cầu của bà Thủy, công nhận căn nhà diện tích 54,60m2 mang số tạm cấp là 64/2A1 Lê Văn Thọ, phường 11, quận Gò Vấp nằm trong khuôn viên đất diện tích 190m2 thuộc bằng khoán số 795 theo giấy chứng nhận số72/GCN-RĐ ngày 30-7-1984 do Ủy ban nhân dân quận Gò Vấp cấp là tài sản chung hợp nhất của bà Thủy và ông Tuấn. Ông Tuấn được trọn quyền sở hữu căn nhà trên, bà Thủy được nhận tiền đền bù giá trị nhà và đất là 1.155.015.000đ.  

 Ngày 29-3-2005, ông Trần Quốc Tuấn và cụ Trần Văn Mỹ có đơn kháng cáo.

Tại bản án phúc thẩm số 1557/2005/DSPT ngày 22-7-2005, Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh đã quyết định: hủy án dân sự sơ thẩm số130/CTS-HNST ngày 16-3-2005 của Tòa án nhân dân quận Gò Vấp, giao hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân quận Gò Vấp xét xử sơ thẩm lại, với lý do: thiếu người tham gia tố tụng là những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan.

Ngày 06-10-2005 Tòa án nhân dân quận Gò Vấp, thành phố Hồ Chí Minh tiếp tục thụ lý vụ án “Chia tài sản sau ly hôn” giữa nguyên đơn là bà Ngô Thị Bích Thủy và bị đơn là ông Trần Quốc Tuấn, sau đó ra Quyết định752/HNGĐ-ST ngày 21-11-2005 chuyển hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh để giải quyết theo thẩm quyền vì có đương sự là bà Trần Thị Thúy Loan (người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong vụ án) đang định cư ở nước ngoài.

Việc tranh chấp tài sản sau ly hôn giữa bà Thủy và ông Tuấn được xác định như sau:

- Về ngôi nhà mang số tạm là 64/2A1 Lê Văn Thọ, phường 11 (nay là phường 8), quận Gò Vấp, thành phố Hồ Chí Minh;

- Về số tiền nợ cụ Trần Văn Mỹ là 01 lượng vàng SJC và 2.000.000đ; nợ ông Trần Quốc Thúc là 12.000.000đ.

Số tiền nợ cụ Mỹ và ông Thúc đã được ông Tuấn bà Thủy thỏa thuận là mỗi người trả 1/2.

Về ngôi nhà, bà Thủy yêu cầu được chia 1/2 giá trị nhà đất bằng tiền. Ông Tuấn chỉ đồng ý chia 1/2 giá trị xây dựng nhà, không đồng ý chia giá trị đất vì cho rằng phần đất là tài sản của cha mẹ ông (cụ Nguyễn Thị Bình và cụ Trần Văn Mỹ), chỉ cho hai vợ chồng ở nhờ trong thời kỳ hôn nhân.

Các đương sự là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan gồm cụ Mỹ, ông Tuyến, bà Hằng, ông Dũng, bà Trang, ông Thúc, bà Thủy và bà Loan cùng có yêu cầu như ông Tuấn. Ngoài ra ông Thúc và cụ Mỹ yêu cầu bà Thủy và ông Tuấn phải trả ngay số tiền còn nợ.

Tại bản án dân sự sơ thẩm số 833/2007/DSST ngày 25-5-2007, Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh đã quyết định:

 Xác định phần tài sản chung tạo ra trong thời kỳ hôn nhân của bà Ngô Thị Bích Thủy và ông Trần Quốc Tuấn là phần giá trị xây dựng trong căn nhà mang số tạm là 64/2A1 Lê Văn Thọ, phường 11 (nay là phường 8) quận Gò Vấp (theo sự xác nhận của Ủy ban nhân dân phường 11, quận Gò Vấp ngày 30-12-1999) như sau:

Phần giá trị xây dựng 32.586.400đ;

Phân chia tài sản chung của bà Thủy và ông Tuấn như sau:

- Bà Thủy và ông Tuấn mỗi người được chia 1/2 tài sản chung. Ông Tuấn có nghĩa vụ thanh toán cho bà Thủy số tiền tương đương với 1/2 giá trị tài sản chung là (32.586.400đ : 2) = 16.293.200đ.

