DanLuat
Chào mừng bạn đến với Dân Luật . Để viết bài Tư vấn, Hỏi Luật Sư, kết nối với Luật sư và chuyên gia, … Bạn vui lòng ĐĂNG KÝ TÀI KHOẢN.
×

Thêm câu phản hồi

Bình luận án Dân sự

Cháu chào luật sư ạ!

Cháu là Bùi Thị Phương Mai, hiện đang là sinh viên năm 2 trường Đại học Luật Hà Nội.

Hiện tại cháu đang có một bài tập nhóm liên quan đến việc thừa kế, mà câu hỏi của cháu là bình luận về việc giải quyết của Tòa án. Nhưng cháu chưa được tiếp xúc với dạng bài này bao giờ nên cháu không biết phải bình luận như thế nào ạ. Vì vậy, cháu nhờ luật sư giúp cháu chỉ cho cháu cách bình luận một bản án. Cháu rất cảm ơn luật sư ạ!

đây là tình huống của cháu ạ.

"Vụ việc thứ 3: Ông Vũ Mạnh T (chết năm 1995) và bà Nguyễn Thúy A kết hôn ngày 9-1-1961 và sinh được 01 người con chung. Sau giải phóng, cả gia đình chuyển vào Nam sống tại Cần Thơ, còn ông T vào thành phố Hồ Chí Minh làm ăn. Năm 1978, Sở Quản lý nhà đất thành phố Hồ Chí Minh giao nhà số 00, đường Đ cho Sở Thương binh và xã hội để bố trí cho gia đình ông T tạm sử dụng. Sau đó, ông T chung sống với bà Nguyễn Thị M và có 3 người con chung. Năm 1992, ông T đã đóng tiền mua hóa giá căn nhà nói trên, nhưng sau đó Nhà nước tạm dừng việc mua bán nên ông T được hoàn tiền lại. Năm 1995, ông T chết, sau đó, bà Minh lấy danh nghĩa là vợ của ông T để ký hợp đồng thuê căn nhà 00 và sau đó mua hóa giá căn nhà này với giá 170.000.000 đồng. Do ông T là thương binh, có 26 năm công tác liên tục nên được hưởng theo chế độ chính sách người có công với cách mạng là 80.000.000 đồng. Vì vậy, bà M chỉ phải nộp tiền mua nhà là 90.000.000 đồng, sau khi thanh toán đủ số tiền nói trên, bà M đã làm thủ tục và được cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà và quyền sử dụng đất đối với nhà đất số 00. Năm 2005, bà Thúy A và người con chung của bà với ông T khởi kiện yêu cầu Tòa án xác định số tiền 80.000.000 đồng, tương đương với hơn 40% giá trị căn nhà là di sản thừa kế của ông T để chia di sản thừa kế của ông T cho vợ (chính thức) – bà A và các người con của ông T.

Tòa án nhân dân quận B nhận định, tuy bà M không được công nhận là vợ ông T nhưng bà M có 3 con chung với ông T; bà M và các con có tên trong hợp đồng thuê nhà thuộc sở hữu nhà nước nên bà M và các con đủ điều kiện để mua nhà đang thuê. Thực tế, bà A và con bà A có nhà ở ổn định tại Cần Thơ, không có tên trong hợp đồng thuê nhà và hộ khẩu tại nhà 00 đường Đ, nên không đủ kiện để mua nhà trên. Theo khoản 7 điều 2 Quyết định số 118/TTg ngày 27-2-1996 của Thủ tướng Chính phủ thì “...Trong trường hợp người có công với Cách mạng đã mất mà thân nhân chủ yếu của họ (bố, mẹ, vợ, chồng, con hoặc người nuôi dưỡng trực tiếp) thực sự có khó khăn về nhà ở thì địa phương xem xét hỗ trợ họ cải thiện nhà ở theo chính sách hiện hành.”. Do đó, chính quyền địa phương đã xem xét giải quyết cho bà M mua nhà thuộc sở hữu nhà nước và được hỗ trợ cải thiện nhà ở theo đúng tinh thần trên (nếu xác định bà M không đủ tiêu chuẩn để được hỗ trợ cải thiện nhà ở vì không phải là vợ của ông T thì các con bà M vẫn có đủ điều kiện để hưởng tiêu chuẩn này). Theo các Công văn số 1635/UBND-QLĐT ngày 21-6-2006, Công văn số 554/UBND-QLĐT ngày 9-3-2007 của Uỷ ban nhân dân quận trả lời bà M và Công văn số 968/UBND-QLĐT ngày 17-4-2007 của Uỷ ban nhân dân quận trả lời Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh có nội dung: bà M được xét miễn giảm khi mua nhà với tổng số tiền 80.000.000 đồng. Như vậy, số tiền 80.000.000 đồng là tiền bà M được nhà nước hỗ trợ khi mua nhà thuộc sở hữu nhà nước và nếu bà M không mua nhà thì sẽ không phát sinh khoản tiền này nên số tiền 80.000.000 đồng không phải là di sản của ông T để lại. Từ đó, Tòa án cấp sơ thẩm đã bác yêu cầu chia thừa kế của nguyên đơn.

Sau khi xét xử sơ thẩm, các nguyên đơn kháng cáo.

Tòa án cấp phúc thẩm nhận định, căn nhà 00, đường Đ do Sở Quản lý nhà đất thành phố Hồ Chí Minh giao cho Sở Thương binh và xã hội để bố trí cho gia đình ông T tạm sử dụng. Trường hợp này phải xác định Nhà nước có xem xét điều kiện hoàn cảnh gia đình ông T để bố trí nhà (tức bà A và các con có tiêu chuẩn ở tại nhà này, không phải tiêu chuẩn của bà M). Thực tế, bà A và các con không ở tại nhà trên mà sống tại Cần Thơ nên ông T cùng bà M sống tại nhà này. Trong vụ án cụ thể này, nguyên đơn không tranh chấp ai là người được quyền mua nhà đất nói trên mà chỉ tranh chấp số tiền 80.000.000 đồng theo tiêu chuẩn được hỗ trợ của ông T. Tại Công văn số 328/UBND-QLĐT ngày 10-2-2006 của Uỷ ban nhân dân quận trả lời Tòa án nhân dân quận có nội dung ông T được hưởng chính sách miễn giảm như sau: giá nhà được giảm 2.000.000 đồng (tương đương với 26 năm công tác); giá đất được giảm 78.000.000 đồng (do ông T là thương binh 2/4).Căn cứ tiểu mục 1.2 mục 1, phần III Nghị quyết số 02/2004/NQ-HĐTP ngày 10-8-2004 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao thì khoản tiền nêu trên là di sản của ông T. Từ nhận định như trên, Tòa án cấp phúc thẩm xác định hơn 40% giá trị căn nhà là di sản thừa kế của ông T, đồng thời căn cứ vào các quy định của pháp luật để chia di sản thừa kế của ông T.

 

a. Chỉ ra những căn cứ pháp lý để giải quyết vụ án 

b. Bình luận về việc giải quyết vụ án của Tòa án (nếu có) 

c. Đưa ra quan điểm của nhóm về giải quyết vụ án"

  •  17346
  •  Cảm ơn
  •  Phản hồi

Chủ đề đang được đánh giá

0 Lượt cảm ơn
câu phản hồi
Click vào bảng để xem hiển thị đầy đủ thông tin

Bạn vui lòng đăng nhập hoặc Đăng ký tại đây để tham gia thảo luận

Loading…