DanLuat
Chào mừng bạn đến với Dân Luật . Để viết bài Tư vấn, Hỏi Luật Sư, kết nối với Luật sư và chuyên gia, … Bạn vui lòng ĐĂNG KÝ TÀI KHOẢN.
×

Thêm câu phản hồi

Khi nào Tòa án xét xử độc lập, chỉ tuân theo pháp luật?

TỔ CHỨC TOÀ ÁN THEO TINH THẦN NGHỊ QUYẾT 49-NQ/TW VỀ CẢI CÁCH TƯ PHÁP, BẢO ĐẢM NGUYÊN TẮC ĐỘC LẬP XÉT XỬ

Trong cải cách tư pháp theo tinh thần và nội dung của Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 của Đảng ta, cần phải có sự nhận thức rõ hơn vị trí, vai trò của Toà án trong bộ máy nhà nước và những nguyên tắc hoạt động cơ bản của Toà án, trong đó có nguyên tắc "Khi xét xử, Thẩm phán và Hội thẩm độc lập và chỉ tuân theo pháp luật" (dưới đây gọi tắt là nguyên tắc độc lập xét xử). Để làm rõ nội dung nguyên tắc này trước những yêu cầu của cải cách tư pháp, trước hết cần xuất phát từ vị trí xã hội và những giá trị xã hội của Toà án.

Là cơ quan trong hệ thống tư pháp, Tòa án có những đặc thù so với các cơ quan khác trong hệ thống này, đó là:

- Tòa án, người đại diện của quyền lực tư pháp khác với cơ quan lập pháp và hành pháp ở chỗ không giải quyết các vấn đề ở tầm vĩ mô, không hoạch định chính sách kinh tế - xã hội mà có chức năng giải quyết các vấn đề rất cụ thể, từng tình huống, từng sự kiện cụ thể trong đời sống xã hội. Vì vậy, cách thức tổ chức và hoạt động khác với cơ quan lập pháp và hành pháp. Nói cách khác, so với hai cơ quan nói trên, Tòa án "thụ động" hơn, phải "chờ" có việc thì mới xét xử. Toà án là chủ yếu đóng vai trò là một bộ máy “quyền lực” chứ không sản sinh ra “công lực” mới, nó  thực hiện việc  áp dụng pháp luật, đưa việc thực hiện quyền lực tư pháp vào cuộc sống. Bởi vì thông qua quyền lực tư pháp mà pháp luật tác động đến những quan hệ xã hội. Đây không phải là phương tiện duy nhất nhưng là phương tiện chủ yếu trong việc giải quyết các trường hợp xung đột giữa các quan hệ pháp luật.

           - Những người làm công tác xét xử phải có trình độ chuyên môn, nghiệp vụ pháp lý rất cao, đủ khả năng để giải quyết các vấn đề rất phức tạp như xác định tội phạm và người phạm tội và áp dụng hình phạt, phán quyết các tranh chấp, các sự kiện liên quan đến quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, tổ chức.

- Lao động xét xử là lao động sáng tạo trong áp dụng pháp luật, đòi hỏi tư duy ở trình độ cao của người Thẩm phán. Họ phải tiếp cận với một hệ thống đồ sộ các văn bản quy phạm pháp luật hiện hành, kể cả pháp luật của các quốc gia khác khi có liên quan và cả pháp luật quốc tế.

- Lao động xét xử luôn luôn bị giới hạn bởi những quy định khắt khe của pháp luật tố tụng về chứng cứ, về thời hạn, về độ chính xác của bản án, quyết định.

- Việc xét xử phải tuân theo các nguyên tắc Hiến định cũng như nguyên tắc tố tụng. Các Tòa án về nguyên lý không tổ chức theo nguyên tắc tập trung thống nhất mà tổ chức thành từng cấp, độc lập với nhau khi xét xử. Trong số các nguyên tắc cơ bản về tổ chức và hoạt động của Toà án thì nguyên tắc khi xét xử, Thẩm phán và Hội thẩm  độc lập và chỉ tuân theo pháp luật chiếm vị trí đặc biệt và là nguyên tắc rất đặc trưng.

Trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, vị trí, vai trò của toà án lại càng được khẳng định. Vì toà án chính là cơ quan thực thi quyền tư pháp trong bộ máy nhà nước và việc thực thi quyền này lại ảnh hưởng trực tiếp tới mục tiêu và các giá trị của công cuộc xây dựng Nhà nước pháp quyền ở Việt Nam [1], toà án là nơi thể hiện sâu sắc nhất bản chất của Nhà nước và nền công lý của chế độ, đồng thời thể hiện chất lượng hoạt động và uy tín của cả hệ thống tư pháp trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa [2].Do đó, cải cách toà án còn được coi là khâu đột phá trong cải cách tư pháp ở giai đoạn hiện nay.