- Bà Thủy phải giao lại toàn bộ căn nhà mang số tạm 64/2A1 Lê Văn Thọ, phường 11 (nay là phường 8) quận Gò Vấp cho ông Tuấn; ông Tuấn được tạm thời quản lý, sử dụng toàn bộ căn nhà (trong đó ông Tuấn đã được phân chia toàn bộ phần xây dựng nhà). Khi nào có sự tranh chấp giữa ông Tuấn và các đương sự là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong vụ án này thì Tòa án sẽ giải quyết bằng vụ án khác.

     Bác yêu cầu của bà Thủy đòi phân chia 1/2 giá trị quyền sử dụng đất của căn nhà mang số tạm là 64/2A1 Lê Văn Thọ, phường 11 (nay là phường 8) quận Gò Vấp là 1.782.000.000đ.

     Bà Thủy và ông Tuấn phải trả nợ cho cụ Mỹ và ông Thúc như sau:

- Bà Thủy trả cho cụ Mỹ 0,5 lượng vàng SJC và 1.000.000đ, trả ông Thúc 6.000.000đ.

- Ông Tuấn trả cho cụ Mỹ 0,5 lượng vàng SJC và 1.000.000đ, trả ông Thúc 6.000.000đ.

Ngoài ra án sơ thẩm còn tuyên về án phí và quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Ngày 04-6-2007, bà Thủy có đơn kháng cáo yêu cầu được chia một phần giá trị trong phần đất 198m2 tại 64/2A1 Lê Văn Thọ.

Tại bản án dân sự phúc thẩm số 399/2007/DSPT ngày 07-12-2007 Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại thành phố Hồ Chí Minh đã quyết định:

Chấp nhận yêu cầu của bà Ngô Thị Bích Thủy đòi chia giá trị quyền sử dụng đất của căn nhà mang số tạm 64/2A1 Lê Văn Thọ, phường 11 (nay là phường 8) quận Gò Vấp là 1.000.000.000đ (một tỷ) đồng.

Ông Trần Quốc Tuấn có trách nhiệm giao cho bà Ngô Thị Bích Thủy số tiền 1.000.000.000đ

Các quyết định khác của bản án sơ thẩm về tài sản chung là giá trị xây dựng nhà: 32.586.400đ, mỗi người 1/2 là 16.293.200đ; bà Thủy giao toàn bộ căn nhà trên cho ông Tuấn và phần trả nợ giữ nguyên.

Sau khi có bản án phúc thẩm, ông Trần Quốc Tuấn và những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có đơn khiếu nại, nội dung: bản án phúc thẩm đã làm thiệt hại nghiêm trọng đến quyền và lợi ích hợp pháp của ông và những người trong gia đình vì nhà đất không phải là tài sản hợp pháp được tạo lập trong thời kỳ hôn nhân giữa ông và bà Ngô Thị Bích Thủy, yêu cầu được kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm.

Tại Quyết định kháng nghị số110/QĐ-KNGĐT-V5 ngày 15-8-2008, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao đã kháng nghị bản án phúc thẩm số 399/2007/DSPT ngày 07-12-2007 của Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại thành phố Hồ Chí Minh, đề nghị Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao xét xử theo thủ tục giám đốc thẩm hủy bản án phúc thẩm nêu trên, giao hồ sơ cho Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại thành phố Hồ Chí Minh xét xử phúc thẩm lại theo đúng quy định của pháp luật. Với nhận định: Tòa án cấp sơ thẩm bác yêu cầu của bà Thủy đòi chia 1/2 giá trị quyền sử dụng đất là có cơ sở. Nhưng Tòa án cấp phúc thẩm lại chấp nhận yêu cầu của bà Thủy và buộc ông Tuấn phải thanh toán cho bà Thủy 1.000.000.000đ là không đúng vì đất này vẫn là của cha mẹ ông Tuấn giao cho ông Tuấn sử dụng từ năm 1992 (khi ông Tuấn chưa kết hôn với bà Thủy). Đất này không phải là tài sản được tạo lập trong thời kỳ hôn nhân. Năm 2003 cụ Mỹ có giấy hủy bỏ việc cho ông Tuấn quyền sử dụng đất. Đến nay, ông Tuấn bà Thủy chưa được cơ quan có thẩm quyền công nhận quyền sở hữu nhà và quyền sử dụng đất.

Tại phiên tòa giám đốc thẩm, đại diện Viện kiểm sát nhân dân tối cao đề nghị Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao chấp nhận kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao.

