DanLuat
Chào mừng bạn đến với Dân Luật . Để viết bài Tư vấn, Hỏi Luật Sư, kết nối với Luật sư và chuyên gia, … Bạn vui lòng ĐĂNG KÝ TÀI KHOẢN.
×

Thêm câu phản hồi

Cẩm nang cho những ai học và nghiên cứu về hình sự, dân sự, hành chính

>>> Cẩm nang pháp luật 2017

Thực tiễn trong quá trình xét xử trong một năm qua, gặp không ít những vướng mắc vì mâu thuẫn dưới văn bản luật và dưới luật, khiến cho các Tòa án lúng túng trong quá trình xét xử, do vậy mà cần có một giải thích chung thống nhất làm cơ sở để giải quyết. Sau đây là một số giải đáp cần thiết.

P/S: Các bạn đang học Luật, nghiên cứu Luật cũng có thể dùng bài viết này làm tư liệu để nghiên cứu nhé!

1. Nội dung giải đáp về tội “Tổ chức đánh bạc” đối với trường hợp tổ chức cho 10 người trở lên tại Giải đáp số 01/GĐ-TANDTC ngày 25-7-2016 của Tòa án nhân dân tối cao có mâu thuẫn với quy định tại Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2009, Điều 322 Bộ luật hình sự năm 2015Nghị quyết số 01/2010/NQ-HĐTP ngày 22-10-2010 không?

Theo quy định tại khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 1999 thì Người nào tổ chức đánh bạc hoặc gá bạc trái phép với quy mô lớn hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi quy định tại Điều này và Điều 248 của Bộ luật này hoặc đã bị kết án về một trong các tội này, chưa được xoá án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt tiền từ mười triệu đồng đến ba trăm triệu đồng hoặc phạt tù từ một năm đến năm năm. Theo hướng dẫn tại điểm a khoản 1 Điều 2 Nghị quyết số 01/2010/NQ-HĐTP ngày 22-10-2010 thì “quy mô lớn”“Tổ chức đánh bạc hoặc gá bạc trong cùng một lúc cho từ mười người đánh bạc trở lên hoặc cho từ hai chiếu bạc trở lên mà số tiền hoặc hiện vật dùng đánh bạc có giá trị từ 2.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng”.

Điều 322 Bộ luật hình sự năm 2015 đã luật hóa hướng dẫn nêu trên của Nghị quyết số 01/2010/NQ-HĐTP và nâng mức định lượng từ 2.000.000 đồng lên 5.000.000 đồng. Trong thực tiễn, do còn có cách hiểu và áp dụng không thống nhất nên tại Giải đáp số 01/GĐ ngày 25-7-2016, Tòa án nhân dân tối cao đã xác định người thực hiện hành vi tổ chức đánh bạc cho 10 người nhưng tổng số tiền thu trên chiếu bạc dưới 5.000.000 đồng thì vẫn phải chịu trách nhiệm hình sự về tội “Tổ chức đánh bạc”. Nội dung giải đáp này phù hợp với quy định tại Điều 249 Bộ luật hình sự năm 1999, hướng dẫn của Nghị quyết số 01/2010/NQ-HĐTP và quy định tại điểm a khoản 1 Điều 322 Bộ luật hình sự năm 2015.

2. Năm 2014, bị cáo bị Tòa án xử phạt tù nhưng cho hưởng án treo về tội “Đánh bạc” với số tiền đánh bạc là 03 triệu đồng (bị cáo chưa có tiền án, tiền sự). Trong thời gian thử thách, ngày 01-7-2015, bị cáo tiếp tục có hành vi đánh bạc với số tiền đánh bạc là 04 triệu đồng. Vậy bị cáo có bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội đánh bạc hay không, hay được áp dụng quy định có lợi tại khoản 3 Điều 7 Bộ luật hình sự năm 2015?

Điều 3 Nghị quyết số 01/2016/NQ-HĐTP ngày 30-6-2016 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao quy định: Kể từ ngày 09-12-2015, không xử lý hình sự đối với trường hợp người thực hiện hành vi mà theo quy định của Bộ luật hình sự năm 1999 là tội phạm nhưng theo quy định của Bộ luật hình sự năm 2015 thì hành vi đó chưa cấu thành tội phạm do có bổ sung, thay đổi các yếu tố cấu thành tội phạm đó. Đối với trường hợp này, nếu vụ án đang trong giai đoạn xét xử thì Tòa án phải mở phiên tòa và căn cứ vào Điều 25 Bộ luật hình sự năm 1999 miễn trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội. Những người đã chấp hành xong hình phạt, được miễn chấp hành toàn bộ hình phạt hoặc hình phạt còn lại thì đương nhiên được xóa án tích.

Đối chiếu với các quy định nêu trên thì trường hợp người bị kết án về tội đánh bạc với số tiền sử dụng vào việc đánh bạc là 3.000.000đ thì đương nhiên được xóa án tích. Do vậy, nếu sau đó, người này tiếp tục đánh bạc với số tiền 4.000.000đ thì hành vi này không đủ yếu tố cấu thành tội đánh bạc nên không truy cứu trách nhiệm hình sự.

3. Trường hợp 01 người bị kết án về tội đánh bạc với số tiền là 4.500.000đ. Sau đó, tuy chưa được xóa án tích nhưng người này lại tiếp tục đánh bạc với số tiền 262.000đ nên bị kết án 04 tháng tù về tội đánh bạc (cả hai lần bị kết án đều trước ngày 09-12-2015). Nếu người này chưa chấp hành hình phạt thì có được miễn chấp hành hình phạt hay không?

Khoản 1 Điều 321 Bộ luật hình sự năm 2015 quy định: người có hành vi đánh bạc trái phép dưới bất kỳ hình thức nào được thua bằng tiền hay hiện vật trị giá dưới 5.000.000 đồng, đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi đánh bạc hoặc hành vi tổ chức đánh bạc hoặc bị kết án về tội đánh bạc hoặc tội tổ chức đánh bạc, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm thì vẫn bị xử lý hình sự. Như vậy, cấu thành tội phạm của tội đánh bạc trong trường hợp này theo quy định tại Điều 321 Bộ luật hình sự năm 2015 không thay đổi so với Điều 248 Bộ luật hình sự năm 1999. Thời điểm bị xét xử lần hai về tội đánh bạc (trước ngày 09-12-2015), người phạm tội bị xác định là có tiền án về tội đánh bạc là đúng. Do đó, trong trường hợp này họ không được miễn chấp hành hình phạt.

4. Người bị kết án thuộc trường hợp được miễn chấp hành hình phạt, nhưng sau ngày 01-8-2016 (ngày Nghị quyết số 01/2016/NQ-HĐTP có hiệu lực thi hành) họ đã chấp hành xong hình phạt chính nhưng chưa chấp hành hoặc đã chấp hành được một phần hình phạt bổ sung là phạt tiền thì có được ra quyết định miễn chấp hành riêng về phần hình phạt bổ sung là phạt tiền hay không?

Theo hướng dẫn tại điểm a khoản 5 Điều 6 Nghị quyết số 01/2016/NQ-HĐTP thì khi xem xét, quyết định việc miễn chấp hành hình phạt cần chú ý một số nội dung sau:

“a) Chỉ miễn chấp hành hình phạt (hình phạt chính và hình phạt bổ sung) đối với các trường hợp quy định tại điểm d, điểm đ khoản 2 Điều 1 Nghị quyết số 109/2015/QH13 và hướng dẫn tại điểm a, điểm b khoản 1 Điều 3 Nghị quyết này; đối với các vấn đề khác, như: trách nhiệm bồi thường thiệt hại, trả lại tài sản, xử lý vật chứng, án phí hình sự, án phí dân sự... thì người được miễn chấp hành hình phạt vẫn phải thi hành.”

Như vậy, nếu trường hợp chưa chấp hành hình phạt thì được miễn chấp hành cả hình phạt chính và hình phạt bổ sung. Nếu đã chấp hành xong hình phạt chính nhưng chưa chấp hành hình phạt bổ sung thì được miễn chấp hành hình phạt bổ sung. Lưu ý là các nghĩa vụ khác như trách nhiệm bồi thường thiệt hại, trả lại tài sản, xử lý vật chứng, án phí hình sự, án phí dân sự... thì người được miễn chấp hành hình phạt vẫn phải thi hành.

5. Đối với tội "Buôn lậu", Bộ luật hình sự năm 1999 quy định số lượng vật phạm pháp làm căn cứ truy cứu trách nhiệm hình sự nhưng Bộ luật hình sự năm 2015 lại quy định giá trị bằng tiền. Như vậy, đối với vụ án Viện kiểm sát đã truy tố theo khoản 2 điều 153 Bộ luật hình sự 1999 và chuyển hồ sơ cho Tòa án giải quyết (trước thời điểm Công văn 276/TANDTC-PC ngày 13/9/2016 hướng dẫn áp dụng các quy định có lợi cho người phạm tội theo Bộ luật hình sự năm 2015) thì có phải định giá tài sản để làm căn cứ truy cứu trách nhiệm hình sự không? Cơ quan nào yêu cầu định giá? Trong trường hợp không định giá được thì đường lối giải quyết vụ án như thế nào?

Theo quy định tại điểm đ khoản 1 Điều 1 Nghị quyết số 109/2015/QH13, các tình tiết “gây hậu quả nghiêm trọng”, “gây hậu quả rất nghiêm trọng”, “gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng”; “số lượng lớn”, “số lượng rất lớn”, “số lượng đặc biệt lớn”; “thu lợi bất chính lớn”, “thu lợi bất chính rất lớn”, “thu lợi bất chính đặc biệt lớn”; “đất có diện tích lớn”, “đất có diện tích rất lớn”, “đất có diện tích đặc biệt lớn”; “giá trị lớn”, “giá trị rất lớn”, “giá trị đặc biệt lớn”; “quy mô lớn” đã được áp dụng để khởi tố bị can trước 0 giờ 00 ngày 01 tháng 7 năm 2016 thì vẫn áp dụng quy định của Bộ luật hình sự năm 1999 để khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử.

Theo quy định tại Điều 1 Nghị quyết 144/2016/QH13 ngày 29-6-2016 của Quốc hội thì: lùi hiệu lực thi hành của Bộ luật hình sự năm 2015 từ ngày 01-7-2016 đến ngày Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật hình sự năm 2015 có hiệu lực thi hành; các quy định khác tại Nghị quyết số 109/2015/QH13 có ghi thời điểm “ngày 01-7-2016” được lùi đến thời điểm “ngày Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật hình sự năm 2015 có hiệu lực thi hành”.

Như vậy, đối với vụ án mà Viện kiểm sát đã truy tố theo điểm đ khoản 2 Điều 153 Bộ luật hình sự năm 1999 (hàng cấm có số lượng rất lớn) và hồ sơ vụ án đã chuyển cho Tòa án giải quyết trước ngày Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật hình sự năm 2015 có hiệu lực thi hành thì vẫn áp dụng quy định của Bộ luật hình sự năm 1999 để xét xử.

6. Tại điểm b khoản 1 Điều 190 Bộ luật hình sự năm 2015 quy định giá trị hàng phạm pháp là căn cứ để truy cứu trách nhiệm hình sự đối với tội sản xuất, buôn bán hàng cấm. Tuy nhiên, khi Cơ quan điều tra ra quyết định trưng cầu giám định xác định giá trị của tang vật thu giữ là ngà voi, sừng tê giác thì Hội đồng định giá trả lời không định giá được nhưng là hàng cấm không có giá. Trong trường hợp này, Cơ quan tiến hành tố tụng giải quyết như thế nào?

Theo quy định tại điểm b khoản 1 Điều 190 Bộ luật hình sự năm 2015 thì hành vi sản xuất, buôn bán hàng hóa mà Nhà nước cấm kinh doanh, cấm lưu hành, cấm sử dụng, chưa được phép lưu hành, chưa được phép sử dụng tại Việt Nam có giá trị từ 100.000.000 đồng đến dưới 300.000.000 đồng mới đủ yếu tố cấu thành tội sản xuất, buôn bán hàng cấm. Do đó, các cơ quan tố tụng phải căn cứ vào Điều 215 Bộ luật hình sự năm 2015 để yêu cầu định giá tài sản làm căn cứ để truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội. Hoạt động của Hội đồng định giá, trình tự, thủ tục định giá hiện nay được thực hiện theo quy định tại Nghị định số 26/2005/NĐ-CP ngày 02-03-2005 của Chính phủ và hướng dẫn tại Thông tư số 55/2006/TT-BTC ngày 22-6-2006 của Bộ Tài chính. Đối với hàng hóa Nhà nước cấm kinh doanh (như ngà voi, sừng tê giác) tuy không có thị trường nhưng cơ quan có thẩm quyền vẫn có thể căn cứ vào lời khai của bị cáo, giấy tờ, tài liệu, chứng từ về việc mua bán hoặc mặt bằng giá của thị trường chợ đen để xác định giá, làm cơ sở để truy cứu trách nhiệm hình sự.

7. Trường hợp người điều khiển phương tiện giao thông đường bộ không có giấy phép lái xe gây tai nạn, làm tổn hại sức khỏe cho 01 người với tỉ lệ thương tật là 41%, bị Viện kiểm sát truy tố theo khoản 2 Điều 202 Bộ luật hình sự năm 1999. Tuy nhiên, khoản 4 Điều 260 Bộ luật hình sự năm 2015 có quy định có lợi cho người phạm tội trong trường hợp gây tổn hại sức khỏe của 01 người với tỉ lệ tổn thương cơ thể là 41%. Vậy trong vụ án nêu trên có áp dụng quy định có lợi cho người phạm tội quy định tại khoản 4 Điều 260 Bộ luật hình sự năm 2015 hay vẫn áp dụng quy định tại điểm a khoản 2 Điều 202 Bộ luật hình sự năm 1999 để xét xử?

Khoản 4 Điều 260 Bộ luật hình sự năm 2015 quy định:

“Người tham gia giao thông đường bộ mà vi phạm quy định về an toàn giao thông đường bộ gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 01 người với tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31% đến 60% hoặc gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 02 người trở lên mà tổng tỷ lệ tổn thương cơ thể của những người này từ 31% đến 60%, thì bị phạt tiền từ 30.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng hoặc phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm.”

So với quy định tại khoản 1 Điều 202 Bộ luật hình sự năm 1999 thì quy định tại khoản 4 Điều 260 Bộ luật hình sự năm 2015 là quy định mới có lợi cho người phạm tội. Theo quy định tại Nghị quyết 144/2016/QH13 ngày 29-6-2016 của Quốc hội và hướng dẫn tại Công văn số 276/TANDTC-PC ngày 13-9-2016 của Tòa án nhân dân tối cao thì kể từ ngày 01-7-2016, khi xét xử các vụ án về giao thông, Tòa án xem xét áp dụng quy định này đối với người phạm tội.

Tuy nhiên, trong vụ án nêu trên, mặc dù bị cáo gây tai nạn làm tổn hại sức khỏe cho 01 người với tỉ lệ thương tật là 41%, nhưng hành vi phạm tội của bị cáo có thêm tình tiết tăng nặng định khung “không có giấy phép lái xe” (quy định tại điểm a khoản 2 Điều 202 Bộ luật hình sự năm 1999), nên không thuộc trường hợp được áp dụng quy định có lợi tại khoản 4 Điều 260 Bộ luật hình sự năm 2015. Trong trường hợp cụ thể này, Tòa án phải áp dụng quy định tại khoản 2 Điều 202 Bộ luật hình sự năm 1999, hướng dẫn tại Nghị quyết số 02/2003/NQ-HĐTP ngày 17-4-2003 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao và Thông tư liên tịch 09/2013/TTLT-BCA-BQP-BTP-VKSNDTC-TANDTC ngày 28-8-2013 của Bộ Công an, Bộ Quốc phòng, Bộ Tư pháp, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Tòa án nhân dân tối cao để xét xử, vì quy định tương ứng tại điểm a khoản 2 Điều 260 Bộ luật hình sự năm 2015 không có lợi cho người phạm tội.

8. Việc giải quyết các vụ án tàng trữ, vận chuyển, buôn bán hàng cấm là pháo nổ và thuốc lá điếu có nguồn gốc nhập lậu hiện nay được thực hiện như thế nào? Đề nghị Tòa án nhân dân tối cao sớm có văn bản hướng dẫn cụ thể để tháo gỡ vướng mắc đối với các loại vụ án này.

Trong thời gian qua, Tòa án nhân dân tối cao nhận được nhiều ý kiến phản ánh của các Tòa án nhân dân về vướng mắc trong quá trình áp dụng pháp luật để giải quyết các vụ án hình sự đối với hành vi tàng trữ, vận chuyển, buôn bán pháo nổ và thuốc lá điếu có nguồn gốc nhập lậu. Để kịp thời tháo gỡ vướng mắc này, Tòa án nhân dân tối cao đã ban hành Công văn số 06/TANDTC-PC ngày 26-01-2016 và Giải đáp số 01/GĐ-TANDTC ngày 25-7-2016. Đồng thời, tại Công văn số 07/TANDTC-PC ngày 11-02-2016 và Công văn số 122/TANDTC-PC ngày 06-5-2016, Tòa án nhân dân tối cao đã đề nghị Ủy ban thường vụ Quốc hội xem xét, giải thích các văn bản quy phạm pháp luật có liên quan (như Luật đầu tư, Luật thương mại và các văn bản hướng dẫn thi hành) làm cơ sở để Tòa án giải quyết vụ án. Theo đề nghị của Ủy ban Tư pháp của Quốc hội về việc chuẩn bị hồ sơ trình Ủy ban thường vụ Quốc hội giải thích luật, Tòa án nhân dân tối cao đã có Tờ trình số 174/TTr-TANDTC ngày 30-6-2016 (kèm theo dự thảo Nghị quyết của Ủy ban thường vụ Quốc hội về giải thích luật).

Ngày 22-11-2016, Quốc hội đã thông qua Luật sửa đổi, bổ sung Điều 6 và Phụ lục 4 về Danh mục ngành, nghề đầu tư kinh doanh có điều kiện của Luật đầu tư (sau đây viết tắt là Luật sửa đổi, bổ sung), trong đó bổ sung “Kinh doanh pháo nổ” vào Danh mục ngành, nghề cấm đầu tư kinh doanh (Điều 6) và sửa đổi, bổ sung mục 3 Danh mục ngành, nghề đầu tư kinh doanh có điều kiện, với nội dung “kinh doanh các loại pháo, trừ pháo nổ. Luật sửa đổi, bổ sung này có hiệu lực kể từ ngày 01-01-2017 (trừ một số lĩnh vực).

Đối với thuốc lá điếu có nguồn gốc nhập lậu, trong quá trình soạn thảo Luật sửa đổi, bổ sung, có nhiều ý kiến cho rằng hành vi tàng trữ, vận chuyển, buôn bán thuốc lá điếu có nguồn gốc nhập lậu cũng giống như hành vi tàng trữ, vận chuyển, buôn bán một số hàng hóa có nguồn gốc nhập lậu khác (như rượu, hàng điện tử), nên nếu chỉ bổ sung quy định thuốc lá điếu có nguồn gốc nhập lậu vào Danh mục ngành, nghề cấm đầu tư kinh doanh thì không bảo đảm nguyên tắc công bằng trong việc xử lý các hành vi phạm pháp luật. Do đó, cơ quan chủ trì soạn thảo đã không bổ sung thuốc lá điếu có nguồn gốc nhập lậu vào Danh mục ngành, nghề cấm đầu tư kinh doanh của Luật sửa đổi, bổ sung mà cho rằng nên áp dụng các biện pháp kinh tế, hành chính để xử lý các hành vi này (thay vì xử lý hình sự).

Để xử lý dứt điểm vấn đề nêu trên, bảo đảm phù hợp với quy định của Luật đầu tư (được sửa đổi theo Luật sửa đổi, bổ sung Điều 6 và Phụ lục 4 về Danh mục ngành, nghề đầu tư kinh doanh có điều kiện) và các luật có liên quan, Tòa án nhân dân tối cao sẽ xây dựng dự thảo Nghị quyết Hội đồng Thẩm phán hướng dẫn xét xử đối với các trường hợp tàng trữ, vận chuyển, buôn bán hàng cấm là pháo nổ và thuốc lá điếu có nguồn gốc nhập lậu và báo cáo Ủy ban thường vụ Quốc hội để ban hành trong thời gian tới đây.

9. Trong vụ án tàng trữ trái phép chất ma túy, kết luận giám định chỉ thể hiện chất thu giữ có chứa thành phần heroin hoặc chế phẩm heroin nên Tòa án đã trả hồ sơ yêu cầu điều tra bổ sung. Tuy nhiên, Viện kiểm sát lại căn cứ vào khoản 2 Điều 1 Thông tư liên tịch số 08/TTLT ngày 14-11-2015 để trả lại hồ sơ cho Tòa án. Vậy trong trường hợp này, Tòa án có tiếp tục trả hồ sơ cho Viện kiểm sát hay trưng cầu giám định hàm lượng chất ma túy?

Trong vụ án tàng trữ trái phép chất ma túy, nếu Kết luận giám định chỉ thể hiện chất thu giữ có chứa thành phần heroin hoặc chế phẩm heroin, nếu Tòa án đã trả hồ sơ yêu cầu điều tra bổ sung để giám định hàm lượng chất ma túy mà Viện kiểm sát không nhận thì Tòa án căn cứ vào điểm c khoản 3 Điều 2 Luật tổ chức Tòa án nhân dân; các quy định của Bộ luật tố tụng hình sự; khoản 2 Điều 1 Thông tư liên tịch số 08/TTLT ngày 14-11-2015 để trưng cầu giám định hàm lượng chất ma túy, làm căn cứ xem xét trách nhiệm hình sự với bị cáo. Kinh phí giám định do Tòa án trưng cầu giám định chi trả.

10. Một người đã bị Tòa án xử phạt tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Sau khi chấp hành xong hình phạt, người này tiếp tục có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy là heroin nhiều lần ở các thời điểm khác nhau, mỗi lần tàng trữ heroin có trọng lượng dưới 0,1 gam và tổng các lần cũng dưới 0,1 gam. Vậy, áp dụng điểm b khoản 2 Điều 194 Bộ luật hình sự năm 1999 để xử lý trách nhiệm hình sự có đúng không?

Theo hướng dẫn tại tiểu mục 2.3 mục 2 phần I và tiểu mục 3.6 mục 3 phần II Thông tư liên tịch số 17 /2007/TTLT-BCA-VKSNDTC-TANDTC-BTP ngày 24-12-2007 Hướng dẫn áp dụng một số quy định tại Chương XVIII “Các tội phạm về ma tuý” của Bộ luật hình sự năm 1999, tình tiết "phạm tội nhiều lần" quy định tại khoản 2 Điều 194 Bộ luật hình sự năm 1999 được hiểu là đã có từ hai lần phạm tội trở lên (hai lần tàng trữ trái phép chất ma túy trở lên) mà mỗi lần phạm tội có đủ yếu tố cấu thành tội phạm quy định tại khoản 1 điều luật tương ứng, đồng thời trong số các lần phạm tội đó chưa có lần nào bị truy cứu trách nhiệm hình sự và chưa hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự. Người có hành vi tàng trữ trái phép chất ma tuý là heroin với số lượng dưới 0,1 gam không nhằm mục đích mua bán hay sản xuất trái phép chất ma tuý khác thì áp dụng khoản 4 Điều 8 Bộ luật hình sự năm 1999, theo đó không truy cứu trách nhiệm hình sự nhưng phải bị xử lý hành chính.

Như vậy, trong trường hợp người có hành vi tàng trữ trái phép chất heroin nhiều lần và ở các thời điểm khác nhau, mỗi lần heroin có khối lượng dưới 0,1 gam và tổng khối lượng heroin của các lần dưới 0,1 gam thì không đủ yếu tố cấu thành tội phạm quy định tại khoản 1 Điều 194 Bộ luật hình sự năm 1999. Do đó, hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy nhiều lần của người này cũng không thuộc trường hợp “phạm tội nhiều lần” quy định ở điểm b khoản 2 Điều 194 Bộ luật hình sự năm 1999.

11. Thế nào là “phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng”?

Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự “phạm tội lần đầu thuộc trường hợp ít nghiêm trọng” được quy định tại điểm h khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự năm 1999 (điểm i khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015) được hiểu là từ trước đến nay chưa phạm tội lần nào hoặc trước đó tuy đã phạm tội nhưng đã được xóa án tích hoặc đã hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự thì lần phạm tội này cũng được coi là phạm tội lần đầu.

Tuy nhiên cần lưu ý là chỉ áp dụng điểm h khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự năm 1999 khi có đủ 02 tình tiết phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng. Nếu bị cáo phạm tội lần đầu mà không phải thuộc trường hợp ít nghiêm trọng thì không áp dụng điểm h khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự năm 1999.

12. Khi quyết định được miễn chấp hành hình phạt chính, Tòa án có được quyết định miễn chấp hành toàn bộ hình phạt bổ sung là hình phạt tiền chưa chấp hành hoặc phần hình phạt bổ sung là hình phạt tiền còn lại chưa chấp hành hay không?

Theo quy định tại khoản 5 Điều 62 Bộ luật hình sự năm 2015 (khoản 2 Điều 58 Bộ luật hình sự năm 1999) thì “Người bị kết án phạt tiền đã tích cực chấp hành được một phần hình phạt nhưng bị lâm vào hoàn cảnh kinh tế đặc biệt khó khăn kéo dài do thiên tai, hoả hoạn, tai nạn hoặc ốm đau gây ra mà không thể tiếp tục chấp hành được phần hình phạt còn lại hoặc lập công lớn, thì theo đề nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát, Tòa án có thể quyết đnh miễn chấp hành phần tiền phạt còn lại. Như vậy, đối với người bị kết án chưa chấp hành xong hình phạt tiền thì Tòa án phải căn cứ vào điều kiện miễn chấp hành hình phạt tiền để quyết định có cho miễn chấp hành hình phạt hay không, chứ không căn cứ vào việc miễn chấp hành hình phạt chính. Đối với người bị kết án đã chấp hành xong hình phạt bổ sung là phạt tiền, khi quyết định miễn chấp hành hình phạt chính thì không được quyết định miễn chấp hành hình phạt bổ sung là phạt tiền.

