DanLuat
Chào mừng bạn đến với Dân Luật . Để viết bài Tư vấn, Hỏi Luật Sư, kết nối với Luật sư và chuyên gia, … Bạn vui lòng ĐĂNG KÝ TÀI KHOẢN.
×

Thêm câu phản hồi

Quyết định giám đốc thẩm về vụ án của Nguyễn Văn Hùng về tội "Lừa đảo chiếm đoạt tài sản"

Số hiệu

05/2010/HS-GĐT

Tiêu đề

Quyết định giám đốc thẩm về vụ án của Nguyễn Văn Hùng về tội "Lừa đảo chiếm đoạt tài sản"

Ngày ban hành

11/03/2010

Cấp xét xử

Giám đốc thẩm

Lĩnh vực

Hình sự

 

Ngày 11-3-2010, tại trụ sở Toà án nhân dân tối cao đã mở phiên tòa giám đốc thẩm xét xử vụ án hình sự về phần trách nhiệm dân sự giữa:

Nguyên đơn dân sự: ông Phạm Hoài Nam sinh năm 1954; trú tại nhà số 7 đường Phan Chu Trinh, phường Thắng Lợi, thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk.

Bị đơn dân sự: ông Nguyễn Văn Hùng sinh năm 1949; trú tại khối 8, phường Tân Thành, thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk (đã chết ngày 09-02-2008) .

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

1. Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam (Chi nhánh tỉnh Đắk Lắk); trụ sở tại nhà số 37 Phan Bội Châu, thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk.

2. Bà Nguyễn Thị Huế (vợ ông Nguyễn Văn vùng); trú tại khối 8, phường Tân Thành, thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk.

NHẬN THẤY:

Trong quá trình kinh doanh, ông Nguyễn Văn Hùng là Giám đốc Công ty TNHH xây dựng Đồng Tiến có vay tiền của Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam (Chi nhánh tỉnh Đắk Lắk), nên ngày 23-8-1997 ông Hùng và vợ là bà Nguyễn Thị Huế thế chấp nhà số 2b (nay là nhà số 403) đường Phan Chu Trinh, phường Thắng Lợi, thành phố Buôn Ma Thuột (của vợ chồng ông Hùng) cho Ngân hàng để đảm bảo khoản nợ của ông Hùng tại Ngân hàng. Tháng 10-1997, ông Hùng làm thêm một bộ giấy tờ khác của nhà số 2b nói trên, gồm biên bản xác định mốc giới nhà số 2b và giấy chuyển nhượng quyền sử dụng đất của gia đình ông Học (là người đã bán đất cho gia đình ông Hùng vào năm l995) cho gia đình ông Hùng, các giấy tờ làm thêm của nhà số 2b đều được UBND phường Thắng Lợi xác nhận.

Tháng 5-1997, ông Hùng vay của ông Phạm Hoài Nam và vợ ông Nam là bà Nguyễn Thị Tnnh 60.000.000 đồng, với lãi xuất là 2%/tháng và thời hạn vay là sáu tháng. Đến hạn, ông Hùng không trả được nợ, nên ông Hùng đề nghị thế chấp nhà số 2b cho vợ chồng ông Nam, nhưng vợ chồng ông Nam muốn được mua ngôi nhà trên và vợ chồng ông Hùng đồng ý bán. Ngày 16-01-1998, vợ chồng ông Hùng làm hợp đồng bán nhà số 2b cho vợ chồng ông Nam với giá là 150.000.000 đồng và ông Hùng đưa bộ giấy tờ làm thêm của nhà sổ 2b cho vợ chồng ông Nam. Do ông Hùng còn nợ vợ chồng ông Nam tiền vay cả gốc và lãi là 67.000.000 đồng, nên vợ chồng ông Nam còn phải trả cho ông Hùng 83 .000.000 đồng.

Tại bản án hình sự sơ thẩm số 233/2006/HSST ngày 18-9-2006, Toà án nhân dân tỉnh Đắk Lắk áp dụng điểm e khoản 2 Điều 139; điểm p khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự, xử phạt Nguyễn Văn Hùng 03 năm tù về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”; áp dụng Điều 41 và Điều 42 Bộ luật hình sự, buộc Nguyễn Văn Hùng phải bồi thường cho bà Nguyễn Thị Trinh 83.000.000 đồng.

