DanLuat
Chào mừng bạn đến với Dân Luật . Để viết bài Tư vấn, Hỏi Luật Sư, kết nối với Luật sư và chuyên gia, … Bạn vui lòng ĐĂNG KÝ TÀI KHOẢN.
×

Thêm câu phản hồi

Quyết định giám đốc thẩm về án Lê Văn Hoàng bị kết án về tội "chứa mại dâm"

Số hiệu

11/2007/HS-GĐT

Tiêu đề

Quyết định giám đốc thẩm về án Lê Văn Hoàng bị kết án về tội "chứa mại dâm"

Ngày ban hành

07/05/2007

Cấp xét xử

Giám đốc thẩm

Lĩnh vực

Hình sự

……..

Ngày 07 tháng 5 năm 2007, tại trụ sở Toà án nhân dân tối cao đã mở phiên toà giám đốc thẩm xét xử vụ án hình sự đối với: 

 

Lê Văn Hoàng, sinh năm 1949; trú tại ấp Mỹ Trung, xã Thiện Mỹ, huyện Trà Ôn, tỉnh Vĩnh Long; nghề nghiệp: khi phạm tội là nhân viên khách sạn Chadaco; con ông Lê Văn Hành và bà Nguyễn Thị Tư (đều đã chết); có vợ và 2 con; bị bắt giam từ ngày 18-7-2004 đến ngày 16-11-2004.

(Trong vụ án còn có bị cáo Nguyễn Văn Ngời sinh năm 1961 bị kết án về tội Mua dâm người chưa thành niên.)

Người bị hại: cháu Phan Thị Trúc Mai, sinh ngày 03-4-1989; Người đại diện hợp pháp của người bị hại là chị Nguyễn Thị Dung (là mẹ của cháu Mai) trú tại ấp Nhì, xã An Phong, huyện Thanh Bình, tỉnh Đồng Tháp.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án: Lê Thị Oanh Đa (chủ khách sạn Chadaco); trú tại khu phố 7, phường Phú Hòa, thị xã Thủ Dầu Một, tỉnh Bình Dương.

NHẬN THẤY:

Khoảng 19 giờ 35 phút ngày 18-7-2004, Công an thị xã Thủ Dầu Một, tỉnh Bình Dương kiểm tra hành chính phát hiện tại khách sạn Chadaco có 3 trường hợp mua bán dâm tại các phòng 1A, 4A, 5A. Trong đó, tại phòng 1A có Nguyễn Văn Long mua dâm Lê Thị Bích Thuỳ, tại phòng 5A Lê Văn Hải mua dâm Mai Thị Kim Anh, tại phòng 4A có Nguyễn Văn Ngời mua dâm cháu Phan Thị Trúc Mai (theo giấy khai sinh sinh ngày 03-4-1989, mới 15 tuổi 3 tháng 15 ngày).

Quá trình điều tra, Lê Văn Hoàng khai nhận: Lê Thị Oanh Đa (là chủ khách sạn Chadaco) thuê Hoàng làm nhân viên lễ tân cho khách sạn, theo thỏa thuận giữa Đa và Hoàng thì Hoàng được phép cho khách thuê phòng khi Đa đi vắng, được trả lương 400.000 đồng/1tháng, nếu Hoàng làm tốt thì được trả thêm mỗi tháng 300.000 đồng. Hoàng khai biết rõ các đối tượng trên vào thuê phòng để thực hiện việc mua bán dâm, nhưng vẫn cho thuê phòng mà không kiểm tra giấy tờ nhằm tạo thuận lợi cho khách thuê, từ đó tăng thu nhập cho khách sạn, số gái bán dâm cũng  thừa nhận đã nhiều lần đến thuê phòng tại khách sạn Chadaco để bán dâm cho khách.

Lê Văn Hoàng bị truy tố về tội “Chứa mại dâm”, Nguyễn Văn Ngời bị truy tố về tội “Mua dâm người chưa thành niên”. Đối với Lê Thị Oanh Đa, do không chứng minh được Đa biết việc Hoàng nhiều lần cho gái bán dâm đến thuê phòng tại khách sạn để bán dâm, nên chỉ bị xử phạt hành chính.

