DanLuat
Chào mừng bạn đến với Dân Luật . Để viết bài Tư vấn, Hỏi Luật Sư, kết nối với Luật sư và chuyên gia, … Bạn vui lòng ĐĂNG KÝ TÀI KHOẢN.
×

Thêm câu phản hồi

Cùng Bình Luận

 

 Tòa án nhân dân huyện Văn Chấn tỉnh Yên Bái

Bản án số 01/2006/DSST ngày 21/02/2006

( tên của các người có liên quan trong  vụ án đã được thay đổi)

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, hội đồng xét xử nhận định:

Nguồn gốc diện tích 288 mét vuông ông Cường và bà Bính đã chuyển nhượng cho anh Thăng là một phần trong tổng diện tích đất do bà Lợi- mẹ đẻ ông Cường để lại di sản sau chết. Tại thời điểm tháng 1/2004 do việc giải quyết chia thừa kế chưa được đặt ra nên ông Cường chỉ là người chiếm hữu sử sử dụng di sản thừa kế theo quy định tại khoản 2 điều 638 BLDS. Nên việc ông Cường và bà Bính tự ý bán một phần di sản khi chưa được sự đồng ý của người cùng hàng thừa kế là vi phạm các quy định tại khỏan 2 điều 639. Do khi bà Lợi chết không để lại di chúc, nên tại bản án chia thừa kế số 02/DSST ngày 17/5/2005 đã căn cứ vào các quy định về chia thừa kế theo pháp luật để chia cho ông Cường được sử dụng giá trị phần tài sản là giá trị quyền sử dụng 288 mét vuông đất đã bán cho anh Thăng. Đây được coi là tài sản riêng cho ông Cường. Nên việc bà Bính cùng có ý kiến định đoạt khối tài sản này là trái với các quy định của pháp luật về quyền sở hữu.

Theo đề nghị của anh Hưng, tòa án nhân dân huyện Văn Chấn đã ra quyết định trưng cầu giám định pháp y tâm thần với ông Cường. Tại biên bản giám định pháp y tâm thần số 147/GĐPY ngày 15/12/2005 của tổ chức giám định pháp y tâm thần tỉnh đã kết luận: ông Cường bị mắc “loạn thần do sử dụng rượu”. Thời điểm mắc bệnh là trước ngày 01/01/2004 với biểu hiện của căn bệnh là mất hoàn toàn khả năng tư duy, khả năng hiểu biết và khả năng điều khiển hành vi của mình.

Trên cơ sở kết luận giám định như  trên, ông Cường được coi là người mất hoàn toàn năng lực trách nhiệm, năng lực hành vi dân sự từ thời điểm trước ngày 01/01/2004. Khi đó bà Bính là vợ ông Cường  nên trong mọi giao dịch dân sự, bà phải tham gia với tư cách là người giám hộ để đại diện cho ông Cường, nhằm bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của ông Cường theo quy định của BLDS. Nhưng trên thực tế trong quá trình giao kết hợp đồng chuyển nhượng sử dụng đất, bà Bính đã không tham gia giao kết với tư cách là người giám hộ của ông Cường, không đăng kí giám hộ mà tham gia kí kết hợp đồng như một chủ thể sở hữu tài sản với chính con riêng của bà là anh Thăng. Như vậy trong quá trình giao kết hợp đồng chuyển nhượng sử dụng đất, ông Cường không hề có người giám hộ và không có ai đăng kí việc giám hộ cho ông theo quy định điều 58 và 62 BLDS.

Ngày 13/6/2005, tòa án nhân dân huyện Văn Chấn xét xử và đã quyết định cho bà Bính ly hôn với ông Cường. Đến ngày 10/08/2005, anh Hưng  con trai ông Cường và bà Chế( đã ly hôn năm 1979) mới đăng kí việc giám hộ cho ông Cường tại UBND xã. Do đó tính đến ngày 10/08/2005 ông Cường mới có người giám hộ_đại diện hợp pháp. Căn cứ theo khoản 2 điều 161, thì thời hiệu khởi kiện vụ án được tính từ thời điểm ông Cường có người giám hộ đại diện theo quy định tại điều 58 và 67 BLDS (từ ngày 10/8/2005) chứ không phải là ngày giao kết hợp đồng theo quy định tại điều 136 BLDS.