Nguyên tắc độc lập xét xử là một giá trị phổ biến khi nói về một nền tư pháp công bằng, là một trong những đặc thù của việc thực hiện quyền tư pháp và là một nguyên tắc rất quan trọng trong tổ chức và hoạt động của toà án trong nhà nước pháp quyền. C.Mác từng nói ”Đối với thẩm phán thì không có cấp trên nào khác ngoài  luật pháp...Thẩm phán xem xét hành động của tôi trên cơ sở một đạo luật nhất định”[3]  . Nhìn lại lịch sử, có thể thấy ngay từ khi thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, nguyên tắc độc lập xét xử đã được khẳng định tại văn bản có hiệu lực pháp lý cao nhất là Hiến pháp. Điều 69 Hiến pháp Việt Nam 1946 quy định: “Trong khi xét xử, các viên thẩm phán chỉ tuân theo pháp luật, các cơ quan khác không được can thiệp”. Trong các Hiến pháp tiếp theo được ban hành vào các năm 1959, 1980, 1992 và trong các Luật tổ chức Toà án nhân dân được ban hành vào các năm 1960, 1981, 1992 và 2002, nguyên tắc này đã luôn luôn được khẳng định.

Quan điểm về xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN của Đảng ta đã chính thức được thể chế hoá tại Điều 2 Hiến pháp nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992 (sửa đổi, bổ sung năm 2001) “Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân”. Nhà nước pháp quyễn  XHCN đòi hỏi ở Toà án các yếu tố, chuẩn mực như sự công minh, công bằng, dân chủ, hiệu quả, hiệu lực, trong đó thực hiện nguyên tắc độc lập xét xử là cơ sở nền tảng thực hiện các đòi hỏi này. Độc lập xét xử   được xemnhư một điều kiện bảo đảm sự vận hành bình thường của Toà án, cho một trình tự tư pháp công bằng trong Nhà nước pháp quyền XHCN.

Để bảo đảm sự độc lập của thẩm phán và hội thẩm, theo chúng tôi cần tiếp tục thực hiện một loạt biện pháp, từ tổ chức, cán bộ đến cơ sở vật chất kỹ thuật, từ đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực đến xây dựng và hoàn thiện các thể chế về xét xử, dưới đây chúng tôi xin nêu một số vấn đề :

1. Thực hiện việc tổ chức các toà án theo thẩm quyền ( theo Nghị quyết 49-NQ/TW sẽ có các Toà án sơ thẩm khu vực, Toà án phúc thẩm, Toà án thượng thẩm và Toà án nhân dân tối cao). Việc tổ chức Toà án như vậy sẽ có các toà án  với thẩm quyền khác nhau, tuy nhiên, vẫn lấy nguyên tắc 2 cấp xét xử làm chủ đạo. Nhưng toà án sơ thẩm khu vực chỉ nên giới hạn trong phạm vi địa bàn một tỉnh, không nên tổ chức theo địa bàn liên tỉnh. Với mô hình toà án như vậy, mối quan hệ giữa toà án cấp trên và toà án cấp dưới lúc này sẽ theo hướng chủ yếu là quan hệ tố tụng, tránh được các hiện tượng lâu nay vần còn tồn tại như thỉnh thị án, duyệt án, bàn án làm cho toà án cấp dưới hay thẩm phán bị động, giảm tính độc lập của thẩm phán và Hội thẩm.

2. Về đổi mới cơ chế tuyển chọn thẩm phán, cần mở rộng nguồn để tuyển chọn. Để có được những thẩm phán thật sự có năng lực, cần tuyển chọn thẩm phán không chỉ từ đội ngũ cán bộ toà án mà còn từ đội ngũ các chức danh tư pháp khác như điều tra viên, công tố viên, luật sư, kể cả những luật gia đã qua đào tạo nghề thẩm phán nhưng chưa làm thẩm phán. Để được làm thẩm phán, các ứng viên cần trải qua một kỳ thi quốc gia nhằm tạo ra sự cạnh tranh lành mạnh, bình đẳng giữa họ cho chức danh này. Vì vậy, cần nghiên cứu từng bước chuyển từ chế độ xét tuyển thẩm phán ở từng cấp toà án hiện hành sang chế độ thi tuyển cấp quốc gia. Những người trúng tuyển kỳ thi quốc gia nếu có đủ các tiêu chuẩn khác mà pháp luật quy định sẽ được Chủ tịch nước xem xét và ra quyết định bổ nhiệm làm thẩm phán. Thẩm phán sẽ là thẩm phán của quốc gia, nên có thể điều động họ dễ dàng khi thấy cần thiết. Việc bổ nhiệm thẩm phán cần tiến hành theo ngạch, bậc và theo nguyên tắc Thẩm phán không được bổ nhiệm ở ngạch cao hơn nếu chưa có đủ số năm nhất định giữ chức danh thẩm phán ở ngạch thấp hơn hoặc giữ các chức danh tư pháp khác (công tố viên, luật sư, chấp hành viên...).  Cũng cần xem xét việc kéo dài nhiệm kỳ Thẩm phán so với hiện nay, tiến tới chế độ bổ nhiệm thẩm phán suốt đời, bởi vì quy định nhiệm kỳ thẩm phán quá ngắn (5 năm) cùng với cơ chế xét tuyển như hiện nay dễ dẫn đến tình trạng thẩm phán chịu sức ép tâm lý  trong suốt nhiệm kỳ, có thể không thực sự yên tâm. Ngoài ra, hệ tiêu chuẩn chức danh thẩm phán và các tiêu chuẩn bổ nhiệm, nâng ngạch thẩm phán phải được hoàn thiện theo hướng dựa căn bản trên trình độ hiểu biết, mức độ tinh thông nghiệp vụ, kỹ năng và hiệu quả xét xử, bản lĩnh và phẩm chất đạo đức, sự liêm khiết, trung thực của thẩm phán, loại trừ tối đa những yếu tố mang tính chủ quan, định kiến trong việc tuyển chọn, bổ nhiệm, sử dụng thẩm phán.