Tại bản án hình sự sơ thẩm số 254/2005/HSST ngày 07-10-2005, Toà án nhân dân tỉnh Bình Dương áp dụng điểm a khoản 3 Điều 254; khoản 2 Điều 46; Điều 47 Bộ luật hình sự, xử phạt Lê Văn Hoàng 5 năm tù về tội "Chứa mại dâm".

(Riêng Nguyễn Văn Ngời bị xử phạt 24 tháng tù nhưng cho hưởng án treo với thời gian thử thách 36 tháng, bị phạt tiền 5.000.000 đồng về tội Mua dâm người chưa thành niên.)

Ngày 09-10-2005, bị cáo Lê Văn Hoàng kháng cáo kêu oan.

Tại bản án hình sự phúc thẩm s�� 179/2006/HSPT ngày 13-3-2006, Toà phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao tại thành phố Hồ Chí Minh áp dụng điểm b khoản 2 Điều 248 Bộ luật tố tụng hình sự, sửa bản án hình sự sơ thẩm: áp dụng điểm d khoản 2 Điều 254; các điểm p và s khoản 1, khoản 2 Điều 46; Điều 47; Điều 60 Bộ luật hình sự, xử phạt Lê Văn Hoàng 3 năm tù nhưng cho hưởng án treo với thời gian thử thách là 36 tháng về tội "Chứa mại dâm”.

Tại Quyết định kháng nghị số07/QĐ-VKSTC-V3 ngày 05-3-2007, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao kháng nghị bản án hình sự phúc thẩm số 179/2006/HSPT ngày 13-3-2006 của Toà phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao tại thành phố Hồ Chí Minh đối với Lê Văn Hoàng và đề nghị Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao xét xử theo thủ tục giám đốc thẩm huỷ bản án hình sự phúc thẩm nêu trên để xét xử phúc thẩm lại, với lý do sau:

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án như: giấy khai sinh, chứng minh nhân dân, sổ hộ khẩu, sổ xác định hộ nghèo, lời khai của chị Nguyễn Thị Dung (mẹ đẻ Phan Thị Trúc Mai), các tài liệu quản lý tại Sở Tư pháp tỉnh Đồng Tháp và xác nhận của chính quyền địa phương đều thống nhất xác định Phan Thị Trúc Mai sinh năm 1989. Sau khi kiểm tra hồ sơ vụ án, Viện kiểm sát nhân dân tối cao đã tiến hành xác minh tại Uỷ ban nhân dân xã An Phong, huyện Thanh Bình, tỉnh Đồng Tháp. Theo tàng thư của Công an huyện Thanh Bình được lập từ năm 1989 khẳng định Phan Thị Trúc Mai sinh năm 1989. Còn tại Uỷ ban nhân dân xã Thiện Mỹ, huyện Trà Ôn, tỉnh Vĩnh Long xác nhận Lê Văn Hoàng có đi bộ đội từ năm 1969 nhưng đến năm 1982 đã tự ý bỏ đơn vị về địa phương và không có tài liệu nào chứng minh Lê Văn Hoàng có huân huy chương kháng chiến hạng ba. Việc Toà án cấp phúc thẩm xác định Mai sinh năm 1987 để nhận định khi bị cáo Hoàng phạm tội thì Phan Thị Trúc Mai không còn là trẻ em và căn cứ nhân thân tốt của Lê Văn Hoàng để tuyên phạt Lê Văn Hoàng 03 năm tù về tội "chứa mại dâm" nhưng cho hưởng án treo là không có cơ sở pháp lý.

Tại phiên tòa giám đốc thẩm, Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tối cao giữ nguyên quan điểm đã nêu trong kháng nghị và đề nghị Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao chấp nhận kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao.

XÉT THẤY:

Tòa án cấp sơ thẩm và Tòa án cấp phúc thẩm kết án Lê Văn Hoàng về tội “Chứa mại dâm” và kết án Nguyễn Văn Ngời về tội “Mua dâm người chưa thành niên” là có căn cứ, đúng pháp luật. Tuy nhiên, Tòa án cấp phúc thẩm có sự sai lầm trong việc xác định độ tuổi của người bị hại, cụ thể như sau:

Tòa án cấp phúc thẩm chỉ căn cứ vào lời khai và bản tường trình của cháu Mai và chị Nguyễn Thị Dung (mẹ cháu Mai) để khẳng định cháu Mai sinh năm 1987 là thiếu căn cứ. Trong khi đó, các giấy tờ pháp lý như: giấy khai sinh, sổ hộ khẩu, chứng minh nhân dân, sổ chứng nhận hộ nghèo, tàng thư hộ khẩu của Công an huyện Thanh Bình và tài liệu quản lý tại Sở tư pháp tỉnh Đồng Tháp thì cháu Phan Thị Trúc Mai sinh năm 1989. Các giấy tờ pháp lý trên không mâu thuẫn với nhau, nên về nguyên tắc phải dựa vào các giấy tờ này để xác định năm sinh của cháu Mai là 1989.