13. Hiện nay ở địa phương có hai quan điểm khác nhau trong việc áp dụng quy định của Bộ luật hình sự năm 1999 về quy định cấu thành cơ bản của tội phạm: “đã bị xử phạt vi phạm hành chính… mà còn vi phạm”

- Quan điểm thứ nhất cho rằng: người nào có hành vi vi phạm pháp luật, đã bị xử phạt vi phạm hành chính, chưa hết thời hạn được xem như chưa bị xử phạt hành chính mà tiếp tục vi phạm thì sẽ bị xử lý trách nhiệm hình sự.

- Quan điểm thứ hai cho rằng: do Luật tố tụng hành chính có quy định thời hiệu khởi kiện quyết định xử phạt hành chính là 01 năm, do đó đến hết thời hiệu khởi kiện mà người bị xử phạt hành chính không khởi kiện thì mới xem là đã bị xử phạt vi phạm hành chính. Nếu trong thời gian này họ chưa khởi kiện nhưng lại tiếp tục có hành vi vi phạm thì tiếp tục xử phạt hành chính chứ chưa thể xử lý trách nhiệm hình sự được; nếu hết 01 năm mà họ không khởi kiện, sau đó lại tiếp tục vi phạm thì xem như chưa bị xử phạt vi phạm hành chính, do vậy cũng không thể xử lý trách nhiệm hình sự được.

Trong hai quan điểm trên thì quan điểm nào là đúng?

Theo hướng dẫn tại mục 6 Nghị quyết số 01/2006/NQ-HĐTP ngày 12-5-2006 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy định của Bộ luật hình sự, tình tiết “đã bị xử phạt hành chính về hành vi này mà còn vi phạm” được hiểu như sau:

- Đối với các tội mà điều luật có quy định tình tiết “đã bị xử phạt hành chính về hành vi này mà còn vi phạm” và đã được hướng dẫn tại các văn bản quy phạm pháp luật của cơ quan có thẩm quyền thì thực hiện theo đúng hướng dẫn của các văn bản đó.

Ví dụ: điểm c tiểu mục 1.3 mục 1 phần II Thông tư liên tịch số 17 /2007/TTLT-BCA-VKSNDTC-TANDTC-BTP ngày 24-12-2007 hướng dẫn “đã bị xử phạt hành chính về hành vi này mà còn vi phạm” được hiểu là trước đó đã có hành vi trồng cây có chứa chất ma tuý và đã bị xử phạt hành chính cảnh cáo hoặc phạt tiền theo quy định của pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính, nhưng chưa hết thời hạn được coi là chưa bị xử phạt vi phạm hành chính, mà lại tiếp tục có hành vi trồng cây có chứa chất ma tuý và bị phát hiện.

- Đối với các tội mà điều luật có quy định tình tiết “đã bị xử phạt hành chính về hành vi này mà còn vi phạm” nhưng chưa có hướng dẫn của cơ quan có thẩm quyền thì phân biệt như sau:

+ Đối với điều luật quy định một tội (tội đơn) thì “đã bị xử phạt hành chính về hành vi này mà còn vi phạm” là trước đó một người đã bị xử phạt hành chính về một trong những hành vi được liệt kê trong tội đó bằng một trong các hình thức xử phạt theo quy định của pháp luật về xử lý vi phạm hành chính, nhưng chưa hết thời hạn để được coi là chưa bị xử phạt vi phạm hành chính mà lại thực hiện một trong những hành vi được liệt kê trong tội đó.

+ Đối với điều luật quy định nhiều tội khác nhau (tội ghép) thì “đã bị xử phạt hành chính về hành vi này mà còn vi phạm” là trước đó một người đã bị xử phạt hành chính về một trong những hành vi được liệt kê trong một tội tại điều luật đó bằng một trong các hình thức xử phạt theo quy định của pháp luật về xử lý vi phạm hành chính, nhưng chưa hết thời hạn để được coi là chưa bị xử phạt vi phạm hành chính mà lại thực hiện một trong những hành vi được liệt kê trong tội đó (không bao gồm các hành vi được liệt kê trong tội khác cũng tại điều luật đó).

Theo quy định tại Điều 7 Luật xử lý vi phạm hành chính thì thời hạn được coi là chưa bị xử lý vi phạm hành chính đối với cá nhân, tổ chức bị xử phạt vi phạm hành chính, nếu trong thời hạn 06 tháng, kể từ ngày chấp hành xong quyết định xử phạt cảnh cáo hoặc 01 năm, kể từ ngày chấp hành xong quyết định xử phạt hành chính khác hoặc từ ngày hết thời hiệu thi hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính mà không tái phạm thì được coi là chưa bị xử phạt vi phạm hành chính; đối với cá nhân bị áp dụng biện pháp xử lý hành chính, nếu trong thời hạn 02 năm, kể từ ngày chấp hành xong quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính hoặc 01 năm kể từ ngày hết thời hiệu thi hành quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính mà không tái phạm thì được coi là chưa bị áp dụng biện pháp xử lý hành chính.

Như vậy, người nào có hành vi vi phạm pháp luật, đã bị xử phạt vi phạm hành chính, chưa hết thời hạn được xem như chưa bị xử phạt hành chính mà tiếp tục vi phạm thì sẽ bị xử lý trách nhiệm hình sự.

14. Theo Nghị quyết 01/2010/NQ-HĐTP ngày 22-10-2010 thì số tiền của người chơi đề, cá độ dùng đánh bạc là tổng số tiền mà họ đã bỏ ra để mua số đề, cá độ cộng với số tiền thực tế mà họ được nhận từ chủ đề, chủ cá độ (trong trường hợp người chơi số đề, cá độ có trúng số đề, thắng cược cá độ) hoặc là tổng số tiền mà họ đã bỏ ra để mua số đề, cá độ (trong trường hợp người chơi số đề, cá độ không trúng số đề, không thắng cược cá độ). Tuy nhiên, thực tế các chủ đề thường thu hút con bạc bằng cách trừ tiền hoa hồng cho những người chơi đề khi họ ghi đề. Vì vậy, dẫn đến tình trạng số tiền ghi trên tờ phơi sẽ cao hơn số tiền mà người chơi đề phải bỏ ra để mua số đề; số tiền mà chủ đề nhận được từ người chơi sẽ thấp hơn số tiền ghi trên tờ phơi. Trong trường hợp này, xác định số tiền dùng để đánh bạc là số tiền ghi trên tờ phơi hay là số tiền mà người chơi đề thực tế đã bỏ ra?

Hiện nay, việc xác định số tiền dùng để đánh bạc (đánh đề hoặc cá độ) vẫn được thực hiện theo hướng dẫn tại Nghị quyết 01/2010/NQ-HĐTP ngày 22-10-2010 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao. Theo đó: “số tiền của người chơi đề, cá độ dùng đánh bạc là tổng số tiền mà họ đã bỏ ra để mua số đề, cá độ cộng với số tiền thực tế mà họ được nhận từ chủ đề, chủ cá độ (trong trường hợp người chơi số đề, cá độ có trúng số đề, thắng cược cá độ) hoặc là tổng số tiền mà họ đã bỏ ra để mua số đề, cá độ (trong trường hợp người chơi số đề, cá độ không trúng số đề, không thắng cược cá độ). Như vậy, “số tiền mà họ đã bỏ ra” không chỉ là số tiền thực tế họ đưa cho người ghi đề, ghi cá độ mà phải là số tiền ghi trên tờ phơi hoặc giấy tờ khác chứng minh việc đánh bạc trái phép.

15. Tài sản trộm cắp không thu hồi được nhưng người bị hại không yêu cầu bồi thường hoặc tài sản trộm cắp đã bán cho người thứ ba ngay tình nhưng người bị hại cũng không yêu cầu bị cáo phải bồi thường. Trong những trường hợp này, Tòa án có quyết định tịch thu sung vào ngân sách nhà nước giá trị tài sản bị chiếm đoạt hay không? Nếu không tịch thu sung vào ngân sách nhà nước thì phải giải quyết như thế nào?

Theo quy định tại Điều 41 Bộ luật hình sự năm 1999 (Điều 47 Bộ luật hình sự năm 2015) về tịch thu vật, tiền trực tiếp liên quan đến tội phạm thì:

1. Việc tịch thu sung vào ngân sách nhà nước hoặc tịch thu tiêu hủy được áp dụng đối với:

a) Công cụ, phương tiện dùng vào việc phạm tội;

b) Vật hoặc tiền do phạm tội hoặc do mua bán, đổi chác những thứ ấy mà có; khoản thu lợi bất chính từ việc phạm tội;

c) Vật thuộc loại Nhà nước cấm lưu hành.

2. Đối với vật, tiền bị người phạm tội chiếm đoạt hoặc sử dụng trái phép, thì không tịch thu mà trả lại cho chủ sở hữu hoặc người quản lý hợp pháp.

3. Vật, tiền là tài sản của người khác, nếu người này có lỗi trong việc để cho người phạm tội sử dụng vào việc thực hiện tội phạm, thì có thể bị tịch thu.

Điều 28 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 (Điều 30 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015) về giải quyết vấn đề dân sự trong vụ án hình sự quy định: “Việc giải quyết vấn đề dân sự trong vụ án hình sự được tiến hành cùng với việc giải quyết vụ án hình sựtrừ trường hợp vụ án hình sự phải giải quyết vấn đề bồi thường thiệt hại, bồi hoàn mà chưa có điều kiện chứng minh và không ảnh hưởng đến việc giải quyết vụ án hình sự thì vấn đề dân sự có thể tách ra để giải quyết theo thủ tục tố tụng dân sự.

Theo các quy định nêu trên thì tài sản bị chiếm đoạt (hoặc giá trị tài sản bị chiếm đoạt trong trường hợp không thu hồi được tài sản bị chiếm đoạt) không thuộc diện bị tịch thu sung vào ngân sách nhà nước. Do đó, nếu người bị hại không yêu cầu bồi thường thì Tòa án căn cứ vào Điều 257 của Bộ luật dân sự (quy định quyền từ bỏ quyền sở hữu của chủ sở hữu)[1] để giải thích cho người bị hại tự định đoạt tài sản thuộc sở hữu của mình, trên cơ sở đó Tòa án ghi nhận ý chí của họ trong bản án mà không tách ra giải quyết bằng vụ án dân sự khác.

16. Trong quá trình giải quyết vụ án hình sự, bị cáo đã bồi thường thiệt hại cho người bị hại, sau đó Cơ quan điều tra lại thu hồi được tài sản trộm cắp trả lại cho người bị hại. Vậy có buộc người bị hại hoàn trả số tiền cho bị cáo hay tịch thu sung vào ngân sách nhà nước không

Khoản 1 Điều 42 Bộ luật hình sự năm 1999 (Điều 48 Bộ luật hình sự năm 2015) quy định: “Người phạm tội phải trả lại tài sản đã chiếm đoạt cho chủ sở hữu hoặc người quản lý hợp pháp, phải sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại vật chất đã được xác định do hành vi phạm tội gây ra”.

Theo quy định này, bị cáo chỉ phải chịu trách nhiệm hoặc trả lại tài sản, sửa chữa tài sản và bồi thường thiệt hại phát sinh nếu có hoặc không trả lại tài sản nhưng phải bồi thường cho người bị hại giá trị tài sản trộm cắp và thiệt hại phát sinh nếu có. Do đó, trong trường hợp nêu trên, nếu bị cáo đã bồi thường thiệt hại cho người bị hại, sau đó Cơ quan điều tra lại thu hồi được tài sản trộm cắp trả lại cho người bị hại thì người bị hại phải hoàn trả cho bị cáo số tiền mà bị cáo đã bồi thường trước đó. Tòa án cũng không được căn cứ vào quy định tại Điều 41 Bộ luật hình sự năm 1999 (Điều 47 Bộ luật hình sự năm 2015) để tuyên bố tịch thu sung vào ngân sách nhà nước số tiền này.

17. Trong vụ án có đồng phạm, sau khi chiếm đoạt được tài sản, các bị cáo đã bán để chia nhau. Trong quá trình điều tra, một bị cáo bồi thường toàn bộ cho người bị hại nhưng không yêu cầu các bị cáo khác hoàn trả thì Tòa án có tịch thu của các bị cáo khác số tiền đã chiếm đoạt để sung vào ngân sách nhà nước hay không? Trường hợp bị cáo đã bồi thường chưa yêu cầu giải quyết trong cùng vụ án thì xử lý thế nào?

Theo quy định tại Điều 298 Bộ luật dân sự năm 2005 (Điều 288 Bộ luật dân sự năm 2015) thì những người gây thiệt hại trong vụ án có đồng phạm phải liên đới bồi thường. Một người đã thực hiện toàn bộ nghĩa vụ thì có quyền yêu cầu những người có nghĩa vụ liên đới khác phải thực hiện phần nghĩa vụ liên đới của họ đối với mình.

Trong trường hợp nêu trên, nếu một bị cáo đã tự nguyện bồi thường toàn bộ thiệt hại do hành vi phạm tội của các bị cáo gây ra nhưng sau đó không yêu cầu các đồng phạm khác hoàn trả số tiền mà mình đã bồi thường thay thì khi xét xử Tòa án phải giải thích cho bị cáo biết quyền yêu cầu các bị cáo khác hoàn trả phần tài sản mà bị cáo đã bồi thường thay. Nếu bị cáo vẫn không thực hiện quyền yêu cầu thì Tòa án ghi nhận sự tự nguyện của bị cáo, không buộc các bị cáo khác phải hoàn trả, đồng thời cũng không tịch thu sung vào ngân sách nhà nước khoản tiền thuộc trách nhiệm bồi thường của các bị cáo khác.

18. Dấu hiệu “hành vi trái pháp luật nghiêm trọng của nạn nhân” quy định tại Điều 95 Bộ luật hình sự năm 1999 được hiểu như thế nào?

Điều 95 Bộ luật hình sự năm 1999 (Điều 125 Bộ luật hình sự năm 2015) được tách ra từ khoản 3 Điều 101 Bộ luật hình sự năm 1985 quy định về tội “Giết người”, trong đó nội dung quy định không có nhiều thay đổi.

Tại Nghị quyết số 04/NQ-HĐTP ngày 29-11-1986, Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao đã hướng dẫn:

“+ Giết người trong tình trạng tinh thần bị kích động mạnh - do hành vi trái pháp luật nghiêm trọng của nạn nhân đối với người phạm tội hoặc đối với người thân thích của người đó. Đây là khung hình phạt giảm nhẹ (khoản 3).

- Tình trạng tinh thần bị kích động mạnh là tình trạng người phạm tội không hoàn toàn tự chủ, tự kiềm chế được hành vi phạm tội của mình. Nói chung, sự kích động mạnh đó phải là tức thời do hành vi trái pháp luật nghiêm trọng của nạn nhân gây nên sự phản ứng dẫn tới hành vi giết người. Nhưng cá biệt có trường hợp do hành vi trái pháp luật của nạn nhân có tính chất đè nén, áp bức tương đối nặng nề, lặp đi lặp lại, sự kích động đó đã âm ỷ, kéo dài, đến thời điểm nào đó hành vi trái pháp luật của nạn nhân lại tiếp diễn làm cho người bị kích động không tự kiềm chế được; nếu tách riêng sự kích động mới này thì không coi là kích động mạnh, nhưng nếu xét cả quá trình phát triển của sự việc, thì lại được coi là mạnh hoặc rất mạnh.

Hành vi trái pháp luật nghiêm trọng của nạn nhân đối với người phạm tội hoặc đối với người thân thích của người đó tuy làm cho người phạm tội bị kích động mạnh, nhưng nói chung chưa đến mức là tội phạm. Nếu hành vi trái pháp luật đó trực tiếp xâm phạm tính mạng, sức khỏe hoặc lợi ích hợp pháp của người phạm tội hoặc người thân thích của người phạm tội hoặc của xã hội, đã cấu thành tội phạm, thì hành vi chống trả lại gây chết người có thể được xem xét là trường hợp phòng vệ chính đáng (theo Điều 13) hoặc do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng (theo Điều 102).

Trong trường hợp cá biệt hành vi trái pháp luật nghiêm trọng của nạn nhân cấu thành tội phạm nhưng là tội phạm ít nghiêm trọng (như tội làm nhục người khác, tội vu khống) thì cũng được coi là giết người trong tình trạng tinh thần bị kích động mạnh và được xử lý theo Điều 101, khoản 3. Thí dụ: hai anh em đồng hao ở chung nhà bố mẹ vợ, người anh thường xuyên làm nhục thô bạo và trắng trợn vu khống người em, đến thời điểm nào đó lại lăng nhục người em nên người anh bị em giết.”

Mặc dù Nghị quyết số 04 là văn bản hướng dẫn Bộ luật hình sự năm 1985 nhưng cho đến nay chưa có văn bản quy phạm pháp luật nào khác có nội dung hướng dẫn mới về quy định này. Do đó, các Tòa án vẫn có thể vận dụng hướng dẫn nêu trên để giải quyết.

19. Theo nội dung tại Điều 1 Công văn số 276 ngày 13-9-2016 của Tòa án nhân dân tối cao thì kể từ ngày 01-7-2016 mới được áp dụng một số quy định có lợi cho người phạm tội của Bộ luật hình sự năm 2015. Tuy nhiên, theo quy định tại khoản 3 Điều 7 Bộ luật hình sự năm 2015 và Điều 2 Nghị quyết 109 của Quốc hội thì những quy định có lợi cho người phạm tội theo Bộ luật hình sự năm 2015 là kể từ ngày Bộ luật hình sự năm 2015 được công bố (ngày 09-12-2015). Vậy thời điểm áp dụng những quy định có lợi cho người phạm tội theo Bộ luật hình sự năm 2015 được áp dụng từ thời điểm nào?

Nội dung này đã được Tòa án nhân dân tối cao trả lời tại Công văn số 301/TANDTC-PC ngày 07-10-2016. Theo đó, chỉ có 08 trường hợp được áp dụng các quy định có lợi cho người phạm tội kể từ ngày 09-12-2015 (trong đó có 06 trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 1 Nghị quyết số 109/2015/QH13 ngày 27-11-2015 của Quốc hội và 02 trường hợp hướng dẫn tại khoản 1 Điều 3 Nghị quyết số 01/2016/NQ-HĐTP ngày 30-6-2016 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao); các quy định khác có lợi cho người phạm tội theo khoản 3 Điều 7 Bộ luật hình sự năm 2015, điểm b khoản 1 Điều 1 Nghị quyết số 109/2015/QH13 và được thống kê tại Danh mục kèm theo Công văn số 276/TANDTC-PC ngày 13-9-2016 của Tòa án nhân dân tối cao được áp dụng kể từ ngày 01-7-2016. Tuy nhiên, cần lưu ý việc áp dụng đối với từng trường hợp cụ thể phải bảo đảm quy định mới của Bộ luật hình sự năm 2015 là có lợi cho người phạm tội.

20. Trong vụ án mua bán người theo quy định tại Điều 119 Bộ luật hình sự năm 1999, nạn nhân bị bán ra nước ngoài nhưng chưa giải cứu được để đưa về Việt Nam nên trong hồ sơ không có lời khai của người bị hại, còn bị cáo thì không nhận tội; nếu vụ án đang trong giai đoạn xét xử thì giải quyết như thế nào?

Trong vụ án mua bán người mà chưa giải cứu được nạn nhân bị mua bán, chưa lấy được lời khai của người bị hại nhưng căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án mà có đủ cơ sở xác định hành vi mua bán người của người phạm tội thì Tòa án đưa vụ án ra xét xử theo quy định. Trường hợp qua nghiên cứu hồ sơ vụ án thấy chưa đủ căn cứ xác định hành vi mua bán người của người phạm tội thì Tòa án trả hồ sơ cho Viện kiểm sát yêu cầu điều tra bổ sung để làm rõ hành vi phạm tội.

21. Điều 298 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 về giới hạn của việc xét xử có quy định Tòa án có quyền xét xử khoản khác nặng hơn với khoản mà Viện kiểm sát đã truy tố trong cùng một điều luật hoặc xét xử bị cáo về tội khác nặng hơn. Vậy trong quyết định đưa vụ án ra xét xử có phải ghi rõ tội danh sẽ xét xử không? Nếu không ghi rõ thì có bị xem là vi phạm nghiêm trọng vì ảnh hưởng đến quyền bào chữa của bị cáo không?

Trường hợp nêu trên, Tòa án trả hồ sơ để Viện kiểm sát truy tố lại và thông báo rõ lý do cho bị cáo hoặc người đại diện của bị cáo, người bào chữa biết. Nếu Viện kiểm sát vẫn giữ tội danh đã truy tố thì Tòa án có quyền xét xử bị cáo về tội danh nặng hơn. Trong trường hợp này, Quyết định đưa vụ án ra xét xử Tòa án cần ghi rõ tội danh, điều, khoản của Bộ luật hình sự mà Tòa án sẽ xét xử để đảm bảo quyền bào chữa của bị cáo.

22. Bản án bị hủy về phần trách nhiệm dân sự, phần trách nhiệm hình sự đã có hiệu lực thì có buộc bị cáo phải đứng trước vành móng ngựa không?

Do phần trách nhiệm hình sự đã có hiệu lực pháp luật, Tòa án chỉ xét xử lại phần trách nhiệm dân sự có liên quan nên áp dụng thủ tục tố tụng dân sự để giải quyết. Do đó, bị cáo sẽ tham gia tố tụng với tư cách bị đơn dân sự nên không phải đứng trước vành móng ngựa.

23. Theo mẫu 11b ban hành kèm theo Nghị quyết 05/2012/NQ-HĐTP ngày 03-12-2012 thì trong Quyết định đình chỉ vụ án tại phiên tòa sơ thẩm không ghi tên Kiểm sát viên. Viện kiểm sát cho rằng phải ghi tên Kiểm sát viên trong Quyết định đình chỉ như trong bản án. Vậy phải thực hiện như thế nào?

Về nguyên tắc Kiểm sát viên tham gia phiên tòa để giữ quyền công tố và kiểm sát xét xử nên cần ghi tên Kiểm sát viên vào Quyết định đình chỉ (giống như Bản án). Tuy nhiên, trong mẫu số 11b ban hành kèm theo Nghị quyết số 05/2012/NQ-HĐTP lại không ghi tên Kiểm sát viên là thiếu sót. Do đó, trong thời gian tới Tòa án nhân dân tối cao sẽ sửa đổi các mẫu này cho phù hợp. Trong khi Tòa án nhân dân tối cao chưa sửa đổi, các Tòa án cần ghi tên Kiểm sát viên vào Quyết định đình chỉ cho phù hợp với thực tế.

24. Theo quy định tại khoản 2 Điều 31 và khoản 2 Điều 60 Bộ luật hình sự năm 1999, Tòa án giao người bị kết án treo, cải tạo không giam giữ về cơ quan tổ chức hoặc chính quyền địa phương quản lý giáo dục. Tuy nhiên, Luật thi hành án hình sự năm 2010 chỉ quy định Tòa án phải giao người đó về chính quyền địa phương nơi cư trú. Cho nên, khi Tòa án giao người bị kết án về cơ quan, tổ chức thì cơ quan, tổ chức này từ chối thi hành và trả hồ sơ vì không thuộc thẩm quyền theo Luật thi hành án hình sự năm 2010?

Căn cứ vào khoản 3 Điều 156 Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật thì “Trong trường hợp các văn bản quy phạm pháp luật do cùng một cơ quan ban hành có quy định khác nhau về cùng một vấn đề thì áp dụng quy định của văn bản quy phạm pháp luật ban hành sau”. Do Luật thi hành án hình sự là văn bản quy phạm pháp luật được ban hành sau nên Tòa án giao người bị kết án cho Ủy ban nhân dân cấp xã hoặc đơn vị quân đội để giám sát, giáo dục.

25. Trong giai đoạn chuẩn bị xét xử, thân nhân của bị cáo có đơn xin Tòa án cho họ đến trại tạm giam, nhà tạm giữ để thăm gặp bị cáo thì Tòa án có xác nhận cho họ không?

Căn cứ Điều 9 và Điều 22 Luật tạm giữ, tạm giam năm 2015 thì người bị tạm giữ, tạm giam có thể được gặp thân nhân trừ các trường hợp quy định tại khoản 4 Điều 22 của Luật này. Theo đó, việc gặp người thân đối với người bị tạm, tạm giữ phải được sự đồng ý bằng văn bản của cơ quan đang thụ lý vụ án. Do đó, nếu việc gặp người thân có ảnh hưởng đến quá trình điều tra vụ án thì cơ quan công an có quyền không cho người bị tạm giam tiếp xúc với người thân. Như vậy, thân nhân muốn được thăm nom người thân của mình đang bị tạm giam, tạm giữ cần làm đơn gửi cơ quan có thẩm quyền trong từng giai đoạn xét xử. Việc có được gặp hay không là hoàn toàn do cơ quan đang thụ lý vụ án quyết định, chỉ khi được cơ quan thụ lý đồng ý thì thân nhân mới được vào thăm người bị tạm giam.

26. Đối với người bị kết án là phụ nữ mà sau khi bị kết án họ liên tục có thai và sinh con để trốn tránh nghĩa vụ thi hành án phạt tù thì Tòa án có cho họ hoãn chấp hành hình phạt tù không?

Điểm b khoản 1 Điều 61 Bộ luật hình sự năm 1999 (điểm b khoản 1 Điều 67 Bộ luật hình sự năm 2015) quy định: “Phụ nữ có thai hoặc đang nuôi con dưới 36 tháng tuổi, thì được hoãn cho đến khi con đủ 36 tháng tuổi”.

Theo quy định nêu trên, nếu người bị kết án là phụ nữ có thai hoặc đang nuôi con dưới 36 tháng tuổi thì được hoãn chấp hành hình phạt tù cho đến khi con đủ 36 tháng tuổi, không phân biệt họ có bao nhiêu con.

27. Sau khi ra quyết định thi hành án hình sự mới nhận được thông báo sửa chữa bản án. Vậy trong công tác thi hành án hình sự có quyền đính chính quyết định thi hành án hình sự không?

Trường hợp sau khi ra quyết định thi hành án hình sự mới nhận được thông báo sửa chữa bản án thì Tòa án phải đính chính quyết định thi hành án hình sự cho phù hợp. Khi thực hiện việc đính chính, Tòa án căn cứ vào quy định về sửa chữa, bổ sung bản án; quy định về việc ra quyết định thi hành án và thông báo sửa chữa bản án để đính chính quyết định thi hành án.

28. Thẩm quyền ra quyết định thi hành hình phạt tiền là của Chánh án Tòa án xét xử sơ thẩm hay của Thủ trưởng Cơ quan thi hành án dân sự?