3. Cần tiếp tục cải tiến chế độ sử dụng, đãi ngộ, bảo vệ thẩm phán và tăng cường chế độ giám sát, kỷ luật đối với thẩm phán. Chế độ sử dụng và đãi ngộ cần đảm bảo cho thẩm phán không phải lo mưu sinh, đảm bảo để họ và gia đình có thể sống đầy đủ bằng chính đồng lương, không bị phụ thuộc vào những tác động vật chất từ phía các cá nhân, tổ chức liên quan đến công vụ của họ. Mặt khác, cần thiết lập một chế độ giám sát chặt chẽ để kịp thời phát hiện, cảnh báo, phòng ngừa và xử lý nghiêm minh những thẩm phán hành động không xứng đáng với chức danh cao quý của mình. Về mặt chuyên môn, nghiệp vụ, các thẩm phán sau khi được bổ nhiệm phải tham gia bắt buộc vào các khoá bồi dưỡng định kỳ và phải trải qua các kỳ sát hạch, kiểm tra về kiến thức, kỹ năng xét xử, tác phong làm việc. Giống như các chức danh hành chính cao cấp, thẩm phán phải thực hiện chế độ công khai tài sản và tài chính cá nhân trong suốt thời kỳ giữ chức danh và một thời gian sau khi bãi nhiệm hoặc về hưu.

Một vấn đề rất phức tạp, đó là việc xác định trách nhiệm cá nhân của thẩm phán về án oan, sai. Vấn đề càng trở nên không rõ ràng và phức tạp trong điều kiện thực tế của Việt Nam khi mà chế độ làm việc nội bộ của từng cơ quan toà án và giữa các cấp toà án vẫn còn hiện tượng bàn án, thỉnh thị án, phê duyệt án. Sẽ là không công bằng khi đặt vấn đề truy cứu trách nhiệm cá nhân thẩm phán khi mà tính độc lập tự quyết, tự chịu trách nhiệm của thẩm phán không được bảo đảm đầy đủ trên thực tế.

4. Nâng cao năng lực của Hội thẩm

Hội thẩm là một chế định tồn tại với truyền thống hơn 60 năm trong nền tư pháp dân chủ ở Việt Nam. Trong cải cách tư pháp, chế định Hội thẩm tiếp tục được đặt ra. Có nhiều ý kiến về việc bỏ chế độ Hội thẩm hoặc thay chế độ Hội thẩm bằng hình thức khác mà vẫn bảo đảm cho tính nhân dân trong xét xử. Tuy nhiên, với đặc điểm của Việt Nam, theo chúng tôi cần tiếp tục duy trì chế độ Hội thẩm tham gia xét xử nhưng với thành phần không phải đa số như hiện nay. Việc Hội đồng xét xử gồm 2 Thẩm phán và 1 Hội thẩm (hoặc 3 Thẩm phán, 2 Hội thẩm) sẽ vừa bảo đảm tính chuyên nghiệp, vừa bảo đảm có đại diện của nhân dân tham gia xét xử, vẫn có thể sử dụng được kinh nghiệm xã hội và khả năng phán quyết các vấn đề của những người xét xử "không chuyên nghiệp", những người đại diện cho mức hiểu biết pháp luật ở mức "phổ thông" của các tầng lớp nhân dân. Cải cách tư pháp sẽ không đi theo hướng "chuyên môn hoá", "thẩm phán hoá" Hội thẩm mà trái lại, tiếp tục duy trì và củng cố chế định này theo hướng lựa chọn những người có đủ khả năng, kiến thức và kinh nghiệm xã hội cần thiết để tham gia xét xử. Họ cần được bồi dưỡng về chuyên môn, nghiệp vụ ở mức độ rất cơ bản để có thể tham gia có hiệu quả vào hoat động xét xử.

  •  12050
  •  Cảm ơn
  •  Phản hồi

Chủ đề đang được đánh giá

0 Lượt cảm ơn
câu phản hồi
Click vào bảng để xem hiển thị đầy đủ thông tin

Bạn vui lòng đăng nhập hoặc Đăng ký tại đây để tham gia thảo luận

Loading…