DanLuat
Chào mừng bạn đến với Dân Luật . Để viết bài Tư vấn, Hỏi Luật Sư, kết nối với Luật sư và chuyên gia, … Bạn vui lòng ĐĂNG KÝ TÀI KHOẢN.
×

Thêm câu phản hồi

Nghiệp vụ thanh tra chuyên ngành về tổ chức và hoạt động của luật sư

Bài viết được sưu tầm từ trang Hướng dẫn nghiệp vụ - Bộ Tư pháp

Quản lý nhà nước về tổ chức và hoạt động của luật sư là vấn đề đang được quan tâm và cần được tăng cường trong giai đoạn hiện nay. Thanh tra chuyên ngành về tổ chức và hoạt động của luật sư là công việc cần thiết, quan trọng để phục vụ cho yêu cầu quản lý. Để đáp ứng yêu cầu của nhiều địa phương và có thêm tài liệu tham khảo về công tác chỉ đạo nghiệp vụ thanh tra của Thanh tra Tư pháp, chúng tôi xin trình bày chuyên đề này dưới dạng quy trình thực hiện một cuộc thanh tra chuyên ngành về tổ chức và hoạt động của luật sư để cán bộ thanh tra và những tổ chức, cá nhân hành nghề luật sư cùng tham khảo.

I. CƠ SỞ PHÁP LÝ CỦA VIỆC TIẾN HÀNH THANH TRA CHUYÊN NGÀNH VỀ TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA LUẬT SƯ

1. Về thẩm quyền thanh tra, phạm vi thanh tra của Thanh tra Tư pháp

1.1 Đối với Thanh tra Bộ Tư pháp

- Tại khoản 2 và 3, Điều 25 của Luật thanh tra quy định nhiệm vụ, quyền hạn của Thanh tra bộ:  

2. Thanh tra việc chấp hành pháp luật chuyên ngành của cơ quan, tổ chức, cá nhân trong phạm vi quản lý nhà nước theo ngành, lĩnh vực do bộ phụ trách.

          3. Xử phạt vi phạm hành chính theo quy định của pháp luật về xử lý vi phạm hành chính.”.

 -Tại khoản 2 và 3, Điều 7 của Nghị định số 74/2006/NĐ-CP ngày 01/8/2006 quy định về tổ chức và hoạt động của Thanh tra Tư pháp trong đó quy định nhiệm vụ, quyền hạn của Thanh tra Bộ như sau:

2. Thanh tra chuyên ngành đối với cơ quan, tổ chức, cá nhân trong việc chấp hành pháp luật chuyên ngành thuộc phạm vi quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp theo quy định của pháp luật, bao gồm: kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật; phổ biến, giáo dục pháp luật; thi hành án dân sự; công chứng, chứng thực; hộ tịch; nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài; quốc tịch; lý lịch tư pháp; luật sư; tư vấn pháp luật; giám định tư pháp; bán đấu giá tài sản; trọng tài thương mại; trợ giúp pháp lý; đăng ký giao dịch bảo đảm; hợp tác với nước ngoài về pháp luật và công tác tư pháp khác.

3. Xử phạt vi phạm hành chính theo quy định của pháp luật về xử lý vi phạm hành chính.”.

Tại khoản 2, điều 83 của Luật luật sư đã quy định:

“ 2. Bộ Tư pháp chịu trách nhiệm trước Chính phủ thực hiện quản lý nhà nước về luật sư và hành nghề luật sư, có nhiệm vụ, quyền hạn sau đây:…

i) Kiểm tra, thanh tra, xử lý vi phạm, giải quyết khiếu nại, tố cáo về tổ chức luật sư và hành nghề luật sư;…:

1.2  Đối với Thanh tra Sở Tư pháp

 - Tại khoản 2, Điều 28 của Luật thanh tra quy định nhiệm vụ, quyền hạn của Thanh tra Sở: “Thanh tra việc chấp hành pháp luật chuyên ngành của cơ quan, tổ chức, các nhân trong lĩnh vực quản lý do sở phụ trách”;

 -Tại khoản 2, Điều 10 của Nghị định số 74/2006/NĐ-CP ngày 01/8/2006 quy định về tổ chức và hoạt động của Thanh tra Tư pháp trong đó quy định nhiệm vụ, quyền hạn của Thanh tra Sở như sau: “ Thanh tra chuyên ngành đối với cơ quan, tổ chức cá nhân trong việc chấp hành pháp luật chuyên ngành thuộc phạm vi quản lý nhà nước của Sở Tư pháp theo quy định của pháp luật gồm: kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật; phổ biến, giáo dục pháp luật; thi hành án dân sự cấp huyện (theo sự uỷ quyền của Bộ trưởng Bộ Tư pháp); công chứng, chứng thực; hộ tịch, quốc tịch; lý lịch tư pháp; nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài; luật sư; tư vấn pháp luật; giám định tư pháp; bán đấu giá tài sản; trọng tài thương mại; trợ giúp pháp lý và công tác tư pháp khác.”;

- Tại điểm h, khoản 2, Điều 25 của Nghị định số 28/2007/NĐ- CP ngày 26/02/2007 quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật luật sư đã quy định Sở Tư pháp giúp Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương thực hiện quản lý nhà nước về luật sư và hành nghề luật sư tại địa phương, có nhiệm vụ, quyền hạn sau đây: “Thực hiện kiểm tra, thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo về tổ chức, hoạt động của Đoàn luật sư, tổ chức hành nghề luật sư theo thẩm quyền hoặc theo uỷ quyền của Bộ trưởng Bộ Tư pháp hoặc Chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương; xử phạt vi phạm hành chính đối với luật sư, tổ chức hành nghề luật sư theo thẩm quyền.”;

1.3 Những quy định chung cho Thanh tra Bộ và Thanh tra Sở

Từ những quy định của pháp luật nêu trên, Thanh tra Bộ Tư pháp và Thanh tra Sở Tư pháp có thẩm quyền thanh tra trong phạm vi quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp, Sở Tư pháp nói chung và thanh tra về tổ chức và hoạt động của Đoàn luật sư, tổ chức hành nghề luật sư nói riêng. Tuy nhiên, thanh tra đối với Đoàn luật sư là hoạt động thanh tra chuyên ngành vì Đoàn luật sư không phải là đơn vị thuộc quyền quản lý trực tiếp của Sở Tư pháp. Do đó, khi tiến hành thanh tra chuyên ngành đối với Đoàn luật sư thì Đoàn thanh tra phải căn cứ vào khoản 3, Điều 4 của Luật Thanh tra năm 2004: “Thanh tra chuyên ngành là hoạt động thanh tra của cơ quan quản lý nhà nước theo ngành, lĩnh vực đối với cơ quan, tổ chức, cá nhân trong việc chấp hành pháp luật, những quy định về chuyên môn - kỹ thuật, quy tắc quản lý của ngành, lĩnh vực thuộc thẩm quyền quản lý.”.

Theo đó, về phạm vi thanh tra đối với Đoàn luật sư là có giới hạn, cụ thể là chỉ tiến hành thanh tra đối với việc chấp hành pháp luật, những quy định chuyên môn, quy tắc quản lý của ngành Tư pháp.

          Khi tiến hành thanh tra về tổ chức và hoạt động của luật sư, Đoàn thanh tra  cần chú ý:

+ Đối tượng của thanh tra chuyên ngành gồm: cán bộ, công chức  làm nhiệm vụ quản lý nhà nước trong lĩnh vực luật sư và các tổ chức, cá nhân có hoạt động trong lĩnh vực này.

+ Đối với sai phạm của cán bộ công chức làm nhiệm vụ quản lý nhà nước trong lĩnh vực luật sư thì xử lý theo Pháp lệnh cán bộ, công chức.

+ Đối với hành vi vi phạm hành chính của các tổ chức, cá nhân hoạt động trong lĩnh vực luật sư thì xử lý theo Điều 21 đến Điều 22 của Nghị định 76/2006/NĐ-CP của Chính phủ ngày 02/8/2006 quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực Tư pháp. 

2. Thẩm quyền ban hành quyết định thanh tra, kế hoạch thanh tra 

2.1. Thẩm quyền ban hành quyết định thanh tra

+ Đối với Bộ trưởng, Giám đốc Sở Tư pháp:

Tại Điều 37 của Nghị định số 41/2005/NĐ-CP ngày 25/3/2005 của Chính Phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Thanh tra đã quy định về quyết định thanh tra chuyên ngành theo chương trình, kế hoạch:

1. Căn cứ chương trình, kế hoạch thanh tra đã được Bộ trưởng, Giám đốc sở phê duyệt, Chánh Thanh tra bộ, Chánh Thanh tra sở ra quyết định thanh tra và thành lập Đoàn thanh tra để tiến hành thanh tra hoặc phân công Thanh tra viên chuyên ngành thực hiện nhiệm vụ thanh tra. Trường hợp cần thiết, Bộ trưởng, Giám đốc sở ra quyết định thanh tra và thành lập Đoàn thanh tra.”

2. Trường hợp Chánh Thanh tra phân công nhiệm vụ cho Thanh tra viên chuyên ngành tiến hành thanh tra độc lập thì việc phân công phải bằng văn bản, trong đó nêu rõ phạm vi, nhiệm vụ, thời hạn tiến hành thanh tra. 

Tại Điều 38 của Nghị định số 41/2005/NĐ-CP ngày 25/3/2005 của Chính Phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Thanh tra đã quy định về quyết định thanh tra chuyên ngành ngành đột xuất như sau:

“1. Thanh tra chuyên ngành đột xuất được tiến hành khi phát hiện cơ quan, tổ chức, cá nhân có dấu hiệu vi phạm pháp luật; theo yêu cầu của việc giải quyết khiếu nại, tố cáo hoặc do Thủ trưởng cơ quan quản lý nhà nước giao.