Theo quy định tại khoản 5 Điều 257 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003; Điều 1 và khoản 3 Điều 181 Luật thi hành án hình sự năm 2010; Điều 1 và Điều 36 Luật thi hành án dân sự năm 2008 (sửa đổi, bổ sung năm 2014); hướng dẫn tại Công văn số 28/TANDTC-KHXX ngày 05-3-2012 của Toà án nhân dân tối cao về thi hành án hình sự, thì Cơ quan thi hành án dân sự có trách nhiệm tổ chức thi hành các nội dung của bản án, quyết định dân sự, hình sự, hành chính... có hiệu lực pháp luật liên quan đến tiền, tài sản và xử lý vật chứng theo Luật thi hành án dân sự. Theo Điều 36 Luật thi hành án dân sự thì Thủ trưởng Cơ quan thi hành án dân sự chủ động ra quyết định thi hành đối với phần bản án, quyết định về hình phạt tiền (không phân biệt là hình phạt chính hay hình phạt bổ sung) và phân công chấp hành viên tổ chức thi hành Quyết định thi hành án đó. Do vậy, thẩm quyền ra quyết định thi hành hình phạt tiền là của Thủ trưởng Cơ quan thi hành án dân sự.

Ngoài ra, Bộ luật hình sự năm 2015 có quy định mới về trách nhiệm hình sự của pháp nhân, trong đó tại Điều 445 của Bộ luật tố tụng hính sự năm 2015 cũng quy định thẩm quyền ra quyết định thi hành hình phạt tiền đối với pháp nhân là Thủ trưởng Cơ quan thi hành án dân sự[2] và thủ tục thi hành án được thực hiện theo quy định của Luật thi hành án dân sự.

29. Người phải thi hành án phạt tù đang tại ngoại có đơn xin hoãn thi hành án do bị bệnh nặng. Kết quả giám định sức khỏe kết luận tỉ lệ tổn thương do bệnh là 25%. Vậy Tòa án có căn cứ vào tỷ lệ tổn thương sức khỏe do bệnh để quyết định cho người phải thi hành án hoãn thi hành án không?

Điều 61 Bộ luật hình sự 1999 (Điều 67 Bộ luật hình sự năm 2015) về "Hoãn chấp hành hình phạt tù"; Điều 261 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 về "Hoãn chấp hành hình phạt tù"; Điều 23 Luật thi hành án hình sự về "Thủ tục hoãn chấp hành án phạt tù" đều không quy định người được hoãn chấp hành hình phạt tù phải có tỷ lệ tổn hại cơ thể bao nhiêu % thì được hoãn thi hành án.

Nghị quyết số 01/2007/NQ-HĐTP ngày 02-10-2007 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy định của Bộ luật hình sự về thời hiệu thi hành bản án, miễn chấp hành hình phạt, giảm thời hạn chấp hành hình phạt cũng không hướng dẫn cụ thể về nội dung này[3].

Tại Điều 4, Thông tư liên tịch số 03/2013/TTLT-BCA-TANDTC-VKSNDTC-BQP-BYT ngày 15-5-2013 của Bộ Công an, Bộ Quốc phòng, Bộ Y tế, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao hướng dẫn thi hành quy định về tạm đình chỉ chấp hành hình phạt tù đối với phạm nhân quy định:

"Điều 4. Điều kiện có thể được tạm đình chỉ chấp hành án phạt tù

1. Phạm nhân đang chấp hành án phạt tù tại các trại giam, trại tạm giam, cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp huyện có thể được tạm đình chỉ chấp hành án phạt tù khi thuộc một trong các trường hợp dưới đây:

a) Phạm nhân bị bệnh nặng đến mức không thể tiếp tục chấp hành án phạt tù và nếu phải chấp hành án phạt tù sẽ nguy hiểm đến tính mạng của họ, do đó, cần thiết phải cho họ tạm đình chỉ chấp hành án phạt tù để có điều kiện chữa bệnh, trừ người không có thân nhân hoặc không có nơi cư trú rõ ràng.

Người bị bệnh nặng quy định tại khoản này là người mắc một trong các bệnh hiểm nghèo như: Ung thư giai đoạn cuối, liệt, lao nặng kháng thuốc, xơ gan cổ chướng, suy tim độ III trở lên, suy thận độ IV trở lên, nhiễm HIV đã chuyển giai đoạn AIDS đang có nhiễm trùng cơ hội, không có khả năng tự phục vụ bản thân và có tiên lượng xấu, nguy cơ tử vong cao hoặc mắc một trong các bệnh khác được Hội đồng giám định y khoa, bệnh viện cấp tỉnh hoặc cấp quân khu trở lên kết luận bằng văn bản là bệnh hiểm nghèo, nguy hiểm đến tính mạng”.

Theo các quy định và hướng dẫn nêu trên thì chỉ khi người bị kết án có kết luận của Hội đồng giám định y khoa thuộc bệnh viện cấp tỉnh hoặc cấp quân khu trở lên là bị bệnh nặng thì Tòa án mới cho họ được hoãn, tạm đình chỉ chấp hành hình phạt tù. Do đó, khi xem xét đơn đề nghị hoãn thi hành án, Tòa án không được căn cứ vào tỷ lệ tổn thương sức khỏe do bệnh để cho người phải thi hành án hoãn thi hành án.

30. Trong quá trình người bị kết án tử hình chờ thi hành án, thân nhân của họ có đơn gửi Tòa án và cơ quan Công an đề nghị được lấy tinh trùng của người bị kết án hình để lưu giữ tại cơ sở y tế nhằm mục đích duy trì nòi giống thì Tòa án có đồng ý với đề nghị của họ hay không? Quy định của pháp luật về trường hợp này như thế nào?

Theo quy định tại khoản 3 Điều 20 Hiến pháp 2013 thì: “Mọi người có quyền hiến mô, bộ phận cơ thể người và hiến xác theo quy định của luật”. Như vậy, việc hiến, cho tinh trùng là quyền con người, quyền cơ bản của công dân được Hiến pháp năm 2013 quy định.

Cụ thể hóa quy định của Hiến pháp năm 2013, Điều 6 Luật hiến, lấy, ghép mô, bộ phận cơ thể người và hiến, lấy xác có quy định:

1. Nam từ đủ hai mươi tuổi trở lên, nữ từ đủ mười tám tuổi trở lên, có năng lực hành vi dân sự đầy đủ có quyền hiến, nhận tinh trùng, noãn, phôi trong thụ tinh nhân tạo theo quy định của pháp luật;

2. Việc hiến, nhận tinh trùng, noãn, phôi trong thụ tinh nhân tạo được thực hiện theo quy định của Chính phủ.

Theo quy định tại Điều 4 Nghị định số 10/2015/NĐ-CP ngày 28-01-2015 của Chính phủ quy định về sinh con bằng kỹ thuật thụ tinh trong ống nghiệm và điều kiện mang thai hộ vì mục đích nhân đạo quy định về việc cho tinh trùng, cho noãn thì:

1. Người cho tinh trùng, cho noãn được khám và làm các xét nghiệm để xác định: Không bị bệnh di truyền ảnh hưởng đến thế hệ sau; không bị mắc bệnh tâm thần hoặc mắc bệnh khác mà không thể nhận thức, làm chủ được hành vi của mình; không bị nhiễm HIV;

2. Tự nguyện cho tinh trùng, cho noãn và chỉ cho tại một cơ sở khám bệnh, chữa bệnh được Bộ Y tế công nhận được thực hiện kỹ thuật thụ tinh trong ống nghiệm;

3. Cơ sở khám bệnh, chữa bệnh không được cung cấp tên, tuổi, địa chỉ và hình ảnh của người cho tinh trùng;

4. Tinh trùng, noãn của người cho chỉ được sử dụng cho một người, nếu không sinh con thành công mới sử dụng cho người khác. Trường hợp sinh con thành công thì tinh trùng, noãn chưa sử dụng hết phải được hủy hoặc hiến tặng cho cơ sở làm nghiên cứu khoa học.

Về chế độ giam giữ người bị kết án tử hình: theo quy định tại Điều 57 Luật thi hành án hình sự năm 2010 thì chế độ quản lý giam giữ, ăn, ở, mặc, sinh hoạt, gửi và nhận thư, nhận đồ vật, tiền mặt, gặp thân nhân, chăm sóc y tế đối với người bị kết án tử hình trong thời gian chờ thi hành án được thực hiện theo quy định của pháp luật về tạm giam.

Tại Điều 4 Luật thi hành tạm giữ, tạm giam năm 2015 (hiện phải lùi hiệu lực theo Nghị quyết số 144/2016/QH13 ngày 29-6-2016 của Quốc hội) thì việc tạm giữ, tạm giam phải bảo đảm: “1. Tuân thủ Hiến pháp và pháp luật; bảo đảm quyền con người, lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân; 2. Bảo đảm thực hiện nghiêm chỉnh lệnh, quyết định về tạm giữ, tạm giam, trả tự do của cơ quan, người có thẩm quyền; 3. Bảo đảm nhân đạo; không tra tấn, truy bức, dùng nhục hình hay bất kỳ hình thức đối xử nào khác xâm phạm quyền và lợi ích hợp pháp của người bị tạm giữ, người bị tạm giam; 4. Bảo đảm cho người bị tạm giữ, người bị tạm giam thực hiện quyền con người, quyền và nghĩa vụ của công dân nếu không bị hạn chế bởi Luật này và luật khác có liên quan; 5. Áp dụng các biện pháp quản lý giam giữ phải căn cứ vào tính chất, mức độ của hành vi phạm tội, độ tuổi, giới tính, sức khỏe; bảo đảm bình đẳng giới, quyền, lợi ích chính đáng của phụ nữ, trẻ em và các đặc điểm nhân thân khác của người bị tạm giữ, người bị tạm giam”.

Đồng thời, tại Điều 9 Luật thi hành tạm giữ, tạm giam năm 2015 quy định: người bị tạm giữ, tạm giam có quyền “được hưởng các quyền khác của công dân nếu không bị hạn chế bởi Luật này và luật khác có liên quan, trừ trường hợp các quyền đó không thể thực hiện được do họ đang bị tạm giữ, tạm giam”.

Theo các quy định nêu trên thì pháp luật không cấm người bị kết án tử hình được hiến, cho, lưu giữ tinh trùng. Tuy nhiên, trường hợp thân nhân người bị kết án tử hình muốn lưu giữ tinh trùng của người bị kết án thì phải được họ đồng ý, đồng thời phải bảo đảm tuân thủ đúng các quy định của pháp luật về hiến, lấy, ghép mô, bộ phận cơ thể người và các quy định về tạm giữ, tạm giam đối với người bị kết án tử hình. Do đó, để bảo đảm quyền con người, quyền cơ bản của công dân theo quy định của Hiến pháp và pháp luật, Tòa án cần có văn bản đề nghị Cơ quan thi hành án hình sự, cơ sở giam giữ và các cơ quan khác có liên quan tạo điều kiện để người bị kết án tử hình thực hiện quyền của mình theo đúng quy định của pháp luật.

31. Theo quy định của Bộ luật dân sự năm 2015 thì Tòa án có thể áp dụng tập quán để giải quyết tranh chấp dân sự khi các bên không có thoả thuận, không có điều luật quy định, không có pháp luật điều chỉnh quan hệ dân sự tương tự, không có án lệ. Vậy đối với trường hợp này, nếu tập quán của các bên tham gia quan hệ khác nhau thì giải quyết như thế nào?

Trước hết cần xác định:Tập quán là quy tắc xử sự có nội dung rõ ràng để xác định quyền, nghĩa vụ của cá nhân, pháp nhân trong quan hệ dân sự cụ thể, được hình thành và lặp đi lặp lại nhiều lần trong một thời gian dài, được thừa nhận và áp dụng rộng rãi trong một vùng, miền, dân tộc, cộng đồng dân cư hoặc trong một lĩnh vực dân sự” (khoản 1 Điều 5 Bộ luật dân sự năm 2015).

Đối với quan hệ thuộc phạm vi điều chỉnh của pháp luật dân sự mà các bên không có thoả thuận, pháp luật không có quy định, không có pháp luật điều chỉnh quan hệ dân sự tương tự, không có án lệ mà tập quán của các bên tham gia quan hệ khác nhau thì khi có tranh chấp, Tòa án căn cứ vào Điều 3, Điều 5, các quy định  của Bộ luật dân sự năm 2015 và Điều 45 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015, tùy từng trường hợp cụ thể xem xét, giải quyết như sau:

Trường hợp các tập quán không trái với các nguyên tắc cơ bản của pháp luật dân sự quy định tại Điều 3 Bộ luật dân sự năm 2015 nhưng khác nhau thì áp dụng quy định của Bộ luật dân sự năm 2015 về áp dụng tập quán để giải quyết (Ví dụ: Xác định dân tộc của một cá nhân sinh ra theo quy định tại khoản 2 Điều 29 Bộ luật dân sự năm 2015 thì dân tộc của con được xác định theo tập quán của dân tộc ít người hơn; giải thích giao dịch dân sự theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 121 Bộ luật dân sự năm 2015 thì giao dịch dân sự có nội dung không rõ ràng, khó hiểu, được hiểu theo nhiều nghĩa khác nhau và không thuộc quy định tại khoản 2 Điều 121 Bộ luật dân sự năm 2015 thì việc giải thích giao dịch dân sự đó được thực hiện theo tập quán nơi giao dịch được xác lập khi không xác định được ý chí đích thực của các bên khi xác lập giao dịch và nghĩa phù hợp với mục đích của giao dịch;...); trường hợp Bộ luật dân sự năm 2015 không quy định cụ thể áp dụng tập quán nào thì áp dụng lẽ công bằng để giải quyết.

Trường hợp các tập quán đều trái với các nguyên tắc cơ bản của pháp luật dân sự quy định tại Điều 3 Bộ luật dân sự năm 2015 thì áp dụng lẽ công bằng để giải quyết.

Trường hợp có tập quán không trái với các nguyên tắc cơ bản của pháp luật dân sự quy định tại Điều 3 Bộ luật dân sự năm 2015 và có tập quán trái với các nguyên tắc cơ bản của pháp luật dân sự quy định tại Điều 3 Bộ luật dân sự năm 2015 thì áp dụng tập quán không trái với các nguyên tắc cơ bản của pháp luật dân sự quy định tại Điều 3 Bộ luật dân sự năm 2015 để giải quyết.

32. Theo quy định tại khoản 1 Điều 22 và khoản 1 Điều 23 Bộ luật dân sự năm 2015 thì việc Tòa án ra quyết định tuyên bố một ngườiNgười mất năng lực hành vi dân sự” hoặc tuyên bố một người là “Người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi” dựa trên cơ sở kết luận giám định pháp y tâm thần. Tuy nhiên, khi giải quyết việc dân sự nếu người bị yêu cầu tuyên bố mất năng lực hành vi dân sự hoặc có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi không đồng ý đi giám định pháp y tâm thần thì Tòa án giải quyết như thế nào?

Theo quy định tại khoản 1 Điều 22 và khoản 1 Điều 23 Bộ luật dân sự năm 2015 thì Tòa án ra quyết định tuyên bố một người làNgười mất năng lực hành vi dân sự” hoặc tuyên bố một người là “Người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi” trên cơ sở kết luận giám định pháp y tâm thần.

Trường hợp người bị yêu cầu tuyên bố mất năng lực hành vi dân sự hoặc có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi không đồng ý đi giám định pháp y tâm thần thì Tòa án ra quyết định mở phiên họp giải quyết việc dân sự, tiến hành phiên họp giải quyết việc dân sự theo thủ tục chung và quyết định không chấp nhận yêu cầu giải quyết việc dân sự.

33. Tòa án giải quyết yêu cầu tuyên hợp đồng vô hiệu nhưng đương sự không yêu cầu giải quyết hậu quả của hợp đồng vô hiệu. Trường hợp này, Tòa án có phải giải quyết hậu quả của hợp đồng vô hiệu không?

Khi đương sự yêu cầu Tòa án tuyên hợp đồng vô hiệu nhưng không có yêu cầu cụ thể về việc giải quyết hậu quả hợp đồng vô hiệu và Tòa án quyết định tuyên hợp đồng dân sự vô hiệu thì Tòa án phải giải quyết hậu quả pháp lý của hợp đồng vô hiệu theo quy định tại Điều 137 Bộ luật dân sự năm 2005 (Điều 131 Bộ luật dân sự năm 2015), trừ trường hợp Tòa án đã giải thích về hậu quả của việc tuyên hợp đồng vô hiệu nhưng đương sự vẫn không yêu cầu giải quyết hậu quả hợp đồng vô hiệu.

34.Trường hợp lãi suất cho vay của Ngân hàng trong hợp đồng tín dụng cao hơn 150% lãi suất cơ bản của Ngân hàng Nhà nước công bố thì Tòa án căn cứ quy định tại khoản 2 Điều 91 Luật các tổ chức tín dụng năm 2010 hay khoản 1 Điều 476 Bộ luật dân sự năm 2005 để giải quyết vụ án?

Theo quy định tại khoản 2 Điều 3 Luật các tổ chức tín dụng năm 2010 thì “Trường hợp có quy định khác nhau giữa Luật này và các luật khác có liên quan về thành lập, tổ chức, hoạt động, kiểm soát đặc biệt, tổ chức lại, giải thể tổ chức tín dụng; việc thành lập, tổ chức, hoạt động của chi nhánh ngân hàng nước ngoài, văn phòng đại diện của tổ chức tín dụng nước ngoài, tổ chức nước ngoài khác có hoạt động ngân hàng thì áp dụng theo quy định của Luật này”. Do vậy, đối với hợp đồng vay mà một bên là tổ chức tín dụng thì lãi suất của hợp đồng vay được thực hiện theo quy định tại khoản 2 Điều 91 Luật các tổ chức tín dụng năm 2010.

35. Trường hợp người thế chấp chỉ thế chấp quyền sử dụng đất (không thế chấp tài sản gắn liền với đất), trên đất thế chấp có tài sản gắn liền với đất là nhà được xây dựng từ trước khi thế chấp thì hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất có hiệu lực pháp luật không?

Khoản 2 Điều 716 Bộ luật dân sự năm 2005 quy định: “Trường hợp người sử dụng đất thế chấp quyền sử dụng đất thì nhà, công trình xây dựng khác, rừng trồng, vườn cây và các tài sản khác của người thế chấp gắn liền với đất chỉ thuộc tài sản thế chấp nếu có thoả thuận”.

Căn cứ quy định nêu trên của Bộ luật dân sự năm 2005, hướng dẫn tại khoản 19 Điều 1 Nghị định 11/2012/NĐ-CP ngày 22-2-2012 của Chính Phủ sửa đổi Nghị định 163/2006/NĐ-CP ngày 29-12-2006 của Chính phủ về giao dịch bảo đảm (Điều 325, Điều 326 Bộ luật dân sự năm 2015 đã pháp điển hóa những quy định của Nghị định này) thì tài sản gắn liền với đất của người thế chấp chỉ thuộc tài sản thế chấp khi các bên có thỏa thuận. Vì vậy, người thế chấp chỉ thế chấp quyền sử dụng đất mà không thế chấp nhà trên đất, kể cả trong trường hợp nhà trên đất được hình thành trước khi thế chấp thì hợp đồng thế chấp có hiệu lực pháp luật nếu phù hợp với quy định khác của pháp luật về điều kiện có hiệu lực của hợp đồng.

36. Trường hợp trong vụ án dân sự, nguyên đơn và bị đơn đều cư trú trên cùng một địa bàn thì khi xét xử, Tòa án có bắt buộc phải áp dụng Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 về “Thẩm quyền của Tòa án theo lãnh thổ” không?

Tùy từng vụ việc cụ thể mà Tòa án áp dụng Điều 39 về “Thẩm quyền của Tòa án theo lãnh thổ” hoặc Điều 40 về “Thẩm quyền của Tòa án theo sự lựa chọn của nguyên đơn, người yêu cầu” của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 để giải quyết.

Ví dụ 1: Trường hợp tranh chấp quyền sử dụng đất thì mặc dù nguyên đơn và bị đơn đều cư trú trên một địa bàn nhưng Tòa án bắt buộc phải áp dụng điểm c khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015: “Đối tượng tranh chấp là bất động sản thì chỉ Tòa án nơi có bất động sản có thẩm quyền giải quyết”.

Ví dụ 2: Trường hợp tranh chấp phát sinh từ quan hệ hợp đồng mà nguyên đơn yêu cầu Tòa án nơi hợp đồng được thực hiện giải quyết thì Tòa án áp dụng điểm g khoản 1 Điều 40 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 về thẩm quyền của Tòa án theo sự lựa chọn của nguyên đơn mà không áp dụng Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.

37. Trường hợp vụ án dân sự do Tòa án nhân dân cấp huyện thụ lý trước ngày 01-7-2016 chưa phát sinh yêu cầu hủy quyết định cá biệt của Ủy ban nhân dân cấp huyện, nhưng kể từ ngày 01-7-2016 mới phát sinh yêu cầu hủy quyết định cá biệt thì Tòa án nhân dân cấp huyện hay Tòa án nhân dân cấp tỉnh có thẩm quyền giải quyết vụ án dân sự đó?

Khi giải quyết vụ việc dân sự có yêu cầu hủy quyết định cá biệt của Ủy ban nhân dân cấp huyện thì Tòa án phải xem xét, đánh giá về tính hợp pháp của quyết định cá biệt đó.

Trường hợp vụ án dân sự do Tòa án nhân dân cấp huyện thụ lý trước ngày 01-7-2016 nhưng kể từ ngày 01-7-2016 mới phát sinh yêu cầu hủy quyết định cá biệt của Ủy ban nhân dân cấp huyện mà quyết định đó rõ ràng trái pháp luật xâm phạm quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự và phải hủy quyết định đó mới bảo đảm giải quyết đúng đắn vụ việc dân sự thì căn cứ vào khoản 4 Điều 34, khoản 1 Điều 41 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015, khoản 4 Điều 32 Luật tố tụng hành chính năm 2015, Tòa án nhân dân cấp huyện đang giải quyết vụ việc dân sự phải chuyển vụ việc cho Tòa án nhân dân cấp tỉnh giải quyết và xem xét việc hủy quyết định đó.

Trường hợp khi giải quyết vụ việc dân sự có yêu cầu hủy quyết định cá biệt của Ủy ban nhân dân cấp huyện nhưng không cần thiết phải hủy quyết định cá biệt đó và việc không hủy quyết định đó vẫn đảm bảo giải quyết đúng đắn vụ việc dân sự thì Tòa án đang giải quyết vụ việc dân sự tiếp tục giải quyết.[4]

38. Đề nghị hướng dẫn về thẩm quyền của Tòa án trong việc giải quyết yêu cầu đòi lại quyền sử dụng đất nông nghiệp? Đối với tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng có thời hạn đến 15-10-2013 và tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng không xác định thời hạn sử dụng đất thì được giải quyết thế nào?

 Theo quy định tại các khoản 1 và 2 Điều 203 của Luật đất đai năm 2013 thì: (1) Tranh chấp đất đai mà đương sự có Giấy chứng nhận hoặc có một trong các loại giấy tờ quy định tại Điều 100 của Luật này và tranh chấp về tài sản gắn liền với đất do Tòa án nhân dân giải quyết; (2) Tranh chấp đất đai mà đương sự không có Giấy chứng nhận hoặc không có một trong các loại giấy tờ quy định tại Điều 100 của Luật này thì đương sự chỉ được lựa chọn một trong hai hình thức giải quyết tranh chấp đất đai tại Ủy ban nhân dân cấp có thẩm quyền hoặc tại Tòa án nhân dân có thẩm quyền.

Như vậy, tranh chấp đất nông nghiệp thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án, trừ trường hợp đương sự lựa chọn Ủy ban nhân dân có thẩm quyền giải quyết.

Theo quy định tại Điều 1 của Nghị quyết số 49/2013/QH13 ngày 21-6-2013 của Quốc hội về kéo dài thời hạn sử dụng đất trồng cây hàng năm, đất nuôi trồng thủy sản, đất làm muối của hộ gia đình, cá nhân và hướng dẫn tại Điều 2 của Nghị định số 126/2013/NĐ-CP ngày 15-10-2013 của Chính phủ hướng dẫn thi hành Nghị quyết số 49/2013/QH13 ngày 21-6-2013 của Quốc hội về kéo dài thời hạn sử dụng đất trồng cây hàng năm, đất nuôi trồng thủy sản, đất làm muối của hộ gia đình, cá nhân thì:

- Khi hết thời hạn sử dụng, nhà nước không điều chỉnh lại đất trồng cây hàng năm, đất nuôi trồng thủy sản, đất làm muối đã giao cho hộ gia đình, cá nhân theo Luật đất đai năm 2003; hộ gia đình, cá nhân trực tiếp sản xuất nông nghiệp, nuôi trồng thủy sản, làm muối được tiếp tục sử dụng cho đến khi Luật đất đai năm 2013 có hiệu lực thi hành thì áp dụng theo Luật đất đai 2013;

- Hộ gia đình, cá nhân thuộc đối tượng được giao đất nông nghiệp theo quy định của pháp luật đất đai và đang sử dụng đất trồng cây hàng năm, đất nuôi trồng thủy sản, đất làm muối do được công nhận quyền sử dụng đất trong hạn mức được giao đất nông nghiệp; do nhận chuyển nhượng, nhận tặng cho quyền sử dụng đất trong hạn mức nhận chuyển quyền sử dụng đất nông nghiệp của hộ gia đình, cá nhân; do nhận thừa kế quyền sử dụng đất theo quy định của pháp luật.

Điều 128 của Luật đất đai năm 2013 về thời hạn sử dụng đất khi nhận chuyển quyền sử dụng đất quy định:

“1. Thời hạn sử dụng đất khi nhận chuyển quyền sử dụng đất đối với loại đất có quy định thời hạn là thời gian sử dụng đất còn lại của thời hạn sử dụng đất trước khi nhận chuyển quyền sử dụng đất.

2. Người nhận chuyển quyền sử dụng đất đối với loại đất được sử dụng ổn định lâu dài thì được sử dụng đất ổn định lâu dài.”

Khi giải quyết tranh chấp đất nông nghiệp, cần lưu ý:

- Việc nhận chuyển quyền sử dụng đất nông nghiệp đó có đúng hạn mức đối với hộ gia đình, cá nhân theo quy định của Luật đất đai năm 2013 không (Theo quy định tại khoản 5 Điều 12 Luật đất đai năm 2013 thì hành vi nhận chuyển quyền sử dụng đất nông nghiệp vượt hạn mức đối với hộ gia đình, cá nhân theo quy định của Luật đất đai năm 2013 là hành vi bị nghiêm cấm). Đối với phần vượt hạn mức nhận chuyển quyền sử dụng đất nông nghiệp là phần giao dịch dân sự vô hiệu.

