DanLuat
Chào mừng bạn đến với Dân Luật . Để viết bài Tư vấn, Hỏi Luật Sư, kết nối với Luật sư và chuyên gia, … Bạn vui lòng ĐĂNG KÝ TÀI KHOẢN.
×

Thêm câu phản hồi

Rút kinh nghiệm vụ án tranh chấp quyền sử dụng đất tại Vĩnh Long

Rút kinh nghiệm vụ án tranh chấp quyền sử dụng đất ở Vĩnh Long - Minh họa

Rút kinh nghiệm vụ án tranh chấp quyền sử dụng đất ở Vĩnh Long - Minh họa

Ngày 20/7/2021, Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại TP. HCM ra Thông báo 51/TB-VC3-V2 rút kinh nghiệm vụ án “Tranh chấp quyền sử dụng đất” xảy ra tại tỉnh Vĩnh Long giữa nguyên đơn ông Nguyễn Văn be với bị đơn bà Võ Thị Xe.

1. Nội dung vụ án:

Ngày 08/02/2007, ông Nguyễn Văn Be được Ủy ban nhân dân (UBND) huyện Bình Minh cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (GCNQSDĐ) diện tích 5.712,6m2, thuộc thửa 294, tờ bản đồ số 2, ấp Tân Trung, xã Tân Bình, huyện Bình Minh, tỉnh Vĩnh Long (Thửa 294), nguồn gốc nhận thừa kế từ cụ Nguyễn Văn Anh. Trước đây, cụ ảnh cho bà Võ Thị Xê và vợ chồng ông Bùi Văn Đủ, bà Châu Thị Út ở nhờ một nền nhà 400m2 và mượn 02 liếp đất vườn khoảng 1200m2 để canh tác trên Thửa 294. Năm 2010, khi tiến hành đo đạc theo chương trình Vlap thì bà Xê, ông Đủ, bà Út tranh chấp với ông Be, yêu cầu ông Bẹ phải tách quyền sử dụng đất cho bà Xê, ông Đủ, bà Út, ông Bể yêu cầu Tòa án buộc bà Võ Thị Xê, ông Bùi Văn Đủ, bà Châu Thị Út và các con của ông Đủ, bà Ủt phải có trách nhiệm di dời nhà cửa, vật kiến trúc, cây trồng gắn liền với quyền sử dụng 1,600mỏ đất thuộc một phần Thửa 294 để trả lại cho gia đình ông.

Bà Xê, ông Đủ, bà Ủt không đồng ý yêu cầu khởi kiện của ông Be với lý do nguồn gốc đất tranh chấp là của cụ Nguyễn Văn Quới (ông nội của ông Nguyễn Văn Be) bản cho cụ Cao Thị Kiệt (bà cố của ông Bùi Văn Đủ) từ năm 1940, khi cụ Kiệt qua đời thì cụ Huỳnh Thị Nho (bà nội của ông Đủ) tiếp tục canh tác, sau đó cụ Bùi Văn A (cha ông Đủ) tiếp tục canh tác, Cụ Bùi Văn A chết thì cụ Võ Thị Xê (mẹ ông Đủ) và ông Đủ tiếp tục canh tác sử dụng cho đến nay.

Theo chương trình đo Vlap năm 2010, ông Be cho rằng đã có GCNQSDĐ nên đã chặt phá những cây gia đình bà Xê trồng và trồng xen cây vào trên đất tranh chấp. Phần đất tranh chấp, cụ Bùi Văn A có kê khai đăng ký sổ mục kê thửa 1564, tờ bản đồ số 2, diện tích 1200m2 và thửa 1566 diện tích 400m2 ở tờ bản đồ số 2 tại ấp Tân Trung, xã Tân Bình, huyện Bình Tân (nay là huyện Bình Minh), tỉnh Vĩnh Long. Bà Xê yêu cầu hủy một phần GCNQSDĐ Thửa 294 đã cấp cho ông Be, công nhận quyền sử dụng thửa đất 1564 và thửa đất 1566 cho Ông Đủ.

UBND huyện Bình Minh trình bày: Thửa 294 hình thành năm 1991 gồm 03 thửa 1564, 1655, 1656. Ngày 31/3/1991, cụ Nguyễn Văn Anh xin cấp quyền sử dụng Thửa 294 và được Hội đồng đăng ký đất của xã xét cấp. Ngày 01/10/1996, UBND huyện Bình Minh cấp GCNQSDĐ Thửa 294, diện tích 6.300m2 cho cụ Ảnh. Năm 2005, cụ Anh để lại thừa kế cho ông Be. Năm 2007, ông Be được cấp GCNQSDĐ Thửa 294 diện tích 5,712,6m2.