XÉT THẤY:

Căn cứ tài liệu có trong hồ sơ, thấy rằng: Theo bản đồ địa chính thửa đất và bản vẽ hiện trạng (phòng Tài nguyên môi trường, Phòng quản lý đô thị quận Gò Vấp và Ủy ban nhân dân phường 11 kiểm tra, xác nhận) thì căn nhà mang số tạm 64/2A1 Lê Văn Thọ, phường 11 (nay là phường 8) quận Gò Vấp, thành phố Hồ Chí Minh có diện tích xây dựng là 52,9m2, diện tích khuôn viên đất là 209,5m2 (gồm 165,08m2 phù hợp quy hoạch; 44,42m2 không phù hợp quy hoạch) chính là nhà trên phần đất 198m2 đang tranh chấp.

Bà Thủy và ông Tuấn cùng xác nhận diện tích xây dựng 52,9m2 nhà là trong thời kỳ hôn nhân (năm 1993 kết hôn, 1999 sửa nhà, 2002 phát sinh mâu thuẫn và năm 2003 ly hôn) nhưng chưa hợp thức hóa quyền sở hữu. Như vậy, xác định phần giá trị xây dựng nhà là tài sản chung của vợ chồng (phần này Tòa các cấp đã tuyên và các đương sự không có tranh chấp).

 Về phần đất của căn nhà là một phần trong tổng số 3.684m2 đất thuộc quyền sử dụng của cụ Nguyễn Thị Bình (mẹ ông Tuấn) theo giấy chứng nhận quyền sử dụng ruộng đất số72/GCN-RĐ ngày 30-7-1984 do Ủy ban nhân dân quận Gò Vấp cấp. Cụ Trần Văn Mỹ và cụ Bình là vợ chồng, họ có 8 người con, trong đó có ông Tuấn.

Năm 1992, cụ Bình và cụ Mỹ đã giao cho ông Tuấn 198m2 để ông Tuấn cất nhà. Cụ Bình mất năm 1997 không có di chúc, do đó toàn bộ đất mang tên cụ Bình là thuộc quyền sở hữu của cụ Mỹ và các con của họ. Giữa cụ Mỹ và các con không có tranh chấp về đất này.

Ngày 21-8-1999, ông Tuấn bà Thủy có kê khai tờ Đăng ký nhà đất, có xác nhận của Uỷ ban nhân dân phường ngày 01-9-1999.

Ngày 25-10-1999, ông Tuấn bà Thủy sau khi sửa chữa nhà có làm đơn xin cấp số nhà, Uỷ ban nhân dân phường 11 đã xác nhận ngày 30-12-1999 và chuyển lên Uỷ ban nhân dân quận để xem xét giải quyết.

 Ngày 20-6-2000, cụ Mỹ có làm giấy tái xác nhận việc cụ Mỹ cho ông Tuấn diện tích đất trên “…nguyên tôi có giao cho con tôi là Trần Quốc Tuấn sinh năm 1966…một phần đất để cất nhà với diện tích là 198m2 vào năm 1992. Nay tôi làm giấy tái xác nhận này cho hẳn phần đất nêu trên cho con tôi toàn quyền sử dụng …”. Và ngày 22-6-2000, ông Tuấn bà Thủy có đơn xin cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở.

 Ngày 24-10-2000, Phòng quản lý đô thị quận Gò Vấp có yêu cầu ông Tuấn phải nộp các giấy tờ gồm 2 bản sao hộ khẩu có xác nhận sao y, bà Thủy ký tên phường xác nhận chữ ký, 2 bản sao giấy chứng nhận QSD đất số72/GCN-RĐ ngày 30-7-1984 mang tên cụ Bình và đơn tái xác nhận cho đất có chủ hộ ký tên.

Như vậy, ngay từ năm 1999, khi chưa có giấy tái xác nhận việc cụ Mỹ cho hẳn ông Tuấn phần đất, ông Tuấn bà Thủy đã có kê khai tờ Đăng ký nhà đất và có đơn xin cấp số nhà. Đến 20-6-2000 thì cụ Mỹ đã làm giấy tái xác nhận việc cho hẳn phần đất trên cho ông Tuấn. Sau 2 ngày có giấy tái xác nhận của cụ Mỹ, ngày 22-6-2000, ông Tuấn bà Thủy có đơn xin cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở. Và ngày 02-11-2000, sau khi hoàn tất hồ sơ theo yêu cầu của Phòng quản lý đô thị quận Gò Vấp, ông Tuấn bà Thủy đã nộp hồ sơ tại Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất quận Gò Vấp và đã được cấp biên nhận số 526.

