DanLuat
Chào mừng bạn đến với Dân Luật . Để viết bài Tư vấn, Hỏi Luật Sư, kết nối với Luật sư và chuyên gia, … Bạn vui lòng ĐĂNG KÝ TÀI KHOẢN.
×

Thêm câu phản hồi

Quyết định giám đốc thẩm số 04/HĐTP-DS ngày 27-01-2005 về vụ án “đòi nhà cho ở nhờ và tranh chấp quyền sử dụng đất”

Số hiệu

04/HĐTP-DS

Tiêu đề

Quyết định giám đốc thẩm số04/HĐTP-DS ngày 27-01-2005 về vụ án “đòi nhà cho ở nhờ và tranh chấp quyền sử dụng đất”

Ngày ban hành

27/01/2005

Cấp xét xử

Giám đốc thẩm

Lĩnh vực

Dân sự

 


Quyết định giám đốc thẩm số04/HĐTP-DS

ngày 27-01-2005 về vụ án “đòi nhà cho ở nhờ 
và tranh chấp quyền sử dụng đất”

Hội đồng thẩm phán toà án nhân dân tối cao

...

Ngày 27 tháng 1 năm 2005, tại trụ sở Toà án nhân dân tối cao đã xét xử theo thủ tục giám đốc thẩm vụ án dân sự đòi nhà cho ở nhờ và tranh chấp quyền sử dụng đất giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Ông Lưu Tô, sinh năm 1948

                     Bà Nguyễn Thị Diệu, sinh năm 1952

Cùng trú tại: Số 102 đường Hai Bà Trưng, thành phố Cần Thơ, tỉnh Cần Thơ. Bà Nguyễn Thị Diệu uỷ quyền cho anh Lưu Quốc Tuấn.

Bị đơn:          Ông Lưu Cường, sinh năm 1942

                      Bà Tăng Phụng Châu, sinh năm 1953

                      Ông Lưu Hữu Lộc, sinh năm 1970.

Cùng trú tại: B76A, khu phố 3, phường Đông Hưng Thuận, quận 12, thành phố Hồ Chí Minh. Ông Lưu Hữu Lộc uỷ quyền cho ông Lưu Cường.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

                     Bà Võ Thị Coi

                      Ông Lý Văn Thanh

                      Chị Lý Thị Hồng

Cùng trú tại: B78, khu phố 3, phường Đông Hưng Thuận, quận 12, thành phố Hồ Chí Minh.

Nhận thấy:

Nguồn gốc nhà B75, B76, B78 và khu đất có diện tích 1056,7m2 tại khu phố 3, tỉnh lộ 15, phường Đông Hưng Thuận, quận 12, thành phố Hồ Chí Minh là của ông Lưu Giang (ông Giang là ông nội của ông Lưu Tô), ông Giang chết năm 1945. Con ông Lưu Giang là ông Lưu Trí và ông Lưu Tiên được hưởng toàn bộ nhà và đất trên. Năm 1951 ông Lưu Trí cùng hai người con là ông Lưu Tô và bà Lưu Vân nhận khoản tiền từ ông Lưu Tiên và giao ông Lưu Tiên trọn quyền sở hữu nhà đất nói trên, ngày 25-10-1962 ông Lưu Trí chết. Năm 1956 ông Lưu Tiên cho gia đình ông Lưu Chi (ông Chi là cha của ông Lưu Cường) ở nhờ căn nhà B76 và một phần nhà B78 và cho ông Lưu Văn Thanh và bà Lê Thị Coi vào ở một phần nhà B78 từ năm 1960 đến nay.

Ngày 18-8-1971 chính quyền cũ cấp trích lục địa bộ cho ông Lưu Trí và ông Lưu Tiên. Năm 1977 ông Tiên kê khai quyền sử dụng đất. Năm 1983 ông Lưu Chi chết, các con của ông Lưu Chi là Lưu Cường, Lưu Thiên Sanh, Lưu Hùng Lộc tiếp tục ở căn nhà trên. Năm 1989 ông Tiên được cấp giấy phép hợp thức hoá sở hữu 3 căn nhà B75, B76, B78.

Năm 1991 ông Lưu Tiên và bà Mai Thị Đào đi xuất cảnh qua Mỹ làm giấy cho vợ chồng ông Lưu Tô đứng quyền sở hữu toàn bộ 3 căn nhà B75, B76, B78, không đề cập đến diện tích đất 1056,7m2 ông Lưu Cường đang quản lý.

Năm 1992, ông Lưu Cường, ông Lưu Tỷ (con ông Lưu Tô) và ông Lưu Sanh (con ông Lưu Trí) thành lập xưởng ép dầu, mỗi người đóng góp 55 triệu đồng để xây dựng nhà xưởng trên một phần nhà B78 và trên phần đất trống, đến năm 1998 các bên lấy lại phần hùn, chỉ còn mình ông Lưu Cường quản lý nhà xưởng.