2. Quá trình giải quyết vụ án

Tại Bản án số 40/2018 DS-ST, ngày 08/11/2018, TAND huyện Bình Minh, tỉnh Vĩnh Long (Bản án sơ thẩm), đã quyết định:

Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơm ông Nguyễn Văn Be buộc bà Xê, ông Đà, bà Út và các con của ông Đủ và bà Ủt phải có trách nhiệm di dời nhà cửa, vật kiến trúc, cây trồng gắn liền với quyền sử dụng đất chiết thừa 294-1 diện tích 150,4m2, chiết thửa 294-2 diện tích 119,2m2; chiết thửa 294-3 diện tích 755,8m2; chiết thửa 194-4 diện tích 472,4m2.

Chấp nhận yêu cầu phản tố của bị đơn ông Bùi Văn Đà: hủy một phần GCNQSDĐ thửa 294, diện tích 5.712,6m2, do ông Be đứng tên quyền sử dụng đất. Công nhận cho ông Đủ các phần đất thuộc: Chiết thửa 294-1 diện tích 150,4m2, chiết thửa 294-2 diện tích 119,2m2; chiết thửa 294-3 diện tích 755,8m2; chiết thửa 194-4 diện tích 472,4m2.

Công nhận phân cây trồng cho ông Bùi Văn Đủ được quyền sử dụng nhưng hoàn lại giá trị cây trồng cho ông Nguyễn Văn Be là 9.460.000 đồng.

Ngoài ra, Bản án sơ thẩm còn quyết định về các vấn đề liên quan khác. Ngày 20/11/2018, ông Nguyễn Văn Bé khảng cáo Bản án sơ thẩm.

Tại Bản án số 114/2014/DS-PT, ngày 10/6/2019 của TAND tỉnh Vĩnh Long (Bản án phúc thẩm), đã quyết định:

Chấp nhận kháng cáo của ông Nguyễn Văn Be; Sửa Bản án sơ thẩm Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn Văn Be.

Công nhận ông Be được quyền sử dụng phần đất chiết thửa 194-3 diện tích 755,8m, chiết thửa 294-4 diện tích 472,4m.

Buộc bà Xê, ông Đủ, bà Út trả lại cho ông Be các phần đất thuộc chiết thửa 294-3 diện tích 755,8m2, chiết thửa 294-4 diện tích 472,4m2 (kèm theo trích đo bản đồ địa chính khu đất).

Ông Be được quyền sở hữu các cây trồng gắn liền phần chiết thừa 294-3 diện tích 755,8m2, Buộc ông Be có trách nhiệm hoàn trả giá trị cây trồng cho bà Xê, ông Đủ, bà Ủt số tiền 7.175.000 đồng.

Chấp nhận một phần yêu cầu phản tố của bị đơn Bùi Văn Đủ.

Công nhận cho bà Xê, ông Đủ, bà Ủt được quyền sử dụng phần đất thuộc chiết thửa 294-1 diện tích 150,4m2 (trong đó có 105,2m2 đất ở nông thôn và 45,2m2 đất trồng cây lâu năm) và chiết thửa 294-2 diện tích 119,2m2 (kèm theo trích đo bản đồ địa chính khu đất).

Buộc bà Xe, ông Đủ và bà Út có trách nhiệm hoàn trả lại giá trị phần đất thuộc chiết thửa 294-1 diện tích 150,4m2 và chiết thửa 294-2 diện tích 119,2m2 cho ông Be bằng số tiền 34.324.000 đồng.

Bà Xe, ông Đà, bà Ủt được quyền sở hữu các cây trồng gắn liền phần đất chiết thửa 294-2 diện tích 119,2m2. Buộc bà Xê, ông Đà, bà Ủt có trách nhiệm hoàn trả giá trị cây trồng cho ông Be số tiền 2.325.000 đồng.

Ghi nhận sự tự nguyện của ông Be đồng ý để ngôi mộ của ông Bùi Văn A được tồn tại trên phần đất chiết thửa 294-3. Ông Be và các thành viên trong gia đình ông Be phải tạo mọi điều kiện thuận lợi để con cháu ông A đi vào chăm sóc, viếng mộ ông A theo phong tục tập quán.

Ngoài ra, Bản án phúc thẩm còn quyết định về các vấn đề liên quan khác.

Ông Bùi Văn Đủ có đơn đề nghị kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm đối với Bản án phúc thẩm.

Tại Quyết định giám đốc thẩm số 172/2021/DS-GĐT ngày 14/5/2021 của Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh đã chấp nhận toàn bộ Quyết định kháng nghị giám đốc thẩm số 64/QĐĂNGĐT-VKS-DS, ngày 01/02/2021 của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh về việc hủy Bản án phúc thẩm và giữ nguyên Bản án sơ thẩm.

Xem chi tiết nội dung rút kinh nghiệm tại file đính kèm.

  •  1817
  •  Cảm ơn
  •  Phản hồi

Chủ đề đang được đánh giá

0 Lượt cảm ơn
câu phản hồi
Click vào bảng để xem hiển thị đầy đủ thông tin

Bạn vui lòng đăng nhập hoặc Đăng ký tại đây để tham gia thảo luận

Loading…