- Đối với trường hợp chuyển nhượng không tuân thủ quy định về hình thức theo quy định tại khoản 2 Điều 132 Bộ luật dân sự năm 2015 thì hết thời hiệu yêu cầu tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu (02 năm) mà không có yêu cầu tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu thì giao dịch dân sự đó có hiệu lực. Khi giải quyết tranh chấp, Tòa án chỉ xác định là giao dịch đó có hiệu lực pháp luật. Còn việc công nhận quyền sử dụng đất do thời hạn sử dụng đất đã được kéo dài (từ năm 2013 trở đi) cho bên nhận chuyển nhượng thuộc thẩm quyền của cơ quan quản lý nhà nước về đất đai (Ủy ban nhân dân) quyết định.

39. Tòa án nhận được đơn khởi kiện vụ án kinh doanh, thương mại, trong đó có liên quan đến tài sản thế chấp là quyền sử dụng đất; đồng thời nhận được đơn khởi kiện hủy hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất của người đã chuyển nhượng quyền sử dụng đất cho người thế chấp. Tòa án thụ lý một hay hai vụ án để giải quyết?

Theo quy định tại khoản 1 Điều 42 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 thì:

“Tòa án nhập hai hoặc nhiều vụ án mà Tòa án đó đã thụ lý riêng biệt thành một vụ án để giải quyết nếu việc nhập và việc giải quyết trong cùng một vụ án bảo đảm đúng pháp luật.

Đối với vụ án có nhiều người có cùng yêu cầu khởi kiện đối với cùng một cá nhân hoặc cùng một cơ quan, tổ chức thì Tòa án có thể nhập các yêu cầu của họ để giải quyết trong cùng một vụ án”.

Theo quy định tại Điều 188 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 thì:

“1. Cơ quan, tổ chức, cá nhân có thể khởi kiện một hoặc nhiều cơ quan, tổ chức, cá nhân khác về một quan hệ pháp luật hoặc nhiều quan hệ pháp luật có liên quan với nhau để giải quyết trong cùng một vụ án.

2. Nhiều cơ quan, tổ chức, cá nhân có thể cùng khởi kiện một cơ quan, một tổ chức, một cá nhân khác về một quan hệ pháp luật hoặc nhiều quan hệ pháp luật có liên quan với nhau để giải quyết trong cùng một vụ án.

3. Cơ quan, tổ chức, cá nhân quy định tại Điều 187 của Bộ luật này có thể khởi kiện một hoặc nhiều cơ quan, tổ chức, cá nhân khác về một quan hệ pháp luật hoặc nhiều quan hệ pháp luật có liên quan với nhau để giải quyết trong cùng một vụ án”.

Tham khảo hướng dẫn tại Điều 4 Nghị quyết số 05/2012/NQ-HĐTP ngày 03-12-2012 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn thi hành một số quy định trong Phần thứ hai “Thủ tục giải quyết vụ án tại Tòa án cấp sơ thẩm” của Bộ luật tố tụng dân sự đã được sửa đổi, bổ sung theo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật tố tụng dân sự thì:

“Được coi là “nhiều quan hệ pháp luật có liên quan với nhau” để giải quyết trong cùng một vụ án khi thuộc một trong các trường hợp sau đây:

a) Việc giải quyết quan hệ pháp luật này đòi hỏi phải giải quyết đồng thời quan hệ pháp luật khác;

Ví dụ: A khởi kiện yêu cầu Toà án buộc B phải trả lại quyền sử dụng đất. Đồng thời, A khởi kiện yêu cầu Toà án buộc C phải tháo dỡ công trình mà C đã xây dựng trên đất đó.

b) Việc giải quyết các quan hệ pháp luật có cùng đương sự và về cùng loại tranh chấp quy định trong một điều luật tương ứng tại một trong các điều 25, 27, 29 và 31 của Bộ luật tố tụng dân sự.

Ví dụ: A khởi kiện yêu cầu Toà án buộc B phải trả nợ 100 triệu đồng. Đồng thời, A còn khởi kiện yêu cầu Toà án buộc B phải trả lại chiếc xe ôtô mà B thuê của A do đã hết thời hạn cho thuê”.

Theo các quy định và hướng dẫn nêu trên, đây không thuộc trường hợp nhập hai vụ án thành một vụ án vì vụ án tranh chấp kinh doanh, thương mại và vụ án tranh chấp dân sự là khác nhau.

Trường hợp Tòa án đã thụ lý hai vụ án thì áp dụng điểm đ khoản 1 Điều 214 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 ra quyết định tạm đình chỉ giải quyết vụ án kinh doanh, thương mại với lý do “Cần đợi kết quả giải quyết vụ án khác có liên quan”; Tòa án giải quyết vụ án dân sự yêu cầu hủy hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất trước. Khi giải quyết vụ án kinh doanh, thương mại căn cứ vào kết quả giải quyết vụ án yêu cầu hủy hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất.

40. Trong vụ án tranh chấp dân sự về hợp đồng vay tài sản hoặc giao dịch về hụi, họ, nếu Tòa án phát hiện dấu hiệu tội phạm, đã kiến nghị khởi tố vụ án hình sự và nhận được quyết định khởi tố vụ án thì Tòa án giải quyết thế nào?

Điều 28 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003, Điều 30 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 đều có quy định về giải quyết vấn đề dân sự trong vụ án hình sự. Theo đó việc giải quyết vấn đề dân sự trong vụ án hình sự được tiến hành cùng với việc giải quyết vụ án hình sự. Trường hợp vụ án hình sự phải giải quyết vấn đề bồi thường thiệt hại, bồi hoàn mà chưa có điều kiện chứng minh và không ảnh hưởng đến việc giải quyết vụ án hình sự thì vấn đề dân sự có thể tách ra để giải quyết theo thủ tục tố tụng dân sự.

Như vậy, đối với vụ án tranh chấp dân sự về hợp đồng vay tài sản hoặc giao dịch về hụi, họ, nếu Tòa án phát hiện dấu hiệu tội phạm, đã kiến nghị khởi tố vụ án hình sự và nhận được quyết định khởi tố vụ án thì Tòa án căn cứ điểm d khoản 1 Điều 214 Bộ luật tố tụng dân sự để tạm đình chỉ giải quyết vụ án.

41. Trường hợp bị đơn đã ủy quyền hợp lệ cho người đại diện tham gia tố tụng thì Tòa án tống đạt văn bản tố tụng cho bị đơn hay người đại diện tham gia tố tụng?

Khoản 4 Điều 85 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 quy định: Người đại diện theo ủy quyền theo quy định của Bộ luật dân sự là người đại diện theo ủy quyền trong tố tụng dân sự.”

Khoản 4 Điều 86 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 quy định: Người đại diện theo ủy quyền trong tố tụng dân sự thực hiện quyền, nghĩa vụ tố tụng dân sự của đương sự theo nội dung văn bản ủy quyền.”

Theo quy định tại Điều 144 Bộ luật dân sự năm 2005 (Điều 141 Bộ luật dân sự năm 2015), phạm vi đại diện theo ủy quyền được xác định theo nội dung ủy quyền.

Như vậy, trường hợp bị đơn đã ủy quyền cho người khác đại diện cho mình tham gia tố tụng thì Tòa án phải tống đạt cho người đại diện của bị đơn. Việc tống đạt cho người đại diện của bị đơn được thực hiện theo quy định tại Chương X của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015. Tòa án chỉ tống đạt cho bị đơn khi việc ủy quyền tham gia tố tụng giữa bị đơn và người đại diện chấm dứt hoặc việc tống đạt liên quan đến những nội dung không nằm trong phạm vi ủy quyền.

42. Vụ án chia thừa kế có bị đơn bị bệnh tâm thần, các con của bị đơn xuất trình sổ khám chữa bệnh thể hiện bị đơn đã đi khám và điều trị tại bệnh viện. Nguyên đơn có đơn yêu cầu tuyên bố bị đơn mất năng lực hành vi dân sự nhưng sau đó rút đơn. Các con của bị đơn từ chối không hợp tác, không yêu cầu Tòa án trưng cầu giám định tâm thần đối với bị đơn. Như vậy, Tòa án không thể tiến hành trưng cầu giám định tâm thần và không có căn cứ để Tòa án cử người giám hộ cho bị đơn để tiếp tục giải quyết vụ án?

Khoản 1 Điều 22 Bộ luật dân sự năm 2005 và khoản 1 Điều 22 Bộ luật dân sự năm 2015 đều quy định khi một người do bị bệnh tâm thần hoặc mắc bệnh khác mà không thể nhận thức, làm chủ được hành vi thì theo yêu cầu của người có quyền, lợi ích liên quan hoặc của cơ quan, tổ chức hữu quan, Tòa án ra quyết định tuyên bố người này là người mất năng lực hành vi dân sự trên cơ sở kết luận giám định tâm thần, kết luận giám định pháp y tâm thần.

Khoản 1 Điều 88 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 quy định: “Khi tiến hành tố tụng dân sự, nếu có đương sự là người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự, người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi mà không có người đại diện hoặc người đại diện theo pháp luật của họ thuộc một trong các trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 87 của Bộ luật này thì Tòa án phải chỉ định người đại diện để tham gia tố tụng.”

Như vậy, theo các quy định nêu trên, Tòa án chỉ định người đại diện cho đương sự là người mất năng lực hành vi dân sự khi đã có quyết định của Tòa án tuyên bố người đó là người mất năng lực hành vi dân sự và họ không có người đại diện hoặc người đại diện theo pháp luật của họ thuộc một trong các trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 87 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015; nếu không có căn cứ xác định một người bị mất năng lực hành vi dân sự thì người đó có nghĩa vụ tham gia tố tụng và vụ án được giải quyết theo thủ tục chung.

43. Đề nghị hướng dẫn việc thay đổi, bổ sung yêu cầu khởi kiện trước khi khi mở phiên tòa như thế nào? Trường hợp nào thì Tòa án chấp nhận hay không chấp nhận việc thay đổi, bổ sung đó? Việc thay đổi địa vị tố tụng trước khi mở phiên tòa trong trường hợp nguyên đơn rút yêu cầu khởi kiện và bị đơn có yêu cầu phản tố?

Theo quy định tại khoản 2 Điều 71 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 thì nguyên đơn có quyền thay đổi nội dung khởi kiện; rút một phần hoặc toàn bộ yêu cầu khởi kiện và khoản 4 Điều 70 Bộ luật tố tụng dân sự quy định đương sự có quyền giữ nguyên, thay đổi, bổ sung hoặc rút yêu cầu khởi kiện theo quy định của Bộ luật này. Tuy nhiên, khoản 1 Điều 5 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 quy định: “Toà án chỉ thụ lý giải quyết vụ việc dân sự khi có đơn khởi kiện, đơn yêu cầu của đương sự và chỉ giải quyết trong phạm vi đơn khởi kiện, đơn yêu cầu”.

Như vậy, việc đương sự thay đổi, bổ sung yêu cầu khởi kiện là phải trong phạm vi đơn khởi kiện ban đầu và việc thay đổi, bổ sung này phải được thực hiện trước khi mở phiên toà thì được Toà án chấp nhận. Còn trường hợp việc thay đổi, bổ sung yêu cầu khởi kiện vượt quá phạm vi khởi kiện ban đầu thì không được Toà án chấp nhận.

Đối với việc thay đổi địa vị tố tụng trước khi mở phiên tòa thì tại điểm b khoản 2 Điều 217 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 quy định trường hợp nguyên đơn rút toàn bộ yêu cầu khởi kiện nhưng bị đơn không rút hoặc chỉ rút một phần yêu cầu phản tố thì Tòa án ra quyết định đình chỉ đối với yêu cầu của nguyên đơn và bị đơn sẽ trở thành nguyên đơn còn nguyên đơn trở thành bị đơn.

44. Để thực hiện quy định: Đương sự “có nghĩa vụ gửi cho các đương sự khác hoặc người đại diện hợp pháp của họ bản sao đơn khởi kiện và tài liệu, chứng cứ…” theo khoản 9 Điều 70 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 thì Tòa án cần phải làm gì?

Quy định về việc đương sự có nghĩa vụ thông báo cho nhau các tài liệu, chứng cứ đã giao nộp là quy định mới, nhằm bảo đảm nguyên tắc tranh tụng trong xét xử quy định tại khoản 2 Điều 24 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015. Trong quá trình tố tụng, Tòa án cần vận dụng các quy định cụ thể của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 về vấn đề này, đó là:

Khoản 9 Điều 70 quy định: Khi tham gia tố tụng, đương sự Có nghĩa vụ gửi cho đương sự khác hoặc người đại diện hợp pháp của họ bản sao đơn khởi kiện và tài liệu, chứng cứ, trừ tài liệu, chứng cứ mà đương sự khác đã có, tài liệu, chứng cứ quy định tại khoản 2 Điều 109 của Bộ luật này. Trường hợp vì lý do chính đáng không thể sao chụp, gửi đơn khởi kiện, tài liệu, chứng cứ thì họ có quyền yêu cầu Tòa án hỗ trợ”;

Khoản 5 Điều 96 quy định: Khi đương sự giao nộp tài liệu, chứng cứ cho Tòa án thì họ phải sao gửi tài liệu, chứng cứ đó cho đương sự khác hoặc người đại diện hợp pháp của đương sự khác; đối với tài liệu, chứng cứ quy định tại khoản 2 Điều 109 của Bộ luật này hoặc tài liệu, chứng cứ không thể sao gửi được thì phải thông báo bằng văn bản cho đương sự khác hoặc người đại diện hợp pháp của đương sự khác”;

Khoản 3 Điều 196 quy định: Trường hợp nguyên đơn có đơn yêu cầu Tòa án hỗ trợ trong việc gửi tài liệu, chứng cứ thì kèm theo thông báo về việc thụ lý vụ án, Tòa án gửi cho bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bản sao tài liệu, chứng cứ do nguyên đơn cung cấp”;

Điểm b khoản 2 Điều 210 quy định: Khi kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ, Thẩm phán hỏi đương sự về “Tài liệu, chứng cứ đã giao nộp cho Tòa án và việc gửi tài liệu, chứng cứ cho đương sự khác.

45. Khoản 9 Điều 70 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 quy định nguyên đơn phải gửi bản sao đơn khởi kiện và các tài liệu, chứng cứ cho đương sự khác. Vậy nguyên đơn phải gửi các tài liệu, chứng cứ trên vào thời điểm nào?

Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 không quy định cụ thể về thời điểm nguyên đơn phải gửi bản sao đơn khởi kiện và tài liệu, chứng cứ cho đương sự khác hoặc người đại diện hợp pháp của họ. Tuy nhiên, quy định tại khoản 9 Điều 70 Bộ luật tố tụng dân sự nhằm đảm bảo quyền tiếp cận chứng cứ để thực hiện quyền tranh tụng trong quá trình Tòa án giải quyết vụ án. Như vậy, để bảo đảm cho việc kiểm tra, tiếp cận, công khai chứng cứ thì nguyên đơn phải gửi bản sao đơn khởi kiện, tài liệu chứng cứ cho các đương sự trước phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải.

46. Việc đương sự sao gửi tài liệu, chứng cứ cho đương sự khác theo quy định tại khoản 5 Điều 96 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 được thực hiện như thế nào? Đương sự có phải chứng minh với Tòa án việc đã sao gửi tài liệu, chứng cứ cho đương sự khác không? Nếu đương sự không thực hiện việc sao gửi thì giải quyết thế nào?

Khoản 5 Điều 96 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 quy định: “Khi đương sự giao nộp tài liệu, chứng cứ cho Tòa án thì họ phải sao gửi tài liệu, chứng cứ đó cho đương sự khác hoặc người đại diện hợp pháp của đương sự khác; đối với tài liệu, chứng cứ quy định tại khoản 2 Điều 109 của Bộ luật này hoặc tài liệu, chứng cứ không thể sao gửi được thì phải thông báo bằng văn bản cho đương sự khác hoặc người đại diện hợp pháp của đương sự khác”.

Khoản 9 Điều 70 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 quy định: “Có nghĩa vụ gửi cho đương sự khác hoặc người đại diện hợp pháp của họ bản sao đơn khởi kiện và tài liệu, chứng cứ, trừ tài liệu, chứng cứ mà đương sự khác đã có, tài liệu, chứng cứ quy định tại khoản 2 Điều 109 của Bộ luật này. Trường hợp vì lý do chính đáng không thể sao chụp, gửi đơn khởi kiện, tài liệu, chứng cứ thì họ có quyền yêu cầu Tòa án hỗ trợ”.

Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 không quy định phương thức đương sự sao gửi tài liệu, chứng cứ cho các đương sự khác nên đương sự có quyền lựa chọn phương thức sao gửi tài liệu, chứng cứ cho đương sự khác (gửi trực tiếp, gửi qua đường bưu điện…) và đương sự phải chứng minh việc đã sao gửi tài liệu, chứng cứ cho đương sự khác với Tòa án. Trường hợp đương sự không thực hiện việc sao gửi tài liệu, chứng cứ cho đương sự khác thì Tòa án yêu cầu đương sự phải thực hiện. Trường hợp vì lý do chính đáng, không thể sao gửi tài liệu, chứng cứ cho đương sự khác thì đương sự có quyền yêu cầu Tòa án hỗ trợ.

47. Khi giải quyết vụ án tranh chấp hợp đồng tín dụng, Tòa án yêu cầu nguyên đơn là ngân hàng cung cấp tài liệu về việc tăng, giảm lãi suất theo từng thời điểm nhưng ngân hàng không cung cấp. Trường hợp này, Tòa án phải giải quyết như thế nào?

Khoản 1 Điều 96 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 quy định:

“1. Trong quá trình Tòa án giải quyết vụ việc dân sự, đương sự có quyền và nghĩa vụ giao nộp tài liệu, chứng cứ cho Tòa án. Trường hợp tài liệu, chứng cứ đã được giao nộp chưa bảo đảm đủ cơ sở để giải quyết vụ việc thì Thẩm phán yêu cầu đương sự giao nộp bổ sung tài liệu, chứng cứ. Nếu đương sự không giao nộp hoặc giao nộp không đầy đủ tài liệu, chứng cứ do Tòa án yêu cầu mà không có lý do chính đáng thì Tòa án căn cứ vào tài liệu, chứng cứ mà đương sự đã giao nộp và Tòa án đã thu thập theo quy định tại Điều 97 của Bộ luật này để giải quyết vụ việc dân sự.”

Như vậy, nếu Tòa án đã có yêu cầu nguyên đơn là ngân hàng cung cấp tài liệu, chứng cứ về việc tăng, giảm lãi suất nhưng ngân hàng không cung cấp mà không có lý do chính đáng thì Tòa án căn cứ vào tài liệu, chứng cứ mà đương sự đã giao nộp và Tòa án đã thu thập để giải quyết vụ án.

48. Trường hợp các đương sự trong vụ án đều thống nhất trình bày là có một đương sự bị bệnh tâm thần từ nhỏ và Tòa án đã thông báo cho các đương sự cung cấp tài liệu, chứng cứ chứng minh nhưng các đương sự không cung cấp được thì giải quyết thế nào?

Căn cứ vào khoản 1, khoản 4 Điều 96 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015, trường hợp Tòa án đã yêu cầu đương sự, người đại diện hợp pháp của đương sự giao nộp tài liệu, chứng cứ và ấn định thời gian giao nộp nhưng đương sự, người đại diện hợp pháp của đương sự không nộp hoặc nộp không đầy đủ tài liệu, chứng cứ do Tòa án yêu cầu mà không có lý do chính đáng thì Tòa án căn cứ vào tài liệu, chứng cứ mà đương sự, người đại diện hợp pháp của đương sự đã giao nộp và Tòa án đã thu thập theo quy định tại Điều 97 của Bộ luật này để giải quyết vụ việc dân sự.[5]

49. Trong vụ án tranh chấp quyền sử dụng đất nhưng có một nguyên đơn chết mà không có người thừa kế quyền và nghĩa vụ tố tụng. Tòa án đã ra thông báo cho các nguyên đơn còn lại cung cấp thông tin liên quan đến người thừa kế quyền và nghĩa vụ tố tụng theo quy định pháp luật, nhưng đương sự không thể cung cấp được, trường hợp này giải quyết như thế nào?

Khoản 1 Điều 74 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 quy định: Trường hợp đương sự là cá nhân đang tham gia tố tụng chết mà quyền, nghĩa vụ về tài sản của họ được thừa kế thì người thừa kế tham gia tố tụng.”

Điểm a khoản 1 Điều 214 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 quy định Tòa án ra quyết định tạm đình chỉ giải quyết vụ án dân sự khi “Đương sự là cá nhân đã chết, cơ quan, tổ chức đã hợp nhất, sáp nhập, chia, tách, giải thể mà chưa có cơ quan, tổ chức, cá nhân kế thừa quyền và nghĩa vụ tố tụng của cơ quan, tổ chức, cá nhân đó;”

Tuy nhiên, trong vụ án dân sự tranh chấp quyền sử dụng đất có nhiều nguyên đơn nếu tạm đình chỉ vụ án theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 214 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 thì sẽ ảnh hưởng tới quyền lợi hợp pháp của các đương sự khác trong vụ án. Trong khi đó, không thể xác định nguyên đơn chết không có người thừa kế quyền và nghĩa vụ về tài sản, trừ trường hợp hết thời hiệu quy định tại Điều 645 Bộ luật dân sự năm 2005, khoản 2 Điều 623 Bộ luật dân sự năm 2015 (theo các quy định này thì thời hiệu để người thừa kế yêu cầu xác nhận quyền thừa kế của mình hoặc bác bỏ quyền thừa kế của người khác là 10 năm, kể từ thời điểm mở thừa kế). Do đó, để bảo đảm quyền lợi của các đương sự khác trong vụ án, Tòa án giải quyết vụ án và tạm đình chỉ giải quyết yêu cầu của nguyên đơn đã chết. Việc tạm đình giải quyết yêu cầu của nguyên đơn đã chết phải được ghi rõ trong bản án quyết định giải quyết vụ án của Tòa án.

50. Trường hợp Tòa án ấn định thời gian giao nộp tài liệu, chứng cứ nhưng đương sự chậm giao nộp hoặc đương sự giao nộp tài liệu, chứng cứ sau khi có quyết định đưa vụ án ra xét xử, quyết định mở phiên họp giải quyết việc dân sự thì Tòa án giải quyết như thế nào?

Căn cứ quy định tại khoản 4 Điều 96 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015, trường hợp Tòa án ấn định thời gian giao nộp tài liệu, chứng cứ mà đương sự chậm giao nộp nhưng vẫn giao nộp trước khi có quyết định đưa vụ án ra xét xử và tài liệu, chứng cứ đó là cơ sở để giải quyết vụ án thì Tòa án chấp nhận việc giao nộp tài liệu, chứng cứ đó.

Trường hợp sau khi có quyết định đưa vụ án ra xét xử theo thủ tục sơ thẩm, quyết định mở phiên họp giải quyết việc dân sự theo thủ tục sơ thẩm, đương sự mới cung cấp,  giao nộp tài liệu, chứng cứ mà Tòa án đã yêu cầu giao nộp nhưng đương sự không giao nộp được vì có lý do chính đáng thì đương sự phải chứng minh lý do của việc chậm giao nộp tài liệu, chứng cứ đó. Nếu lý do chậm giao nộp tài liệu, chứng cứ là chính đáng thì Tòa án chấp nhận việc giao nộp tài liệu, chứng cứ đó. Nếu lý do không chính đáng thì Tòa án không chấp nhận việc chậm giao nộp tài liệu, chứng cứ đó, nhưng phải lập luận việc không chấp nhận tài liệu, chứng cứ đó trong bản án, quyết định của Tòa án. Tuy nhiên, cần lưu ý trường hợp tài liệu, chứng cứ đã giao nộp chưa đảm bảo đủ cơ sở để giải quyết vụ án thì Tòa án yêu cầu đương sự giao nộp bổ sung tài liệu, chứng cứ hoặc tự mình xác minh, thu thập tài liệu, chứng cứ để làm rõ các tình tiết của vụ án.[6]

51. Khi giải quyết tranh chấp dân sự mà một bên là hợp tác xã nhưng trên thực tế không xác định được tình hình hoạt động của hợp tác xã, không tìm được người đại diện theo pháp luật của hợp tác xã thì xử lý như thế nào?

Khoản 2 Điều 97 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 quy định: “…đương sự đã áp dụng các biện pháp cần thiết để thu thập tài liệu, chứng cứ mà vẫn không thể tự mình thu thập được thì có thể đề nghị Tòa án ra quyết định yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân đang lưu giữ, quản lý tài liệu, chứng cứ cung cấp cho mình hoặc đề nghị Tòa án tiến hành thu thập tài liệu, chứng cứ nhằm bảo đảm cho việc giải quyết vụ việc dân sự đúng đắn”.

Căn cứ quy định nêu trên, Tòa án yêu cầu cơ quan quản lý nhà nước về hợp tác xã để làm rõ tình hình hoạt động và xác định người đại diện theo pháp luật của hợp tác xã, tùy từng trường hợp xử lý như sau:

- Trường hợp hợp tác xã đang hoạt động, chưa có quyết định giải thể hay phá sản của cơ quan nhà nước có thẩm quyền thì người đại diện theo pháp luật của hợp tác xã là người tham gia tố tụng tại Tòa án khi giải quyết tranh chấp.

- Trường hợp hợp tác xã đã có quyết định giải thể mà việc xử lý tài sản chung (Luật hợp tác xã năm 2012 gọi là tài sản không chia) của hợp tác xã được giải quyết theo Điều 36 Luật hợp tác xã năm 2003 và giải quyết theo khoản 2 Điều 48 và theo Nghị định 193/2013/NĐ-CP của Chính phủ quy định chi tiết một số điều của Luật hợp tác xã năm 2012. Điều 21 của Nghị định quy định chi tiết việc xử lý tài sản không chia của hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã khi giải thể. Theo đó, khi giải thể hợp tác xã, một phần tài sản chung không được chia được giao cho chính quyền địa phương quản lý; phần tài sản chung còn lại (hình thành từ nguồn vốn, công sức của xã viên, quà biếu, tặng của các tổ chức, cá nhân) do đại hội xã viên quyết định việc chia hay không chia. Trường hợp giải thể, phá sản mà vốn, tài sản của hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã không đủ để thanh toán các khoản nợ thì hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã được sử dụng tài sản không chia để thanh toán các khoản nợ.

Vì vậy, trường hợp hợp tác xã đã giải thể mà có tranh chấp về tài sản thì Tòa án đình chỉ giải quyết vụ án.