Năm 1997 gia đình ông Lưu Cường và ông Lưu Tô tranh chấp với nhau về nhà đất. Tại biên bản hoà giải ngày 3-11-1997, các bên thỏa thuận công nhận căn nhà B76 của ông Lưu Tô, công nhận phần đất diện tích 987m2 trong đó có xưởng ép dầu thuộc quyền sử dụng của ông Lưu Cường.

Ngày 27-1-1999, ông Lưu Tô có đơn khởi kiện yêu cầu lấy lại nhà B76, nhà B78 có xưởng ép dầu và phần khuôn viên đất mà ông Lưu Cường và ông Lý Văn Thanh đang sử dụng.

Tại bản án số 19/DSST ngày 22-12-1999, Toà án nhân dân quận 12, thành phố Hồ Chí Minh quyết định công nhận sự thoả thuận của các bên đương sự như sau:

- Ông Lưu Cường, ông Lưu Thiên Sanh, ông Lưu Hữu Lộc giao trả căn nhà B76, tỉnh lộ 15, KP3, phường Đông Hưng Thuận, quận 12, thành phố Hồ Chí Minh cho ông Lưu Tô và bà Nguyễn Thị Diệu hạn chót là ngày 22-12-2000;

- Ông Lưu Cường trả phần nhà làm xưởng ép dầu (diện tích 117,8m2) trong nhà B78, tỉnh lộ 15, KP3, phường Đông Hưng Thuận, quận 12, thành phố Hồ Chí Minh, hạn chót là ngày 22-6-2000;

- Chuyển sang ủy ban nhân dân quận 12, thành phố Hồ Chí Minh giải quyết theo thẩm quyền việc tranh chấp diện tích 899,65m2 đất thuộc thửa số 26, tờ bản đồ số 4, xã Đông Hưng Thuận, huyện Hóc Môn (nay là phường Đông Hưng Thuận, quận 12);

- Ông Lưu Tô hoàn trả cho ông Lưu Cường 41.256.150 đồng giá trị xây dựng căn nhà B78 và ông Lưu Tô trả cho ông Lưu Cường và ông Lưu Hữu Lộc (ông Lộc con ông Lưu Cường) 50.000.000 đồng, tiền trang trí nội thất và hỗ trợ việc di dời;

- Giao việc xử lý kiosque có diện tích 30m2 trước nhà B76 tỉnh lộ 15, KP3, phường Đông Hưng Thuận, quận 12, thành phố Hồ Chí Minh cho Uỷ ban nhân dân phường Đông Hưng Thuận giải quyết;

- Ông Lý Văn Thanh, bà Võ Thị Coi, bà Lý Thị Hồng cùng ông Lưu Tô, bà Nguyễn Thị Diệu lập hợp đồng thuê một phần nhà B78, có diện tích 70m2.

Vào các ngày 21 và 26-7-2000 ông Lưu Cường thi hành bản án số 19/DSST ngày 22-12-1999 của Toà án nhân dân quận 12, thành phố Hồ Chí Minh giao căn nhà B76 và một phần nhà B78 (diện tích 117,87m2) cho ông Lưu Tô và ông Lưu Tô trả tiền cho ông Lưu Cường và ông Lưu Hữu Lộc.

Sau đó ông Lưu Tô có đơn khiếu nại đến ủy ban nhân dân quận 12, thành phố Hồ Chí Minh yêu cầu ông Lưu Cường trả lại diện tích đất trên.

Tại quyết định số73/QĐ-UB ngày 24-4-2002, ủy ban nhân dân quận 12, thành phố Hồ Chí Minh quyết định: Bác yêu cầu ông Lưu Tô.

Ông Lưu Tô tiếp tục có đơn khiếu nại Quyết định số73/QĐ-UB.

Tại quyết định số96/QĐ-UB ngày 12-6-2002, ủy ban nhân dân quận 12, thành phố Hồ Chí Minh quyết định: Huỷ bỏ toàn bộ quyết định số73/QĐ-UB ngày 24-4-2002 của ủy ban nhân dân quận 12, thành phố Hồ Chí Minh.

Ngày 6-9-2002 ông Lưu Tô có đơn khởi kiện tại Toà án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh yêu cầu đòi lại diện tích khuôn viên nhà ở tại thửa số 26, tờ bản đồ số 4, xã Đông Hưng Thuận, huyện Hóc Môn, thành phố Hồ Chí Minh (nay là phường Đông Hưng Thuận, quận 12).

Tại quyết định số31/KNDS-GĐT ngày 5-12-2002, Chánh án Toà án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh kháng nghị bản án số 19/DSST ngày 22-12-1999 của Toà án nhân dân quận 12, thành phố Hồ Chí Minh, với lý do: Toà án cấp sơ thẩm tách việc giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất gắn liền với tài sản trên đất chuyển cho ủy ban nhân dân giải quyết là không đúng, vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng.