2. Chánh Thanh tra bộ, Chánh Thanh tra sở trình Bộ trưởng, Giám đốc sở quyết định việc thanh tra chuyên ngành đột xuất.

Chậm nhất sau 3 ngày, kể từ ngày nhận được đề nghị, Bộ trưởng, Giám đốc sở có trách nhiệm phê duyệt và thông báo cho Chánh Thanh tra bộ, Chánh Thanh tra sở.

3. Căn cứ vào quyết định phê duyệt của Bộ trưởng, Giám đốc sở, Chánh Thanh tra bộ, Chánh Thanh tra sở ra quyết định thanh tra và thành lập Đoàn thanh tra để tiến hành việc thanh tra. Trường hợp cần thiết, Bộ trưởng, Giám đốc sở ra quyết định thanh tra và thành lập Đoàn thanh tra.

Căn cứ vào báo cáo kết quả thanh tra, Bộ trưởng, Giám đốc sở có thể Uỷ quyền cho Chánh Thanh tra bộ, Chánh Thanh tra sở có Đoàn thanh tra ra kết luận thanh tra.” 

Theo đó chỉ trong trường hợp cần thiết thì Bộ trưởng, Giám đốc Sở mới trực tiếp ký quyết định thanh tra.

 + Đối với Chánh Thanh tra Bộ, Chánh Thanh tra Sở:

Căn cứ khoản 1, Điều 47 của Luật Thanh tra; khoản 1 và 2, Điều 37 của Nghị định số 41/2005/ NĐ- CP quy định về việc ra quyết định thanh tra chuyên ngành theo chương trình, kế hoạch:

“1. Căn cứ chương trình, kế hoạch thanh tra đã được Bộ trưởng, Giám đốc sở phê duyệt, Chánh Thanh tra bộ, Chánh Thanh tra sở ra quyết định thanh tra và thành lập Đoàn thanh tra để tiến hành thanh tra hoặc phân công Thanh tra viên chuyên ngành thực hiện nhiệm vụ thanh tra…

2. Trường hợp Chánh Thanh tra phân công nhiệm vụ cho Thanh tra viên chuyên ngành tiến hành thanh tra độc lập thì việc phân công phải bằng văn bản, trong đó nêu rõ phạm vi, nhiệm vụ, thời hạn tiến hành thanh tra.”

Căn cứ khoản 4, Điều 38 Nghị định số 41/2005/NĐ- CP: “Trường hợp phát hiện vụ việc vi phạm pháp luật cần phải ngăn chặn kịp thời, Chánh Thanh tra Bộ, Chánh Thanh tra Sở ra quyết định thanh tra đồng thời báo cáo ngay với Bộ trưởng, Giám đốc sở.”.

Với những quy định của pháp luật trên cho thấy Chánh Thanh tra Bộ, Chánh Thanh tra Sở có thẩm quyền ra quyết định thanh tra chuyên ngành theo chương trình, kế hoạch thanh tra đã được Bộ trưởng, Giám đốc Sở phê duyệt. Ví dụ tại thành phố Hà Nội: Chánh Thanh tra Sở Tư pháp thành phố Hà Nội hoặc Chánh Thanh tra Bộ Tư pháp có thẩm quyền ra quyết định thanh tra về tổ chức và hoạt động trong lĩnh vực luật sư bao gồm: Đoàn luật sư thành phố Hà Nội, phòng nghiệp vụ được Giám đốc Sở Tư pháp giao quản lý lĩnh vực luật sư, các tổ chức và cá nhân hành nghề luật sư tại thành phố Hà Nội nếu nội dung thanh tra  được Thanh tra Bộ, Thanh tra Sở Tư pháp đưa vào chương trình, kế hoạch thanh tra trong năm và đã được Bộ trưởng, Giám đốc Sở Tư pháp phê duyệt hoặc khi phát hiện thấy có hành vi vi phạm pháp luật cần ngăn chặn kịp thời thì Chánh Thanh tra Bộ, Chánh Thanh tra Sở cũng là người có thẩm quyền được ra quyết định thanh tra và báo cáo ngay với Bộ trưởng, Giám đốc Sở Tư pháp.

2.2. Thẩm quyền ban hành  kế hoạch thanh tra

          - Tại điểm a, khoản 1, Điều 8, Chương II của Quyết định số 2151/2006/QĐ- TTCP về Ban hành Quy chế hoạt động Đoàn thanh tra  ngày 10/11/2006 quy định: “Trưởng đoàn  thanh tra có nhiệm vụ tổ chức việc xây dựng kế hoạch tiến hành thanh tra trình Người ra quyết định thanh tra phê duyệt” .

Theo đó, Trưởng Đoàn thanh tra phải dự thảo kế hoạch thanh tra để trình người ra quyết định thanh tra phê duyệt kế hoạch thanh tra. 

3. Về thủ tục, trình tự để tiến hành thanh tra  của Thanh tra Sở Tư pháp đối với tổ chức và hoạt động của Đoàn luật sư 

Sau khi quyết định và kế hoạch của Đoàn thanh tra đã được phê duyệt, Đoàn thanh tra phải thực hiện theo quy định từ Điều 14 đến Điều 27 của Quyết định số 2151/2006/QĐ-TTCP ngày 10/11/2006 của Tổng Thanh tra ban hành quy chế hoạt động của Đoàn thanh tra. Cụ thể được thể hiện qua quy trình thanh tra về tổ chức, hoạt động của luật sư được trình bày dưới đây:

II. QUY TRÌNH THANH TRA CHUYÊN NGÀNH VỀ TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA LUẬT SƯ 

BƯỚC 1: CHUẨN BỊ VÀ QUYẾT ĐỊNH THANH TRA 

          Chuẩn bị thanh tra và quyết định thanh tra nhằm thiết lập những nội dung, kế hoạch để tiến hành thanh tra, bao gồm các công việc sau:

1. Thu thập thông tin

          - Thông tin là cơ sở quan trọng để quyết định nội dung và kế hoạch thanh tra, do vậy khi thu thập thông tin cần nắm toàn diện các thông tin có liên quan đến mục đích, yêu cầu và đối tượng, sự việc cần thanh tra. Cụ thể là Chánh Thanh tra phải chỉ đạo người sẽ được giao làm Trưởng Đoàn thanh tra liên hệ, có buổi làm việc trước khi thanh tra với Sở Tư pháp, Phòng Bổ trợ tư pháp, Ban Chủ nhiệm Đoàn luật sư để nắm thông tin tình hình về các cá nhân, tổ chức hành nghề luật sư. Số liệu phải thu thập là: có bao nhiêu luật sư, bao nhiêu văn phòng luật sư, Công ty Luật, tình hình hoạt động, của các cá nhân, tổ chức đó, tổ chức nào hoạt động có hiệu quả hoặc bị khiếu nại, tố cáo, hoặc có dấu hiệu vi phạm pháp luật.

- Chuẩn bị đầy đủ các văn bản pháp luật có liên quan đến lĩnh vực luật sư như: Luật luật sư, Nghị định 28/2007/NĐ-CP, Nghị định 76/2006/NĐ-CP ngày 02/8/2006 quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực Tư pháp, Nghị định số 74/2006/NĐ-CP, Luật Thanh tra, Quyết định số 2151/2006/QĐ -TTCP

2. Lập báo cáo khảo sát

          Nghiên cứu, phân tích các thông tin đã thu thập được, lập báo cáo khảo sát theo nội dung và trình tự sau:

          - Danh sách trích ngang các cá nhân, tổ chức hành nghề luật sư: có họ tên người đứng đầu tổ chức, tên tổ chức, địa chỉ, số điện thoại liên lạc

          - Hoạt động, kết quả hoạt động và sự việc liên quan đến các quy định của ngành.

           - Nhận định, đánh giá những vấn đề nổi cộm, khả năng và dấu hiệu vi phạm pháp luật.

          - Những thuận lợi, khó khăn và tình hình thanh tra, kiểm tra, kiểm toán của các cơ quan, tổ chức đối với đối tượng thanh tra (để tránh thanh tra trùng lắp).

 - Đề xuất những nội dung cần thanh tra, trong đó nêu rõ nội dung trọng tâm, trọng điểm; những tổ chức, cơ quan, cá nhân cần đến thanh tra, xác minh.

3. Lập kế hoạch thanh tra

          Kế hoạch thanh tra gồm những nội dung cơ bản sau:

  + Mục đích, yêu cầu cuộc thanh tra;

            +Nội dung thanh tra, trong đó nêu rõ nội dung trọng tâm, trọng điểm;

            +Danh sách các cá nhân, tổ chức hành nghề luật sư được thanh tra, thời kỳ thanh tra, thời hạn thanh tra;

             Lập kế hoạch chi tiết cho từng nội dung thanh tra, trong đó nêu rõ: những công việc cần triển khai, phương pháp tiến hành, nơi cần đến làm việc, thời gian triển khai, kết thúc; nhân sự Đoàn thanh tra (Trưởng Đoàn, phó Trưởng Đoàn và các thành viên), phân công nhiệm vụ cho tổ, nhóm (nếu có) và các thành viên Đoàn thanh tra.

          Để cụ thể hơn về kế hoạch thanh tra, tôi xin đưa ra kế hoạch thanh tra chuyên ngành về lĩnh vực luật sư tại thành phố Hồ Chí Minh như sau:

Mấu số 1

          Trong trường hợp cần trưng tập người của đơn vị khác vào làm thành viên Đoàn thanh tra thì Chánh Thanh tra phải có công văn đề nghị thủ trưởng đơn vị có người tham gia cử người tham gia Đoàn thanh tra. Ví dụ cụ thể như Công văn sau:

Mẫu số 2

4. Ra quyết định, phê duyệt kế hoạch thanh tra

Thủ trưởng cơ quan, tổ chức trình thủ trưởng cơ quan quản lý nhà nước cùng cấp hoặc người được giao nhiệm vụ trình chánh thanh tra dự thảo quyết định thanh tra kèm theo kế hoạch thanh tra và báo cáo khảo sát.

