DanLuat
Chào mừng bạn đến với Dân Luật . Để viết bài Tư vấn, Hỏi Luật Sư, kết nối với Luật sư và chuyên gia, … Bạn vui lòng ĐĂNG KÝ TÀI KHOẢN.
×

Thêm câu phản hồi

Quyết định giám đốc thẩm về vụ án Nguyễn Kim Oanh phạm các tội "Mua bán trái phép chất ma túy" và "đánh bạc"

Số hiệu

12/2008/HS-GĐT

Tiêu đề

Quyết định giám đốc thẩm về vụ án Nguyễn Kim Oanh phạm các tội "Mua bán trái phép chất ma túy" và "đánh bạc"

Ngày ban hành

24/07/2008

Cấp xét xử

Giám đốc thẩm

Lĩnh vực

Hình sự

 

……..

Ngày 24 tháng 7 năm 2008, tại trụ sở Tòa án nhân dân tối cao đã mở phiên tòa giám đốc thẩm xét xử vụ án hình sự đối với:

Nguyễn Kim Oanh sinh năm 1976; đăng ký nhân khẩu thường trú tại số 6 Phan Bội Châu, phường Cửa Nam, quận Hoàn Kiếm, thành phố Hà Nội; tạm trú tại số 8A/G4 Thái Văn Lung, phường Bến Nghé, quận 1, thành phố Hồ Chí  Minh; trình độ văn hóa 12/12, cử nhân Luật; con ông Nguyễn Thế Sự (đã chết) và bà Trần Thị Hồng; bị bắt giam từ ngày 25-10-2002.

Trong vụ án còn có 20 bị cáo khác bị kết án về các tội “Mua bán trái phép chất ma tuý”, “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”, “Tổ chức đánh bạc”, “Đánh bạc”, “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có”, “Chứa chấp tài sản do người khác phạm tội mà có” không bị kháng nghị.    

NHẬN THẤY:

Từ năm 1999 đến năm 2000, Nguyễn Kim Oanh đã tham gia cùng Nguyễn Thị Hạnh (chị ruột) thực hiện hành vi đánh bạc (cá độ bóng đá) với tổng số tiền là 187.000.000 đồng và tham gia mua bán trái phép chất ma tuý cùng Chung Quốc Minh với số lượng là 8.400 viên ma tuý tổng hợp (Methamphetamin), có trọng lượng là 2.394,89 gam.

 Nguyễn Kim Oanh và Chung Quốc Minh sống với nhau như vợ chồng từ tháng 3- 2000 đến cuối năm 2000 tại căn nhà số 8A/G4 Thái Văn Lung, phường Bến Nghé, quận 1, thành phố Hồ Chí Minh (sau đây viết tắt là căn nhà số 8A/G4 Thái Văn Lung). Trong thời gian này, Nguyễn Kim Oanh đã phụ giúp Minh việc bán lẻ ma tuý tại căn nhà này và quản lý tiền bán ma tuý. Số tiền có được do bán ma tuý, Oanh đưa cho Minh tiền gốc để Minh mua tiếp, còn tiền lãi thì Oanh và Minh chi tiêu sinh hoạt chung. Căn nhà số 8A/G4 Thái Văn Lung là do Nguyễn Kim Oanh thuê từ năm 1999 của ông Nguyễn Dọn. Cuối năm 1999 ông Dọn bán căn nhà này cho ông Đào Duy Dinh và Oanh vẫn tiếp tục thuê. Đến tháng 4- 2002, Oanh mua lại căn nhà này của ông Đào Duy Dinh.

Tại Quyết định khởi tố bị can số 230 ngày 01-11-2002, Cơ quan Cảnh sát  điều tra - Bộ Công an đã quyết định khởi tố Nguyễn Kim Oanh về các tội “Mua bán trái phép chất ma tuý” và “Đánh bạc”.

Tại Lệnh kê biên tài sản số 48/C16C3 ngày 12-12-2002, Cơ quan cảnh sát điều tra- Bộ Công an đã ra lệnh kê biên căn nhà số 8A/G4 Thái Văn Lung của Nguyễn Kim Oanh.

Tại bản án hình sự sơ thẩm số 694/HSST ngày 10-5-2004, Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh áp dụng điểm e khoản 4 Điều 194; điểm b khoản 2   Điều 248; khoản 2 Điều 46; Điều 50 Bộ luật hình sự; xử phạt Nguyễn Kim Oanh tù chung thân về tội “Mua bán trái phép chất ma tuý” và 03 (ba) năm tù về tội “Đánh bạc”; tổng hợp hình phạt chung của cả hai tội là tù chung thân. Áp dụng Điều 41 Bộ luật hình sự, tuyên tịch thu căn nhà số 8A/G4 Thái Văn Lung, phường Bến Nghé, quận 1, thành phố Hồ Chí Minh của Nguyễn Kim Oanh, với lý do căn nhà này là nơi Oanh cất giữ và mua bán ma tuý đồng thời là nơi giao nhận tiền cá độ bóng đá và áp dụng khoản 5 Điều 194; khoản 3 Điều 248 Bộ luật hình sự buộc Nguyễn Kim Oanh nộp tiền phạt, tiền thu lời bất chính tổng cộng là 200.000.000 đồng; ngoài ra, còn tuyên tịch thu của Nguyễn Kim Oanh 100 cây vàng, 76.000.000 đồng, 5.126 USD, 01 xe máy hiệu @, 02 điện thoại di động và một số tài sản khác có giá trị không lớn để sung quỹ Nhà nước.

