TÒA ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO
QUYẾT ĐỊNH GIÁM ĐỐC THẨM 127/2013/DS-GĐT NGÀY 24/09/2013 VỀ VỤ ÁN ĐÒI LẠI TÀI SẢN
….
Ngày 24/9/2013, tại trụ sở Toà án nhân dân tối cao đã mở phiên toà giám đốc thẩm xét xử vụ án dân sự tranh chấp về đòi lại tài sản giữa:
Nguyên đơn:
Ông Nguyễn Văn Kỷ sinh năm 1928 và vợ là bà Ngô Thị Mai sinh năm 1929; định cư tại Mỹ (địa chỉ: số 8588 Park Run Rd, San Diego, California, USA); ủy quyền cho ông Phạm Xuân Thu (trú tại nhà số 43C/5 khu phố 2, phường Tân Tiến, thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai) đại diện.
Bị đơn:
1. Bà Trần Thị Dung sinh năm 1935 (chết ngày 20/02/2010);
2. Anh Ngô Tiến Dũng sinh năm 1964;
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
Chị Đào Thị Thu sinh năm 1971;
(Bà Dung, anh Dũng, chị Thu đều trú tại nhà số 330/14/43 khu phố 5, phường Tân Tiến, thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai).
NHẬN THẤY
Tại Đơn khởi kiện ngày 20/6/2008 và quá trình tố tụng, nguyên đơn là ông Nguyễn Văn Kỷ, bà Ngô Thị Mai (do ông Phạm Xuân Thu đại diện theo ủy quyền) trình bày:
Trước năm 1990, ông Kỷ, bà Mai tạo lập được một căn nhà cấp 4 tường gạch, mái lợp tôn, nền láng xi măng trên diện tích 639,9m2 đất (nay có địa chỉ là số nhà 330/14/43 khu phố 5, phường Tân Tiến, thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai).
Năm 1990, ông Kỷ, bà Mai sang định cư tại Mỹ theo diện đoàn tụ gia đình. Trước khi xuất cảnh, ông Kỷ, bà Mai đã lập giấy tờ ủy quyền cho ông Ngô Văn Biểu (em ruột của bà Mai) trông coi quản lý nhà đất nêu trên.
Sau khi ông Kỷ, bà Mai xuất cảnh, ông Biểu là người trực tiếp quản lý, trông coi nhà đất. Ngày 06/01/1996, ông Biểu đã lập văn bản cam kết sẽ hoàn trả nhà đất cho ông Kỷ, bà Mai khi ông bà có yêu cầu. Năm 2002, ông Kỷ, bà Mai có ý định hồi hương nên ngày 01/3/2002, ông Biểu đã làm giấy hoàn trả nhà đất cho ông Kỷ, bà Mai. Cũng trong thời gian này, ông Biểu bị bệnh nặng nên vợ chồng anh Ngô Tiến Dũng (con của ông Biểu), chị Đào Thị Thu đã chuyển về sống cùng ông Biểu tại căn nhà nêu trên để chăm sóc ông Biểu. Ngày 07/01/2003, ông Biểu chết. Sau khi ông Biểu chết thì bà Trần Thị Dung (vợ của ông Biểu) và vợ chồng anh Dũng, chị Thu là những người trực tiếp quản lý, sử dụng nhà đất của ông Kỷ, bà Mai. Năm 2006, vợ chồng anh Dũng phá bỏ căn nhà cũ, xây nhà mới.
Nay ông Kỷ, bà Mai bà yêu cầu bà Dung và vợ chồng anh Dũng, chị Thu phải trả lại quyền sử dụng toàn bộ diện tích đất qua đo đạc thực tế là 649 m2. Sau khi nhận lại đất, ông bà sẽ giải quyết quyền lợi cho bà Dung và vợ chồng anh Dũng trên cơ sở tình cảm trong gia tộc.
Đồng bị đơn là bà Trần Thị Dung (do anh Ngô Tiến Dũng đại diện theo ủy quyền) và anh Ngô Tiến Dũng trình bày:
Nhà đất tranh chấp đúng là có nguồn gốc là của ông Kỷ, bà Mai, nhưng năm 1990, trước khi xuất cảnh, ông Kỷ, bà Mai đã làm văn bản ủy quyền cho ông Biểu, bà Dung được sở hữu nhà đất trên theo đúng thủ tục pháp luật quy định. Thực chất đó là sự trao đổi quyền lợi giữa hai gia đình, vì cùng thời điểm này, ông Kỷ, bà Mai đã chuyển nhượng thửa đất của ông Biểu, bà Dung (liền kề với nhà đất của ông Kỷ, bà Mai) cho Nhà dòng Nữ tỳ Thánh Thể được 3 cây vàng để lo chi phí xuất cảnh. Ngày 24/4/1990, ông Biểu, bà Dung đã được cơ quan có thẩm quyền cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở, quyền sử dụng đất ở.