Thủ trưởng cơ quan quản lý nhà nước hoặc chánh thanh tra ra quyết định thanh tra, đồng thời phê duyệt kế hoạch thanh tra.

Quyết định thanh tra phải thể hiện rõ tên cơ quan, tổ chức hoặc cá nhân là đối tượng thanh tra; nội dung, thời kỳ và thời hạn thanh tra; thành lập Đoàn thanh tra và các tiêu chí khác. Chúng tôi xin trình bày quyết định thanh tra chuyên ngành về lĩnh vực luật sư tại thành phố Hồ Chí Minh như sau: 

Mẫu số 3

Trường hợp cuộc thanh tra có nội dung đơn giản, thanh tra đột xuất, quyết định thanh tra được ra trước khi có kế hoạch thanh tra; nhưng sau khi có quyết định thanh tra, Trưởng Đoàn thanh tra (hoặc thanh tra viên tiến hành thanh tra độc lập) có trách nhiệm xây dựng kế hoạch thanh tra trình người ra quyết định thanh tra phê duyệt. 

5. Chuẩn bị triển khai thanh tra

          Khi quyết định thanh tra được lưu hành, Trưởng Đoàn thanh tra có trách nhiệm:

          5.1. Thông báo bằng văn bản, gửi quyết định thanh tra, kế hoạch thanh tra cho Giám đốc Sở Tư pháp, Chủ nhiệm Đoàn luật sư, các tổ chức hành nghề luật sư được lựa chọn đến thanh tra và yêu cầu đối tượng thanh tra chuẩn bị những công việc liên quan tới buổi công bố quyết định thanh tra.

          Nội dung, biểu mẫu yêu cầu đối tượng thanh tra chuẩn bị và báo cáo Đoàn thanh tra; 

          Thành phần dự họp công bố quyết định thanh tra;

Thời gian, địa điểm công bố quyết định thanh tra.

Để dễ dàng thực hiện, chúng tôi xin trình bày 02 Công văn của Đoàn thanh tra dưới đây:

Thứ nhất, Công văn gửi đồng chí Giám đốc Sở Tư pháp thành phố Hồ Chí Minh và ông Chủ nhiệm Đoàn luật sư thành phố Hồ Chí Minh:

Thứ hai, Công văn gửi các tổ chức hành nghề luật sư, tư vấn pháp luật

          5.2. Họp Đoàn thanh tra, chuẩn bị các điều kiện cần thiết.

          - Tổ chức họp Đoàn thanh tra để quán triệt kế hoạch thanh tra đã được phê duyệt, quy chế Đoàn thanh tra; bàn các biện pháp cụ thể để tổ chức thực hiện kế hoạch; giao nhiệm vụ cụ thể cho Phó Trưởng Đoàn (nếu có) và từng thành viên Đoàn thanh tra.  

          - Đối với cuộc thanh tra có nhiều nội dung phức tạp hoặc cuộc thanh tra diện rộng hoặc thành phần Đoàn thanh tra có các thành viên là người của nhiều cơ quan, đơn vị tham gia (ví dụ: thanh tra thuế, công an…); Trưởng Đoàn thanh tra hoặc người được người ra quyết định thanh tra giao nhiệm vụ, tiến hành quán triệt và tổ chức tập huấn những nội dung cần thiết, thống nhất phương pháp tiến hành.

          - Chuẩn bị đầy đủ các mẫu Biên bản làm việc, Biên bản vi phạm hành chính, Quyết định xử phạt vi phạm hành chính, quán triệt quy trình xử phạt hành chính, cách vận dụng Điều 21 và 22 của Nghị định 76/2006/NĐ-CP để các thành viên Đoàn thanh tra phải nắm rõ và vận dụng chuẩn xác các hành vi vi phạm trong thực tế để đối chiếu, xử phạt hành chính khi có đầy đủ cơ sở pháp lý.

          - Chuẩn bị phương tiện (ô tô), thiết bị (máy quay phim, máy ghi âm, máy ảnh kỹ thuật số để chụp được tài liệu), kinh phí và những điều kiện vật chất  cần thiết khác phục vụ cho hoạt động của Đoàn thanh tra. 

BƯỚC 2:  TIẾN HÀNH THANH TRA 

          1. Công bố quyết định thanh tra

          Chậm nhất mười lăm ngày kể từ ngày ký quyết định thanh tra, Trưởng Đoàn thanh tra có trách nhiệm công bố quyết định thanh tra với đối tượng thanh tra. 

 Thành phần tham dự cuộc họp công bố Quyết định thanh tra gồm: Đoàn thanh tra, Lãnh đạo Sở Tư pháp, toàn thể công chức Phòng Bổ trợ tư pháp - Sở Tư pháp và đại diện Ban Chủ nhiệm Đoàn luật sư.

          Thực hiện công bố đầy đủ nội dung quyết định thanh tra và nêu rõ mục đích, yêu cầu, cách thức làm việc, kế hoạch tiến hành thanh tra. Trưởng Đoàn thanh tra phải giải thích: việc thanh tra là do kế hoạch hay đột xuất, cơ sở pháp lý của việc tiến hành thanh tra chuyên ngành.

          Trong thực tế nhiều người chưa hiểu hết viấn đề quản lý nhà nước về lĩnh vực luật sư nên phải căn cứ vào Luật luật sư, Luật thanh tra, Nghị định 74/2006/NĐ-CP, Nghị định 76/2006/NĐ-CP để giải thích rõ chức năng, quyền hạn của Đoàn thanh tra. Đặc biệt phải giải thích rõ việc Đoàn thanh tra sẽ kiểm tra kỹ các hợp đồng dịch vụ pháp lý để xem xét luật sư có tuân thủ theo Điều 26 của Luật luật sư hay không, trong hợp đồng có ghi rõ mức thù lao theo quy định tại điều 21 của Nghị định 76/2006/NĐ-CP hay không, hợp đồng ký có đúng theo nội dung đăng ký hoạt động không…chính vì vậy mà Đoàn thanh tra có trách nhiệm, quyền hạn xem xét các hợp đồng dịch vụ pháp lý nhưng về nghĩa vụ thì Đoàn thanh tra phải giữ bí mật nội dung của hợp đồng.

          Yêu cầu đối tượng thanh tra báo cáo Đoàn thanh tra những nội dung mà Trưởng Đoàn thanh tra đã thông báo và những nội dung khác Đoàn thanh tra thấy cần thiết.

          Lập biên bản cuộc họp công bố quyết định thanh tra. Biên bản được ký giữa Trưởng Đoàn thanh tra và đại diện cơ quan, tổ chức hoặc cá nhân là đối tượng thanh tra.

          2. Thực hiện thanh tra

          Thực hiện thanh tra là quá trình sử dụng các phương pháp thanh tra, phát hiện, làm rõ các vấn đề, sự việc để kết luận chính xác, trung thực, khách quan. Khi bắt đầu làm việc với người đứng đầu tổ chức luật sư, Trưởng Đoàn thanh tra cần giải thích rõ cho họ biết được các cơ sở pháp lý, quyền, nghĩa vụ của người đứng đầu tổ chức luật sư, cơ sở pháp lý của việc xem xét các hợp đồng dịch vụ pháp lý để họ có nhận thức đầy đủ, đúng đắn về quản lý nhà nước đối với luật sư, từ đó  yên tâm và có thiện chí làm việc với Đoàn thanh tra. Sau đó, Đoàn thanh tra tiến hành theo các bước sau:

          2.1. Thu thập thông tin

          2.1.1. Yêu cầu đối tượng thanh tra cung cấp tài liệu liên quan đến nội dung thanh tra. Tài liệu gồm: Báo cáo bằng văn bản theo yêu cầu của Đoàn thanh tra, báo cáo quyết toán, các báo cáo thu, chi tài chính, báo cáo tình hình sử dụng hoá đơn, sổ sách kế toán gồm sổ theo dõi các tài khoản 111, 311, 511, biểu mẫu, chứng từ kế toán và tài liệu liên quan; báo cáo tổng kết, phân tích đánh giá, kết luận của các cơ quan đã kiểm tra, các báo cáo thống kê, tổng hợp về công tác nghiệp vụ, và tài liệu khác có liên quan.

          - Yêu cầu đối tượng thanh tra cung cấp chứng chỉ hành nghề luật sư, thẻ luật sư, Giấy đăng ký hoạt động của tổ chức hành nghề luật sư, các báo cáo định kỳ theo yêu cầu của cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền, các văn bản thông báo cho Sở Tư pháp và Đoàn luật sư về việc thay đổi (nếu có) trụ sở, tên gọi, thành viên, lĩnh vực hoạt động, thông báo thành lập chi nhánh, văn phòng giao dịch.

          2.1.2. Tiếp nhận hồ sơ, tài liệu và báo cáo do đối tượng thanh tra cung cấp. Đoàn thanh tra có trách nhiệm kiểm đếm, bảo quản, khai thác, sử dụng tài liệu đúng mục đích, không để thất lạc tài liệu.

          2.1.3. Trường hợp cần giữ nguyên trạng tài liệu, Trưởng Đoàn thanh tra ra quyết định niêm phong một phần hoặc toàn bộ tài liệu có liên quan tới nội dung thanh tra. Việc niêm phong, mở niêm phong khai thác tài liệu hoặc huỷ bỏ niêm phong thực hiện theo đúng quy định của pháp luật.