Như các phân tích đã nêu trên cho thấy anh Thăng đã kí kết hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất với ông Cường là mất năng lực trách nhiệm, năng lực hành vi dân sự. Và bà Bính là người không có quyền định đoạt, xử lí tài sản là đối tượng của hợp đồng chuyển nhượng mà không có sự tham gia của người đại diện cho ông Cường. Vì vậy đã làm phát sinh một hợp đồng với các giao dịch dân sự vô hiệu toàn bộ do vi phạm quy định tại điều 133 BLDS. Vì vậy cần căn cứ vào quy định tại khoản 2 điều 137 BLDS để hủy hợp đồng chuyển nhượng nêu trên và buộc anh Thăng trả lại 288 mét vuông đất thổ cư cho ông Cường và người đại diện là anh Hưng.

Trong quá trình giải quyết vụ án, cũng như tại phiên tòa, bà Bính điều thừa nhận số tiền bán đất cho anh Thăng là 20.000.000 đồng đã được sử dụng vào mục đích chung của cả gia đình khi hôn nhân giữa bà và ông Cướng còn tồn tại. Vào ngày 13/6/2005 tòa án nhân dân huyện Văn Chấn đã xử cho bà ly ôn với ông Cường. Về tài sản và các nghĩa vụ chung tòa án đã chia cho các bên theo quy định của pháp luật. Do đó, số tiền bán đất cho anh Thăng mà có, đến nay bà Bính và ông Cường mà đại diện là anh Hưng đều phải có cùng trách nhiệm trả cho anh Thăng. Việc anh Hưng đề nghị không phải trả số tiền này, do khi đó số tiền này bà Bính quản lí, chi tiêu không có căn cứ, cần bác yêu cầu trên của anh Hưng. Để xử buộc bà Bính phải trả cho anh Thăng  số tiền là 10.000.000 đồng và  ông Cường do anh Hưng đại diện phải trả cho anh Thăng số tiền là 10.000.000 đồng.

Do hợp đồng chuyển nhượng sử dụng đất bị coi là vô hiệu nên quyền và nghĩa vụ của các bên không phát sinh. Vì vậy tại phiên tòa hôm nay, yêu cầu cần tính chênh lệch giá trị quyền sử dụng đất tại thời điểm ký kết hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất với thời điểm hiện tại cho anh Thăng đưa ra không được chấp nhận. nhưng trong quá trình sử dụng đất, anh Thăng đã đầu tư xây dựng các công trình gồm xây kè bờ ao, láng nền nhà, nền sân, xây và láng nền chuồng lợn và thuê người dựng nhà trên đất. Tại phiên tòa, anh Thăng tính toán tổng chi phí là 17.450.000 đồng. và yêu cầu ông Cường phải thanh toán lại cho anh các chi phí nếu anh phải trả lại đất.

Xét việc anh Thăng yêu cầu như trên là hoàn toàn phù hợp, cần được chấp nhận vì việc anh đầu tư xây dựng các công trình này đã tăng giá trị quyền sử dụng đất. nay buộc anh Thăng phải trả lại đất cho ông Cường cũng phải buộc ông Cường và người đại diện là anh Hưng phải thanh toán lại các chi phí này. Theo kết quả xem xét, thẩm định tại chỗ thì các công trình xây dựng trên đất bao gồm: bờ kè xây bằng đá, nền nhà, nền láng xi măng, nền và tường chuồng lợn xây có tổng giá trị là 4.199.000 đồng. cần buộc ông Cường và anh Hưng phải thanh toán số tiền này cho anh Thăng.