Ngày 02-10-2006, Nguyễn Văn Hùng kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt; cùng ngày, bà Nguyễn Thị Trinh, ông Phạm Hoài Nam kháng cáo đề nghị Tòa án cấp phúc thẩm xem xét lại vụ án và chấp nhận hợp đồng mua bán nhà ngày 16-01- 1998 là hợp pháp.

Tại bản án hình sự phúc thẩm số 328/2007/HSPT ngày 26-3-2007, Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại Đà Nẵng giữ nguyên quyết định về hình phạt của bản án hình sự sơ thẩm đối với ông Hùng; áp dụng điểm a khoản 2 Điều 250 Bộ luật tố tụng hình sự, hủy quyết định về trách nhiệm dân sự của bản án hình sự sơ thẩm và giao hồ sơ vụ án cho Tòa án cấp sơ thẩm xét xử sơ thẩm lại.

Tại bản án hình sự sơ thẩm số 257/2007/HSST ngày 11-12-2007, Toà án nhân dân tỉnh Đắn Lâu đã xét xử sơ thẩm vụ án về phần dân sự trong cúi xác định nguyên đơn dân sự là ông Phạm Hoài Nam, bị đơn dân sự là ông Nguyễn Văn Hùng, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án là Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam (Chi nhánh tỉnh Đắk Lắk) và bà Nguyễn Thị Huế, căn cứ Điều 42 Bộ luật hình sự; Điều 605 và Điều 608 Bộ luật dân sự tuyên bố hợp đồng mua bán nhà số 2b đường Phan Chu Trinh giữa ông Nguyễn Văn Hùng và ông Phạm Hoài Nam là vô hiệu; chấp nhận sự tự nguyện thỏa thuận giữa các bên đương sự, ông Nguyễn Văn Hùng có trách nhiệm thanh toán (trả) cho ông Phạm Hoài Nam trị giá căn nhà số 2b đường Phan Chu Trinh theo giá mà ông Nguyễn Văn Hùng và ông Phạm Hoài Nam đã thỏa thuận giá căn nhà nói trên vào ngày 14-11-2007 là 2.400.000.000 đồng. Ngoài ra, Tòa án cấp sơ thẩm còn quyết định về án phí dân sự sơ thẩm đối với ông Hùng và ông Nam.

Ngày 12-12-2007 bà Nguyễn Thị Huế kháng cáo đề nghị Tòa án cấp phúc thẩm xem xét lại bản án sơ thẩm vì cho rằng Tòa án cấp sơ thẩm đã không cho bà tham gia tố tụng.

Ngày 13-12-2007 ông Nguyên Văn Hùng kháng cáo với nội dung Tòa án cấp sơ thẩm buộc ông Hùng phải trả cho ông Nam giá trị nhà số 2b là 2.400.000.000 đồng là không đúng. Ngày 09-02-2008 ông Hùng chết.

Tại bản án hình sự phúc thẩm số 296/2008/HSPT ngày 29-02-2008, Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại Đà Nẵng giữ nguyên các quyết định của bản án hình sự sơ thẩm.

Tại Kháng nghị giám đốc thẩm số22/2009/HS-TK ngày 08-7-2009, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao đề nghị Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao xét xử theo thủ tục giám đốc thẩm, huỷ bản án hình sự phúc thẩm số 296/2008/HSPT ngày 29-02-2008 của Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại Đà Nẵng và bản án hình sự sơ thẩm số 257/2007/HSST ngày 11-12-2007 của Toà án nhân dân tỉnh Đắk Lắk để xét xử sơ thẩm lại theo đúng quy định của pháp luật.

Tại phiên tòa giám đốc thẩm, đại diện Viện kiểm sát nhân dân tối cao nhất trí với kháng nghị của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao.

XÉT THẤY:

Ông Nguyễn Văn Hùng có hành vi gian dối chiếm đoạt của ông Nam và vợ ông Nam là bà Nguyễn Thị Trinh 150.000.000 đồng, nhưng bản án hình sự sơ thẩm số 233/2006/HSST ngày 18-9-2006 của Toà án nhân dân tỉnh Đắk Lắk không đưa ông Nam vào tham gia tố tụng để giải quyết quyền lợi của ông Nam và chỉ buộc ông Hùng phải bồi thường cho bà Trinh 83.000.000 đồng là không đúng pháp luật. Do đó, bản án hình sự phúc thẩm số 328/2007/HSPT ngày 26-3-2007 của Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại Đà Nẵng hủy bản án hình sự sơ thẩm số 233/2006/HSST ngày 18-9-2006 của Toà án nhân dân tỉnh Đắk Lắk về phần trách nhiệm dân sự và giao hồ sơ vụ án cho Tòa án cấp sơ thẩm xét xử sơ thẩm lại là đúng pháp luật.