          2.2. Nghiên cứu tại chỗ, phân tích, xem xét, xử lý thông tin và số liệu để phát hiện những vấn đề có mâu thuẫn; nhận định những việc làm đúng, những sai phạm, những sơ hở, bất cập của cơ chế, chính sách, chế độ; làm rõ bản chất, nguyên nhân và trách nhiệm của tổ chức, cá nhân đối với từng sai phạm.

          - Phân tích các báo cáo, tài liệu thu thập được để nhận diện vấn đề, sự việc.

          - Đối chiếu số liệu giữa sổ tổng hợp với báo cáo; đối chiếu số liệu giữa sổ chi tiết với sổ tổng hợp; đối chiếu giữa chứng từ kế toán với việc phản ánh trên sổ kế toán.

          - Kiểm tra, xác định tính hợp pháp, hợp lý của chứng từ kế toán và các tài liệu có liên quan. Xác định sự phù hợp về trình tự thủ tục của chứng từ kế toán để tìm ra số liệu tổng doanh thu dịch vụ pháp lý.

          -  Kiểm tra, xác định tính trung thực của chứng từ, tài liệu:

Xem xét, đối chiếu số lượng hoá đơn, chứng từ kế toán với số lượng hợp đồng dịch vụ pháp lý để phát hiện số tiền thu không có hợp đồng dịch vụ pháp lý bằng văn bản theo quy định tại Điều 26 của Luật luật sư (hoặc có  thể đối  tượng thanh tra có hợp đồng dịch vụ pháp lý nhưng lại giấu đi vì  nhiều  lý do khác nhau).

          - Trong quá trình thanh tra phát hiện có dấu hiệu sửa chữa, làm giả  hoặc không có đầy đủ các giấy phép hoạt động, chứng chỉ hành nghề luật sư, thẻ luật sư thì Trưởng Đoàn thanh tra ra quyết định niêm phong, tạm giữ, tạm đình chỉ hành vi sai trái hoặc báo người có thẩm quyền quyết định. Việc kiểm kê, niêm phong, tạm giữ, tạm đình chỉ thực hiện theo đúng quy định của pháp luật.

          2.3. Ký bản xác nhận hoặc biên bản làm việc về tình hình, số liệu theo từng nội dung, sự việc dự kiến kết luận với đối tượng thanh tra.

          2.4. Đối chiếu tình hình, số liệu đã ký xác nhận, đã thu thập được, các hành vi vi phạm với quy định của Nghị định 76/2006/NĐ-CP, lập biên bản vi phạm hành chính về sự việc được phát hiện.

          2.5. Củng cố chứng cứ, cơ sở pháp lý để kết luận đúng, sai, nguyên nhân sai phạm và trách nhiệm của tập thể, cá nhân đối với từng sai phạm.

          2.5.1. Yêu cầu giải trình:

          Đối với những sự việc, tài liệu phản ánh chưa rõ, chưa đủ cơ sở kết luận, Đoàn thanh tra chuẩn bị chi tiết nội dung yêu cầu đối tượng thanh tra giải trình bằng văn bản (có chữ ký của người giải trình).

          2.5.2. Đối thoại, chất vấn:

          Trường hợp giải trình của đối tượng chưa rõ, tiến hành tổ chức đối thoại, chất vấn đối tượng thanh tra để làm rõ thêm đúng, sai về nội dung và trách nhiệm của tập thể, cá nhân.

          Người tổ chức đối thoại, chất vấn phải chuẩn bị chi tiết nội dung đối thoại, câu hỏi chất vấn; câu hỏi có trọng tâm, trọng điểm để đối tượng trả lời. Người tiến hành đối thoại, chất vấn phải chủ động, tập trung vào nội dung chủ định, không đi vào nội dung, sự việc không liên quan.

          Kết thúc đối thoại, chất vấn lập biên bản, ghi đầy đủ, chính xác những sự việc hai bên đã trao đổi; trường hợp cần thiết thì ghi âm lại toàn bộ cuộc đối thoại, chất vấn.

          2.5.3. Thẩm tra, xác minh:

           Những chứng cứ và giải trình của đối tượng thanh tra chưa rõ, thành viên Đoàn thanh tra kịp thời báo cáo Trưởng Đoàn để thẩm tra, xác minh.

          Trước khi thực hiện thẩm tra, xác minh phải lập kế hoạch. Kết quả việc thẩm tra, xác minh được lập biên bản kèm theo đầy đủ tài liệu chứng minh.

          2.5.4. Làm việc với cơ quan quản lý có liên quan:

          Làm việc với cơ quan chủ quản về những sự việc liên quan đến chỉ đạo, quyết định của cấp trên, những sự việc dự kiến kết luận mà pháp luật chưa quy định hoặc quy định chưa rõ.

          Kết thúc làm việc phải lập biên bản, trường hợp không đến làm việc trực tiếp thì có yêu cầu bằng văn bản.

          2.5.5. Làm việc với người có liên quan:

          Trường hợp có người phản ánh sự việc liên quan đến nội dung thanh tra, Trưởng Đoàn thanh tra nghiên cứu, đề xuất, báo cáo người ra quyết định thanh tra có kế hoạch nghe ý kiến phản ánh của người có liên quan và phải được ghi chép đầy đủ.

          2.6. Trưng cầu giám định.

          Đối với những vấn đề về chuyên môn, kỹ thuật của các lĩnh vực khác nhau nhưng Đoàn thanh tra không đủ khả năng kết luận về chuyên môn, kỹ thuật đó thì Trưởng Đoàn thanh tra báo cáo người ra quyết định thanh tra quyết định trưng cầu giám định. Việc trưng cầu giám định thực hiện theo quy định của pháp luật.

          2.7. Hoàn thiện số liệu, chứng cứ.

          Sau khi làm rõ nguyên nhân đúng, sai, tiến hành rà soát, hoàn thiện hồ sơ chứng lý, thu thập bổ sung tài liệu, chứng cứ và ký kết với đối tượng thanh tra các biên bản làm việc hoặc bản xác nhận số liệu còn thiếu.

          2.8. Xử phạt vi phạm hành chính.

          Trong quá trình thanh tra, phát hiện sai phạm phải xử phạt hành chính theo quy định của pháp luật thì thanh tra viên hoặc Trưởng Đoàn thanh tra lập biên bản vi phạm hành chính, ra quyết định xử phạt hành chính hoặc chuyển đến người có thẩm quyền xử phạt theo quy định của pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính.

          3. Bàn giao hồ sơ, tài liệu

          Ngay sau khi kết thúc công việc, người được giao nhiệm vụ có trách nhiệm:

          - Bàn giao các biên bản làm việc, bản xác nhận số liệu và toàn bộ chứng cứ thu thập được cho Trưởng Đoàn thanh tra; tài liệu được lập thành danh mục, đánh số thứ tự.

Lập báo cáo tóm tắt sự việc, đề xuất kết luận và kiến nghị xử lý, nêu rõ căn cứ của đề xuất.

          - Giao trả hồ sơ tài liệu không cần giữ cho đối tượng thanh tra; việc giao trả được lập thành biên bản .

          4. Lập biên bản thanh tra

          Trưởng Đoàn thanh tra lập biên bản thanh tra với người đứng đầu tổ chức được thanh tra. Biên bản thanh tra nêu rõ kết quả từng nội dung thanh tra; nguyên nhân, chứng cứ để kết luận.

5. Gia hạn thanh tra

Trường hợp cần thiết phải tăng thêm thời hạn thanh tra, Trưởng Đoàn thanh tra báo cáo người ra quyết định thanh tra quyết định gia hạn và chỉ tiến hành khi quyết định được ban hành.

          6. Thực hiện chế độ thông tin, báo cáo trong quá trình thanh tra

          6.1. Báo cáo của thành viên Đoàn thanh tra.

          Trong quá trình thanh tra, các thành viên, tổ trưởng, nhóm trưởng (nếu có) có trách nhiệm thường xuyên báo cáo Trưởng Đoàn về tình hình, kết quả công việc được phân công và những vấn đề cần xin ý kiến chỉ đạo.

          6.2. Báo cáo của Trưởng Đoàn thanh tra.

          - Định kỳ hằng tuần, Trưởng Đoàn thanh tra có trách nhiệm báo cáo tình hình, kết quả thanh tra cho thủ trưởng cơ quan thanh tra và người ra quyết định thanh tra. Báo cáo những thuận lợi, khó khăn, những nơi đã và đang làm việc, nội dung thanh tra, kết quả thanh tra, những vấn đề cần phải xin ý kiến chỉ đạo và kế hoạch tuần tiếp theo.

          - Trường hợp phát sinh những vấn đề khó khăn, vướng mắc vượt khả năng và thẩm quyền của Trưởng Đoàn thì Trưởng Đoàn có trách nhiệm báo cáo kịp thời người ra quyết định và thủ trưởng cơ quan thanh tra cùng cấp xin ý kiến chỉ đạo. 

BƯỚC 3: KẾT THÚC THANH TRA 

1. Thực hiện thời hạn thanh tra

Trưởng Đoàn thanh tra tổ chức thanh tra đảm bảo kết thúc thanh tra tại đơn vị theo đúng thời hạn quy định trong quyết định thanh tra và quyết định gia hạn (nếu có).

2. Báo cáo kết quả thanh tra và dự thảo kết luận thanh tra

          Chậm nhất mười lăm ngày kể từ ngày kết thúc thanh tra tại đơn vị, Trưởng Đoàn thanh tra phải có báo cáo kết quả thanh tra và dự thảo kết luận thanh tra gửi người ra quyết định thanh tra.

Trong quá trình lập báo cáo và dự thảo kết luận thanh tra, nếu có những vấn đề còn vướng mắc về xử lý, Trưởng Đoàn chủ động trao đổi, tham khảo ý kiến của các cơ quan có liên quan để đảm bảo cho việc kết luận được chính xác, khách quan.