- Trường hợp khi xác minh, xác định hợp tác xã chưa bị giải thể, chưa bị tuyên bố phá sản mà hợp tác xã không hoạt động trong 12 tháng liên tục thì theo quy định tại điểm a khoản 2 Điều 54 Luật hợp tác xã năm 2012, Ủy ban nhân dân cùng cấp với cơ quan nhà nước cấp Giấy chứng nhận đăng ký hợp tác xã phải ra quyết định giải thể hợp tác xã. Đối với trường hợp này, Tòa án căn cứ điểm d khoản 1 Điều 214 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 ra quyết định tạm đình chỉ giải quyết vụ án dân sự.

52. Trong thời gian tạm đình chỉ giải quyết vụ án mà một trong các bên đương sự có yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời thì Thẩm phán được phân công giải quyết vụ án có được xem xét, quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời không?

Căn cứ quy định tại khoản 4 Điều 48, Điều 112, khoản 4 Điều 215 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015, trường hợp trong thời gian tạm đình chỉ giải quyết vụ án mà một trong các bên đương sự có yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời thì Thẩm phán được phân công giải quyết vụ án có trách nhiệm xem xét, quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời.

53. Căn cứ để xác định trách nhiệm bồi thường do yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời không đúng quy định tại khoản 1 Điều 113 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015? Yêu cầu bồi thường thiệt hại do yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời không đúng có được giải quyết trong vụ án dân sự mà Tòa án đang giải quyết không?

 Khoản 1 Điều 113 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 quy định: Người yêu cầu Tòa án áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về yêu cầu của mình; trường hợp yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời không đúng mà gây thiệt hại cho người bị áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời hoặc cho người thứ ba thì phải bồi thường.”

Như vậy, người yêu cầu Tòa án áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về yêu cầu của mình, nếu yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời không đúng mà gây thiệt hại cho người bị áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời hoặc cho người thứ ba thì phải bồi thường. Đây là trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng được quy định tại Chương XXI của Bộ luật dân sự năm 2005, Chương XX của Bộ luật dân sự năm 2015.

Khi giải quyết yêu cầu đòi bồi thường thiệt hại do yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời không đúng, Tòa án phải căn cứ vào tài liệu, chứng cứ do đương sự xuất trình, do Tòa án thu thập đã được xem xét tại phiên tòa, kết quả tranh tụng tại phiên tòa để phân tích, đánh giá, nhận định đầy đủ, khách quan về yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời không đúng, về thiệt hại xảy ra đối với người bị áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời hoặc người thứ ba, mối quan hệ nhân quả giữa yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời không đúng với thiệt hại xảy ra cho người bị áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời hoặc người thứ ba và xác định thiệt hại, trên cơ sở đó xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại đối với người yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời không đúng.

Việc giải quyết vấn đề bồi thường do yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời không đúng được tiến hành cùng trong vụ án dân sự. Trường hợp đương sự không yêu cầu hoặc yêu cầu giải quyết vấn đề bồi thường thiệt hại mà chưa có điều kiện chứng minh thì yêu cầu bồi thường có thể tách ra để giải quyết bằng vụ án dân sự khác.

54. Trường hợp vụ án tranh chấp về thừa kế tài sản là nhà, đất mà các bên không thỏa thuận được giá trị di sản, mặc dù đã được Tòa án giải thích nhưng nguyên đơn và bị đơn đều khẳng định không yêu cầu đo đạc, định giá tài sản thì Tòa án giải quyết như thế nào?

Trường hợp vụ án tranh chấp về thừa kế tài sản là nhà, đất mà các bên không thỏa thuận được giá trị di sản, mặc dù đã được Tòa án giải thích nhưng nguyên đơn và bị đơn đều khẳng định không yêu cầu đo đạc, định giá tài sản thì Tòa án giải quyết như sau:

Căn cứ vào khoản 1 Điều 101 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015, trường hợp xét thấy cần thiết, Thẩm phán tiến hành việc xem xét, thẩm định tại chỗ với sự có mặt của đại diện Ủy ban nhân dân cấp xã hoặc Công an xã, phường, thị trấn hoặc cơ quan, tổ chức nơi có đối tượng cần xem xét, thẩm định và phải báo trước việc xem xét, thẩm định tại chỗ để đương sự biết và chứng kiến việc xem xét, thẩm định đó. Trường hợp này, nguyên đơn, người kháng cáo theo thủ tục phúc thẩm phải nộp tiền tạm ứng chi phí xem xét, thẩm định tại chỗ theo quy định tại khoản 2 Điều 156 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.

Căn cứ vào điểm b khoản 3 Điều 104 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015, trường hợp các đương sự không thỏa thuận được giá tài sản thì Tòa án ra quyết định định giá tài sản và thành lập Hội đồng định giá. Trường hợp này, nguyên đơn, người kháng cáo phải nộp tiền tạm ứng chi phí định giá tài sản theo quy định tại khoản 3 Điều 164 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.

55. Trường hợp đương sự từ chối nhận văn bản tố tụng, Tòa án đã lập biên bản về việc từ chốí đó thì Tòa án có phải niêm yết văn bản tố tụng đó theo quy định tại Điều 179 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 hay không?

Khoản 4 Điều 177 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 quy định: “Trường hợp người được cấp, tống đạt, thông báo từ chối nhận văn bản tố tụng thì người thực hiện việc cấp, tống đạt, thông báo phải lập biên bản trong đó nêu rõ lý do của việc từ chối, có xác nhận của đại diện tổ dân phố hoặc Công an xã, phường, thị trấn về việc người đó từ chối nhận văn bản tố tụng. Biên bản phải được lưu trong hồ sơ vụ án.”

Khoản 2 Điều 178 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 quy định: “Trường hợp người được cấp, tống đạt, thông báo từ chối nhận văn bản tố tụng hoặc vắng mặt thì thực hiện theo quy định tại khoản 4 và khoản 5 Điều 177 của Bộ luật này.”

Khoản 1 Điều 179 Bộ luật tố tụng năm 2015 quy định: “Việc niêm yết công khai văn bản tố tụng được thực hiện trong trường hợp không thể cấp, tống đạt, thông báo trực tiếp văn bản tố tụng theo quy định tại Điều 177 và Điều 178 của Bộ luật này.”

Theo các quy định nêu trên, trường hợp đương sự từ chối nhận văn bản mà người thực hiện tống đạt đã lập biên bản trong đó nêu lý do của việc từ chối, có xác nhận của đại diện tổ dân phố hoặc Công an xã, phường, thị trấn về việc đương sự từ chối nhận văn bản tố tụng thì Tòa án không phải niêm yết công khai văn bản tố tụng đó.

56. Trường hợp nguyên đơn đã nộp tiền tạm ứng chi phí giám định, chi phí định giá tài sản nhưng khi có kết luận giám định, kết quả định giá tài sản thì chi phí giám định, chi phí định giá tài sản cao hơn số tiền tạm ứng và Tòa án có yêu cầu nguyên đơn nộp bổ sung nhưng nguyên đơn không thực hiện thì Tòa án có căn cứ vào điểm đ khoản 1 Điều 217 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 để đình chỉ giải quyết vụ án không?

Điểm đ khoản 1 Điều 217 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 quy định Tòa án ra quyết định đình chỉ giải quyết vụ án dân sự trong trường hợp “Nguyên đơn không nộp tiền tạm ứng chi phí định giá tài sản và chi phí tố tụng khác theo quy định của Bộ luật này”.

Như vậy, trường hợp nguyên đơn đã nộp tiền tạm ứng chi phí giám định, chi phí định giá tài sản nhưng khi có kết luận giám định, kết quả định giá tài sản thì chi phí giám định, chi phí định giá tài sản cao hơn số tiền tạm ứng và Tòa án có yêu cầu nguyên đơn nộp bổ sung nhưng nguyên đơn không thực hiện thì không phải là căn cứ đình chỉ giải quyết vụ án quy định tại điểm đ khoản 1 Điều 217 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015. Việc xử lý tiền tạm ứng chi phí định giá tài sản, chi phí giám định được thực hiện theo quy định tại Điều 162 và Điều 166 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.

57. Khoản 3 Điều 200 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 quy định về quyền phản tố của bị đơn "bị đơn có quyền phản tố trước thời điểm mở phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hoà giải". Vậy sau khi Tòa án tiến hành mở phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hoà giải thì bị đơn có được quyền phản tố nữa không?

Khoản 3 Điều 200 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 đã quy định rõ quyền phản tố của bị đơn là trước thời điểm mở phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải. Do vậy, tại phiên họp và sau phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hoà giải thì bị đơn không được quyền phản tố nữa.

58. Khoản 3 Điều 200 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 quy định: “Bị đơn có quyền đưa ra yêu cầu phản tố trước thời điểm mở phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải”. Vậy trong vụ án có tiến hành nhiều lần hòa giải thì bị đơn được quyền đưa ra yêu cầu phản tố trước lần hòa giải đầu tiên hay trước lần hòa giải sau cùng?

Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 không quy định số lần mở phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải. Tuy nhiên, bị đơn chỉ có quyền đưa ra yêu cầu phản tố trước thời điểm mở phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải đầu tiên.

59. Vụ án dân sự được thụ lý trước ngày 01-7-2016 mà Tòa án đã tiến hành hòa giải theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2004 và đã có quyết định đưa vụ án ra xét xử thì Tòa án có phải mở phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải theo các điều từ 208 đến 211 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 hay không?

Khoản 1 Điều 1 Nghị quyết số 103/2015/QH13 ngày 25-11-2015 của Quốc hội về việc thi hành Bộ luật tố tụng dân sự quy định: “Đối với những vụ việc dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động đã được Tòa án thụ lý trước ngày 01 tháng 7 năm 2016, nhưng kể từ ngày 01 tháng 7 năm 2016 mới giải quyết theo thủ tục sơ thẩm thì áp dụng các quy định của Bộ luật này để giải quyết”.

Khoản 1 Điều 1 Nghị quyết số 02/2016/NQ-HĐTP ngày 30-6-2016 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn thi hành một số quy định của Nghị quyết số 103/2015/QH13 ngày 25-11-2015 của Quốc hội về việc thi hành Bộ luật tố tụng dân sự và Nghị quyết số 104/2015/QH13 ngày 25-11-2015 của Quốc hội về việc thi hành Luật tố tụng hành chính quy định: “Kể từ ngày Bộ luật tố tụng dân sự số 92/2015/QH13 có hiệu lực thi hành (ngày 01-7-2016), Tòa án áp dụng các quy định tại các khoản 1, 2 và 3 Điều 1 Nghị quyết số 103/2015/QH13 để giải quyết theo thủ tục sơ thẩm, phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm những vụ việc dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động, trừ các trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 517 Bộ luật tố tụng dân sự số 92/2015/QH13 thì được áp dụng từ ngày 01-01-2017”.

Căn cứ vào các quy định và hướng dẫn nêu trên, trường hợp vụ án dân sự được thụ lý trước ngày 01-7-2016 mà Tòa án đã tiến hành thủ tục hòa giải trước ngày 01-7-2016 theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2004, đã có quyết định đưa vụ án ra xét xử trong đó ấn định ngày mở phiên tòa vào ngày Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 đã có hiệu lực thi hành thì Tòa án áp dụng các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 về phiên tòa sơ thẩm để tiếp tục giải quyết vụ án mà không được trở lại thủ tục hòa giải và chuẩn bị xét xử để mở phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải theo các điều 208, 209, 210 và 211 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.

60. Trường hợp Tòa án tiến hành nhiều lần hòa giải thì mỗi lần hòa giải Tòa án có bắt buộc phải tiến hành thêm thủ tục kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ không? Tòa án có được hòa giải mà không tiến hành thêm thủ tục kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ không?

Trường hợp Tòa án tiến hành nhiều lần hòa giải thì mỗi lần hòa giải Tòa án đều phải tiến hành theo đúng trình tự phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải quy định tại Điều 210 Bộ luật dân sự năm 2015. Tòa án không được tiến hành thủ tục hòa giải mà không kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ.

Theo quy định tại khoản 2 Điều 208 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015, trường hợp vụ án dân sự không được hòa giải hoặc không tiến hành hòa giải được quy định tại Điều 206 và Điều 207 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 thì Thẩm phán tiến hành phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ mà không tiến hành hòa giải.

61. Khoản 1 Điều 212 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 quy định: “Hết thời hạn 07 ngày, kể từ ngày lập biên bản hòa giải thành mà không có đương sự nào thay đổi ý kiến về sự thoả thuận đó thì Thẩm phán chủ trì phiên hòa giải hoặc một Thẩm phán được Chánh án Tòa án phân công phải ra quyết định công nhận sự thoả thuận của các đương sự”. Vậy đến ngày thứ 09, kể từ ngày lập biên bản hòa giải thành mà không có đương sự nào thay đổi ý kiến, Thẩm phán mới ra quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự thì có vi phạm thủ tục tố tụng do chậm ra quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự không?

Khoản 3 Điều 203 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 quy định: “Trong thời hạn chuẩn bị xét xử quy định tại khoản 1 Điều này, tuỳ từng trường hợp, Thẩm phán ra một trong các quyết định sau đây: a) Công nhận sự thoả thuận của các đương sự; b) Tạm đình chỉ giải quyết vụ án dân sự; c) Đình chỉ giải quyết vụ án dân sự; d) Đưa vụ án ra xét xử.”

Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 không quy định hết thời hạn 07 ngày, kể từ ngày lập biên bản hòa giải thành mà không có đương sự nào thay đổi ý kiến về sự thoả thuận đó thì trong thời hạn bao nhiêu ngày Thẩm phán phải ra quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự. Tuy nhiên, quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự phải được ban hành trong thời hạn chuẩn bị xét xử theo quy định tại khoản 3 Điều 203 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015. Do vậy, đến ngày thứ 09, kể từ ngày lập biên bản hòa giải thành mà không có đương sự nào thay đổi ý kiến, Thẩm phán mới ra quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự mà vẫn trong thời hạn chuẩn bị xét xử thì không bị coi là vi phạm thủ tục tố tụng.

62. Trường hợp người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đã được triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai mà vẫn cố tình vắng mặt và việc tiến hành phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải có ảnh hưởng đến quyền và nghĩa vụ của họ thì Tòa án có tiến hành hòa giải vắng mặt họ không?

Trường hợp người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đã được triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai mà vẫn cố tình vắng mặt và việc tiến hành phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải có ảnh hưởng đến quyền và nghĩa vụ của họ thì căn cứ vào khoản 2 Điều 208 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015, Thẩm phán tiến hành phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ mà không tiến hành hòa giải.

63. Trong quá trình giải quyết vụ án ly hôn, sau khi hòa giải vợ chồng thống nhất đoàn tụ thì Toà án ra quyết định hoà giải thành hay ra quyết định đình chỉ giải quyết vụ án?

Đối với trường hợp này, nếu qua hòa giải mà nguyên đơn rút đơn khởi kiện thì Tòa án căn cứ điểm c khoản 1 Điều 217 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 quyết định đình chỉ giải quyết vụ án; nếu vợ chồng thống nhất đoàn tụ nhưng nguyên đơn không rút đơn khởi kiện thì Tòa án áp dụng tương tự quy định tại khoản 3 Điều 397 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 để đình chỉ giải quyết vụ án[7].

64. Trong vụ án có nhiều đương sự, nếu có một đương sự là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đề nghị không tiến hành hòa giải thì có thuộc trường hợp vụ án dân sự không hòa giải được theo quy định tại khoản 4 Điều 207 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 không?

Trong vụ án có nhiều đương sự, nếu có một đương sự là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đề nghị không tiến hành hòa giải thì căn cứ vào khoản 2 Điều 208 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015, Thẩm phán tiến hành phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải đối với phần nội dung của vụ án liên quan đến quyền và nghĩa vụ của các đương sự khác trong vụ án nhưng không tiến hành hòa giải đối với phần nội dung của vụ án liên quan đến quyền và nghĩa vụ của người đề nghị không tiến hành hòa giải.

65. Vụ án dân sự đang tạm đình chỉ, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập rút yêu cầu, Tòa án tiếp tục giải quyết vụ án để đình chỉ đối với yêu cầu đã rút hay chờ đến khi lý do tạm đình chỉ vụ án không còn, mới giải quyết trong cùng vụ án và ghi rõ trong phần nhận định của bản án về việc rút yêu cầu đó?

Điều 216 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 về quyết định tiếp tục giải quyết vụ án dân sự quy định:

“Trong thời hạn 03 ngày làm việc, kể từ ngày lý do tạm đình chỉ giải quyết vụ án quy định tại Điều 214 của Bộ luật này không còn thì Tòa án phải ra quyết định tiếp tục giải quyết vụ án dân sự và gửi quyết định đó cho đương sự, cơ quan, tổ chức, cá nhân khởi kiện, Viện kiểm sát cùng cấp.

Quyết định tạm đình chỉ giải quyết vụ án dân sự hết hiệu lực kể từ ngày ban hành quyết định tiếp tục giải quyết vụ án dân sự. Tòa án tiếp tục giải quyết vụ án kể từ khi ban hành quyết định tiếp tục giải quyết vụ án dân sự.”

Theo quy định nêu trên, Tòa án tiếp tục giải quyết vụ án khi lý do của việc tạm đình chỉ không còn. Vì vậy, trường hợp vụ án dân sự đang tạm đình chỉ mà người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập rút yêu cầu, Tòa án xem xét giải quyết việc rút yêu cầu này khi lý do tạm đình chỉ vụ án không còn và Tòa án tiếp tục giải quyết vụ án. Việc xem xét giải quyết rút yêu cầu của người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập phải được ghi rõ trong bản án, quyết định giải quyết vụ án.

66. Trường hợp tại phiên tòa sơ thẩm, đương sự thay đổi, bổ sung yêu cầu thì trình tự, thủ tục giải quyết yêu cầu đó như thế nào? Đương sự có phải làm lại đơn khởi kiện, đơn yêu cầu phản tố, đơn yêu cầu độc lập và có phải nộp tiền tạm ứng án phí đối với phần yêu cầu thay đổi, bổ sung đó không?

Căn cứ quy định tại khoản 3 Điều 235, khoản 1 Điều 236, khoản 1 Điều 244 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015, việc thay đổi, bổ sung yêu cầu của đương sự tại phiên toà chỉ được Hội đồng xét xử chấp nhận nếu việc thay đổi, bổ sung yêu cầu của họ không vượt quá phạm vi yêu cầu khởi kiện, yêu cầu phản tố hoặc yêu cầu độc lập ban đầu được thể hiện trong đơn khởi kiện của nguyên đơn, đơn phản tố của bị đơn, đơn yêu cầu độc lập của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan.

Tại phần thủ tục bắt đầu phiên tòa, khi được Chủ tọa hỏi có thay đổi, bổ sung yêu cầu khởi kiện, yêu cầu phản tố, yêu cầu độc lập hay không thì đương sự có quyền trình bày về việc thay đổi, bổ sung yêu cầu mà không phải làm lại đơn khởi kiện, đơn yêu cầu phản tố, đơn yêu cầu độc lập và không phải nộp tiền tạm ứng án phí đối với phần yêu cầu thay đổi, bổ sung đó. Việc thay đổi, bổ sung yêu cầu của đương sự phải được ghi vào biên bản phiên toà. Trường hợp Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu thay đổi, bổ sung của đương sự thì phải ghi rõ trong bản án.

67. Việc đánh giá tình trạng sức khỏe của người tham gia tố tụng để tạm ngừng phiên tòa theo quy định tại điểm b khoản 1 Điều 259 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 phải căn cứ theo giấy khám sức khỏe của cơ quan chuyên môn hay do Hội đồng xét xử căn cứ vào tình hình sức khỏe của đương sự tại phiên tòa để từ đó quyết định tạm ngừng phiên tòa?

Khoản 1 Điều 259 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 quy định các căn cứ tạm ngừng phiên tòa. Theo đó, trong quá trình xét xử, Hội đồng xét xử có quyền quyết định tạm ngừng phiên tòa khi có căn cứ: Do tình trạng sức khỏe hoặc do sự kiện bất khả kháng, trở ngại khách quan khác mà người tham gia tố tụng không thể tiếp tục tham gia phiên tòa, trừ trường hợp người tham gia tố tụng có yêu cầu xét xử vắng mặt”.

Việc tạm ngừng phiên tòa được Hội đồng xét xử quyết định trong quá trình xét xử. Vì vậy, tùy từng trường hợp cụ thể mà việc đánh giá tình trạng sức khỏe của người tham gia tố tụng có thể tiếp tục tham gia phiên tòa hay không do Hội đồng xét xử căn cứ vào tình trạng sức khỏe thực tế của người tham gia tố tụng tại tại phiên tòa hoặc theo xác nhận của cơ quan chuyên môn để quyết định tạm ngừng phiên tòa.

68. Trường hợp đương sự vắng mặt tại phiên tòa phúc thẩm nhưng người đại diện theo ủy quyền của đương sự có mặt thì Tòa án có phải hoãn phiên tòa theo quy định tại khoản 2 Điều 296 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 không?

Khoản 2 Điều 86 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 quy định: “Người đại diện theo ủy quyền trong tố tụng dân sự thực hiện quyền, nghĩa vụ tố tụng dân sự của đương sự theo nội dung văn bản ủy quyền”. Do vậy, việc đương sự vắng mặt tại phiên tòa phúc thẩm nhưng người đại diện theo ủy quyền của đương sự có mặt mà theo văn bản ủy quyền, người đại diện được thực hiện đầy đủ các quyền, nghĩa vụ của đương sự tại phiên tòa thì Tòa án vẫn tiến hành phiên tòa phúc thẩm mà không hoãn phiên tòa theo quy định tại khoản 2 Điều 296 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.

69. Trường hợp vụ án được xét xử lại theo thủ tục sơ thẩm sau khi có quyết định giám đốc thẩm, tái thẩm mà nguyên đơn rút đơn khởi kiện thì Tòa án giải quyết thế nào?

Khoản 4 Điều 217 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 quy định: trường hợp vụ án được xét xử lại theo thủ tục sơ thẩm sau khi có quyết định giám đốc thẩm, tái thẩm mà nguyên đơn rút đơn khởi kiện thì việc đình chỉ giải quyết vụ án phải có sự đồng ý của bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan. Trường hợp bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không đồng ý thì Tòa án không ra quyết định đình chỉ giải quyết vụ án mà phải giải quyết vụ án theo thủ tục chung. Trường hợp bị đơn hoặc người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đã được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai mà vẫn vắng mặt, không đến Tòa án và cũng không có ý kiến gì về việc nguyên đơn rút đơn thì được coi là đồng ý với việc rút đơn của nguyên đơn và Tòa án ra quyết định đình chỉ giải quyết vụ án; đồng thời phải giải quyết hậu quả của việc thi hành án, các vấn đề khác có liên quan (nếu có).

70. Sau khi có quyết định đưa vụ án ra xét xử, trước khi mở phiên tòa thì việc đình chỉ giải quyết vụ án dân sự, tạm đình chỉ giải quyết vụ án dân sự thuộc thẩm quyền của Hội đồng xét xử hay của Thẩm phán được phân công giải quyết vụ án dân sự?

Điều 219 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 quy định: 1. Trước khi mở phiên tòa, Thẩm phán được phân công giải quyết vụ án dân sự có thẩm quyền ra quyết định tạm đình chỉ giải quyết vụ án dân sự, quyết định tiếp tục giải quyết vụ án dân sự, quyết định đình chỉ giải quyết vụ án dân sự.

2. Tại phiên tòa, Hội đồng xét xử có thẩm quyền ra quyết định tạm đình chỉ giải quyết vụ án dân sự, quyết định tiếp tục giải quyết vụ án dân sự, quyết định đình chỉ giải quyết vụ án dân sự”.

Theo quy định nêu trên thì việc đình chỉ giải quyết vụ án dân sự, tạm đình chỉ giải quyết vụ án dân sự trước khi mở phiên tòa thuộc thẩm quyền của Thẩm phán được phân công giải quyết vụ án dân sự; việc đình chỉ giải quyết vụ án dân sự, tạm đình chỉ giải quyết vụ án dân sự tại phiên tòa thuộc thẩm quyền của Hội đồng xét xử.

71. Điều 268 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 chỉ quy định về sửa chữa, bổ sung bản án. Trường hợp Quyết định công nhận thỏa thuận, Quyết định đình chỉ (kể cả Quyết định của Hội đồng xét xử ban hành) có sai sót về chính tả mà không được đính chính, sẽ dẫn đến Cơ quan thi hành án không thi hành được và thuộc trường hợp bản án, quyết định tuyên không rõ, gây khó khăn cho công tác thi hành án. Đối với trường hợp này, Tòa án có được sửa chữa, bổ sung những quyết định này theo quy định Điều 486 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015, Điều 310 Luật tố tụng hành chính năm 2015 hay không?

Theo quy định tại Điều 268 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 thì chỉ quy định về việc sửa chữa, bổ sung bản án mà không quy định về việc Toà án có quyền sửa chữa, bổ sung các quyết định đình chỉ, quyết định tạm đình chỉ, quyết định công nhận sự thoả thuận của các đương sự, quyết định giám đốc thẩm, quyết định tái thẩm. Tuy nhiên, Điều 486 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 quy định về giải thích, sửa chữa bản án, quyết định của Tòa án nên không phân biệt bản án hay quyết định; bản án, quyết định do Thẩm phán hay do Hội đồng xét xử ban hành. Trường hợp có sai sót rõ ràng về chính tả thì Thẩm phán ký ban hành quyết định hoặc Thẩm phán chủ tọa phiên tòa thông báo sửa chữa, bổ sung bản án, quyết định.

72. Điểm b khoản 1 Điều 478 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 quy định: “Giấy tờ, tài liệu đó được miễn hợp pháp hóa lãnh sự theo quy định của pháp luật Việt Nam hoặc điều ước quốc tế mà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên”. Vậy, giấy tờ, tài liệu được miễn hợp pháp hóa lãnh sự là những loại giấy tờ nào? Đề nghị nêu ví dụ cụ thể?

Khoản 1 Điều 7 Luật tương trợ tư pháp năm 2008 quy định: “Hợp pháp hóa lãnh sự là việc Bộ Ngoại giao, cơ quan đại diện ngoại giao, cơ quan lãnh sự của Việt Nam hoặc cơ quan khác ở nước ngoài được ủy quyền thực hiện chức năng lãnh sự chứng nhận chữ ký, con dấu trên giấy tờ, tài liệu do cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài lập, cấp hoặc xác nhận để sử dụng ở Việt Nam”.