Ngày 21-5-2004, Nguyễn Kim Oanh có đơn kháng cáo xin giảm hình phạt, đề nghị xem xét lại việc tịch thu tiền, vàng và căn nhà số 8A/G4 Thái Văn Lung.

Tại bản án hình sự phúc thẩm số 2341/HSPT ngày 05-10-2004, Toà phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao tại thành phố Hồ Chí Minh giữ nguyên bản án sơ thẩm, với lý do: bản án sơ thẩm đã đánh giá đúng tính chất, mức độ phạm tội của bị cáo Nguyễn Kim Oanh và xử phạt bị cáo tù chung thân là thoả đáng. Bị cáo không có chứng cứ chứng minh nguồn tài sản bị tịch thu là hợp pháp, nên Toà án cấp sơ thẩm tuyên tịch thu là đúng.           

Tại Kháng nghị tái thẩm số02/QĐ-VKSTC-V3 ngày 25-3-2008, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao đề nghị Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao xét xử theo thủ tục tái thẩm, huỷ phần quyết định tịch thu toàn bộ căn nhà số 8A/G4 Thái Văn Lung, phường Bến Nghé, quận 1, thành phố Hồ Chí Minh của bản án hình sự sơ thẩm số 694/HSST ngày 10-5-2004 và bản án hình sự phúc thẩm số 2341/HSPT ngày 05-10-2004 để xét xử sơ thẩm lại theo đúng quy định của pháp luật, với lý do có tình tiết mới là Nguyễn Kim Oanh đã có chồng là David A.Ong và tiền mua căn nhà số 8A/G4 Thái Văn Lung là do chồng của Oanh gửi từ Mỹ về.

Tại Quyết định rút Kháng nghị tái thẩm số01/QĐ-VKSTC-V3 ngày 10-7-2008, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao quyết định rút Kháng nghị tái thẩm số02/QĐ-VKSTC-V3 ngày 25-3-2008.        

Tại Kháng nghị giám đốc thẩm số16/QĐ-VKSTC-V3 ngày 10-7-2008, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao đề nghị Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao xét xử theo thủ tục giám đốc thẩm, huỷ phần quyết định tịch thu toàn bộ căn nhà số 8A/G4 Thái Văn Lung, phường Bến Nghé, quận 1, thành phố Hồ Chí Minh của bản án hình sự sơ thẩm số 694/HSST ngày 10-5-2004 và bản án hình sự phúc thẩm số 2341/HSPT ngày 05-10-2004 và đình chỉ vụ án về phần này, với lý do: số tiền để mua căn nhà số 8A/G4 Thái Văn Lung, phường Bến Nghé, quận 1, thành phố Hồ Chí Minh do chồng của Nguyễn Kim Oanh là David A.Ong gửi từ Mỹ về trong thời kỳ hôn nhân nên đó là tài sản chung của vợ chồng và trong thời gian Oanh thực hiện hành vi phạm tội thì căn nhà đó chưa thuộc quyền sở hữu của Oanh; việc Toà án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh và Toà phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao tại thành phố Hồ Chí Minh quyết định tịch thu toàn bộ căn nhà số 8A/G4 Thái Văn Lung, phường Bến Nghé, quận 1, thành phố Hồ Chí Minh với lý do căn nhà đó là nơi thực hiện tội phạm theo Điều 41 Bộ luật hình sự là không đúng.

Tại phiên tòa giám đốc thẩm, đại diện Viện kiểm sát nhân dân tối cao đề nghị Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao chấp nhận kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao.

XÉT THẤY:

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án thì Nguyễn Kim Oanh thuê một phòng của căn nhà số 8A/G4 Thái Văn Lung của ông Nguyễn Dọn từ đầu năm 1999. Cuối năm 1999 ông Dọn bán nhà cho ông Đào Duy Dinh và Oanh vẫn tiếp tục thuê, nhưng thuê toàn bộ căn nhà. Tháng 4-2002 Oanh ký hợp đồng mua bán căn nhà này với ông Dinh tại Phòng công chứng số 1 thành phố Hồ Chí Minh. Nguồn tiền để mua căn nhà theo lời khai của Oanh tại cơ quan điều tra là do David A.Ong (chồng của Oanh) gửi từ Mỹ về 25.000 USD vào khoảng cuối tháng 3 đầu tháng 4 -2002 qua chị gái Oanh là Nguyễn Thị Hiền, cộng với số tiền các anh chị của Oanh cho và Oanh có riêng 10.000 USD tiết kiệm từ số tiền hàng tháng David gửi về cho Oanh tiêu (BL 641, 671, 682). Với các tài liệu có trong hồ sơ thì việc Toà án cấp sơ thẩm và Toà án cấp phúc thẩm áp dụng Điều 41 Bộ luật hình sự tuyên tịch thu căn nhà số 8A/G4 Thái Văn Lung là chưa đủ căn cứ. Để có quyết định đúng đối với căn nhà này thì cần điều tra làm rõ những vấn đề sau đây:

- Có đúng Nguyễn Kim Oanh mua căn nhà số 8A/G4 Thái Văn Lung vào thời điểm như đã thể hiện trong hợp đồng mua bán nhà ở không? Hay căn nhà đã được mua bán từ trước và đến tháng 4-2002 mới hoàn thiện các thủ tục pháp lý? Giá tiền mua bán căn nhà số 8A/G4 Thái Văn Lung là bao nhiêu? Theo hợp đồng mua bán nhà ở thì giá mua bán căn nhà số 8A/G4 Thái Văn Lung là 100.000.000 đồng, nhưng theo lời khai của Nguyễn Kim Oanh tại giai đoạn điều tra cũng như khi Viện kiểm sát nhân dân tối cao lấy lời khai (sau khi xét xử phúc thẩm) thì Oanh mua căn nhà đó với giá là 170 cây vàng (tương đương 750.000.000 đồng). Người bán nhà cho Oanh là ông Đào Duy Dinh có lời khai ngày 28-4-2004 (trước khi xét xử sơ thẩm), thì ông Dinh bán căn nhà đó cho Oanh với giá là 269 cây vàng.

- Về nguồn tiền để mua căn nhà số 8A/G4 Thái Văn Lung thì theo lời khai của Nguyễn Kim Oanh khi Viện kiểm sát nhân dân tối cao lấy lời khai (sau khi xét xử phúc thẩm) tháng 6-2000 David A.Ong có gửi 100.000 USD thông qua chị Nguyễn Thị Hiền là chị gái Oanh mang từ Mỹ về Việt Nam để Oanh mua nhà. Lời khai này của Oanh mâu thuẫn với lời khai tại giai đoạn điều tra (trước khi xét xử sơ thẩm) là tiền mua nhà do David gửi về cộng với tiền của các anh chị Oanh cho và tiền riêng của Oanh và David gửi tiền về vào khoảng tháng 3, tháng 4- 2002? Cần làm rõ số tiền 100.000 USD có đúng được chị Hiền mang về Việt Nam hay không? Tờ khai hải quan về số tiền này? Tại thời điểm tháng 6-2000 pháp luật quy định như thế nào về việc đưa ngoại tệ vào Việt Nam?.        

Vì các lẽ trên và căn cứ vào khoản 3 Điều 279, khoản 3 Điều 285 Bộ luật tố tụng hình sự,

QUYẾT ĐỊNH:

Huỷ bản án hình sự phúc thẩm số 2341/HSPT  ngày 05-10-2004 của Tòa phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao tại thành phố Hồ Chí Minh về phần quyết định bác kháng cáo xin trả lại tài sản bị tịch thu là căn nhà số 8A/G4 Thái Văn Lung, phường Bến Nghé, quận 1, thành phố Hồ Chí Minh của Nguyễn Kim Oanh và huỷ bản án hình sự sơ thẩm số 694/HSST ngày 10-5-2004 của Toà án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh về quyết định xử lý vật chứng: “Tài sản kê biên: 01 căn nhà 4 tầng số 8A/G4 Thái Văn Lung, phường Bến Nghé, quận 1, thành phố Hồ Chí Minh, diện tích 98m2. Căn nhà này Nguyễn Kim Oanh thuê từ đầu năm 1999 sang đầu năm 2002 Oanh mua thuộc quyền sở hữu của Oanh, căn nhà này là nơi cất giữ và mua bán ma tuý đồng thời là nơi giao nhận tiền cá độ bóng đá; do đó cần tịch thu sung quỹ nhà nước, theo Điều 41 Bộ luật hình sự” để điều tra lại; giao hồ sơ vụ án cho Viện kiểm sát nhân dân tối cao để điều tra lại theo thủ tục chung.

Lý do bản án phúc thẩm và bản án sơ thẩm bị hủy về phần xử lý tài sản:

Cần xác định rõ nguồn tiền và thời điểm bị cáo mua căn nhà bị tịch thu.

  •  5231
  •  Cảm ơn
  •  Phản hồi

Chủ đề đang được đánh giá

0 Lượt cảm ơn
câu phản hồi
Click vào bảng để xem hiển thị đầy đủ thông tin

Bạn vui lòng đăng nhập hoặc Đăng ký tại đây để tham gia thảo luận

Loading…