Ông Biểu, bà Dung và vợ chồng anh Dũng đã quản lý, sử dụng nhà đất ổn định, thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ của chủ sử dụng đất đối với nhà nước. Bà Dung và vợ chồng anh Dũng hoàn toàn không biết việc ông Biểu lập văn bản cam kết trả lại nhà đất cho ông Kỷ, bà Mai. Năm 2006, do căn nhà cũ xuống cấp nghiêm trọng, không thể sử dụng được nữa, nên vợ chồng anh Dũng đã đầu tư tổng cộng 370.000.000 đồng để sửa chữa lại toàn bộ căn nhà; khi đó ông Kỷ, bà Mai có biết nhưng không có ý kiến gì. Bà Dung, anh Dũng không chấp nhận yêu cầu của ông Kỷ, bà Mai.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là chị Đào Thị Thu thống nhất với trình bày và quan điểm của anh Dũng.
Tại Bản án dân sự sơ thẩm số 04/2009/DSST ngày 14/7/2009, Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Nai quyết định:
Buộc bà Trần Thị Dung phải có trách nhiệm thanh toán số tiền 1.590.050.000 đồng cho ông Nguyễn Văn Kỷ, bà Ngô Thị Mai.
Bà Trần Thị Dung được quyền sử dụng 649m2 đất tại thửa số 129, tờ bản đồ số 14, khu phố 5, phường Tân Tiến, thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai (theo hồ sơ kỹ thuật thửa đất số 1436/2009 ngày 07/4/2009 của Trung tâm kỹ thuật địa chính nhà đất tỉnh Đồng Nai). Bà Dung liên hệ với cơ quan Nhà nước có thẩm quyền xin cấp quyền sử dụng đất theo quy định.
Ngày 24/7/2009, ông Nguyễn Văn Kỷ, bà Ngô Thị Mai có đơn kháng cáo, đề nghị Tòa án cấp phúc thẩm sửa án sơ thẩm, chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.
Tại Bản án dân sự phúc thẩm số 70/2010/DSPT ngày 08/4/2010, Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại thành phố Hồ Chí Minh quyết định sửa bản án sơ thẩm:
Buộc bà Trần Thị Dung và anh Ngô Tiến Dũng có trách nhiệm thanh toán cho ông Nguyễn Văn Kỷ, bà Ngô Thị Mai số tiền 3.180.100.000 đồng. Sau khi bà Dung, anh Dũng thanh toán xong số tiền trên thì được quyền làm các thủ tục để xin cấp quyền sở hữu nhà và quyền sử dụng đất tọa lạc tại thửa số 129, tờ bản đồ số 14, khu phố 5, phường Tân Tiến, thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai theo đúng quy định của pháp luật.
Ngày 27/8/2010, anh Ngô Tiến Dũng cùng với những người con khác của bà Trần Thị Dung, ông Ngô Văn Biểu là chị Ngô Thị Tuyết, anh Ngô Tấn Tài, anh Ngô Thời Nhiệm, anh Ngô Trọng Nghĩa và chị Ngô Thị Ánh Hồng có đơn đề nghị giám đốc thẩm, cho rằng Tòa án cấp phúc thẩm vi phạm về thủ tục tố tụng và việc giải quyết về nội dung vụ án cũng không đúng với sự thật khách quan.
Tại Quyết định số 98/2013/KN-DS ngày 15/3/2013, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao quyết định:
Kháng nghị Bản án dân sự phúc thẩm số 70/2010/DSPT ngày 08/4/2010 của Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại thành phố Hồ Chí Minh;
Đề nghị Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hủy bản án dân sự phúc thẩm nêu trên và hủy Bản án dân sự sơ thẩm số 04/2009/DSST ngày 14/7/2009 của Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Nai; giao hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Nai xét xử sơ thẩm lại theo đúng quy định của pháp luật.
Tại phiên tòa giám đốc thẩm, đại diện Viện kiểm sát nhân dân tối cao đề nghị Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao chấp nhận kháng nghị của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao.
XÉT THẤY
1/ Về việc giải quyết nội dung quan hệ pháp luật có tranh chấp:
Căn cứ vào “Đơn xin ủy quyền nhà” ngày 26/02/1990, “Đơn xin cấp giấy chứng nhận không nhà đất” ngày 01/3/1990 của ông Kỷ, bà Mai, “Giấy xác nhận lời cam kết về tài sản” (được công chứng cùng ngày 08/01/1996) và “Đăng ký nhà ở và đất ở” ngày 24/01/2000, “Giấy hoàn trả tài sản” của ông Biểu (được Ủy ban nhân dân phường Tân Tiến, thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai chứng thực ngày 10/4/2002) thì có đủ cơ sở xác định trước khi xuất cảnh sang Mỹ, vợ chồng ông Nguyễn Văn Kỷ, bà Ngô Thị Mai chỉ ủy quyền cho ông Ngô Văn Biểu, bà Trần Thị Dung đứng tên sở hữu căn nhà.