Khoản 2 Điều 2 của Nghị định số 111/2011/NĐ-CP ngày 05-12-2011 của Chính phủ về chứng nhận lãnh sự, hợp pháp hóa lãnh sự quy định: “Hợp pháp hóa lãnh sự” là việc cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam chứng nhận con dấu, chữ ký, chức danh trên giấy tờ, tài liệu của nước ngoài để giấy tờ, tài liệu đó được công nhận và sử dụng tại Việt Nam.”

Điều 9 của Nghị định số 111/2011/NĐ-CP quy định các giấy tờ tài liệu được miễn chứng nhận lãnh sự, hợp pháp hóa lãnh sự:

“1. Giấy tờ, tài liệu được miễn chứng nhận lãnh sự, hợp pháp hóa lãnh sự theo điều ước quốc tế mà Việt Nam và nước ngoài liên quan đều là thành viên, hoặc theo nguyên tắc có đi có lại.

2. Giấy tờ, tài liệu được chuyển giao trực tiếp hoặc qua đường ngoại giao giữa cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam và cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài.

3. Giấy tờ, tài liệu được miễn chứng nhận lãnh sự, hợp pháp hóa lãnh sự theo quy định của pháp luật Việt Nam.

4. Giấy tờ, tài liệu mà cơ quan tiếp nhận của Việt Nam hoặc của nước ngoài không yêu cầu phải hợp pháp hóa lãnh sự, chứng nhận lãnh sự phù hợp với quy định pháp luật tương ứng của Việt Nam hoặc của nước ngoài.”[8]

Điểm b khoản 1 Điều 478 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 quy định Tòa án Việt Nam công nhận giấy tờ, tài liệu do cơ quan, tổ chức có thẩm quyền nước ngoài lập, cấp, xác nhận trong trường hợp: Giấy tờ, tài liệu đó được miễn hợp pháp hóa lãnh sự theo quy định của pháp luật Việt Nam hoặc điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên”. Theo đó, Tòa án Việt Nam công nhận giấy tờ, tài liệu do cơ quan, tổ chức có thẩm quyền lập, cấp, xác nhận trong trường hợp giấy tờ, tài liệu đó được miễn hợp pháp hóa lãnh sự theo điều ước quốc tế mà Việt Nam và nước ngoài liên quan đều là thành viên hoặc theo nguyên tắc có đi có lại; giấy tờ, tài liệu được giao trực tiếp hoặc qua con đường ngoại giao giữa cơ quan có thẩm quyền Việt Nam và cơ quan có thẩm quyền nước ngoài; giấy tờ, tài liệu khác được miễn hợp pháp hóa lãnh sự theo quy định của pháp luật Việt Nam.

Ví dụ 1: Các loại giấy tờ sử dụng để đăng ký khai sinh, giải quyết các việc kết hôn, nhận cha, mẹ, con có yếu tố nước ngoài, khai tử cho người nước ngoài cư trú ổn định tại khu vực biên giới do Cơ quan nhà nước có thẩm quyền của nước láng giềng (Cộng hòa nhân dân Trung Hoa, Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào, Vương quốc Căm-pu-chia) lập, cấp hoặc xác nhận thì được miễn hợp pháp hóa lãnh sự. (Theo quy định tại Điều 4 Nghị định 24/2013/NĐ-CP ngày 28-3-2013 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật hôn nhân và gia đình về quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài quy định: …Giấy tờ do cơ quan có thẩm quyền của nước láng giềng lập, cấp hoặc xác nhận để sử dụng giải quyết các việc hôn nhân và gia đình theo quy định tại Chương IV của Nghị định này được miễn hợp pháp hóa lãnh sự”).

Ví dụ 2: Các loại giấy tờ dân sự, hôn nhân gia đình, hình sự do cơ quan có thẩm quyền của nước Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào cấp và có xác nhận đúng theo quy định của pháp luật nước này thì được miễn hợp pháp hóa lãnh sự (Theo quy định tại khoản 1 Điều 12 Hiệp định tương trợ tư pháp về dân sự và hình sự giữa nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam và nước Cộng hoà dân chủ nhân dân Lào ký kết ngày 06-7-1998 quy định: “Tài liệu do cơ quan có thẩm quyền của Nước ký kết này cấp và có xác nhận đúng theo quy định của pháp luật của Nước ký kết này thì được miễn hợp pháp hoá lãnh sự hoặc xác nhận của cơ quan công chứng khi sử dụng ở Nước ký kết kia.”).

Ví dụ 3: Các loại giấy tờ dân sự, hôn nhân gia đình, hình sự của cơ quan nhà nước có thẩm quyền của Vương quốc Căm-pu-chia lập, cấp được miễn hợp pháp hóa lãnh sự theo nguyên tắc có đi có lại.

73. Trường hợp Tòa án đình chỉ giải quyết vụ án mà có đương sự ở nước ngoài thì chi phí ủy thác tư pháp tống đạt quyết định đình chỉ cho đương sự ở nước ngoài do ai chi trả?

Theo quy định tại khoản 2 Điều 16 Luật tương trợ tư pháp năm 2007, khoản 3 Điều 3 của Nghị định 92/NĐ-CP ngày 22-8-2008 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật tương trợ tư pháp năm 2007 và các điều 151, 152, 153, 154 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 thì cá nhân, tổ chức Việt Nam yêu cầu cơ quan nhà nước có thẩm quyền của Việt Nam giải quyết vụ việc dân sự làm phát sinh yêu cầu ủy thác tư pháp ra nước ngoài phải trả chi phí thực hiện ủy thác tư pháp về dân sự, trừ cá nhân được hỗ trợ phí theo quy định tại Điều 4 của Nghị định 92/NĐ-CP.

Khoản 4 Điều 153 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 quy định nghĩa vụ chịu ủy thác tư pháp ra nước ngoài quy định: Trường hợp đình chỉ giải quyết vụ án quy định tại điểm c khoản 1 Điều 217, điểm b khoản 1 Điều 299 của Bộ luật này thì nguyên đơn phải chịu chi phí ủy thác tư pháp ra nước ngoài”.

Như vậy, người yêu cầu giải quyết vụ việc dân sự làm phát sinh yêu cầu ủy thác tư pháp ra nước ngoài phải trả chi phí thực hiện ủy thác tư pháp về dân sự.

Tuy nhiên, khoản 3 Điều 217 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 quy định:

“Trong thời hạn 03 ngày làm việc, kể từ ngày ra quyết định đình chỉ giải quyết vụ án dân sự, Tòa án phải gửi quyết định đó cho đương sự, cơ quan, tổ chức, cá nhân khởi kiện và Viện kiểm sát cùng cấp.”

Với quy định này, việc gửi quyết định đình chỉ giải quyết vụ án cho đương sự là trách nhiệm của Tòa án.

Tại khoản 1 và khoản 2 Điều 5 về bảo đảm kinh phí của nhà nước thực hiện tương trợ tư pháp của Nghị định 92/2008/NĐ-CP nêu trên quy định:

1. Chi phí của Nhà nước trong thực hiện tương trợ tư pháp về dân sự, hình sự, dẫn độ và chuyển giao người đang chấp hành hình phạt tù do ngân sách nhà nước bảo đảm.

2. Cơ quan có thẩm quyền thực hiện tương trợ tư pháp về dân sự, hình sự, dẫn độ và chuyển giao người đang chấp hành hình phạt tù có trách nhiệm lập dự toán kinh phí ngân sách nhà nước cho hoạt động tương trợ tư pháp thuộc lĩnh vực quản lý của mình theo các quy định của pháp luật về ngân sách nhà nước và các văn bản liên quan.”

Điều 2, Điều 3 và Điều 5 của Thông tư số 144/2012/TT-BTC ngày 04-9-2012 của Bộ Tài chính quy định việc lập dự toán, quản lý, sử dụng và quyết toán kinh phí bảo đảm cho công tác tương trợ tư pháp, nội dung chi hỗ trợ công tác tương trợ tư pháp và lập dự toán, quản lý, sử dụng và quyết toán kinh phí bảo đảm công tác tương trợ tư pháp[9].

Như vậy, Tòa án có trách nhiệm gửi quyết định đình chỉ giải quyết vụ án cho đương sự là người nước ngoài đang ở nước ngoài. Chi phí ủy thác tư pháp gửi quyết định đình chỉ trong trường hợp này được lấy từ ngân sách Nhà nước.

74. Điểm b khoản 1 Điều 472 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 quy định: “Tòa án Việt Nam phải trả lại đơn khởi kiện, đơn yêu cầu hoặc đình chỉ giải quyết vụ việc dân sự có yếu tố nước ngoài nếu vụ việc dân sự thuộc thẩm quyền chung của Tòa án Việt Nam nhưng không thuộc thẩm quyền riêng biệt của Tòa án Việt Nam quy định tại Điều 470 của Bộ luật này và vụ việc thuộc thẩm quyền riêng biệt của Tòa án nước ngoài có liên quan”. Vậy làm thế nào để xác định được vụ việc đó thuộc thẩm quyền riêng biệt của Tòa án nước ngoài?

Tòa án Việt Nam phải trả lại đơn khởi kiện, đơn yêu cầu hoặc đình chỉ giải quyết vụ việc dân sự có yếu tố nước ngoài nếu vụ việc dân sự thuộc thẩm quyền chung của Tòa án Việt Nam và có đủ hai điều kiện:

(1) Không thuộc thẩm quyền riêng biệt của Tòa án Việt Nam quy định tại Điều 470 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015;

(2) Vụ việc thuộc thẩm quyền riêng biệt của Tòa án nước ngoài có liên quan.

Để xác định vụ việc thuộc thẩm quyền riêng biệt của Tòa án nước ngoài phải tùy thuộc vào từng trường hợp cụ thể, trên cơ sở đánh giá nội dung yêu cầu, tài liệu, chứng cứ do người khởi kiện, người bị kiện, người yêu cầu, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan cung cấp, xuất trình. Nếu trước khi thụ lý, xác định được vụ việc dân sự thuộc thẩm quyền riêng của Tòa án nước ngoài thì Tòa án Việt Nam trả lại đơn khởi kiện, đơn yêu cầu; nếu sau khi thụ lý mới xác định được vụ việc dân sự thuộc thẩm quyền riêng của Tòa án nước ngoài thì Tòa án Việt Nam đình chỉ giải quyết vụ việc, trả lại đơn khởi kiện, đơn yêu cầu, tài liệu, chứng cứ kèm theo và giải quyết các vấn đề khác có liên quan.

75. Đối với những vụ án có khiếu nại, tố cáo, đương sự có đơn yêu cầu thay đổi Thẩm phán thì trong thời gian chờ giải quyết khiếu nại, tố cáo hoặc xem xét việc thay đổi Thẩm phán thì Thẩm phán đang bị khiếu nại có được tiến hành các thủ tục tố tụng khác của vụ án đó không?

Để bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự và bảo đảm vụ án được giải quyết đúng thời hạn luật định, tránh việc đương sự lạm dụng quyền khiếu nại, tố cáo làm kéo dài thời gian giải quyết vụ án, các điều 500, 501 và 511 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 quy định về quyền, nghĩa vụ của người khiếu nại; quyền, nghĩa vụ của người bị khiếu nại và quyền, nghĩa vụ của người bị tố cáo, theo đó:

- Người khiếu nại có nghĩa vụ chấp hành quyết định, hành vi của người tiến hành tố tụng mà mình đang khiếu nại trong thời gian khiếu nại và chấp hành nghiêm chỉnh quyết định giải quyết khiếu nại đã có hiệu lực pháp luật.

- Người bị khiếu nại có nghĩa vụ chấp hành nghiêm chỉnh quyết định giải quyết khiếu nại đã có hiệu lực pháp luật.

- Người bị tố cáo có nghĩa vụ chấp hành nghiêm chỉnh quyết định xử lý của cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền.

Như vậy, đối với những vụ án có khiếu nại, tố cáo, đương sự có đơn yêu cầu thay đổi Thẩm phán thì trong thời gian chờ giải quyết khiếu nại, tố cáo hoặc xem xét việc thay đổi Thẩm phán thì cần lưu ý phân biệt:

- Trường hợp đương sự khiếu nại về quyết định, hành vi tố tụng của Thẩm phán mà không yêu cầu xin thay đổi Thẩm phán thì Thẩm phán đó vẫn tiếp tục tiến hành các thủ tục tố tụng giải quyết vụ án trong thời gian giải quyết khiếu nại.

- Trường hợp đương sự có yêu cầu thay đổi Thẩm phán, trong thời gian người có thẩm quyền xem xét yêu cầu thay đổi Thẩm phán thì Thẩm phán tạm ngừng các hoạt động tiến hành tố tụng giải quyết vụ án. Nếu người có thẩm quyền quyết định không chấp nhận yêu cầu thay đổi Thẩm phán thì Thẩm phán tiếp tục tiến hành tố tụng giải quyết vụ án; nếu người có thẩm quyền đã có quyết định không chấp nhận yêu cầu xin thay đổi Thẩm phán mà đương sự khiếu nại quyết định không chấp nhận yêu cầu xin thay đổi Thẩm phán thì Thẩm phán đó vẫn được tiến hành thủ tục tố tụng giải quyết vụ án trong thời gian chờ giải quyết khiếu nại về quyết định không chấp nhận yêu cầu thay đổi Thẩm phán.

- Trường hợp Thẩm phán bị tố cáo hành vi vi phạm pháp luật trong tiến hành tố tụng thì Thẩm phán đó vẫn được tiến hành tố tụng trong thời gian chờ giải quyết tố cáo.

76. Khi Tòa án đang giải quyết khiếu nại về việc trả lại đơn khởi kiện, người khiếu nại rút đơn khiếu nại trước khi Tòa án mở phiên họp giải quyết việc khiếu nại. Trường hợp này, Tòa án có phải mở phiên họp để giải quyết việc khiếu nại hay không?

Việc giải quyết khiếu nại về việc trả lại đơn khởi kiện được thực hiện theo quy định tại Điều 194 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015; theo đó, trong thời hạn 05 ngày làm việc kể từ ngày được phân công giải quyết khiếu nại Thẩm phán phải mở phiên họp giải quyết có sự tham gia của Viện kiểm sát nhân dân cùng cấp và người có khiếu nại. Tuy nhiên, Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 không có quy định cụ thể về trình tự, thủ tục giải quyết đối với trường hợp người khiếu nại rút đơn khiếu nại trước khi mở phiên họp. Để bảo đảm nguyên tắc quyền quyết định và tự định đoạt của đương sự trong tố tụng dân sự, đối với trường hợp này nếu đã có đủ căn cứ để xác định người khiếu nại rút khiếu nại thì Tòa án dừng việc xem xét, giải quyết khiếu nại và thông báo bằng văn bản cho người khiếu nại, Viện kiểm sát nhân dân cùng cấp. Trường hợp cần phải mở phiên họp để kiểm tra lại việc rút khiếu nại của người khiếu nại thì Thẩm phán được phân công mở phiên họp theo quy định tại khoản 3 Điều 194 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 và quyết định về việc giải quyết khiếu nại.

77. Bản án hôn nhân và gia đình có hiệu lực pháp luật đã chia tài sản chung là nhà, đất cho vợ, chồng nhưng vợ, chồng chưa phân chia ranh giới, vợ chết, chồng vẫn quản lý nhà, đất. Nay các con khởi kiện yêu cầu chia di sản thừa kế của cha, mẹ. Tuy nhiên, khi Tòa án định giá tài sản thì không xác định được ranh giới về nhà đất giữa vợ, chồng. Ngoài ra trong quá trình quản lý, sử dụng người chồng cũng lấn chiếm đất của hợp tác xã, Tòa án cũng không xác định được ranh giới giữa nhà đất là tài sản chung vợ, chồng và đất lấn chiếm. Như vậy, căn cứ vào đâu để định giá tài sản, xác định diện tích lấn chiếm của hợp tác xã?

Trong quá trình Tòa án giải quyết vụ án dân sự, đương sự có quyền và nghĩa vụ giao nộp tài liệu, chứng cứ cho Tòa án. Trường hợp tài liệu, chứng cứ đã được giao nộp nhưng chưa bảo đảm đủ cơ sở để giải quyết vụ án thì Thẩm phán yêu cầu đương sự giao nộp bổ sung tài liệu, chứng cứ. Nếu đương sự không giao nộp hoặc giao nộp không đầy đủ tài liệu, chứng cứ do Tòa án yêu cầu mà không có lý do chính đáng thì Tòa án căn cứ vào tài liệu, chứng cứ mà đương sự đã giao nộp và Tòa án đã thu thập theo quy định tại Điều 97 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 để giải quyết.

Trường hợp có yêu cầu của đương sự hoặc khi xét thấy cần thiết, Tòa án ra quyết định yêu cầu cơ quan đang quản lý, lưu giữ cung cấp tài liệu, chứng cứ về nhà, đất có tranh chấp cho Tòa án. Trong quá trình giải quyết vụ án chia thừa kế, Tòa án phải căn cứ vào tài liệu, chứng cứ, hiện trạng nhà đất do đương sự xuất trình; tài liệu, chứng cứ mà Tòa án thu thập được, bản án đã có hiệu lực pháp luật trong vụ án ly hôn trước đây đã chia tài sản chung của vợ chồng để xác định cần định giá tài sản nào và ghi rõ trong quyết định định giá tài sản và thành lập Hội đồng định giá tài sản. Hội đồng định giá tài sản định giá đối với tài sản ghi trong quyết định định giá tài sản và thành lập Hội đồng định giá tài sản.

Tòa án căn cứ vào tài liệu, chứng cứ do đương sự xuất trình, kết quả tranh tụng trong quá trình giải quyết vụ án mà phân tích, đánh giá, xác định di sản của mỗi người chết để lại, diện tích đất lấn chiếm của hợp tác để giải quyết vụ án.

78. Theo quy định tại khoản 3 Điều 208 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 thì khi thụ lý vụ án hôn nhân và gia đình có liên quan đến con chưa thành niên hoặc trong trường hợp các đương sự thuận tình ly hôn và thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết vụ án, Tòa án có cần phải thu thập chứng cứ theo quy định trên hay không?

Khoản 3 Điều 208 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 quy định: “Đối với vụ án hôn nhân và gia đình liên quan đến người chưa thành niên, trước khi mở phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải giữa các đương sự thì Thẩm phán, Thẩm tra viên được Chánh án Tòa án phân công phải thu thập tài liệu, chứng cứ để xác định nguyên nhân của việc phát sinh tranh chấp. Khi xét thấy cần thiết, Thẩm phán có thể tham khảo ý kiến của cơ quan quản lý nhà nước về gia đình, cơ quan quản lý nhà nước về trẻ em về hoàn cảnh gia đình, nguyên nhân phát sinh tranh chấp và nguyện vọng của vợ, chồng, con có liên quan đến vụ án”. Quy định này là phù hợp với đặc thù của vụ án hôn nhân và gia đình, để bảo vệ quyền lợi chính đáng của người vợ và con. Do vậy, đối với vụ án hôn nhân và gia đình có liên quan đến người chưa thành niên việc thu thập tài liệu, chứng cứ để xác định nguyên nhân của việc phát sinh tranh chấp là bắt buộc.

79. Đối với các vụ án hôn nhân và gia đình theo quy định tại Điều 208 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 thì Thẩm phán phải xác minh tình trạng mẫu thuẫn vợ chồng tại cơ quan quản lý nhà nước về gia đình, cơ quan quản lý nhà nước về trẻ em,...Cụ thể là cơ quan nào? Cơ quan ở nơi đăng ký hộ khẩu thường trú hay nơi thường xuyên sinh sống? Nếu có đương sự cư trú khác tỉnh thì giải quyết như thế nào?

Điều 3 của Nghị định số 02/2013/NĐ-CP của Chính phủ ngày 03-01-2013 quy định về công tác gia đình quy định:

“Điều 3. Cơ quan quản lý nhà nước về công tác gia đình

1. Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch chịu trách nhiệm trước Chính phủ thực hiện quản lý nhà nước về công tác gia đình trong phạm vi toàn quốc.

2. Các Bộ, cơ quan ngang Bộ, trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình, có trách nhiệm phối hợp với Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch thực hiện quản lý nhà nước về công tác gia đình.

3. Ủy ban nhân dân các cấp thực hiện quản lý nhà nước về công tác gia đình tại địa phương.”

Theo quy định tại các khoản 11, khoản 12 Điều 8 của Nghị định số 24/2014/NĐ-CP ngày 04-4-2014 của Chính phủ quy định tổ chức các cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương[10] và các khoản 5, khoản 6 Điều 7 Nghị định số 37/2014/NĐ-CP của Chính phủ ngày 05-05-2014 quy định tổ chức các cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh[11] thì Sở Lao động – Thương binh và Xã hội, Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tham mưu, giúp Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quản lý nhà nước về gia đình, về bảo vệ và chăm sóc trẻ em, Phòng Lao động - Thương binh và xã hội, Phòng Văn hóa và Thông tin tham mưu, giúp Ủy ban nhân dân cấp huyện thực hiện chức năng quản lý nhà nước về gia đình, về bảo vệ và chăm sóc trẻ em.

Do đặc thù của vụ án hôn nhân và gia đình, mục đích trước tiên trong giải quyết của Tòa án đối với loại vụ việc này là hòa giải để vợ chồng đoàn tụ, trường hợp hòa giải đoàn tụ không thành thì Tòa án giải quyết cho ly hôn nếu có căn cứ về việc vợ, chồng có hành vi bạo lực gia đình hoặc vi phạm nghiêm trọng quyền, nghĩa vụ của vợ, chồng làm cho hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được. Để bảo đảm việc hòa giải đoàn tụ có hiệu quả, bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của các đương sự và con chưa thành niên khi giải quyết ly hôn, khoản 3 Điều 208 Bộ luật tố tụng dân sự quy định: “Đối với vụ án hôn nhân và gia đình liên quan đến người chưa thành niên, trước khi mở phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải giữa các đương sự thì Thẩm phán, Thẩm tra viên được Chánh án Tòa án phân công phải thu thập tài liệu, chứng cứ để xác định nguyên nhân của việc phát sinh tranh chấp. Khi xét thấy cần thiết, Thẩm phán có thể tham khảo ý kiến của cơ quan quản lý nhà nước về gia đình, cơ quan quản lý nhà nước về trẻ em về hoàn cảnh gia đình, nguyên nhân phát sinh tranh chấp và nguyện vọng của vợ, chồng, con có liên quan đến vụ án.”

Như vậy, với quy định tại khoản 3 Điều 208 nêu trên khi xét thấy cần thiết, Thẩm phán có thể tham khảo ý kiến của cơ quan quản lý nhà nước về gia đình, cơ quan quản lý nhà nước về trẻ em nơi vợ, chồng chung sống, nơi một trong hai bên vợ hoặc chồng cư trú hoặc nơi con chưa thành niên cư trú về hoàn cảnh gia đình, nguyên nhân phát sinh tranh chấp và nguyện vọng của vợ, chồng, con có liên quan đến vụ án.

80. Trường hợp mẹ, cha của con chưa thành niên yêu cầu xác định cha, mẹ cho con mà người được yêu cầu xác định là cha, mẹ đã chết và mẹ, cha của con chưa thành niên có yêu cầu giám định ADN nhưng vợ, chồng, con của người được yêu cầu xác định là cha, mẹ không đồng ý thì Tòa án giải quyết thế nào?

Căn cứ quy định tại khoản 1 Điều 90, khoản 2 Điều 101, điểm a khoản 3 Điều 102 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014, khoản 10 Điều 29 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015[12] thì mẹ, cha của con chưa thành niên có quyền yêu cầu Tòa án xác định cha, mẹ cho con trong trường hợp người được yêu cầu xác định là cha, mẹ đã chết và yêu cầu nêu trên là yêu cầu giải quyết việc dân sự theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự.

Khoản 1 Điều 102 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 quy định: “Đương sự có quyền yêu cầu Tòa án trưng cầu giám định hoặc tự mình yêu cầu giám định sau khi đã đề nghị Tòa án trưng cầu giám định nhưng Tòa án từ chối yêu cầu của đương sự…”. Tuy nhiên, việc thu thập mẫu vật giám định để làm căn cứ giám định ADN có liên quan đến quyền nhân thân được quy định trong Hiến pháp (khoản 1 Điều 20) và pháp luật về dân sự (khoản 1 Điều 32 Bộ luật dân sự năm 2005, tương ứng với khoản 1 Điều 33 Bộ luật dân sự năm 2015) nên trong trường hợp vợ, chồng, con của người được yêu cầu xác định là cha, mẹ không tự nguyện cung cấp thì Tòa án không được ra quyết định yêu cầu vợ, chồng, con của người đó cung cấp mẫu vật giám định để làm căn cứ giám định ADN. Tòa án căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ do đương sự cung cấp và do Tòa án thu thập để làm cơ sở giải quyết việc dân sự.

81. Theo quy định tại khoản 3 Điều 208 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 thì: “Đối với vụ án tranh chấp về nuôi con khi ly hôn hoặc thay đổi người trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn, Thẩm phán phải lấy ý kiến của con chưa thành niên từ đủ bảy tuổi trở lên…”. Như vậy, có được hiểu rằng chỉ những vụ án có tranh chấp về nuôi con chung mới lấy ý kiến của con? Tuy nhiên, theo quy định khoản 2 Điều 81 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 thì: “…con từ đủ 7 tuổi trở lên thì phải xem xét nguyện vọng của con”. Vậy áp dụng quy định nào mới đúng?

- Đoạn thứ 2 khoản 3 Điều 208 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 quy định: “Đối với vụ án tranh chấp về nuôi con khi ly hôn hoặc thay đổi người trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn, Thẩm phán phải lấy ý kiến của con chưa thành niên từ đủ bảy tuổi trở lên, trường hợp cần thiết có thể mời đại diện cơ quan quản lý nhà nước về gia đình, cơ quan quản lý nhà nước về trẻ em chứng kiến, tham gia ý kiến. Việc lấy ý kiến của con chưa thành niên và các thủ tục tố tụng khác đối với người chưa thành niên phải bảo đảm thân thiện, phù hợp với tâm lý, lứa tuổi, mức độ trưởng thành, khả năng nhận thức của người chưa thành niên, bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp, giữ bí mật cá nhân của người chưa thành niên.”