Tại Quyết định giám đốc thẩm số05/DS-GĐT ngày 08-4-2003, ủy ban Thẩm phán Toà án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh quyết định: Huỷ bản án 
số 19/DSST ngày 22-12-1999 của Toà án nhân dân quận 12, thành phố Hồ Chí Minh; giao hồ sơ vụ án cho Toà án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh để giải quyết lại theo thủ tục sơ thẩm.

Tại bản án 2183/DSST ngày 16-12-2003, Toà án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh quyết định: Bác yêu cầu của ông Lưu Tô và bà Nguyễn Thị Diệu đòi sử dụng 1056,7m2 đất tại B76A khu phố 3, phường Đông Hưng Thuận, quận 12, thành phố Hồ Chí Minh;

- Tạm giao quyền sử dụng đất có diện tích 1056,7m2 tại B76 khu phố 3, phường Đông Hưng Thuận, quận 12, thành phố Hồ Chí Minh cho ông Lưu Cường tiếp tục sử dụng, theo vị trí hoạ đồ vẽ ngày 16-10-2003 của Công ty phát triển và kinh doanh nhà...

Ngày 18-12-2003 ông Lưu Tô kháng cáo.

Tại bản án số 164/DSPT ngày 14-5-2004, Toà phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao tại thành phố Hồ Chí Minh quyết định chấp nhận đơn kháng cáo của ông Lưu Tô;

- Buộc ông Lưu Cường giao lô đất 1056,7m2 tại B76A, khu phố 3, phường Đông Hưng Thuận, quận 12, thành phố Hồ Chí Minh cho ông Lưu Tô do anh Lưu Quốc Tuấn đại diện nhận;

- Ông Lưu Quốc Tuấn được quyền đến cơ quan có thẩm quyền xin cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo quy định tại Điều 50, khoản 1, điểm e, Luật đất đai 2003;

- Ranh giới lô đất được xác định theo vị trí hoạ đồ đo vẽ ngày 16-10-2003 của Công ty phát triển và kinh doanh nhà thuộc Công ty địa ốc Sài Gòn.

Về án phí: Ông Lưu Cường phải nộp án phí dân sự sơ thẩm 32.104.000 đồng và hoàn trả ông Lưu Tô 7.040.000 đồng dự phí án phí dân sự sơ thẩm theo biên lai thu ngày 23-3-2000 của Toà án nhân dân quận 12, thành phố Hồ Chí Minh.

Sau khi xét xử phúc thẩm, ông Lưu Cường có đơn khiếu nại.

Tại Quyết định số97/DS-TK ngày 9-11-2004, Chánh án Toà án nhân dân tối cao kháng nghị bản án dân sự phúc thẩm số

164/DSPT ngày 14-5-2004 của Toà phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao tại thành phố Hồ Chí Minh và đề nghị Hội đồng Thẩm phán xét xử vụ án theo trình tự giám đốc thẩm, huỷ các bản án sơ thẩm và phúc thẩm nêu trên, để giải quyết lại vụ án từ giai đoạn sơ thẩm.

Tại phiên Toà đại diện Viện kiểm sát nhân dân tối cao nhất trí với kháng nghị của Chánh án Toà án nhân dân tối cao, đề nghị Hội đồng thẩm phán Toà án nhân dân tối cao xét xử giám đốc thẩm huỷ bản án dân sự phúc thẩm số 164/DSPT ngày 14-5/2004 của Toà phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao tại thành phố Hồ Chí Minh và bản án dân sự sơ thẩm số 2183/DSST ngày 16-12-2003 của Toà án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh, giao hồ sơ vụ án cho Toà án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm lại.

xét thấy:

Nhà B76, một phần nhà B78 và khu đất có diện tích 1056,7 m2 tại khu phố 3, tỉnh lộ 15, phường Đông Hưng Thuận, quận 12 thành phố Hồ Chí Minh (hiện đang tranh chấp) là của ông Lưu Giang (ông Giang là ông nội của ông Lưu Tô), ông Lưu Chi là cha ông Lưu Cường và ông Lưu Cường ở nhờ từ năm 1956 cho tới nay. Năm 1997 gia đình ông Lưu Cường và ông Lưu Tô tranh chấp với nhau về nhà đất. Theo thông báo kết quả hoà giải, thì ngày 3-11-1997 tại Uỷ ban nhân dân phường Đông Hưng Thuận, các bên thỏa thuận công nhận căn nhà B76 của ông Lưu Tô, công nhận phần đất diện tích 987m2 trong đó xưởng ép dầu thuộc quyền sử dụng của ông Lưu Cường, nhưng sau đó năm 1999 ông Lưu Tô có đơn khởi kiện yêu cầu lấy lại nhà B76, nhà B78 có xưởng ép dầu và diện tích đất 899,65m2. Tại bản án số 19/DSST ngày 22-12-1999 Toà án nhân dân quận 12, thành phố Hồ Chí Minh công nhận ông Lưu Cường trả nhà B76, B78 (có xưởng ép dầu) cho ông Lưu Tô, ông Lưu Tô Trả cho ông Lưu Cường và ông Lưu Hữu Lộc 91.265.150 đồng và chuyển sang Uỷ ban nhân dân quận 12 giải quyết tranh chấp diện tích 899,65m2 đất theo thẩm quyền. Bản án này đã thi hành án xong, nhưng sau đó Chánh án Toà án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh đã kháng nghị bản án dân sự số 19/DSST ngày 22-12-1999 của Toà án nhân dân quận 12. Tại quyết định giám đốc thẩm số05/DS-GĐT ngày 08-4-2003 của Uỷ ban Thẩm phán Toà án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh đã huỷ bản án số 19/DSST nêu trên, giao hồ sơ vụ án cho Toà án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm. Tại biên bản phiên toà sơ thẩm ngày 11-12-2003 của Toà án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh, ông Lưu Tô vẫn giữ yêu cầu lấy lại nhà B76, nhà B78 có xưởng ép dầu và diện tích 899,65mđất. Khi giải quyết lại Toà án các cấp không xem xét yêu cầu của ông Lưu Tô về việc đòi lại hai căn nhà B76, nhà B78 có xưởng ép dầu, mà chỉ xem xét yêu cầu đòi 1056,7m2 là đất đã bỏ sót yêu cầu khởi kiện.

 

Mặt khác, gia đình ông Lưu Cường đã ở từ năm 1956, trong thời gian ở nhờ gia đình ông Lưu Cường sửa chữa nhà B76, một phần nhà B78 và xây dựng thêm các công trình khác như: nhà kho, nhà để xe, nhà vệ sinh... trên khuôn viên khu đất 1056,7m2, tính đến ngày 1-7-1996 phía gia đình ông Lưu Tô không khiếu kiện đến cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Đây là vụ án đòi nhà cho ở nhờ được xác lập trước 01-7-1991, khi giải quyết Toà án các cấp không áp dụng Điều 4 và khoản 1 Điều 11 của Nghị quyết 58 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội là chưa chính xác. Trong vụ án này, quá trình giải quyết tranh chấp các đương sự có những thỏa thuận với nhau, nếu các thỏa thuận không trái pháp luật, các bên không phản đối cần tôn trọng và ghi nhận.

 

Do vậy, cần huỷ bán án dân sự phúc thẩm số 164/DSPT ngày 14-5-2004 của Toà phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao tại thành phố Hồ Chí Minh và bản án dân sự sơ thẩm số 2183/DSST ngày 16-12-2003 của Toà án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh, giao hồ sơ cho Toà án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh xác minh thu thập chứng cứ và xét xử lại từ giai đoạn sơ thẩm.

Bởi các lẽ trên và căn cứ vào khoản 3 Điều 291, khoản 3 Điều 297 và khoản 1, 2 Điều 299 Bộ luật tố tụng dân sự;

quyết định:

1. Huỷ bán án dân sự phúc thẩm số 164/DSPT ngày 14-5-2004 của toà phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao tại thành phố Hồ Chí Minh và bản án dân sự sơ thẩm số 2183/DSST ngày 16-12-2003 của Toà án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh xét xử vụ án đòi nhà cho ở nhờ và tranh chấp quyền sử dụng đất giữa nguyên đơn là ông Lưu Tô với bị đơn là ông Lưu Cường.

2. Giao hồ sơ vụ án cho Toà án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm lại theo đúng quy định của pháp luật.

____________________________________________

- Lý do huỷ bản án phúc thẩm và bản án sơ thẩm:

1. Toà án cấp sơ thẩm và phúc thẩm đã bỏ sót yêu cầu khởi kiện;

2. Toà án cấp sơ thẩm và phúc thẩm không áp dụng Điều 4 và Điều 11 của Nghị quyết số 58 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội đối với việc kiện đòi nhà cho ở nhờ được xác lập trước ngày 01-7-1991 là chưa chính xác.

- Nguyên nhân dẫn đến việc huỷ bản án phúc thẩm và sơ thẩm:

Thiếu sót trong việc xem xét yêu cầu khởi kiện và áp dụng pháp luật.

 

  •  3325
  •  Cảm ơn
  •  Phản hồi

Chủ đề đang được đánh giá

0 Lượt cảm ơn
câu phản hồi
Click vào bảng để xem hiển thị đầy đủ thông tin

Bạn vui lòng đăng nhập hoặc Đăng ký tại đây để tham gia thảo luận

Loading…