Bà Dung, anh Dũng cho rằng ông Kỷ, bà Mai đã chuyển nhượng thửa đất thuộc quyền sử dụng của ông Biểu, bà Dung lấy 3 cây vàng để lo chi phí xuất cảnh, nên việc ông Kỷ, bà Mai làm giấy tờ ủy quyền cho ông Biểu, bà Dung sở hữu căn nhà của ông Kỷ, bà Mai thực chất là sự trao đổi quyền lợi giữa hai gia đình nhưng bà Dung, anh Dũng không xuất trình được chứng cứ chứng minh. Hơn nữa, cũng không có căn cứ xác định ông Kỷ, bà Mai đã tặng cho ông Biểu, bà Dung căn nhà.
Do đó, Tòa án cấp phúc thẩm buộc phía bị đơn phải hoàn trả cho nguyên đơn giá trị quyền sử dụng toàn bộ thửa đất là có căn cứ. Tuy nhiên, ông Biểu, sau đó là bà Dung và vợ chồng anh Dũng, chị Thu đã có công quản lý, gìn giữ tài sản nhà đất của ông Kỷ, bà Mai trong một thời gian dài, đã thực hiện đầy đủ nghĩa vụ của chủ sử dụng đất đối với nhà nước. Tòa án cấp phúc thẩm không xem xét công sức của ông Biểu, bà Dung và vợ chồng anh Dũng trong việc quản lý, gìn giữ quyền sử dụng diện tích đất của ông Kỷ, bà Mai là chưa đảm bảo quyền lợi của bị đơn và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan.
2/ Về thủ tục tố tụng:
Ông Biểu chết năm 2003. Khi xảy ra tranh chấp, bà Dung ủy quyền cho anh Dũng đại diện tham gia tố tụng. Trong giai đoạn chuẩn bị xét xử phúc thẩm, ngày 20/02/2010 thì bà Dung chết. Tòa án cấp sơ thẩm không đưa đầy đủ những người thừa kế quyền và nghĩa vụ của ông Biểu vào tham gia tố tụng, còn Tòa án cấp phúc thẩm vẫn xác định bà Dung là bị đơn (do anh Dũng đại diện theo ủy quyền), mà không đưa những người kế thừa quyền và nghĩa vụ tố tụng của bà Dung vào tham gia tố tụng đều là vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng.
Bởi các lẽ trên;
Căn cứ khoản 3 Điều 291, khoản 3 Điều 297, Điều 299 Bộ luật tố tụng dân sự;
QUYẾT ĐỊNH
1- Hủy toàn bộ Bản án dân sự phúc thẩm số 70/2010/DS-PT ngày 08/04/2010 của Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại thành phố Hồ Chí Minh và hủy toàn bộ Bản án dân sự sơ thẩm số 04/2009/DS-ST ngày 14/07/2009 của Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Nai về vụ án “Đòi lại tài sản” giữa nguyên đơn là ông Nguyễn Văn Kỷ, bà Ngô Thị Mai với các bị đơn là bà Trần Thị Dung và anh Ngô Tiến Dũng; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là chị Đào Thị Thu.
2- Giao hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Nai xét xử sơ thẩm lại vụ án theo đúng quy định của pháp luật.
NỘI DUNG DỰ KIẾN ĐỀ XUẤT CÔNG NHẬN LÀM ÁN LỆ
Trong Quyết định giám đốc thẩm đã chỉ ra vấn đề pháp lý có giá trị hướng dẫn xét xử là:
Khi giải quyết các tranh chấp về đòi lại tài sản, trường hợp Tòa án giải quyết buộc người đang quản lý, sử dụng tài sản phải trả lại tài sản cho chủ sở hữu, người có quyền sử dụng tài sản (trả bằng hiện vật hoặc giá trị) thì phải xem xét công sức trong việc quản lý, gìn giữ tài sản của những người tham gia vào việc quản lý, gìn giữ tài sản đó.
Cụ thể, Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao đã nhận định:
“Ông Biểu, sau đó là bà Dung và vợ chồng anh Dũng, chị Thu đã có công quản lý, gìn giữ tài sản nhà đất của ông Kỷ, bà Mai trong một thời gian dài, đã thực hiện đầy đủ nghĩa vụ của chủ sử dụng đất đối với nhà nước. Tòa án cấp phúc thẩm không xem xét công sức của ông Biểu, bà Dung và vợ chồng anh Dũng trong việc quản lý, gìn giữ quyền sử dụng diện tích đất của ông Kỷ, bà Mai là chưa đảm bảo quyền lợi của bị đơn và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan.”