- Điều 55 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 về thuận tình ly hôn quy định: “Trong trường hợp vợ chồng cùng yêu cầu ly hôn, nếu xét thấy hai bên thật sự tự nguyện ly hôn và đã thỏa thuận về việc chia tài sản, việc trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục con trên cơ sở bảo đảm quyền lợi chính đáng của vợ và con thì Tòa án công nhận thuận tình ly hôn; nếu không thỏa thuận được hoặc có thỏa thuận nhưng không bảo đảm quyền lợi chính đáng của vợ và con thì Tòa án giải quyết việc ly hôn.”

- Khoản 2 Điều 81 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định: “Vợ, chồng thỏa thuận về người trực tiếp nuôi con, nghĩa vụ, quyền của mỗi bên sau khi ly hôn đối với con; trường hợp không thỏa thuận được thì Tòa án quyết định giao con cho một bên trực tiếp nuôi căn cứ vào quyền lợi về mọi mặt của con; nếu con từ đủ 07 tuổi trở lên thì phải xem xét nguyện vọng của con.”

Theo các quy định nêu trên, để bảo đảm quyền lợi của con, trong mọi vụ việc hôn nhân gia đình có liên quan đến việc nuôi con chưa thành niên Tòa án phải xem xét nguyện vọng của con từ đủ 07 tuổi trở lên. Việc xem xét nguyện vọng này được thực hiện bằng các cách thức khác nhau: Lấy ý kiến của con; tham khảo ý kiến của cơ quan quản lý nhà nước về gia đình, cơ quan quản lý nhà nước về trẻ em; xác minh qua nhà trường, người thân thích,… Đối với vụ án tranh chấp về nuôi con khi ly hôn hoặc thay đổi người trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn, Thẩm phán phải lấy ý kiến của con chưa thành niên từ đủ 07 tuổi trở lên.

82. Theo quy định tại điểm h khoản 2 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 thì Tòa án nơi một trong các bên thuận tình ly hôn, thỏa thuận nuôi con, chia tài sản khi ly hôn cư trú, làm việc có thẩm quyền giải quyết yêu cầu công nhận thuận tình ly hôn, thỏa thuận nuôi con, chia tài sản khi ly hôn. Tuy nhiên, khi phải chuyển hồ sơ việc dân sự thành vụ án dân sự mà bị đơn không cư trú, làm việc tại nơi Tòa án đang giải quyết thì xử lý thế nào?

Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 về thẩm quyền của Tòa án theo lãnh thổ quy định:

“1. Thẩm quyền giải quyết vụ án dân sự của Tòa án theo lãnh thổ được xác định như sau:

a) Tòa án nơi bị đơn cư trú, làm việc, nếu bị đơn là cá nhân hoặc nơi bị đơn có trụ sở, nếu bị đơn là cơ quan, tổ chức có thẩm quyền giải quyết theo thủ tục sơ thẩm những tranh chấp về dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động quy định tại các điều 26, 28, 30 và 32 của Bộ luật này;

b) Các đương sự có quyền tự thoả thuận với nhau bằng văn bản yêu cầu Tòa án nơi cư trú, làm việc của nguyên đơn, nếu nguyên đơn là cá nhân hoặc nơi có trụ sở của nguyên đơn, nếu nguyên đơn là cơ quan, tổ chức giải quyết những tranh chấp về dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động quy định tại các điều 26, 28, 30 và 32 của Bộ luật này;

...”

Khoản 5 Điều 397 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 quy định: “Trường hợp hòa giải đoàn tụ không thành và các đương sự không thỏa thuận được về việc chia tài sản, việc trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục con thì Tòa án đình chỉ giải quyết việc dân sự về công nhận thuận tình ly hôn, thỏa thuận nuôi con, chia tài sản khi ly hôn và thụ lý vụ án để giải quyết. Tòa án không phải thông báo về việc thụ lý vụ án, không phải phân công lại Thẩm phán giải quyết vụ án. Việc giải quyết vụ án được thực hiện theo thủ tục chung do Bộ luật này quy định.”

Quy định của khoản 5 Điều 397 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 nêu trên đã khắc phục những bất cập trong giải quyết việc dân sự yêu cầu công nhận thuận tình ly hôn, thỏa thuận nuôi con, chia tài sản khi ly hôn trường hợp hòa giải đoàn tụ không thành mà các đương sự không thỏa thuận được về việc chia tài sản, việc trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục con của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2004 và tạo thuận lợi cho đương sự trong giải quyết vụ việc dân sự.

Như vậy, khi hòa giải đoàn tụ không thành và các đương sự không thỏa thuận được về việc chia tài sản, việc trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục con thì Tòa án ra quyết định đình chỉ giải quyết việc dân sự và thụ lý vụ án để giải quyết. Sau khi thụ lý vụ án, nếu nơi cư trú, làm việc của bị đơn không phải là nơi Tòa án đang giải quyết vụ án thì tùy từng trường hợp cụ thể mà xử lý như sau:

- Trường hợp bị đơn không phản đối về thẩm quyền và có văn bản đề nghị Tòa án đang giải quyết vụ án tiếp tục giải quyết vụ án thì Tòa án tiếp tục giải quyết vụ án theo thủ tục chung.

- Trường hợp bị đơn phản đối về thẩm quyền Tòa án đang giải quyết vụ án và có văn bản đề nghị chuyển vụ án cho Tòa án nơi cư trú, làm việc của bị đơn để giải quyết thì Tòa án đang giải quyết vụ án ra quyết định chuyển hồ sơ vụ án cho Tòa án nơi cư trú, làm việc của bị đơn giải quyết.

83. Thẩm phán giải quyết việc xét miễn, giảm nghĩa vụ thi hành án đối với khoản thu, nộp ngân sách nhà nước theo yêu cầu của cơ quan thi hành án dân sự. Trường hợp quyết định miễn giảm thi hành án đó bị Viện kiểm sát nhân dân kháng nghị và Tòa án cấp phúc thẩm đã hủy quyết định của Tòa án về việc miễn, giảm thi hành án đó thì có tính là quyết định bị hủy do lỗi chủ quan không?

Giải quyết việc xét miễn, giảm nghĩa vụ thi hành án đối với khoản thu nộp ngân sách nhà nước là công việc của Thẩm phán theo quy định tại Điều 63 và Điều 64 Luật thi hành án dân sự năm 2008 (sửa đổi, bổ sung năm 2014). Quyết định miễn, giảm nghĩa vụ thi hành án của Tòa án có thể bị kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm, tái thẩm.

Khi quyết định miễn, giảm nghĩa vụ thi hành án bị hủy, việc xác định do lỗi chủ quan của Thẩm phán hay do yếu tố khách quan[13] phải được xem xét trong từng trường hợp cụ thể:

- Trường hợp quyết định bị hủy do vi phạm các quy định của pháp luật tố tụng, pháp luật thi hành án dân sự, đánh giá chứng cứ không đúng, kết luận của quyết định không đúng với tài liệu có trong hồ sơ đề nghị xét miễn, giảm nghĩa vụ thi hành án, áp dụng pháp luật sai dẫn đến quyết định không đúng thì được xác định là do lỗi chủ quan của Thẩm phán.

- Trường hợp quyết định bị hủy vì có những tình tiết mà trong quá trình giải quyết Thẩm phán không thể biết, do pháp luật có thay đổi mà việc thay đổi đó là căn cứ để hủy quyết định, sau khi giải quyết phát sinh tình tiết mới thì được xác định là vì yếu tố khách quan.

84. Bản án sơ thẩm về vụ án tranh chấp quyền sử dụng đất đã được thi hành xong, nguyên đơn (là người kháng cáo) đã nhận đất, chuyển nhượng cho người khác và người nhận chuyển nhượng đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.

Trường hợp 1: Nếu sau đó bản án phúc thẩm nêu trên bị hủy theo thủ tục giám đốc thẩm để xét xử phúc thẩm lại nhưng khi giải quyết lại, nguyên đơn (là người kháng cáo) được triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai mà vẫn vắng mặt vì cho rằng họ đã được thi hành án xong thì Tòa án có căn cứ vào khoản 3 Điều 296 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 để đình chỉ xét xử phúc thẩm không?

Trường hợp 2: Nếu sau đó bản án phúc thẩm và bản án sơ thẩm bị hủy theo thủ tục giám đốc thẩm để xét xử sơ thẩm lại mà khi xét xử sơ thẩm lại, Tòa án không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn đòi bị đơn trả lại đất thì Tòa án cấp sơ thẩm phải giải quyết vấn đề tài sản đã được thi hành theo bản án phúc thẩm bị hủy như thế nào để bảo vệ quyền lợi cho bị đơn do quyền sử dụng đất đã được chuyển nhượng cho người thứ ba ngay tình?

Trường hợp 1:

Việc xét xử phúc thẩm lại vụ án dân sự là thực hiện quyết định giám đốc thẩm hủy bản án phúc thẩm để xét xử lại theo thủ tục phúc thẩm, chứ không phải trên cơ sở kháng cáo trước đó của đương sự đối với bản án sơ thẩm. Do vậy, khi giải quyết lại vụ án theo thủ tục phúc thẩm, nguyên đơn trước đó có kháng cáo được triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai mà vẫn vắng mặt thì Tòa án không được căn cứ vào khoản 3 Điều 296 và khoản 2 Điều 312 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 để đình chỉ xét xử phúc thẩm. Tòa án vẫn tiến hành xét xử vụ án vắng mặt nguyên đơn và phải giải quyết hậu quả của việc thi hành án, các vấn đề khác có liên quan (nếu có) theo bản án phúc thẩm trước đó bị hủy.

Trường hợp 2:

Nếu sau đó bản án phúc thẩm và bản án sơ thẩm bị hủy theo thủ tục giám đốc thẩm để xét xử sơ thẩm lại mà khi xét xử sơ thẩm lại, Tòa án không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn đòi bị đơn trả lại đất thì căn cứ vào Điều 170 Luật thi hành án dân sự năm 2008 (sửa đổi, bổ sung năm 2014), Tòa án cấp sơ thẩm phải giải quyết vấn đề hậu quả của việc thi hành án, các vấn đề khác có liên quan (nếu có) theo bản án phúc thẩm trước đó bị hủy trên cơ sở giá trị quyền sử dụng đất đã được chuyển nhượng cho người thứ ba ngay tình theo giá thị trường. Giao dịch chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa nguyên đơn với người thứ ba ngay tình được bảo vệ theo quy định tại khoản 2 Điều 138 Bộ luật dân sự năm 2005 (tương ứng với khoản 2 Điều 133 Bộ luật dân sự năm 2015).

85. Đối với vụ án yêu cầu bồi thường nhà nước, bị đơn là Cục Thi hành án dân sự không đến Tòa án làm việc thì xử lý như thế nào?

Các quyền và nghĩa vụ của bị đơn quy định tại Điều 70 và Điều 72 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015; trong đó có quy định bị đơn “phải có mặt theo giấy triệu tập của Tòa án và chấp hành quyết định của Tòa án trong quá trình Tòa án giải quyết vụ án”; “trường hợp không thực hiện nghĩa vụ thì phải chịu hậu quả do Bộ luật này quy định”.

Trong vụ án bồi thường thiệt hại do người thi hành công vụ gây ra mà Cục thi hành án dân sự bị kiện yêu cầu bồi thường theo Luật trách nhiệm bồi thường của Nhà nước thì Cục thi thành án dân sự đó là đương sự (bị đơn trong vụ án) và có các quyền và nghĩa vụ của bị đơn theo quy định tại Điều 70 và Điều 72 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015. Trường hợp bị đơn (Cục thi hành án dân sự) đã được tống đạt giấy triệu tập hợp lệ mà không đến Tòa án giải quyết vụ án mà không phải do trở ngại khách quan hoặc sự kiện bất khả kháng thì Tòa án tiến hành giải quyết vụ án vắng mặt bị đơn theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.

86. Trong vụ án hành chính, Giám đốc, Phó Giám đốc Sở Tài nguyên và Môi trường; Giám đốc, Phó Giám đốc Sở Tư pháp tỉnh có được làm người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho người bị kiện là Chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh không?

Điểm c khoản 2 Điều 61 Luật tố tụng hành chính quy định: Công dân Việt Nam có năng lực hành vi dân sự đầy đủ, có kiến thức pháp lý, chưa bị kết án hoặc bị kết án nhưng đã được xóa án tích, không thuộc trường hợp đang bị áp dụng biện pháp xử lý hành chính, không phải là cán bộ, công chức trong các cơ quan Tòa án, Viện kiểm sát, Thanh tra, Thi hành án; công chức, sĩ quan, hạ sĩ quan trong ngành Công an.

Theo quy định nêu trên thì Giám đốc, Phó Giám đốc Sở Tài nguyên và Môi trường; Giám đốc, Phó Giám đốc Sở Tư pháp tỉnh là cán bộ, công chức không nằm trong diện bị pháp luật cấm tham gia bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho người bị kiện. Do đó, họ được tham gia bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho người bị kiện là Chủ tịch UBND tỉnh.

87. Tại khoản 5 Điều 84 Luật tố tụng hành chính quy định: “Trong thời hạn 03 ngày làm việc kể từ ngày thu thập được tài liệu, chứng cứ, Tòa án phải thông báo cho các đương sự để họ thực hiện quyền, nghĩa vụ của mình”. Tại khoản 3 Điều 98 Luật tố tụng hành chính quy định: “Trong thời hạn 05 ngày làm việc kể từ ngày Tòa án thu thập được tài liệu, chứng cứ thì Tòa án phải thông báo cho đương sự biết để họ thực hiện quyền, tiếp cận tài liệu, chứng cứ quy định tại khoản 1 Điều 98”. Vậy hai thời hạn trên có mâu thuẫn với nhau không? Khi giải quyết vụ án hành chính, Tòa án áp dụng thời hạn nào?

Khoản 5 Điều 84 Luật tố tụng hành chính quy định: “Trong thời hạn 03 ngày làm việc kể từ ngày thu thập được tài liệu, chứng cứ, Tòa án phải thông báo cho các đương sự để họ thực hiện quyền, nghĩa vụ của mình”. Đây là thời hạn để Tòa án thông báo cho các bên đương sự biết về việc khởi kiện vụ án hành chính liên quan đến mình. (Ví dụ: khi Tòa án nhận được đơn khởi kiện đối với một quyết định hành chính cùng các tài liệu, chứng cứ kèm theo, sau 3 ngày làm việc, kể từ ngày Tòa án nhận được đơn và tài liệu đó thì Tòa án phải thông báo cho người bị kiện biết về quyết định hành chính bị khởi kiện để người bị kiện xác minh, thu thập tài liệu, chứng cứ nộp cho Tòa án nhằm bảo vệ quyết định hành chính được ban hành là có căn cứ và đúng pháp luật).

Khoản 3 Điều 98 Luật tố tụng hành chính quy định: “Trong thời hạn 05 ngày làm việc kể từ ngày Tòa án thu thập được tài liệu, chứng cứ thì Tòa án phải thông báo cho đương sự biết để họ thực hiện quyền, tiếp cận tài liệu, chứng cứ quy định tại khoản 1 Điều 98”. Đây là thời hạn để Tòa án thông báo cho các bên đương sự biết về việc các bên đã gửi các tài liệu, chứng cứ của mình đến Tòa án nhằm công khai cho các bên biết các tài liệu, chứng cứ của các bên đưa ra để các bên thực hiện quyền tiếp cận, trao đổi tài liệu, chứng cứ. (Ví dụ: sau khi Tòa án đã nhận được các tài liệu của các bên cung cấp đến Tòa án, sau 05 ngày làm việc, Tòa án phải thông báo cho các bên đương sự biết, các bên đương sự có quyền đến Tòa án yêu cầu được sao chụp, đọc, xem xét, đối chiếu giữa các chứng cứ, tài liệu của hai bên).

Hai thủ tục nêu trên là khác nhau nên quy định thời hạn khác nhau không mâu thuẫn. Khi giải quyết vụ án hành chính, tùy từng thủ tục mà Tòa án áp dụng thời hạn 03 ngày hoặc 05 ngày cho phù hợp.

88. Trường hợp trước giờ mở phiên tòa, Tòa án nhận được thông tin Kiểm sát viên không thể tham gia phiên tòa vì lý do bất khả kháng thì Tòa án vẫn tiến hành xét xử hay phải hoãn phiên tòa?

 Khoản 1 Điều 156 Luật tố tụng hành chính quy định: “Kiểm sát viên được Viện trưởng Viện kiểm sát cùng cấp phân công có nhiệm vụ tham gia phiên tòa, nếu vắng mặt thì Hội đồng xét xử vẫn tiến hành xét xử”.

Khoản 1 Điều 162 quy định các trường hợp phải hoãn phiên tòa:

 “a) Trường hợp quy định tại khoản 3 và khoản 4 Điều 155, khoản 1 Điều 157, khoản 2 Điều 161 của Luật này;

b) Thành viên của Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa, người phiên dịch bị thay đổi mà không có người thay thế ngay;

c) Trường hợp phải tiến hành giám định lại theo quy định tại Điều 170 của Luật này.”

Theo các quy định nêu trên thì Viện kiểm sát có quyền cử Kiểm sát viên tham gia phiên tòa; nếu vì lý do nào đó mà Kiểm sát viên không tham gia hoặc không có mặt tại phiên tòa thì Tòa án vẫn tiến hành xét xử.

89. Trường hợp trong quá trình xét xử do tình trạng sức khỏe hoặc do sự kiện bất khả kháng, trở ngại khách quan khác mà Kiểm sát viên không thể tiếp tục tiến hành phiên tòa mà không có Kiểm sát viên dự khuyết thì Hội đồng xét xử có hoãn phiên tòa không?

Khoản 1 Điều 156 Luật tố tụng hành chính quy định: Kiểm sát viên được Viện trưởng Viện kiểm sát cùng cấp phân công có nhiệm vụ tham gia phiên tòa, nếu vắng mặt thì Hội đồng xét xử vẫn tiến hành xét xử”.

Điểm a khoản 1 Điều 187 Luật tố tụng hành chính quy định về tạm ngừng phiên tòa: Do tình trạng sức khỏe hoặc do sự kiện bất khả kháng, trở ngại khách quan khác mà người tiến hành tố tụng không thể tiếp tục tiến hành phiên tòa, trừ trường hợp thay thế được người tiến hành tố tụng”.

Do đó, nếu trong quá trình xét xử do tình trạng sức khỏe hoặc do sự kiện bất khả kháng, trở ngại khách quan khác mà Kiểm sát viên không thể tiếp tục tiến hành phiên tòa mà không có Kiểm sát viên dự khuyết thì Hội đồng xét xử căn cứ quy định tại điểm a khoản 1 Điều 187 Luật tố tụng hành chính để xem xét, quyết định tạm ngừng phiên tòa mà không được hoãn phiên tòa.

90. Tại phiên tòa đương sự đề nghị Tòa án tạm đình chỉ giải quyết vụ án. Vậy, Tòa án căn cứ vào điều kiện nào để ra quyết định tạm đình chỉ giải quyết vụ án?

Khoản 1 Điều 165 Luật tố tụng hành chính quy định: “1. Tại phiên tòa, nếu có một trong các trường hợp quy định tại các điểm a, b, c, d và e khoản 1 Điều 141 của Luật này thì Hội đồng xét xử ra quyết định tạm đình chỉ việc giải quyết vụ án.”

Như vậy, trong trường hợp đương sự đề nghị Tòa án tạm đình chỉ giải quyết vụ án thuộc các điều kiện quy định tại điểm đ khoản 1 Điều 141 Luật tố tụng hành chính thì Hội đồng xét xử xem xét, quyết định tạm đình chỉ giải quyết vụ án.

91. Trường hợp quyết định giải quyết khiếu nại lần đầu chỉ có nội dung giữ nguyên quyết định hành chính hoặc quyết định giải quyết khiếu nại lần hai chỉ có nội dung đồng ý với quyết định giải quyết khiếu nại lần đầu, thì quyết định giải quyết khiếu nại đó có thuộc đối tượng khởi kiện vụ án hành chính không?

Khoản 3 Điều 7 Luật khiếu nại năm 2011 quy định:

“… Trường hợp người khiếu nại không đồng ý với quyết định giải quyết khiếu nại lần đầu của Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh hoặc hết thời hạn quy định mà khiếu nại không được giải quyết thì có quyền khiếu nại lần hai đến Bộ trưởng quản lý ngành, lĩnh vực hoặc khởi kiện vụ án hành chính tại Tòa án theo quy định của Luật tố tụng hành chính.

Trường hợp người khiếu nại không đồng ý với quyết định giải quyết lần hai của Bộ trưởng hoặc hết thời hạn quy định mà khiếu nại không được giải quyết thì có quyền khởi kiện vụ án hành chính tại Tòa án theo quy định của Luật tố tụng hành chính.”

Điều 3 Luật tố tụng hành chính quy định:

“1. Quyết định hành chính là văn bản do cơ quan hành chính nhà nước, cơ quan, tổ chức được giao thực hiện quản lý hành chính nhà nước ban hành hoặc người có thẩm quyền trong cơ quan, tổ chức đó ban hành quyết định về vấn đề cụ thể trong hoạt động quản lý hành chính được áp dụng một lần đối với một hoặc một số đối tượng cụ thể;

2. Quyết định hành chính bị kiện là quyết định quy định tại khoản 1 Điều này mà quyết định đó làm phát sinh, thay đổi, hạn chế, chấm dứt quyền, lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân hoặc có nội dung làm phát sinh nghĩa vụ, ảnh hưởng đến quyền, lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân.”.

Khoản 1 Điều 115 Luật tố tụng hành chính quy định: Cơ quan, tổ chức, cá nhân có quyền khởi kiện vụ án đối với quyết định hành chính, hành vi hành chính, quyết định kỷ luật buộc thôi việc trong trường hợp không đồng ý với quyết định, hành vi đó hoặc đã khiếu nại với người có thẩm quyền giải quyết, nhưng hết thời hạn giải quyết theo quy định của pháp luật mà khiếu nại không được giải quyết hoặc đã được giải quyết nhưng không đồng ý với việc giải quyết khiếu nại về quyết định, hành vi đó”.

Theo hướng dẫn tại Điều 1 Nghị quyết số 01/2015/NQ-HĐTP ngày 15-01-2015 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao sửa đổi, bổ sung điểm b khoản 1 Điều 1 của Nghị quyết số 02/2011/NQ-HĐTP ngày 29-7-2011 thì: “Quyết định hành chính được ban hành sau khi có khiếu nại có nội dung giữ nguyên, sửa đổi, bổ sung, thay thế, huỷ bỏ một phần hoặc toàn bộ quyết định hành chính được hướng dẫn tại điểm a khoản 1 Điều này” là đối tượng khởi kiện.

Do đó, nếu người khiếu nại không đồng ý với quyết định giải quyết khiếu nại của người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại và khởi kiện đến Tòa án có thẩm quyền, nếu thời hiệu khởi kiện đối với quyết định giải quyết khiếu nại vẫn còn thì Tòa án phải thụ lý, giải quyết vụ án hành chính theo quy định của pháp luật.

92. Trường hợp quyết định giải quyết khiếu nại lần 2 bị khiếu kiện còn thời hiệu khởi kiện nhưng các quyết định giải quyết khiếu nại lần đầu, quyết định hành chính ban đầu đã hết thời hiệu khởi kiện thì Tòa án có được xem xét hay không?

Điều 28 Luật khiếu nại quy định: “Thời hạn giải quyết khiếu nại lần đầu là không quá 30 ngày, kể từ ngày thụ lý...”.

Điều 37 Luật khiếu nại quy định: “Thời hạn giải quyết khiếu nại lần hai là không quá 45 ngày, kể từ ngày thụ lý...”.

Đối với trường hợp đương sự khiếu nại đúng theo quy định của pháp luật đến cơ quan nhà nước, người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại thì theo quy định tại điểm a khoản 3 Điều 116 Luật tố tụng hành chính thời hiệu khởi kiện (đối với quyết định giải quyết khiếu nại lần đầu hoặc quyết định giải quyết khiếu nại lần hai) là 01 năm kể từ ngày nhận được hoặc biết được quyết định giải quyết khiếu nại lần đầu hoặc quyết định giải quyết khiếu nại lần hai.

Theo quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều 193 Luật tố tụng hành chính thì:

“1. Hội đồng xét xử có thẩm quyền xem xét tính hợp pháp của quyết định hành chính, hành vi hành chính... quyết định giải quyết khiếu nại và văn bản quy phạm pháp luật có liên quan.

2. Hội đồng xét xử có quyền quyết định:

...b) Chấp nhận một phần hoặc toàn bộ yêu cầu khởi kiện, tuyên hủy một phần hoặc quyết định hành chính trái pháp luật và quyết định giải quyết khiếu nại có liên quan (nếu có)...”.

Theo các quy định nêu trên thì thời hiệu khiếu nại, khởi kiện được xác định căn cứ vào quyết định hành chính bị khiếu nại, khởi kiện. Trong quá trình xét xử, Hội đồng xét xử có thẩm quyền xem xét và giải quyết đối với tất cả các quyết định hành chính khác có liên quan đến quyết định hành chính bị khởi kiện mà không phụ thuộc vào việc các quyết định này còn hay hết thời hiệu.

93 Trong vụ án đương sự chỉ khởi kiện đối với quyết định hành chính do Uỷ ban nhân dân cấp huyện nhưng quyết định này đã được Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh giải quyết khiếu nại. Khi xét xử, Tòa án nhận thấy các quyết định giải quyết khiếu nại này trái pháp luật thì Hội đồng xét xử sơ thẩm Tòa án nhân dân cấp huyện có được hủy quyết định giải quyết khiếu nại này không hay phải đình chỉ việc xét xử và chuyển hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân cấp tỉnh giải quyết theo thẩm quyền?

Khoản 1 Điều 93 Luật tố tụng hành chính quy định thẩm quyền của Hội đồng xét xử như sau: “Hội đồng xét xử xem xét tính hợp pháp của quyết định hành chính, hành vi hành chính, quyết định kỷ luật buộc thôi việc, quyết định giải quyết khiếu nại về quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh, danh sách cử tri bị khởi kiện, quyết định giải quyết khiếu nại và văn bản quy phạm pháp luật có liên quan.

Khoản 3 Điều 165 Luật tố tụng hành chính quy định: “Trường hợp đương sự xuất trình quyết định hành chính mới mà quyết định hành chính đó liên quan đến quyết định bị khởi kiện và không thuộc thẩm quyền của Tòa án đang xét xử sơ thẩm vụ án thì Hội đồng xét xử đình chỉ việc xét xử và chuyển hồ sơ vụ án cho Tòa án có thẩm quyền”.