Như vậy đã có đủ căn cứ để xác định: cụ Mỹ và cụ Bình đã cho ông Tuấn thửa đất 198m2 từ năm 1992; năm 2000 được cụ Mỹ tái xác nhận việc cho ông Tuấn thửa đất trên và ông Tuấn đã nhập tài sản đó vào khối tài sản chung của vợ chồng.  

 Xét Giấy hủy bỏ việc cho đất ngày 06-01-2003 của cụ Mỹ, thấy rằng: Trong hồ sơ vụ kiện thì giấy này chỉ là bản pho to, không có bản sao y bản chính. Theo lời khai của ông Tuấn tại phiên tòa sơ thẩm ngày 25-5-2007 thì bản chính của Giấy hủy bỏ này lưu ở Uỷ ban nhân dân phường, ông chỉ giữ bản sao y bản chính. Theo bản pho to thì giấy này được Chủ tịch Uỷ ban nhân dân phường 11 quận Gò Vấp là ông Huỳnh Văn Nhứt ký xác nhận, được chứng thực tại số 14 quyển số 01 ngày 06-01-2002 tại phường 11. Nhưng theo Biên bản xác minh ngày 07-5-2007 của Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh, qua đối chiếu và kiểm tra hồ sơ lưu trữ tại phường 11, không tìm thấy sổ lưu chứng thực vào thời điểm tháng 1/2003 (ngày cụ Mỹ ký giấy) và tháng 1/2002 (ngày chứng thực) tại phường. Đồng thời, trong nội dung Giấy hủy bỏ việc cho đất có ghi: giấy này được lập thành hai bản, tôi (cụ Mỹ) giữ 01 bản và luật sư (Trần Mai Hữu Đức - người làm chứng) giữ 01 bản.

Cùng với sự vô lý về thời gian (ngày ký sau thời gian so với ngày chứng thực) với lời khai mâu thuẫn của ông Tuấn, cho thấy Giấy hủy bỏ việc cho đất ngày 06-01-2003 của cụ Mỹ là không có giá trị pháp lý.

Tòa án cấp phúc thẩm xác định ông Tuấn được bố, mẹ cho thửa đất 198m2 và đã nhập vào khối tài sản chung của vợ chồng; xem xét công sức đóng góp của bà Thủy và bảo đảm quyền lợi của người vợ nuôi con nhỏ khi ly hôn có điều kiện tạo lập nơi ở mới, đã chấp nhận yêu cầu của bà Thủy, chia giá trị quyền sử dụng đất cho bà Thủy 1.000.000.000đ tương đương 1/3 giá trị của thửa đất là có căn cứ, đúng pháp luật.

Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao nhận thấy kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao yêu cầu hủy bản án phúc thẩm số 399/2007/DSPT ngày 07-12-2007 của Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại thành phố Hồ Chí Minh là không có cơ sở chấp nhận.

Vì các lẽ trên, căn cứ khoản 3 Điều 291 và khoản 1 Điều 297 Bộ luật tố tụng dân sự,

QUYẾT ĐỊNH:

1. Không chấp nhận Quyết định kháng nghị số110/QĐ-KNGĐT-V5 ngày 15-8-2008 của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao đối với bản án dân sự phúc thẩm số 399/2007/DSPT ngày 07-12-2007 của Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại thành phố Hồ Chí Minh.

2. Giữ nguyên bản án có hiệu lực pháp luật số 399/2007/DSPT ngày 07-12-2007 của Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại thành phố Hồ Chí Minh.

Lý do không chấp nhận kháng nghị của Viện trưởng VKSNDTC:

Giấy hủy bỏ việc cho đất của cụ Mỹ là không có giá trị pháp lý. Do đó, Tòa án cấp phúc thẩm đã xác định ông Tuấn được bố, mẹ cho thửa đất 198m2 và đã nhập vào khối tài sản chung của vợ chồng, từ đó chia giá trị quyền sử dụng đất cho bà Thủy là có căn cứ, đúng pháp luật.

 

  •  6781
  •  Cảm ơn
  •  Phản hồi

Chủ đề đang được đánh giá

0 Lượt cảm ơn
câu phản hồi
Click vào bảng để xem hiển thị đầy đủ thông tin

Bạn vui lòng đăng nhập hoặc Đăng ký tại đây để tham gia thảo luận

Loading…