Do anh Thăng không hoàn toàn có lỗi trong việc kí kết hợp đồng bị coi là vô hiệu. trong quá trình sử dụng đất anh đã dựng nhà ở trên đất này. Với chi phí của việc tháo dỡ, dựng lại và tóc xi lại vách, theo thẩm định tổng chi phí là 5.850.000 đồng một lượt. đây là số tiền thực tế mà anh Thăng phải chi phí để di dời nhà đến, và sẽ di dời nhà đi nơi khác để trả lại đất cho ông Cường (cả 2 lượt là 5.850.000 đ x 02= 11.700.000 đ). Số tiền này là thiệt hại phát sinh do bị hủy hợp đồng, không làm tăng giá trị sử dụng đất. nên bà Bính và ông Cường phải thanh toán cho anh Thăng. Cần xử buộc bà Bính  phải thanh toán cho anh Thăng số tiền là 5.850.000 đồng. buộc ông Cường và người đại diện là anh Hưng thanh toán cho anh Thăng số tiền là 5.850.000 đồng. như  vậy tổng cộng cần xử buộc anh Hưng là người đại diện của ông Cường phải thanh toán cho anh Thăng số tiền là 20.049.000 đồng ( 10.000.000 + 4.199.000 + 5.850.000đ). xử buộc bà Bính phải thanh toán cho anh Thăng số tiền là 10.000.000 + 5.850.000 = 15.850.000 đ.

Trong quá trình giải quyết cả nguyên đơn và bị đơn đều đơn ra các giấy tờ, tài liệu và lời xác nhận của một số người làm chứng nhằm chứng minh ông Cường có bị tâm thần hay không. Tuy nhiên các giấy tờ và lời làm chứng nêu trên cơ bản đa số đều thiếu khách quan do việc xác nhận không rõ rang, không dựa trên cơ sở khoa học mà chủ yếu xuất phát từ những cảm nhận chủ quan. Anh Thăng có xuất trình giấy chuyển nhượng sử dụng đất, giấy trả tiền và một số giấy tờ do ông Cường viết, nhằm chứng minh ông Cường không bị tâm thần. nhưng tại bản giám định pháp y đã kết luận ông Cường mất hoàn toàn khả năng tư duy, khả năng điều khiển hành vi. Do vậy, việc xác định ông Cường có bị tâm thần hay không chủ yếu dựa trên kết luận khoa học,chứ không căn cứ vào việc ông có viết được các giấy tờ hay không. Mặt khác, trong giấy trả nhận tiền đề ngày 20/01/2004 có chữ kí xác nhận của ông Hành là trưởng thôn. Nhưng theo quyết định số 12 ngày 01/03/2004 thì ông Hành được bổ nhiệm là trưởng thôn từ ngày 01/03/2004 chứ không phải từ tháng 01/2004 như văn bản này thể hiện. tại phiên tòa phía nguyên đơn cũng cung cấp bản đề nghị do ông Hành trình bày việc kí xác nhận được thực hiện không cùng với thời điểm lập văn bản này mà do chính bà Bính về sau đó đề nghị nên ông kí xác nhận hộ mà không được trực tiếp chứng kiến việc trả tiền. như vậy giấy tờ này có sự sai lệch, thể hiện sự không trung thực nên không thể sử dụng làm chứng cứ. tại phiên tòa, những người làm chứng như ông Đi, ông Vĩnh đều khai tuy không dám khẳng định ông Cường tâm thần nhưng trong quá trình tiếp xúc ông thấy có nhiều biểu hiện không bình thường. những người làm chứng khác có mặt tại phiên tòa đều thể hiện không thường xuyên tiếp xúc với ông Cường nhưng thấy ông Cường có biểu hiện bình thường. những lời làm chứng này về cơ bản không có giá trị lớn trong việc chứng minh sự khách quan  của vụ án.

 Về án phí: do anh Hưng và bà Bính đều bị xử buộc phải thanh toán cho anh Thăng. Vì vậy anh Hưng và bà Bính phải chịu án phí trên tổng số tiền phải thanh toán theo quy định của pháp luật. cụ thể anh Hưng phải chịu 20.049.000 x 5%=1.002.000 đ; bà Bính phải chịu 15.850.000 x 5%= 792.500 đ. Anh Thăng do bị bác yêu cầu giữ nguyên hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất nên phải chịu án phí dân sự sơ thẩm trên giá trị của hợp đồng là 20.000.000 x 5%= 1.000.000 đ.

  •  9250
  •  Cảm ơn
  •  Phản hồi

Chủ đề đang được đánh giá

0 Lượt cảm ơn
câu phản hồi
Click vào bảng để xem hiển thị đầy đủ thông tin

Bạn vui lòng đăng nhập hoặc Đăng ký tại đây để tham gia thảo luận

Loading…