Về các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với Lê Văn Hoàng mà Tòa án cấp phúc thẩm nhận định trong bản án cũng là không chính xác như: Tòa án cấp phúc thẩm xác định bị cáo Hoàng được tặng thưởng Huân chương kháng chiến hạng ba để áp dụng điểm s khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự là không có căn cứ, bởi lẽ chỉ dựa vào lời khai của bị cáo và xác nhận của Hội cựu chiến binh xã Thiện Mỹ, huyện Trà Ôn, tỉnh Vĩnh Long, mà không có giấy tờ chứng minh là Hoàng có được tặng Huân chương và  theo Biên bản xác minh ngày 06-02-2007 của Viện kiểm sát nhân dân tối cao thì Lê Văn Hoàng tuy có tham gia quân đội từ năm 1969 đến năm 1982 nhưng sau đó bỏ ngũ về địa phương và không có Huân chương kháng chiến, không được hưởng các chính sách khen thưởng tại địa phương. Ngoài ra, Lê Văn Hoàng chỉ có 1 tình tiết giảm nhẹ là “thành khẩn khai báo” theo điểm p khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự, nhưng mức độ giảm nhẹ không đáng kể, bởi lẽ tại phiên tòa sơ thẩm bị cáo không nhận tội, đến phiên tòa phúc thẩm mới nhận tội và xin giảm hình phạt. Mặt khác, ngày 18-7-2004 cơ quan Công an kiểm tra phát hiện tại khách sạn Chadaco chứa mại dâm 3 đôi, trong đó có 2 đôi (đôi Lê Thị Bích Thùy và đôi Mai Thị Kim Anh) đi cùng nhau. Do đó, nếu loại trừ yếu tố về tuổi của cháu Mai và giả thiết Tòa án cấp phúc thẩm xác định cháu Mai sinh năm 1987 là đúng, thì hành vi phạm tội của Lê Văn Hoàng cũng thuộc trường hợp quy định tại điểm c (phạm tội nhiều lần) và điểm d (phạm tội đối với người chưa thành niên từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi) khoản 2 Điều 254 Bộ luật hình sự có khung hình phạt từ 5 năm tù đến dưới 15 năm tù, nên mức hình phạt mà Tòa án  cấp phúc thẩm quyết định đối với bị cáo là quá nhẹ.

Như vậy, do xác định không đúng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nên Tòa án cấp phúc thẩm áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự để xử phạt Lê Văn Hoàng 3 năm tù (dưới mức thấp nhất của khung hình phạt theo khoản 2 Điều 254 Bộ luật hình sự) và còn cho bị cáo được hưởng án treo là sai lầm nghiêm trọng trong việc áp dụng Bộ luật hình sự.

Bởi các lẽ trên, căn cứ vào khoản 3 Điều 285 và Điều 287 Bộ luật tố tụng hình sự;

QUYẾT ĐỊNH:

Huỷ bản án hình sự phúc thẩm số 179/2006/HSPT ngày 13-3-2006 của Toà phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao tại thành phố Hồ Chí Minh; giao hồ sơ vụ án cho Toà phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao tại thành phố Hồ Chí Minh xét xử phúc thẩm lại đối với Lê Văn Hoàng theo đúng quy định của pháp luật.

Lý do bản án phúc thẩm bị hủy:

Do Tòa án cấp phúc thẩm đã sai lầm nghiêm trọng trong việc áp dụng Bộ luật hình sự về xác định tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự

 

  •  3774
  •  Cảm ơn
  •  Phản hồi

Chủ đề đang được đánh giá

0 Lượt cảm ơn
câu phản hồi
Click vào bảng để xem hiển thị đầy đủ thông tin

Bạn vui lòng đăng nhập hoặc Đăng ký tại đây để tham gia thảo luận

Loading…