Báo cáo kết quả thanh tra (do Trưởng Đoàn ký) phản ánh đầy đủ kết quả những nội dung công việc đã thanh tra; những nội dung chưa tiến hành hoặc tiến hành ngoài quyết định và kế hoạch thanh tra được duyệt, nguyên nhân; những ý kiến không thống nhất của đối tượng thanh tra hoặc của thành viên Đoàn thanh tra; những đề xuất về chính sách, chế độ và quản lý. Mỗi nội dung kết luận phải nêu rõ sự việc, căn cứ đúng, sai, nguyên nhân, trách nhiệm, hình thức xử lý, thời hạn chấp hành.

Dự thảo kết luận thanh tra chỉ phản ánh nội dung kết luận và kiến nghị xử lý. Mỗi nội dung kết luận phải nêu rõ sự việc, căn cứ đúng, sai, nguyên nhân, trách nhiệm, hình thức xử lý, thời hạn chấp hành.

Báo cáo kết quả thanh tra và dự thảo kết luận thanh tra trình người ra kết luận thanh tra phải có đầy đủ ý kiến tham gia bằng văn bản của các thành viên trong Đoàn thanh tra. Ý kiến tham gia phải khẳng định có đồng ý hay không đồng ý với báo cáo, dự thảo kết luận của Trưởng Đoàn về nội dung công việc của bản thân mình trực tiếp làm và các nội dung do người khác thực hiện; trường hợp không đồng ý thì phải nêu rõ nguyên nhân, chứng lý.

3. Kết luận và lưu hành kết luận thanh tra

Chậm nhất mười lăm ngày kể từ ngày nhận được báo cáo kết quả thanh tra, người ra quyết định thanh tra xem xét nội dung báo cáo và ra kết luận thanh tra.

Trước khi trình người ra kết luận, bộ phận hoặc người được giao nhiệm vụ tiến hành rà soát dự thảo kết luận, tham mưu giúp người ra kết luận quyết định.

Trong quá trình ra kết luận thanh tra, người ra quyết định thanh tra yêu cầu Trưởng Đoàn thanh tra, thành viên Đoàn thanh tra hoặc đối tượng thanh tra giải trình để làm rõ thêm những vấn đề mà báo cáo của Trưởng Đoàn chưa rõ. Trường hợp cần thiết, người ra quyết định thanh tra yêu cầu tiến hành thanh tra bổ sung để có đủ căn cứ kết luận.

Trước khi ra kết luận người kết luận thanh tra có thể tổ chức làm việc với đối tượng thanh tra về dự thảo kết luận thanh tra hoặc gửi dự thảo kết luận thanh tra yêu cầu đối tượng thanh tra trả lời bằng văn bản, nêu rõ những nội dung chưa thống nhất, nguyên nhân và chứng cứ.

Khi có kết luận chính thức, người ra kết luận thanh tra tổ chức công bố hoặc gửi kết luận thanh tra cho đối tượng thanh tra.

 Người ra kết luận thanh tra có thể uỷ quyền tổ chức làm việc với đối tượng thanh tra về dự thảo kết luận thanh tra hoặc công bố kết luận thanh tra.

 Kết thúc làm việc về dự thảo kết luận hoặc công bố kết luận thanh tra phải lập biên bản ghi ý kiến hai bên. 

          Việc gửi kết luận thanh tra thực hiện theo quy định tại Điều 43 Luật Thanh tra và Điều 35 Nghị định số 41/2005/NĐ-CP ngày 25/3/2005 của Chính phủ. Đối với cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan đến việc xử lý sau thanh tra hoặc có trách nhiệm thực hiện kết luận thanh tra, thấy không cần thiết gửi toàn bộ kết luận thì trích nội dung kết luận có liên quan hoặc có văn bản đối với từng sự việc gửi tới cơ quan, tổ chức, cá nhân đó.

4. Bàn giao, lưu trữ hồ sơ thanh tra

 Sau khi lưu hành kết luận thanh tra, trong thời hạn hai ngày làm việc, Trưởng Đoàn có trách nhiệm bàn giao hồ sơ cuộc thanh tra cho những bộ phận, người được giao nhiệm vụ theo quy định của pháp luật.

Việc bàn giao hồ sơ, tài liệu phải được lập thành biên bản, lưu cùng hồ sơ cuộc thanh tra.

5. Họp rút kinh nghiệm Đoàn thanh tra

Trưởng Đoàn có trách nhiệm triệu tập các thành viên trong đoàn họp rút kinh nghiệm, đánh giá những ưu, nhược điểm trong quá trình điều hành, quá trình thanh tra của từng người, rút ra những bài học kinh nghiệm, kiến nghị khen thưởng người làm tốt và xử lý những cán bộ có sai phạm.

Cuộc họp rút kinh nghiệm được thực hiện ngay sau khi lưu hành kết luận thanh tra và lập thành biên bản lưu hồ sơ thanh tra. 

III. CÁC HÀNH VI VI PHẠM PHÁT HIỆN QUA THANH TRA 

          Để dễ hình dung, chúng tôi xin trình bày vấn đề này dưới dạng ví dụ cụ thể qua kết quả thanh tra tại thành phố Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh.

1. Về giấy tờ chứng minh trụ sở của tổ chức hành nghề luật sư

- Hợp đồng thuê trụ sở của một số tổ chức hành nghề luật sư đã hết hạn nhưng chưa gia hạn hợp đồng. Đối với những trường hợp này Đoàn thanh tra đã nhắc nhở các tổ chức hành nghề luật sư tiến hành tiếp tục ký kết gia hạn hợp đồng để tránh các tranh chấp có thể phát sinh.

- Sử dụng trụ sở không đúng địa chỉ được ghi trong Giấy đăng ký hoạt động. Đây là trường hợp của Công ty luật hợp danh Nghiêm & Chính, cụ thể như sau: trong Giấy Đăng ký hoạt động số 41.03.0086 do Sở Tư pháp thành phố Hồ Chí Minh cấp ngày 20/7/2007, địa chỉ trụ sở của Công ty luật hợp danh Nghiêm & Chính được ghi tại: số 6/19, Cách Mạng Tháng Tám, phường Bến Thành, quận 1, thành phố Hồ Chí Minh nhưng thực tế Công ty chưa bao giờ hoạt động tại trụ sở nêu trên mà lại hoạt động tại: số 8, Nam Kỳ, Khởi Nghĩa, phường Nguyễn Thái Bình, quận 1, thành phố Hồ Chí Minh. Mặc dù ngang nhiên sử dụng trụ sở không đúng địa chỉ được ghi trong Giấy đăng ký hoạt động trong một thời gian khá dài nhưng Luật luật sư và Nghị định 76/2006/NĐ-CP của Chính phủ không có quy định cụ thể nào về vấn đề này nên Đoàn thanh tra không có cơ sở pháp luật để xử lý.

2. Về việc sử dụng Giấy đăng ký hoạt động, chứng chỉ hành nghề luật sư và thẻ luật sư

- Hầu hết các tổ chức hành nghề luật sư được kiểm tra đều xuất trình được Giấy đăng ký hoạt động, chứng chỉ hành nghề luật sư và thẻ luật sư của các luật sư đang hoạt động tại tổ chức của mình và tất cả các giấy tờ gốc được kiểm tra đều còn nguyên vẹn, không sửa chữa, tẩy xoá. Tuy nhiên, duy nhất tại Chi nhánh Văn phòng luật sư pháp quyền, luật sư Lê Trần Luật (thuộc Đoàn luật sư tỉnh Ninh Thuận) - Trưởng Văn phòng và cũng là Trưởng Chi nhánh đã không xuất trình được bản chính Thẻ luật sư và báo cáo với Đoàn thanh tra là thẻ luật sư do Đoàn luật sư tỉnh Ninh Thuận cấp 20/4/2002 đã bị mất tháng 4/2007, tháng 6/2007 đã làm đơn xin cấp lại thẻ nhưng vẫn chưa được cấp lại. Đồng thời, luật sư Lê Trần Luật cũng có văn bản cam kết không cho mượn thẻ luật sư và thẻ cũng tạm thu, tạm giữ. Tuy nhiên, tại thành phố Hồ Chí Minh Đoàn thanh tra chưa có điều kiện xác minh, làm rõ vấn đề này.

3. Về việc sử dụng biển hiệu

Việc chấp hành quy định của pháp luật về sử dụng biển hiệu của các tổ chức hành nghề luật sư còn có nhiều sai phạm, cụ thể như sau:

- Không có biển hiệu, đây cũng là trường hợp của Công ty luật hợp danh Nghiêm & Chính, khi Đoàn thanh tra tra kiểm tra tại địa chỉ trụ sở ghi trên Giấy đăng ký hoạt động thì thấy rằng tại địa chỉ đó không có biển hiệu nào của công ty và cũng không thấy dấu hiệu nào cho thấy Công ty có hoạt động tại địa chỉ đó;

- Là công ty luật trách nhiệm hữu hạn nhưng lại sử dụng biển hiệu là Văn phòng luật sư (Công ty luật trách nhiệm hữu hạn Thắng & Đồng sự), việc sử dụng biển hiệu như vậy dễ gây nhầm lẫn cho khách hàng về khả năng chịu trách nhiệm của tổ chức hành nghề luật sư.