Khi xét xử sơ thẩm lại phần dân sự của vụ án, Tòa án cấp sơ thẩm đã đưa bà Huế vào tham gia tố tụng với tư cách là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án, nhưng không xác định lỗi của bà Huế trong việc bán nhà cho vợ chồng ông Nam, để buộc bà Huế phải liên đới cùng với ông Hùng bồi thường cho ông Nam là không đúng pháp luật, vì theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án có căn cứ xác định bà Huế đã cùng với ông Hùng thế chấp nhà số 2b đường Phan Chu Trinh, phường Thắng Lợi, thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk cho Ngân hàng, sau đó lại cùng ông Hùng làm thêm bộ giấy tờ khác về quyền sở hữu ngôi nhà để bán ngôi nhà này cho vợ chồng ông Nam. Mặt khác, tại thời điểm này, vợ chồng ông Hùng chỉ còn nợ Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam (Chi nhánh tỉnh Đắk Lắk) 418.765.388 đồng, nhưng Toà án cấp sơ thẩm không định giá ngôi nhà trên của vợ chồng ông Hùng để sau khi phát mại ngôi nhà này thanh toán đủ cho ngân hàng, số tiền còn lại kê biên bảo đảm thi hành án đối với khoản tiền vợ chồng ông Hùng phải bồi thường cho ông Nam là sai lầm nghiêm trọng.

Khi xét xử phúc thẩm vụ án mặc dù ông Hùng đã chết, nhưng Tòa án cấp phúc thẩm chỉ đưa bà Huế vào tham gia tố tụng, không xác định ông cùng có bao nhiêu người thừa kế để đưa những người này vào tham gia tố tụng; không xác định di sản do ông Hùng để lại là bao nhiêu, để buộc những người thừa kế của ông Hùng có nghĩa vụ thay ông Hùng bồi thường cho ông Nam trong phạm vi di sản của ông Hùng để lại, mà vẫn buộc ông Hùng (là người đã chết) bồi thường cho ông Nam là vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng.

Mặt khác, vợ chồng ông Hùng đã thế chấp nhà ngôi số 2b đường Phan Chu Trinh, phường Thắng Lợi, thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk cho Ngân hàng để đảm bảo khoản nợ của vợ chồng ông Hùng tại Ngân hàng, nhưng vợ chồng ông Hùng lại làm hợp đồng bán ngôi nhà đang thế chấp cho vợ chồng ông Nam để lấy 150.000.000 đồng, nên hợp đồng mua bán nhà này không phải là hợp đồng dân sự thông thường, mà đây là thủ đoạn gian dối để vợ chồng ông Hùng chiếm đoạt của vợ chồng ông Nam 150.000.000 đồng. Tuy tại phiên toà sơ thẩm ông Hùng thỏa thuận trả cho ông Nam 2.400.000.000 đồng, nhưng sau đó ông Hùng đã thay đổi ý kiến, nên đã làm đơn kháng cáo không đồng ý với sự thỏa thuận trên. Do đó lẽ ra Toà án cấp phúc thẩm chỉ buộc vợ chồng ông Hùng bồi thường cho ông Nam số tiền đã chiếm đoạt của vợ chồng ông Nam là 150.000.000 đồng, nhưng lại tiếp tục ghi nhận sự thoả thuận trước đó giữa ông Hùng và ông Nam, buộc ông Hùng phải trả cho ông Nam 2.400.000.000 đồng là không đúng pháp luật.

Bởi các lẽ trên,

Căn cứ vào khoản 3 Điều 285 và Điều 287 Bộ luật tố tụng hình sự,

QUYẾT ĐỊNH:

1. Hủy bản án hình sự phúc thẩm số 296/2008/HSPT ngày 29-02-2008 của Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại Đà Nẵng và bản án hình sự sơ thẩm số 257/2007/HSST ngày 11-12-2007 của Toà án nhân dân tỉnh Đắk Lắk.

2. Giao hổ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk xét xử sơ thẩm tại theo đúng quy định của pháp luật.

  •  5169
  •  Cảm ơn
  •  Phản hồi

Chủ đề đang được đánh giá

0 Lượt cảm ơn
câu phản hồi
Click vào bảng để xem hiển thị đầy đủ thông tin

Bạn vui lòng đăng nhập hoặc Đăng ký tại đây để tham gia thảo luận

Loading…