DanLuat
Chào mừng bạn đến với Dân Luật . Để viết bài Tư vấn, Hỏi Luật Sư, kết nối với Luật sư và chuyên gia, … Bạn vui lòng ĐĂNG KÝ TÀI KHOẢN.
×

Thêm câu phản hồi

Công văn 263/VKSTC-V11: VKSNDTC trả lời thắc mắc việc xử lý tài sản chung để thi hành án

VKSND Tối cao hướng dẫn xử lý tài sản chung để thi hành án

VKSND Tối cao trả lời thắc mắc về xử lý tài sản chung để thi hành án

Thực hiện Công văn 5881/VKSTC-VP ngày 30/12/2020 của Viện kiểm sát nhân dân (VKSND) tối cao về việc trả lời những nội dung khó khăn, vướng mắc của VKSND địa phương trong nhận thức và áp dụng pháp luật về thi hành án dân sự (THADS), thi hành án hành chính (THAHC); sau khi trao đổi, thống nhất với Vụ Pháp chế và Quản lý khoa học (Vụ 14), Vụ Kiểm sát thi hành án dân sự (Vụ 11) trả lời 10 nội dung quan trọng.

Đặc biệt trong Công văn, tại Mục 2 có nhắc đến vấn đề "Xác định, phân chia, xử lý tài sản chung đề thi hành án".

Khoản 1 Điều 74 Luật thi hành án dân sự quy định việc “Xác định, phân chia, xử lý tài sản chung để thi hành án” còn vướng mắc khi thực hiện, cụ thể: Việc cưỡng chế đối với tài sản thuộc sở hữu chung còn gặp nhiều khó khăn, bởi Điều 74 chưa quy định cụ thể việc thực hiện khởi kiện của các đồng sở hữu, của người được thi hành án và của Chấp hành viên (Vĩnh Long)

VKSNDTC Trả lời:

Khoản 1 Điều 74 Luật THADS quy định cách thức xác định, phân chia tài sản chung để thi hành án, cụ thể:

“Trường hợp chưa xác định được phần quyền sở hữu tài sản, phân quyền sử dụng đất của người phải THA trong khối tài sản chung để THA thì Chấp hành viên phải thông báo cho người phải THA và những người có quyền sở hữu chung đối với tài sản, quyền sử dụng đất biết để họ tự thỏa thuận phân chia tài sản chung hoặc yêu cầu Tòa án giải quyết theo thủ tục tố tụng dân sự.

Hết thời hạn 30 ngày, kể từ ngày nhận được thông báo mà các bên không có thỏa thuận hoặc thỏa thuận vi phạm quy định tại Điều 6 của Luật này hoặc thỏa thuận không được và không yêu cầu Tòa án giải quyết thì Chấp hành viên thông báo cho người được THA có quyền yêu cầu Tòa án xác định phần quyền sở hữu tài sản, phân quyền sử dụng đất của người phải THA trong khối tài sản chung theo thủ tục tố tụng dân sự.

Hết thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được thông báo mà người được THA không yêu cầu Tòa án giải quyết thì Chấp hành viên yêu cầu Tòa án xác định phản quyền sở hữu tài sản, phân quyền sử dụng đất của người phải THA trong khối tài sản chung theo thủ tục tố tụng dân sự.

Chấp hành viên xử lý tài sản theo quyết định của Toà án”.

Tuy nhiên, tại Điểm c Khoản 2 Điều Điều 24 Nghị định 62/2015/NĐ-CP ngày 18/7/2015 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật THADS (viết tắt là Nghị định 62/2015/NĐ-CP), hướng dẫn thực hiện khoản 1 Điều 74 Luật THADS lại quy định:

“Chấp hành viên tiến hành tự phân chia tài sản chung của vợ chồng, hộ gia đình; nếu vợ chồng hoặc các thành viên trong hộ gia đình không đồng ý với việc phân chia của Chấp hành viên thì có quyền yêu cầu Tòa phân chia tài sản chung, hết thời hạn mà họ không khởi kiện thì Chấp hành viên tiến hành kê biên, xử lý tài sản theo sự phân chia của Chấp hành viên.”

Như vậy, quy định tại điểm c khoản 2 Điều Điều 24 Nghị định 62/2015/NĐCP và khoản 1 Điều 74 Luật THADS có những điểm chưa đồng bộ, vướng mắc trong quá trình thực hiện.

Bên cạnh đó, khi Chấp hành viên không có cơ sở để xác định được phần tài sản của người phải THA trong khối tài sản chung thì đã yêu cầu Tòa án giải quyết theo quy định tại khoản 2 Điều 27 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, hiện nay đã xảy ra 02 trường hợp:

- Trường hợp Tòa án không thụ lý với lý do Chấp hành viên không có quyền yêu cầu khởi kiện theo quy định tại Điều 187 Bộ luật Tố tụng dân sự.

- Trường hợp Tòa án đã thụ lý nhưng Chấp hành viên không thể đáp ứng nội dung quy định về việc phải cung cấp chứng cứ để Tòa án xem xét giải quyết theo Điều 6 Bộ luật Tố tụng dân sự.

Tại cuộc họp liên ngành ngày 11/11/2020, lãnh đạo Bộ Tư pháp, Tòa án nhân dân tối cao và Viện kiểm sát nhân dân tối cao đã thống nhất, về nguyên tắc phải thực hiện theo quy định tại khoản 1 Điều 74 Luật THADS. Đồng thời, để thực hiện được, Bộ Tư pháp có văn bản gửi Tòa án nhân dân tối cao nêu rõ vướng mắc trên để đề nghị Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn thống nhất đối với các Tòa án nhân dân địa phương thực hiện.

Xem chi tiết Công văn tại file đính kèm dưới đây.

  •  3855
  •  Cảm ơn
  •  Phản hồi

Chủ đề đang được đánh giá

0 Lượt cảm ơn
câu phản hồi
Click vào bảng để xem hiển thị đầy đủ thông tin

Bạn vui lòng đăng nhập hoặc Đăng ký tại đây để tham gia thảo luận

Loading…