Hai hành vi trên đã vi phạm nghiêm trọng Điều 30, Quy chế hoạt động văn hoá và kinh doanh dịch vụ văn hoá công cộng ban hành kèm theo Nghị định số 11/2006/NĐ-CP ngày 18/01/2006 của Chính phủ và vi phạm điểm c, khoản 1, Điều 22 của Nghị định số 76/2006/NĐ-CP ngày 02/8/2006 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực Tư pháp. Đoàn thanh tra xin ý kiến chỉ đạo của Bộ trưởng cho tiến hành xử phạt vi phạm hành chính đối với hai hành vi nói trên)

Ngoài ra, qua thanh tra còn phát hiện ra một số những vi phạm khác dưới đây:

- Không ghi tên đầy đủ theo tên đã đăng ký và được Sở Tư pháp ghi trong Giấy Đăng ký hoạt động mà chỉ ghi tên giao dịch của tổ chức hành nghề luật sư trên biển hiệu. Đây là lỗi phổ biến của nhiều tổ chức hành nghề luật sư, nhất là đối với các tổ chức đặt trụ sở tại các toà nhà cao tầng, ví dụ: Văn phòng luật sư DC do luật sư Lê Công Định - Phó Chủ nhiệm Đoàn luật sư thành phố Hồ Chí Minh làm Trưởng văn phong.

- Biển hiệu chỉ có logo (Văn phòng luật sư AIC tại Hà Nội).

- Là chi nhánh của tổ chức hành nghề luật sư nhưng lại sử dụng biển hiệu là tên của tổ chức hành nghề (Đặng Dũng & Ninh Hoà, Chi nhánh Công ty luật hợp danh Hùng Vương tại thành phố Hồ Chí Minh).

4. Về việc thực hiện thông báo cho Sở Tư pháp và Đoàn luật sư theo quy định của pháp luật

- Không thực hiện việc thông báo cho Sở Tư pháp nơi đăng ký hoạt động về việc mở chi nhánh ở ngoài địa phương sau khi chi nhánh được cấp giấy đăng ký hoạt động theo quy định của pháp luật (Công ty Luật trách nhiệm hữu hạn quốc tế Việt Nam, Văn phòng luật sư Phùng Anh Tuấn & Đồng sự tại thành phố Hồ Chí Minh). Hành vi này vi phạm điểm b, khoản 1, Điều 22 của Nghị định số 76/2006/NĐ-CP ngày 02/8/2006 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực Tư pháp và vi phạm đoạn 2, khoản 2, Điều 41 của Luật luật sư. Đoạn 2, khoản 2, Điều 41 của Luật luật sư quy định: “Trong thời hạn bảy ngày làm việc, kể từ ngày được cấp Giấy đăng ký hoạt động của chi nhánh, tổ chức hành nghề luật sư phải thông báo bằng văn bản kèm theo bản sao Giấy đăng ký hoạt động của chi nhánh cho Sở Tư pháp, Đoàn luật sư ở địa phương nơi tổ chức hành nghề luật sư đăng ký hoạt động và Đoàn luật sư ở địa phương nơi có trụ sở của chi nhánh”.      Tuy nhiên, các tổ chức hành nghề luật sư này đã không thực hiện hoặc thực hiện không đúng thời hạn theo quy định, cụ thể như sau:

+ Công ty Luật trách nhiệm hữu hạn quốc tế Việt Nam (VILAF-HỒNG ĐỨC): Chi nhánh của Công ty Luật trách nhiệm hữu hạn quốc tế Việt Nam tại Hà Nội được Sở Tư pháp thành phố Hà Nội cấp lần 2 ngày 12 tháng 9 năm 2007 nhưng đến tại thời điểm Đoàn thanh tra đến làm việc Công ty vẫn chưa thực hiện thông báo cho Sở Tư pháp thành phố Hồ Chí Minh về việc mở Chi nhánh tại Hà Nội chỉ sau khi Đoàn thanh tra lập biên bản vi phạm, Công ty mới có văn bản thông báo cho Sở Tư pháp thành phố Hồ Chí Minh.

+ Văn phòng luật sư Phùng Anh Tuấn & Đồng sự: Chi nhánh của Văn phòng luật sư Phùng Anh Tuấn & Đồng sự được Sở Tư pháp thành phố Hà Nội cấp ngày 08/4/2008 nhưng đến ngày 08/7/2008 (thời điểm Đoàn thanh tra đã phát hành Quyết định thanh tra và Công văn thông báo nội dung, lịch thanh tra đến Văn phòng), Sở Tư pháp thành phố Hồ Chí Minh mới nhận được văn bản thông báo về việc thành lập chi nhánh của Văn phòng tại Hà Nội.

- Không thông báo cho Sở Tư pháp và Đoàn luật sư địa phương nơi đăng ký hoạt động theo quy định khi tạm ngưng hoạt động (Văn phòng luật sư Việt Quốc tại Hà Nội do luật sư Giáp Thị Thu phương làm Trưởng văn phòng). Hành vi này đã vi phạm điểm d, khoản 1, Điều 22 của Nghị định số 76/2006/NĐ-CP ngày 02/8/2006 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực Tư pháp. Đoàn thanh tra đã lập biên bản vi phạm hành chính, ngày 02/6/2008 đã có Quyết định số 01/QĐ-XPHC xử phạt vi phạm hành chính bằng hình thức phạt tiền đối với Văn phòng luật sư Việt Quốc và cho đến nay Văn phòng này đã tự nguyện thi hành xong Quyết định xử phạt nói trên.

- Không thông báo trước cho Sở Tư pháp nơi đăng ký hoạt động và làm thủ tục yêu cầu Sở Tư pháp cấp lại giấy đăng ký hoạt động khi thay đổi địa chỉ trụ sở (Văn phòng luật sư Phạm Hồng Hải và Cộng sự do luật sư Phạm Hồng Hải - Chủ nhiệm Đoàn luật sư Hà Nội làm Trưởng văn phòng, Văn phòng luật sư Sài Gòn Việt tại thành phố Hồ Chí Minh). Hành vi này vi phạm khoản 1, Điều 36, Luật luật sư và điểm e, khoản 1, Điều 22 của Nghị định số 76/2006/NĐ-CP ngày 02/8/2006 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực Tư pháp. Tuy nhiên, sau khi được thanh tra các tổ chức hành nghề luật sư nói trên đã khắc phục ngay và làm thủ tục thông báo, đề nghị thay đổi nội dung đăng ký hoạt động với Sở Tư pháp.

- Không thông báo cho Đoàn luật sư địa phương nơi đăng ký hoạt động theo quy định khi thay đổi nội dung đăng ký hoạt động - vi phạm khoản 4, Điều 35 và khoản 1, Điều 36 Luật luật sư và điểm e, khoản 1, Điều 22 của Nghị định số 76/2006/NĐ-CP ngày 02/8/2006 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực Tư pháp. Đây cũng là vi phạm khá phổ biến của các tổ chức hành nghề luật sư tại thành phố Hồ Chí Minh nhưng sau khi được thanh tra các tổ chức hành nghề luật sư nói trên đã khắc phục ngay và làm thủ tục thông báo cho Đoàn luật sư thành phố Hồ Chí Minh.

- Không thông báo cho Đoàn luật sư địa phương nơi đăng ký hoạt động theo quy định khi thành lập - hành vi này đã vi phạm khoản 4, Điều 35 và là vi phạm khá phổ biến của các tổ chức hành nghề luật sư tại thành phố Hồ Chí Minh. Tuy nhiên, Nghị định số 76/2006/NĐ-CP quy định về vấn đề này tại điểm d, khoản 1, Điều 22 còn gây nhiều tranh cãi.

- Không thông báo cho Đoàn luật sư nơi tổ chức hành nghề luật sư đăng ký hoạt động và/hoặc Đoàn luật sư nơi có trụ sở của chi nhánh về việc thay đổi nội dung đăng ký hoạt động của chi nhánh (Công ty Luật trách nhiệm hữu hạn quốc tế Việt Nam, Văn phòng luật sư Phùng Anh Tuấn & Đồng sự tại thành phố Hồ Chí Minh). Hành vi này vi phạm khoản 2, Điều 41, Luật luật sư nhưng Nghị định số 76/2006/NĐ-CP ngày 02/8/2006 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực Tư pháp lại không có quy định về vấn đề này.

- Không thông báo bằng văn bản cho Sở Tư pháp và Đoàn luật sư nơi đăng ký hoạt động về địa chỉ văn phòng giao dịch (Công ty Luật Hợp danh Đông Đô tại Hà Nội) - vi phạm Điều 42, Luật luật sư nhưng Nghị định số 76/2006/NĐ-CP ngày 02/8/2006 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực Tư pháp lại không có quy định về vấn đề này.

5. Về việc đăng báo theo quy định khi thành lập, thay đổi nội dung đăng ký hoạt động

- Một số tổ chức hành nghề luật sư đã không đăng báo khi thành lập nhưng tất cả các trường hợp này đều đã hết thời hạn xử lý vi phạm hoặc hành vi hành vi vi phạm đó dược thực hiện trước khi Nghị định số 76/2006/NĐ-CP ngày 02/8/2006 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực Tư pháp có hiệu lực thi hành. Các trường hợp này Đoàn thanh tra đều đã nhắc nhở, rút kinh nghiệm.

- Có đăng báo khi thành lập (đăng bố cáo thành lập văn phòng) nhưng không đúng về số lượng (03 số liên tiếp) và/hoặc không đúng thời hạn (trong thời hạn ba mươi ngày, kể từ ngày được cấp Giấy đăng ký hoạt động) theo quy định - vi phạm khoản 1, Điều 38, Luật luật sư và điểm d, khoản 1, Điều 22 của Nghị định số 76/2006/NĐ-CP ngày 02/8/2006 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực Tư pháp. Tuy nhiên, xét thấy đây là những vi phạm vô ý nên Đoàn thanh tra nhắc nhở, rút kinh nghiệm thực hiện đúng quy định của pháp luật.

- Nhiều tổ chức hành nghề luật sư đã không đăng báo theo quy định khi thay đổi nội dung đăng ký hoạt động hoặc có đăng nhưng không đúng về số lượng và thời hạn như theo quy định về việc đăng báo khi thành lập. Hành vi này vi phạm khoản 2, Điều 38 Luật luật sư nhưng không có chế tài xử lý theo quy định của Nghị định số 76/2006/NĐ-CP.