Theo các quy định nêu trên thì quyết định giải quyết khiếu nại của Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh là quyết định hành chính liên quan đến quyết định hành chính bị khởi kiện. Việc xem xét tính hợp pháp của quyết định này thuộc thẩm quyền của Tòa án nhân dân cấp tỉnh. Do đó, trong trường hợp nêu trên thì Hội đồng xét xử sơ thẩm phải đình chỉ việc xét xử và chuyển hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân cấp tỉnh để giải quyết theo thẩm quyền.  

94. Tại phiên tòa phúc thẩm, người bị kiện hủy bỏ quyết định hành chính bị khởi kiện và người khởi kiện đồng ý nên Hội đồng xét xử đã quyết định hủy bản án sơ thẩm và đình chỉ giải quyết vụ án theo quy định tại khoản 1 Điều 235 Luật tố tụng hành chính. Trường hợp này, người khởi kiện có phải chịu án phí hành chính sơ thẩm không?

Quy định tại khoản 1 Điều 235 Luật tố tụng hành chính là quy định mới được bổ sung (Luật tố tụng hành chính năm 2011 không có quy định này) nên nội dung này cũng chưa được Pháp lệnh án phí, lệ phí Tòa án quy định. Tuy nhiên, khi xem xét trường hợp này Tòa án cấp phúc thẩm có thể áp dụng các quy định về xử lý tiền án phí trong thủ tục xét xử sơ thẩm đối với trường hợp người bị kiện đồng ý hủy bỏ quyết định hành chính bị kiện tại phiên tòa sơ thẩm; cụ thể như sau:

+ Trường hợp bản án sơ thẩm quyết định người khởi kiện phải chịu án phí sơ thẩm thì Tòa án cấp phúc thẩm quyết định buộc người bị kiện phải chịu án phí sơ thẩm và trả lại tiền án phí sơ thẩm cho người khởi kiện;

+  Trường hợp bản án sơ thẩm quyết định người bị kiện phải chịu án phí sơ thẩm thì Tòa án cấp phúc thẩm tuyên giữ nguyên về phần án phí sơ thẩm theo bản án sơ thẩm.

95. Trường hợp khởi kiện đối với việc trả lại hồ sơ xin chuyển mục đích sử dụng đất của Phòng Tài nguyên và Môi trường với lý do vị trí đất nằm trong khu quy hoạch thì xác định người bị kiện là Phòng Tài nguyên Môi trường hay Ủy ban nhân dân cấp huyện?

Theo quy định tại điểm a khoản 2 Điều 59 Luật đất đai thì Ủy ban nhân dân huyện có thẩm quyền: “Giao đất, cho thuê đất, cho phép chuyển mục đích sử dụng đất đối với hộ gia đình, cá nhân. Trường hợp cho hộ gia đình, cá nhân thuê đất, cho phép chuyển mục đích sử dụng đất nông nghiệp để sử dụng vào mục đích thương mại, dịch vụ với diện tích từ 0,5 héc ta trở lên thì phải có văn bản chấp thuận của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh trước khi quyết định”.

Theo hướng dẫn tại điểm a khoản 1 và khoản 2 Điều 1 Nghị quyết số 02/2011/NQ-HĐTP ngày 29-7-2011 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn thi hành một số quy định của Luật tố tụng hành chính năm 2011 thì để xác định quyết định hành chính, hành vi hành chính bị kiện là đối tượng khởi kiện thì phải căn cứ vào quy định của pháp luật về thẩm quyền.

Trường hợp theo quy định của pháp luật, việc thực hiện nhiệm vụ, công vụ cụ thể là của cơ quan hành chính nhà nước, cơ quan, tổ chức khác, nhưng do người trong cơ quan hành chính nhà nước, cơ quan, tổ chức khác đó thực hiện theo sự phân công hoặc uỷ quyền, uỷ nhiệm thì hành vi đó là hành vi hành chính của cơ quan hành chính nhà nước, cơ quan, tổ chức khác mà không phải là hành vi hành chính của người đã thực hiện hành vi hành chính đó.

Theo hướng dẫn tại Điều 4, khoản 4 Điều 5 Thông tư liên tịch số 50/2014/TTLT-BTNMT-BNV ngày 28-8-2014 của Bộ Tài nguyên và Môi trường và Bộ Nội vụ hướng dẫn chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Sở Tài nguyên và Môi trường thuộc Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, Phòng Tài nguyên và Môi trường thuộc Ủy ban nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh, thì Phòng Tài nguyên và Môi trường là cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân cấp huyện thực hiện chức năng tham mưu, giúp Ủy ban nhân dân cấp huyện quản lý nhà nước như thẩm định hồ sơ về giao đất, cho thuê đất, thu hồi đất, chuyển mục đích sử dụng đất, chuyển quyền sử dụng đất, cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất cho các đối tượng thuộc thẩm quyền của Ủy ban nhân dân cấp huyện.

Như vậy, theo quy định và hướng dẫn nêu trên thì Phòng Tài nguyên và Môi trường là đơn vị thực hiện thẩm tra hồ sơ theo chức năng, nhiệm vụ được giao giúp Ủy ban nhân dân huyện xem xét, quyết định việc công dân xin chuyển mục đích sử dụng đất. Do đó, người bị kiện trong trường hợp này được xác định là Ủy ban nhân dân cấp huyện.

96. Khoản 3 Điều 60 Luật tố tụng hành chính về người đại diện có quy định: Trường hợp người bị kiện là cơ quan, tổ chức hoặc người đứng đầu cơ quan, tổ chức thì người bị kiện chỉ được ủy quyền cho cấp phó của mình đại diện. Người được ủy quyền phải tham gia vào quá trình giải quyết toàn bộ vụ án, thực hiện đầy đủ các quyền và nghĩa vụ của người bị kiện theo quy định của Luật này”. Vậy, nếu cơ quan, tổ chức hoặc người đứng đầu cơ quan, tổ chức là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong vụ án hành chính thì việc ủy quyền tham gia tố tụng có phải tuân theo quy định tại khoản 3 Điều 60 Luật tố tụng hành chính hay không?

Việc ủy quyền tham gia tố tụng quy định tại khoản 3 Điều 60 Luật tố tụng hành chính chỉ áp dụng đối với trường hợp cơ quan, tổ chức hoặc người đứng đầu cơ quan, tổ chức là người bị kiện. Đối với các đương sự khác việc ủy quyền tham gia tố tụng được thực hiện theo quy định chung của pháp luật.

97. Trường hợp đương sự tham gia phiên tòa nhưng lại vắng mặt khi Tòa án tuyên án thì việc đương sự vắng mặt có lý do chính đáng hay không có lý do chính đáng được xác định theo biên bản phiên tòa hay theo bản án?

Theo quy định tại khoản 7 Điều 153 Luật tố tụng hành chính thì: “Người tham gia phiên tòa theo yêu cầu của Tòa án phải có mặt tại phiên tòa trong suốt thời gian xét xử vụ án, trừ trường hợp được Chủ tọa phiên tòa đồng ý cho rời khỏi phòng xử án nếu có lý do chính đáng”.

Trường hợp đương sự vắng mặt khi Hội đồng xét xử tuyên án, thì việc vắng mặt có hay không có lý do chính đáng phải được ghi nhận trong bản án và trong biên bản phiên tòa để bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự.

98. Trường hợp Tòa án cấp sơ thẩm đã thụ lý đơn kháng cáo của người không có quyền kháng cáo và chuyển hồ sơ cho Tòa án cấp phúc thẩm để giải quyết thì Tòa án cấp phúc thẩm giải quyết như thế nào?

Trong trường hợp này Tòa án cấp phúc thẩm vẫn phải căn cứ vào quy định tại Điều 217 Luật tố tụng hành chính để thụ lý vụ án theo thủ tục phúc thẩm. Trong quá trình giải quyết Tòa án cấp phúc thẩm căn cứ vào điểm b khoản 1 Điều 229 Luật tố tụng hành chính trả lại đơn kháng cáo và đình chỉ xét xử phúc thẩm vụ án.

99. Trong trường hợp người được thi hành án có đơn yêu cầu Tòa án ra quyết định buộc thi hành án thì Chánh án Tòa án đã xét xử sơ thẩm hay Thẩm phán Tòa án đã xét xử sơ thẩm ban hành quyết định? Thủ tục xem xét ra quyết định buộc thi hành án thực hiện như thế nào?

Điều 312 Luật tố tụng hành chính về yêu cầu, quyết định buộc thi hành bản án, quyết định của Tòa án có quy định:

“1. Trong thời hạn 01 năm kể từ ngày hết thời hạn quy định tại điểm b khoản 2 Điều 311 của Luật này mà người phải thi hành án không tự nguyện thi hành thì người được thi hành án có quyền gửi đơn kèm theo bản sao bản án, quyết định của Tòa án, tài liệu khác có liên quan đề nghị Tòa án đã xét xử sơ thẩm ra quyết định buộc thi hành bản án, quyết định của Tòa án...

2. Trong thời hạn 05 ngày làm việc kể từ ngày nhận được đơn yêu cầu của người được thi hành án, Tòa án đã xét xử sơ thẩm phải ra quyết định buộc thi hành án hành chính. Quyết định buộc thi hành án phải được gửi cho người phải thi hành án, người được thi hành án, thủ trưởng cơ quan cấp trên trực tiếp của người phải thi hành án và Viện kiểm sát cùng cấp. Thủ trưởng cơ quan cấp trên trực tiếp của người phải thi hành án có trách nhiệm kiểm tra, đôn đốc và xử lý trách nhiệm của người phải thi hành án theo quy định của pháp luật. Quyết định buộc thi hành án cũng phải gửi cho cơ quan thi hành án dân sự nơi Tòa án đã xét xử sơ thẩm để theo dõi việc thi hành án hành chính theo quyết định của Tòa án”.

Điều 37 Luật tố tụng hành chính quy định về nhiệm vụ, quyền hạn của Chánh án như sau:

“1. Chánh án Tòa án có những nhiệm vụ, quyền hạn sau đây:

a) Tổ chức công tác giải quyết vụ án hành chính thuộc thẩm quyền của Tòa án; bảo đảm thực hiện nguyên tắc Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật;

b) Quyết định phân công Thẩm phán giải quyết vụ án hành chính, Hội thẩm nhân dân tham gia Hội đồng xét xử vụ án hành chính; phân công Thẩm tra viên, Thư ký Tòa án tiến hành tố tụng đối với vụ án hành chính bảo đảm đúng nguyên tắc quy định tại Điều 14 của Luật này;

c) Quyết định thay đổi Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân, Thư ký Tòa án trước khi mở phiên tòa;

d) Quyết định thay đổi người giám định, người phiên dịch trước khi mở phiên tòa;

đ) Ra quyết định và tiến hành hoạt động tố tụng hành chính;

e) Kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án hoặc kiến nghị Chánh án Tòa án có thẩm quyền xem xét kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án;

g) Giải quyết khiếu nại, tố cáo theo quy định của Luật này;

h) Kiến nghị với cơ quan, cá nhân có văn bản hành chính, hành vi hành chính có liên quan đến quyết định hành chính, hành vi hành chính bị khởi kiện xem xét sửa đổi, bổ sung hoặc bãi bỏ văn bản, chấm dứt hành vi đó nếu phát hiện có dấu hiệu trái với quy định của pháp luật;

i) Kiến nghị với cơ quan, cá nhân có thẩm quyền xem xét, sửa đổi, bổ sung hoặc bãi bỏ văn bản quy phạm pháp luật nếu phát hiện có dấu hiệu trái với Hiến pháp, luật, văn bản quy phạm pháp luật của cơ quan nhà nước cấp trên theo quy định của Luật này;     

k) Xử lý hành vi cản trở hoạt động tố tụng hành chính theo quy định của pháp luật;

l) Thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn khác theo quy định của Luật này.

2. Khi Chánh án vắng mặt, một Phó Chánh án được Chánh án ủy nhiệm thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của Chánh án, trừ quyền quyết định kháng nghị quy định tại điểm e khoản 1 Điều này. Phó Chánh án chịu trách nhiệm trước Chánh án về thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn được ủy nhiệm.”

Điều 38 Luật tố tụng hành chính quy định:

“Khi được Chánh án Tòa án phân công, Thẩm phán có những nhiệm vụ, quyền hạn sau đây:

1. Xử lý đơn khởi kiện;

2. Lập hồ sơ vụ án hành chính;

3. Xác minh, thu thập tài liệu, chứng cứ; tổ chức phiên tòa, phiên họp để giải quyết vụ án hành chính theo quy định của Luật này;

4. Quyết định việc áp dụng, thay đổi, hủy bỏ biện pháp khẩn cấp tạm thời;

5. Quyết định đình chỉ hoặc tạm đình chỉ, quyết định tiếp tục đưa vụ án hành chính ra giải quyết;

6. Giải thích, hướng dẫn cho đương sự biết để họ thực hiện quyền được yêu cầu trợ giúp pháp lý theo quy định của pháp luật về trợ giúp pháp lý;

7. Tiến hành phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và đối thoại theo quy định của Luật này;

8. Quyết định đưa vụ án hành chính ra xét xử;

9. Triệu tập người tham gia phiên tòa, phiên họp;

10. Yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân cung cấp tài liệu, chứng cứ hoặc xác minh, thu thập tài liệu, chứng cứ theo quy định của Luật này;

11. Chủ tọa hoặc tham gia Hội đồng xét xử vụ án hành chính; biểu quyết những vấn đề thuộc thẩm quyền của Hội đồng xét xử;

12. Xem xét về tính hợp pháp của văn bản hành chính, hành vi hành chính có liên quan đến quyết định hành chính, hành vi hành chính bị kiện và đề nghị Chánh án Tòa án kiến nghị với cơ quan, cá nhân có thẩm quyền xem xét văn bản hành chính, hành vi hành chính đó theo quy định của pháp luật;

13. Phát hiện và đề nghị Chánh án Tòa án kiến nghị với cơ quan có thẩm quyền xem xét, sửa đổi, bổ sung hoặc bãi bỏ văn bản quy phạm pháp luật có dấu hiệu trái với Hiến pháp, luật, văn bản quy phạm pháp luật của cơ quan nhà nước cấp trên theo quy định của Luật này;

14. Xử lý hành vi cản trở hoạt động tố tụng hành chính theo quy định của pháp luật;

15. Thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn khác theo quy định của Luật này.”

Theo các quy định nêu trên thì về thủ tục: khi người được thi hành án hành chính gửi đơn kèm theo bản sao bản án, quyết định của Tòa án, tài liệu khác có liên quan đề nghị Tòa án đã xét xử sơ thẩm ra quyết định buộc phải thi hành án, thì Tòa án đã xét xử sơ thẩm phải kiểm tra nếu đơn đề nghị được gửi sau khi hết thời hạn 30 ngày, kể từ ngày người phải thi hành án nhận được bản án, quyết định của Tòa án và Tòa án đã xét xử sơ thẩm chưa nhận được thông báo về kết quả thi hành án hành chính của người phải thi hành án, Tòa án đã xét xử sơ thẩm ra quyết định buộc người phải thi hành án hành chính thi hành bản án, quyết định của Tòa án.

Về thẩm quyền thì Chánh án Tòa án đã xét xử sơ thẩm sẽ ban hành quyết định buộc thi hành án.

100. Khi xem xét quyết định hành chính bị khởi kiện mà có giải quyết quyết định hành chính, hành vi hành chính có liên quan thì người đại diện cho cơ quan, tổ chức, người có thẩm quyền đã ban hành quyết định hành chính có liên quan đó có phải tuân thủ việc ủy quyền theo quy định tại khoản 3 Điều 60 Luật tố tụng hành chính không?

Theo quy định tại khoản 3 Điều 60 Luật tố tụng hành chính thì:

“Trường hợp người bị kiện là cơ quan, tổ chức hoặc người đứng đầu cơ quan, tổ chức thì người bị kiện chỉ được ủy quyền cho cấp phó của mình đại diện. Người được ủy quyền phải tham gia vào quá trình giải quyết toàn bộ vụ án, thực hiện đầy đủ các quyền và nghĩa vụ của người bị kiện theo quy định của Luật này”.

Theo quy định nêu trên thì quyết định hành chính được ban hành bởi người có thẩm quyền hoặc cơ quan có thẩm quyền, nếu quyết định hành chính đó bị khởi kiện thì người có thẩm quyền hoặc người đứng đầu của cơ quan đó chỉ được ủy quyền cho cấp phó của mình đại diện tham gia với tư cách là người bị kiện trong vụ án hành chính. Như vậy, trong trường hợp vụ án có xem xét đến quyết định hành chính có liên quan thì người có thẩm quyền, cơ quan có thẩm quyền ban hành quyết định hành chính đó tham gia tố tụng với tư cách người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan nên không phải thực hiện theo quy định tại khoản 3 Điều 60 Luật tố tụng hành chính.

Các bạn có thể tải chi tiết tại file đính kèm tại đây.

 



 

[2] Khoản 1 Điều 445 BLTTHS quy định:

“Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự có thẩm quyền ra quyết định thi hành hình phạt tiền đối với pháp nhân. Trình tự, thủ tục thi hành hình phạt tiền được thực hiện theo quy định của Luật thi hành án dân sự…”

[3] Tiểu mục 7.1 Mục 7 Nghị quyết này hướng dẫn:

Người bị xử phạt tù nếu có nơi làm việc ổn định hoặc có nơi thường trú cụ thể, rõ ràng, đồng thời sau khi bị xử phạt tù không có hành vi vi phạm pháp luật nghiệm trọng, không có căn cứ cho rằng họ bỏ trốn và thuộc một trong các trường hợp sau đây thì được hoãn chấp hành hình phạt tù:

a) Là người bị bệnh nặng, tức là bị bệnh đến mức không thể đi chấp hành hình phạt tù được và nếu bắt đi chấp hành hình phạt tù sẽ nguy hiểm đến tính mạng của họ; do đó, cần thiết phải cho họ được hoãn chấp hành hình phạt tù để họ có điều kiện chữa bệnh; ví dụ: ung thư giai đoạn cuối, xơ gan cổ chướng, lao nặng độ 4 kháng thuốc, bại liệt, suy tim độ 3 trở lên, suy thận độ 4 trở lên, HIV chuyển giai đoạn AIDS đang có các nhiễm trùng cơ hội và có tiên lượng xấu... Phải có kết luận của bệnh viện cấp tỉnh trở lên về việc người bị xử phạt tù bị bệnh nặng và nếu bắt họ đi chấp hành hình phạt tù sẽ nguy hiểm đến tính mạng của họ.

[4] Xem phần II Giải đáp số 02/GĐ-TANDTC ngày 19-9-2016 giải đáp một số vấn đề về tố tụng hành chính, tố tụng dân sự.

[5] Xem (3) trang 12 Giải đáp này.

[6] Xem Câu 2 Giải đáp số 02/GĐ-TANDTC ngày 19-9-2016 về một số vấn đề tố tụng hành chính, tố tụng dân sự.

[7] Đối với trường hợp này nếu Tòa án ra quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự theo quy định tại Điều 212 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 thì theo quy định điểm c khoản 1 Điều 192 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 các đương sự không được quyền khởi kiện lại vụ án ly hôn.

[9] Thông tư số 144/2012/TT-BTC quy định:

Điều 2. Nguồn kinh phí thực hiện công tác tương trợ tư pháp

1. Ngân sách nhà nước.

2. Các khoản phí, lệ phí, chi phí liên quan đến ủy thác tư pháp về dân sự.

3. Các khoàn viện trợ, tài trợ và các khoản thu hợp pháp.”

Điều 3. Nội dung chi hỗ trợ công tác tưong trợ tư pháp

1. Chi cho việc xử lý hồ sơ ủy thác tư pháp: nghiên cứu, rà soát xác định tính hợp lệ và đầy đủ của hồ sơ, lập hồ sơ, chuyển hồ sơ cho cơ quan có thẩm quyền để giải quyết các yêu cầu tương trợ tư pháp.

2. Chi phí dịch các tài liệu có liên quan đến công tác tương trợ tư pháp.…

5. Chi thực hiện việc tống đạt trực tiếp hồ sơ ủy thác tư pháp tới đương sự: chi phí gửi hồ sơ ủy thác, chi đi lại, ăn ở của cán bộ thực hiện công tác tống đạt....

10. Chi phí chuyển phát tài liệu, hồ sơ tương trợ tư pháp ra nước ngoài và từ cơ quan đại điện Việt Nam ở nước ngoài về Việt Nam.…

17. Chi gửi hồ sơ tương trợ tư pháp từ các cơ quan đại diện Việt Nam ở nước ngoài cho đương sự hoặc cơ quan, tổ chức có thẩm quyền của nước ngoài.…”

Điều 5. Lập dự toán, quản lý, sử dụng và quyết toán kinh phí bảo đảm công tác tương trợ tư pháp

1. Kinh phí bảo đảm cho công tác tương trợ tư pháp của cơ quan, tổ chức thuộc cấp nào do ngân sách nhà nước cấp đó bảo đảm và được tổng hợp vào dự toán ngân sách hàng năm của cơ quan có thẩm quyền thực hiện công tác tương trợ tư pháp theo quy định tại Luật tương trợ tư pháp và Nghị định số 92/2008/NĐ-CP ngàv 22/8/2008 của Chính phủ quy dịnh chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Tương trợ tư pháp.

2. Hàng năm, căn cứ vào yêu cầu công tác tương trợ tư pháp và căn cứ vào nội dung chi, mức chi quy định tại Điều 3, Điều 4 của Thông tư này, các cơ quan lập dự toán kinh phí bảo đảm cho công tác tương trợ tư pháp tổng hợp chung vào dự toán ngân sách hàng năm gửi cơ quan có thẩm quyền theo quy định của Luật Ngân sách nhà nước và các văn bản hướng dẫn Luật.”

[10] Khoản 11 và khoản 21 Điều 8 của Nghị định số 24/2014/NĐ-CP quy định:

“11. Sở Lao động – Thương binh và Xã hội:

Tham mưu, giúp Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quản lý nhà nước về: Lao động; việc làm; dạy nghề; tiền lương; tiền công; bảo hiểm xã hội (bảo hiểm xã hội bắt buộc, bảo hiểm xã hội tự nguyện, bảo hiểm thất nghiệp); an toàn lao động; người có công; bảo trợ xã hội; bảo vệ và chăm sóc trẻ em; bình đẳng giới; phòng, chống tệ nạn xã hội.

12. Sở văn hóa, Thể thao và Du lịch

Tham mưu, giúp Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quản lý nhà nước về: Văn hóa; gia đình; thể dục, thể thao, du lịch và quảng cáo (không bao gồm nội dung quảng cáo quy định tại Khoản 10 Điều này); việc sử dụng Quốc kỳ, Quốc huy, Quốc ca và chân dung Chủ tịch Hồ Chí Minh theo quy định của pháp luật.”

[11] Khoản 5 và khoản 6 Điều 7 Nghị định số 37/2014/NĐ-CP quy định:

“5. Phòng Lao động – Thương binh và xã hội:

Tham mưu, giúp Ủy ban nhân dân cấp huyện thực hiện chức năng quản lý nhà nước về: Việc làm; dạy nghề; lao động, tiền lương; tiền công; bảo hiểm xã hội (bảo hiểm xã hội bắt buộc, bảo hiểm xã hội tự nguyện, bảo hiểm thất nghiệp); an toàn lao động; người có công; bảo trợ xã hội; bảo vệ và chăm sóc trẻ em; bình đẳng giới; phòng, chống tệ nạn xã hội.

6. Phòng Văn hóa và Thông tin:

Tham mưu, giúp Ủy ban nhân dân cấp huyện thực hiện chức năng quản lý nhà nước về: Văn hóa; gia đình; thể dục, thể thao; du lịch; quảng cáo; bưu chính; viễn thông; công nghệ thông tin; phát thanh truyền hình; báo chí; xuất bản; thông tin cơ sở; thông tin đối ngoại; hạ tầng thông tin.”

[12] Khoản 1 Điều 90 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định: Con có quyền nhận cha, mẹ của mình, kể cả trong trường hợp cha, mẹ đã chết”.

Khoản 2 Điều 101 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định: “Tòa án có thẩm quyền giải quyết việc xác định cha, mẹ, con trong trường hợp có tranh chấp hoặc người được yêu cầu xác định là cha, mẹ, con đã chết và trường hợp quy định tại Điều 92 của Luật này”.

Theo quy định tại điểm a khoản 3 Điều 102 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 thì “Cha, mẹ, con, người giám hộ”, theo quy định của pháp luật về tố tụng dân sự, có quyền yêu cầu Tòa án xác định cha, mẹ cho con chưa thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự; xác định con cho cha, mẹ chưa thành niên hoặc mất năng lực hành vi dân sự trong các trường hợp được quy định tại khoản 2 Điều 101 của Luật này.

Theo quy định tại khoản 10 Điều 29 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 thì “Yêu cầu xác định cha, mẹ cho con hoặc con cho cha, mẹ theo quy định của pháp luật về hôn nhân và gia đình” là yêu cầu về hôn nhân và gia đình thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án.

[13] Tham khảo khoản 2 và khoản 3 Điều 2 Dự thảo “Quy định về xử lý vi phạm đối với công chức, viên chức và người lao động trong các Tòa án nhân dân” của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao:

“2. Bản án, quyết định bị hủy, sửa do lỗi chủ quan của Thẩm phán là bản án , quyết định bị Tòa án cấp trên hủy hoặc sửa do vi phạm các quy định của pháp luật tố tụng, đánh giá chứng cứ không đúng, kết luận của bản án, quyết định không đúng với tài liệu có trong hồ sơ vụ án; áp dụng pháp luật sai dẫn đến quyết định không đúng.

3. Bản án, quyết định bị hủy, bị sửa do yếu tố khách quan là bản án, quyết định bị hủy, bị sửa vì có những tình tiết mà trong quá trình gải quyết Thẩm phán không thể biết; do pháp luật quy định quyền được thay đổi yêu cầu của người thạm gia tố tụng mà việc thay đổi đó là căn cứ để hủy, sửa bản án, quyết định; sau khi xét xử phát sinh tình tiết mới tăng nặng hoặc giảm nhẹ trách nhiệm của bị cáo hoặc những trường hợp theo quy định của pháp luật.”

 

  •  61615
  •  Cảm ơn
  •  Phản hồi

Chủ đề đang được đánh giá

0 Lượt cảm ơn
câu phản hồi
Click vào bảng để xem hiển thị đầy đủ thông tin

Bạn vui lòng đăng nhập hoặc Đăng ký tại đây để tham gia thảo luận

Loading…