Theo quy định tại Điều 107 Bộ luật Lao động 2019, người sử dụng lao động cần đảm bảo số giờ làm thêm không vượt quá 40 giờ/tháng và không vượt quá 200 giờ/năm. Tuy nhiên, doanh nghiệp vẫn được phép sử dụng lao động làm thêm vượt quá hạn mức trên nếu được sự đồng ý của người lao động và thuộc một trong các trường hợp dưới đây:
Trường hợp 1: DN được phép sử dụng lao động làm thêm trên 200 giờ/năm nhưng không quá 300 giờ/năm trong những ngành, nghề, công việc sau:
- Sản xuất, cung cấp điện, viễn thông, lọc dầu; cấp, thoát nước;
- Trường hợp khác do Chính phủ quy định.
(Căn cứ Khoản 3 Điều 107 Bộ luật Lao động 2019)
Trường hợp 2: Nếu không thuộc các ngành, nghề, công việc nêu trên thì căn cứ theo Điều 1 Nghị quyết 17/2022/UBTVQH15, doanh nghiệp vẫn được yêu cầu người lao động (NLĐ) làm việc vượt quá 200 giờ/năm nhưng không quá 300 giờ/năm, trừ các trường hợp sau:
- NLĐ từ đủ 15 tuổi đến chưa đủ 18 tuổi;
- NLĐ là người khuyết tật nhẹ suy giảm khả năng lao động từ 51% trở lên, khuyết tật nặng hoặc khuyết tật đặc biệt nặng;
- NLĐ làm nghề, công việc nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm hoặc đặc biệt nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm;
- Lao động nữ mang thai từ tháng thứ 7 hoặc từ tháng thứ 6 nếu làm việc ở vùng cao, vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo;
- Lao động nữ đang nuôi con dưới 12 tháng tuổi.
Trường hợp 3: Doanh nghiệp có quyền yêu cầu NLĐ làm thêm giờ vào bất kỳ ngày nào mà không bị giới hạn về số giờ làm thêm và NLĐ không được từ chối trong trường hợp sau đây:
- Thực hiện lệnh động viên, huy động bảo đảm nhiệm vụ quốc phòng, an ninh theo quy định của pháp luật;
(Căn cứ Điều 108 Bộ luật Lao động 2019)