6. Về nội dung hoạt động của các tổ chức hành nghề luật sư

- Hoạt động ngoài lĩnh vực hành nghề ghi trong giấy đăng ký hoạt động, vi phạm điểm d, khoản 1, Điều 22 của Nghị định số 76/2006/NĐ-CP ngày 02/8/2006 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực Tư pháp và vi phạm đạo đức hành nghề luật sư, đây là trường hợp của Văn phòng luật sư Lê Thị Như Hương do luật sư Lê Thị Như Hương làm Trưởng văn phòng có 02 phiếu thu thu tiền của khách hàng với nội dung "chống náo loạn" và thu thêm tiền ngoài hợp đồng dịch vụ pháp lý đã thoả thuận với khách hàng. Do hiện nay có một số đơn tố cáo luật sư Lê Thị Như Hương vi phạm đạo đức hành nghề luật sư và vi phạm pháp luật nên Đoàn thanh tra đã bàn giao Đoàn luật sư thành phố Hà Nội để xử lý theo thẩm quyền và thông báo kết quả về Thanh tra Bộ.

- Hành vi để người khác (không phải là thành viên, không ký hợp đồng lao động và không có văn bản uỷ quyền) tiến hành ký kết các hợp đồng dịch vụ pháp lý nhân danh tổ chức hành nghề luật sư của mình (Văn phòng luật sư Hùng và Đồng sự tại thành phố Hồ Chí Minh). Hành vi này vi phạm khoản 1, Điều 33, Luật luật sư nhưng không được quy định trong Nghị định số 76/2006/NĐ-CP nên Đoàn thanh tra chỉ yêu cầu chấm dứt ngay hành vi vi phạm và rút kinh nghiệm thực hiện đúng quy định của Luật luật sư.

- Hành vi vi phạm Luật Khiếu nại, tố cáo, đây là trường hợp của Văn phòng luật sư Đức Quang tại Hà Nội do luật sư Nguyễn Đức Quang làm Trưởng văn phòng. Văn phòng luật sư Đức Quang đã ký hợp đồng dịch vụ pháp lý làm đại diện hợp pháp cho 1200 hộ dân đang kinh doanh tại chợ Mơ khiếu kiện Uỷ ban nhân dân quận Hai Bà Trưng. Việc này phù hợp với quy định của Luật luật sư về lĩnh vực hoạt động "đại diện ngoài tố tụng" của tổ chức hành nghề luật sư nhưng lại vi phạm Luật Khiếu nại, tố cáo vì tại điểm a, khoản 1,  Điều 17, Luật Khiếu nại, tố cáo quy định "người khiếu nại phải "tự mình khiếu nại..." và điểm b, khoản 1, Điều 17, Luật Khiếu nại, tố cáo cũng quy định người khiếu nại chỉ được "nhờ luật sư giúp đỡ về pháp luật trong quá trình khiếu nại". Tuy nhiên, vì vấn đề này không được quy định tại Nghị định số 76/2006/NĐ-CP nên Đoàn thanh tra chỉ giải thích các quy định của pháp luật, yêu cầu Văn phòng luật sư Đức Quang thực hiện đúng các quy định của pháp luật. Hiện nay, Văn phòng luật sư Đức Quang đã tiến hành thanh lý hợp đồng với các hộ dân và chỉ giúp đỡ người người khiếu nại theo đúng quy định của pháp luật, góp phần ổn định tình hình an ninh trật tự và triển khai dự án tại chợ Mơ.

- Hợp đồng dịch vụ pháp lý không được làm bằng văn bản - vi phạm Điều 26 Luật luật sư (Điều 26 quy định: luật sư thực hiện dịch vụ pháp lý theo hợp đồng dịch vụ pháp lý (trừ trường hợp luật sư tham gia tố tụng theo yêu cầu của cơ quan tiến hành tố tụng và luật sư hành nghề với tư cách cá nhân làm việc theo hợp đồng lao động cho cơ quan, tổ chức) và hợp đồng dịch vụ pháp lý phải được làm thành văn bản và có đủ 6 nội dung chính). Đây là vi phạm rất phổ biến của các tổ chức hành nghề luật sư, điển hình trong số đó là Văn phòng luật sư Trương Thị Hoà (4444 vụ việc không có hợp đồng dịch vụ pháp lý bằng văn bản), ....(...vụ việc, trị giá.... đồng). Tuy nhiên, Nghị định số 76/2006/NĐ-CP lại không có quy định về nội dung này.

- Hợp đồng dịch vụ pháp lý không được làm bằng văn bản - vi phạm Điều 26 của Luật luật sư: đây là vi phạm phổ biến của các tổ chức hành nghề luật sư, điển hình trong số đó các tổ chức hành nghề luật sư có những vi phạm như trên là Văn phòng luật sư Trương Thị Hoà không có hợp đồng dịch vụ pháp lý bằng văn bản khi thực hiện 4444 vụ việc.

Tại Văn phòng luật sư Sài Gòn do luật sư Nguyễn Đăng Trừng - Chủ nhiệm Đoàn luật sư Thành phố Hồ Chí Minh làm Trưởng Văn phòng, Đoàn thanh tra phát hiện có 07 đơn nhờ luật sư bảo vệ quyền lợi. Theo luật sư Nguyễn Đăng Trừng thì từ 01/01/2007 đến thời điểm Đoàn thanh tra làm việc (ngày 24/7/2008), Văn phòng có tổng số 07 vụ tranh tụng, hợp đồng dịch vụ pháp lý của các vụ việc đó được làm dưới hình thức đơn nhờ luật sư và kèm theo hoá đơn tài chính xuất cho khách hàng. Theo luật sư Nguyễn Đăng Trừng thì 07 Đơn  nhờ luật sư bảo vệ quyền lợi là hợp đồng dịch vụ pháp lý, nhưng trong 07 “Hợp đồng” đó lại không ghi mức thù lao đã thoả thuận với khách hàng. Theo đó, hành vi của luật sư Nguyễn Đăng Trừng vi phạm điểm a, khoản 2, Điều 21 của Nghị định số 76/2006/NĐ-CP quy định xử phạt từ 3 đến 5 triệu đồng và điểm d, khoản 3, Điều 21 của Nghị định này quy định tước quyền sử dụng chứng chỉ hành nghề từ 6 tháng đến 1 năm đối với hành vi không ghi rõ mức thù lao đã thoả thuận với khách hàng trong hợp đồng dịch vụ pháp lý.

Tuy nhiên, căn cứ vào Điều 26 của Luật luật sư, Đoàn thanh tra cho rằng: mặc dù theo luật sư Nguyễn Đăng Trừng, 07 Đơn  nhờ luật sư bảo vệ quyền lợi là hợp đồng dịch vụ pháp lý, nhưng thực tế 07 Đơn này chỉ có 1 bên là khách hàng, không có sự giao kết, thoả thuận của luật sư Nguyễn Đăng Trừng, không có những nội dung chính theo quy định tại khoản 2, Điều 26 của Luật luật sư như: thời hạn thực hiện hợp đồng, phương thức tính và mức thù lao cụ thể, các khoản chi phí (nếu có), trách nhiệm do vi phạm hợp đồng, phương thức giải quyết tranh chấp. Do đó, 07 Đơn nhờ luật sư bảo vệ quyền lợi nêu trên không phải là hợp đồng dịch vụ pháp lý theo quy định tại Điều 26 của Luật luật sư. Đây là hành vi vi phạm Điều 26 của Luật luật sư (thực hiện dịch vụ pháp lý mà không có hợp đồng dịch vụ pháp lý bằng văn bản).

Việc cung cấp dịch vụ pháp lý không có hợp đồng bằng văn bản là hành vi cố ý vi phạm pháp luật. luật sư là người hành nghề chuyên nghiệp trong lĩnh vực pháp luật, do đó phải có hiểu biết pháp luật và trước hết phải gương mẫu chấp hành pháp luật. Hành vi này thể hiện sự cố ý vi phạm và thể hiện sự thiếu minh bạch trong giao dịch với khách hàng, thiếu minh bạch trong việc thực hiện nghĩa vụ thuế vì khi xảy ra tranh chấp với khách hàng sẽ không có cơ sở pháp lý để giải quyết. Mặt khác, không có hợp đồng dịch vụ pháp lý thì không thể công khai mức thù lao thoả thuận với khách hàng và không đủ cơ sở để xác định nghĩa vụ thuế, vì không có hợp đồng, không có sự công khai thoả thuận, ràng buộc mức thù lao với khách hàng thì có thể luật sư sẽ tuỳ tiện lập phiếu thu, xuất hoá đơn hoặc không xuất hoá đơn, cơ quan thuế sẽ rất khó xác định thu nhập của luật sư để thu thuế. Thực tế, Đoàn thanh tra chuyên ngành chưa có đủ lực lượng, khả năng chuyên môn về thuế để làm rõ việc chấp hành pháp luật về thuế và các nghĩa vụ tài chính khác của các tổ chức hành nghề luật sư có vi phạm nêu trên. Đoàn thanh tra nhận thấy, để giải quyết triệt để vấn đề này, cần phải tổ chức thanh tra liên ngành với sự tham gia của Thanh tra thuế, Công an để thanh tra đối với tất cả các tổ chức hành nghề luật sư có hành vi vi phạm là cung cấp dịch vụ pháp lý mà không có hợp đồng dịch vụ pháp lý bằng văn bản theo quy định của Điều 26 của Luật luật sư.

