Hungmiausau viết:
Phần đất của cha bạn, do cha bạn đã mất nên bạn có quyền được hưởng thừa kế nhưng thời hiệu khởi kiện là 10 năm kể từ ngày cha bạn mất, hiện nay đã hết thời hiệu nên không có quyền khởi kiện.
Tôi không đồng ý với một số quan điểm của Hungmaiusa bởi các lý do sau:
Thứ nhất: Theo khoản 1 Điều 645, Bộ luật dân sự 2005, thời hiệu khởi kiện về thừa kế:
“Thời hiệu khởi kiện để người thừa kế yêu cầu chia di sản, xác nhận quyền thừa kế của mình, hoặc bác bỏ quyền thừa kế của người khác là 10 năm, kể từ thời điểm mở thừa kế”
Hết thời hạn này, người được thừa kế không có quyền khởi kiện nữa (Theo Khoản 1, Điều 159,Luật sửa đổi bổ sung một số điều Bộ luật Tố tụng Dân sự 2011). Tuy nhiên, thời gian 10 năm này không phải lúc nào cũng được tính liên tục.Tại Điều 161, Bộ luật dân sự 2005, quy định các khoản thời gian không tính vào thời hiệu khởi kiện vụ án dân sự, tức là khoảng thời gian xảy ra các sự kiện sau đây:
- “Sự kiện bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan làm cho chủ thể có quyền khởi kiện, quyền yêu cầu không thể khởi kiện, yêu cầu trong phạm vi thời hiệu.”
Thứ hai: - Quyền khởi kiện về tranh chấp di sản thừa kế là 10 năm, kể từ ngày mở thừa kế, nhưng không phải trong mọi trường hợp đều áp dụng quy định trên. Bởi lẽ theo quy định Tại Mục 2.4, Nghị quyết số 02/2004/NQ-HĐTP ngày 10/08/2004 của Hội đồng thẩm phán TANDTC hướng dẫn áp dụng pháp luật trong việc giải quyết các vụ án dân sự, hôn nhân và gia đình có quy định về hai trường hợp không tính thời hiệu khởi kiện về quyền thừa kế, đó là:
- Trường hợp có tài sản chung, tức là trong thời hạn 10 năm, kể từ thời điểm mở thừa kế mà những người được thừa kế không có tranh chấp về quyền thừa kế và có văn bản cùng xác nhận là đồng thừa kế; Hoặc sau khi kết thúc thời hạn 10 năm mà các đồng thừa kế không có tranh chấp về hàng thừa kế và đều thừa nhận di sản do người chết để lại chưa chia thì di sản đó chuyển thành tài sản chung của các thừa kế. Nếu có tranh chấp, hoặc có yêu cầu về việc chia thừa kế, Tòa án sẽ giải quyết như sau:
- Nếu không có di chúc và cũng không có thoả thuận giữa những người thừa kế về phần mỗi người được hưởng khi có nhu cầu chia tài sản, thì khi một trong những người thừa kế có yêu cầu về việc chia khối tài sản chung đó, việc chia này sẽ được thực hiện theo quy định của pháp luật về chia tài sản chung.
Như vậy, nếu các đồng thừa kế thừa nhận di sản thừa kế mà ông bố để lại chưa chia thì việc chia tài sản chung này được chia theo quy định pháp luật.
Thứ ba: Hungmaiusa cho rằng:
Việc mẹ bạn cho bạn đất và có điều kiện là chỉ được ở không được bán là tặng cho có điều kiện.
Điều kiện của mẹ bạn là trái pháp luật vì ngăn cản quyền của người sử dụng đất.
Theo quy định tại Điều 470 của Bộ luật Dân sự 2005 thì hợp đồng tặng cho tài sản có thể có điều kiện theo đó:
1. Bên tặng cho có thể yêu cầu bên được tặng cho thực hiện một hoặc nhiều nghĩa vụ dân sự trước hoặc sau khi tặng cho. Điều kiện tặng cho không được trái pháp luật, đạo đức xã hội.
2. Trong trường hợp phải thực hiện nghĩa vụ trước khi tặng cho, nếu bên được tặng cho đã hoàn thành nghĩa vụ mà bên tặng cho không giao tài sản thì bên tặng cho phải thanh toán nghĩa vụ mà bên được tặng cho đã thực hiện.
3. Trong trường hợp phải thực hiện nghĩa vụ sau khi tặng cho mà bên được tặng cho không thực hiện thì bên tặng cho có quyền đòi lại tài sản và yêu cầu bồi thường thiệt hại.
Như vậy, trong trường hợp, điều kiện tặng cho nếu được ghi nhận vào hợp đồng tặng cho và đã được công chứng, chứng thực, bạn có nghĩa vụ tuân thủ điều kiện này. Nếu bạn vi phạm nghĩa vụ bằng việc chuyển nhượng quyền sử dụng đất (bán đất), theo quy định tại khoản 3 Điều 470 Bộ luật Dân sự 2005 thì mẹ bạn có quyền đòi lại tài sản và yêu cầu bồi thường thiệt hại.
Trân trọng!
Cập nhật bởi Anlhk33-DLU ngày 13/08/2014 11:11:40 SA
Hãy theo đuổi đam mê, thành công sẽ đến với bạn.
Hotline: 0989.422.798. Luật sư - Hãng luật Hai Nguyen & Cộng Sự. Lya BuilDing, phòng 12 A, Chung cư Viện chiến lược Bộ Công An, Nguyễn Chánh, Cầu Giấy, Hà Nội.
Website: http://lamchuphapluat.vn/
Tư vấn luật miễn phí: http: http://duongleuocan.blogspot.com/