- Không ghi trong hợp đồng dịch vụ pháp lý về mức thù lao đã thoả thuận với khách hàng theo quy định tại điểm d, khoản 2, Điều 26 của Luật luật sư và vi phạm điểm a, khoản 2, Điều 21, Nghị định số 76/2006/NĐ-CP, theo đó, hành vi này bị xử phạt từ tiền 3 đến 5 triệu đồng. Đồng thời, theo quy định tại điểm d, khoản 3, Điều 21 của Nghị định số 76/2006/NĐ-CP thì luật sư thực hiện hành vi vi phạm này có thể bị tước quyền sử dụng chứng chỉ hành nghề từ 6 tháng đến 1 năm đối với hành vi không ghi rõ mức thù lao đã thoả thuận với khách hàng trong hợp đồng dịch vụ pháp lý: luật sư Trần Mỹ Thoa - Trưởng Văn phòng luật sư Trần Mỹ Thoa (Phó chủ nhiệm Đoàn luật sư Thành phố Hồ Chí Minh) có vi phạm nghiêm trọng và mang tính hệ thống. Đoàn thanh tra đã lập biên bản vi phạm hành chính, nghiêm khắc cảnh cáo và yêu cầu chấm dứt ngay hành vi này. Tuy nhiên, do thời hiệu xử phạt vi phạm hành chính đối với trường hợp này đã hết nên không ra quyết định xử phạt.

7. Việc chấp hành pháp luật về lao động, sổ sách kế toán và nghĩa vụ tài chính

Hầu hết các tổ chức hành nghề luật sư đều chấp hành tốt các quy định của pháp luật về lao động, sổ sách kế toán và nghĩa vụ tài chính. Tuy nhiên, vẫn còn một số tổ chức hành nghề luật sư chưa mua bảo hiểm lao động, bảo hiểm y tế cho người lao động, chưa kê khai sổ sách kế toán và làm nghĩa vụ tài chính với Nhà nước chẳng hạn Văn phòng luật sư Trương Công Bình tại thành phố Hồ Chí Minh do luật sư Trương Công Bình làm Trưởng văn phòng được cấp Giấy đăng ký hoạt động từ năm 2002 nhưng cho đến thời điểm Đoàn thanh tra tiến hành làm việc tại Văn phòng vẫn chưa kê khai sổ sách, kế toán và chưa đóng thuế cho Nhà nước (kể cả thuế môn bài).

8. Việc chấp hành pháp luật về thanh tra

- Có dấu hiệu trốn tránh làm việc với Đoàn thanh tra như: viện lý do vắng mặt, lấy lý do chưa nhận được công văn (Công ty luật trách nhiệm hữu hạn Hồng Lạc tại thành phố Hồ Chí Minh), hạ biển hiệu và báo tạm ngừng hoạt động vào đúng ngày Đoàn thanh tra đến làm việc (Chi nhánh Văn phòng luật sư Tùng Thư tại thành phố Hồ Chí Minh);

- Không có văn bản báo cáo và/hoặc không cung cấp đầy đủ hồ sơ, tài liệu theo yêu cầu của Đoàn thanh tra.

9. Việc chấp hành báo cáo theo yêu cầu

          Nhiều tổ chức hành nghề luật sư còn chưa chấp hành báo cáo theo yêu cầu của cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền - vi phạm khoản 8, Điều 40, Luật luật sư. Theo ý kiến của các Sở Tư pháp: việc thực hiện báo cáo của các tổ chức hành nghề luật sư là cần thiết (bảo đảm cho công tác quản lý được chặt chẽ, thông tin về các tổ chức hành nghề luật sư được cập nhật thường xuyên, đồng thời là cơ sở để Sở Tư pháp tổng hợp số liệu để báo cáo định kỳ với Bộ Tư pháp theo mẫu báo cáo TP-LS11). Tuy nhiên, Nghị định số 76/2006/NĐ-CP không có chế tài xử lý vi phạm này mà chỉ có quy định xử phạt hành vi "không thực hiện chế độ báo cáo định kỳ..." nên Đoàn thanh tra chỉ nhắc nhở và yêu cầu các tổ chức hành nghề luật sư thực hiện chế độ báo cáo đầy đủ, kịp thời đối với Sở Tư pháp và Đoàn luật sư.

10. Về việc mua bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp luật sư

Hầu hết các tổ chức hành nghề luật sư chưa mua bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp luật sư. Đây là vấn đề còn nhiều vướng mắc, khó khăn của các tổ chức hành nghề luật sư vì không đủ khả năng mua hoặc muốn mua nhưng chưa biết mua ở đâu.

IV. MỘT SỐ KIẾN NGHỊ

1. Đối với Bộ Tư pháp

          - Mặc dù số lượng các hành vi vi phạm pháp luật về luật sư được phát hiện qua thanh tra là khá nhiều nhưng chỉ một số ít các hành vi có thể bị xử lý theo quy định của Nghị định số 76/2006/NĐ-CP. Nhiều hành vi phạm Luật luật sư nhưng không được quy định trong Nghị định số 76/2006/NĐ-CP hoặc có quy định nhưng lại bất hợp lý, không rõ ràng. Do đó, kiến nghị sửa đổi, bổ sung Mục 6, Nghị định 76/2006/NĐ-CP như sau:

          Thứ nhất, quy định bổ sung các hành vi vi phạm Luật luật sư nhưng Nghị định số 76/2006/NĐ-CP còn chưa có hình thức xử phạt:

          + Hành vi thực hiện dịch vụ pháp lý mà không có hợp đồng dịch vụ pháp lý bằng văn bản;

          + Sử dụng trụ sở không đúng địa chỉ được ghi trong Giấy đăng ký hoạt động;

          + Không thông báo cho Đoàn luật sư nơi tổ chức hành nghề luật sư đăng ký hoạt động và/hoặc Đoàn luật sư nơi có trụ sở của chi nhánh về việc thay đổi nội dung đăng ký hoạt động của chi nhánh;

          + Không thông báo bằng văn bản cho Sở Tư pháp và Đoàn luật sư nơi đăng ký hoạt động về địa chỉ văn phòng giao dịch;

+ Cung cấp dịch vụ pháp lý tại văn phòng giao dịch;

+ Không đăng báo theo quy định khi thay đổi nội dung đăng ký hoạt động;

+ Không thực hiện báo cáo theo yêu cầu của cơ quan nhà nước có thẩm quyền;

          + Hành vi vi phạm các quy định khác của pháp luật có liên quan.

          Thứ hai, sửa đổi điểm e, khoản 1, Điều 22 của Nghị định 76/2006/NĐ-CP để phù hợp với quy định tại khoản 1, Điều 36 của Luật luật sư.

          Thứ ba, sửa đổi điểm d, khoản 1, Điều 22 của Nghị định 76/2006/NĐ-CP vì quy định không rõ ràng.

          - Tổ chức tập huấn, bồi dưỡng về nghiệp vụ thanh tra, kiểm tra công tác tư pháp, đặc biệt là kiểm tra, thanh tra động của tổ chức hành nghề luật sư cho địa phương.

          - Tăng cường công tác thanh tra chuyên ngành về tổ chức và hoạt động của các tổ chức hành nghề luật sư trên toàn quốc.

2. Đối với Vụ Bổ trợ tư pháp, Bộ Tư pháp

          Tăng cường hơn nữa công tác hướng dẫn, kiểm tra, chỉ đạo việc giải quyết kịp thời đối các khó khăn, vướng mắc của địa phương trong quá trình quản lý và đăng ký hoạt động của tổ chức hành nghề luật sư.

3. Đối với Sở Tư pháp các tỉnh, thành phố

          - Tăng cường công tác thanh tra, xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực luật sư, tư vấn pháp luật theo thẩm quyền.

          - Tăng cường sự phối hợp giữa công tác quản lý nhà nước của Sở Tư pháp và vai trò tự quản của Đoàn luật sư tiến tới xây dựng Quy chế phối hợp quản lý luật sư và hành nghề luật sư trên địa bàn;

          - Kịp thời nắm bắt và cập nhật thường xuyên các thông tin về tổ chức và hoạt động của các tổ chức hành nghề luật sư tại địa phương.

4. Đối với Ban chủ nhiệm Đoàn luật sư các tỉnh, thành phố

          - Củng cố, kiện toàn Ban chủ nhiệm của Đoàn luật sư, nâng cao hiệu quả hoạt động quản lý, điều hành Đoàn luật sư; nhân sự để bầu vào Ban Chủ nhiệm phải là những luật sư có lập trường tư tưởng kiên định, vững vàng; trung thành với Tổ quốc; có kiến thức, năng lực và kinh nghiệm tham gia các quyết định của Ban chủ nhiệm; có năng lực và trình độ chuyên môn, uy tín, kinh nghiệm trong hoạt động nghề nghiệp; tuân thủ Hiến pháp và pháp luật; có đạo đức tốt, gương mẫu, trung thực, đoàn kết và quy tụ được đội ngũ luật sư trong Đoàn luật sư;

- Tăng cường công tác giám sát việc tuân theo pháp luật, quy tắc đạo đức và ứng xử nghề nghiệp của luật sư thành viên, giám sát các tổ chức hành nghề luật sư tại địa phương; yêu cầu tổ chức hành nghề luật sư chấm dứt hành vi vi phạm pháp luật và đề nghị cơ quan nhà nước có thẩm quyền xử lý.

- Tăng cường tuyên truyền về hoạt động nghề nghiệp của luật sư trong xã hội, nâng cao kiến thức về quản lý tổ chức hành nghề luật sư, nhận thực về nghĩa vụ, trách nhiệm của cá nhân, tổ chức hành nghề luật sư đối với các cơ quan quản lý Nhà nước và Đoàn luật sư trong việc thực hiện pháp luật về luật sư.

  •  15381
  •  Cảm ơn
  •  Phản hồi

Chủ đề đang được đánh giá

0 Lượt cảm ơn
câu phản hồi
Click vào bảng để xem hiển thị đầy đủ thông tin

Bạn vui lòng đăng nhập hoặc Đăng ký tại đây để tham gia thảo luận

Loading…