DanLuat
Chào mừng bạn đến với Dân Luật . Để viết bài Tư vấn, Hỏi Luật Sư, kết nối với Luật sư và chuyên gia, … Bạn vui lòng ĐĂNG KÝ TÀI KHOẢN.
×

Thêm câu phản hồi

03 vấn đề liên quan đến thời hiệu cần lưu ý

Bài viết dưới đây mình sẽ đề cập đến một số điểm đáng chú ý về chế định thời hiệu theo quy định tại Bộ luật dân sự 2015 mà bạn đọc cần chú ý

Thời hiệu khởi kiện là thời hạn mà chủ thể được quyền khởi kiện để yêu cầu Tòa án giải quyết vụ án dân sự bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp bị xâm phạm; nếu thời hạn đó kết thúc thì mất quyền khởi kiện. Thời hiệu khởi kiện vụ án dân sự được tính từ ngày người có quyền yêu cầu biết hoặc phải biết quyền, lợi ích hợp pháp của mình bị xâm phạm, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác. (Khoản 1 Điều 154 Bộ luật dân sự 2015).

***Đối với thời hiệu khởi kiện yêu cầu bồi thường thiệt hại:

Bộ luật dân sự 2005

Bộ luật dân sự 2015

 Điều 607 quy định: “Thời hiệu khởi kiện yêu cầu bồi thường thiệt hại là 02 năm, kể từ ngày quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, pháp nhân, chủ thể khác bị xâm phạm.”

Điều 588 quy định “Thời hiệu khởi kiện yêu cầu bồi thường thiệt hại là 03 nămkể từ ngày người có quyền yêu cầu biết hoặc phải biết quyền, lợi ích hợp pháp của mình bị xâm hại”.

Như vậy, căn cứ vào các quy định trên thì Bộ luật dân sự 2015 về thời hiệu khởi kiện yêu cầu bồi thường thiệt hại đã có 02 sự thay đổi:

- Thứ nhất: Thời hiệu khởi kiện

Thời hiệu khởi kiện là 03 năm chứ không phải là 02 năm như Bộ luật Dân sự 2005.

- Thứ hai: Thời điểm tính thời hiệu

Bộ luật dân sự 2015 quy định thời điểm tính thời hiệu là được tính kể từ ngày người có quyền yêu cầu biết hoặc phải biết quyền, lợi ích hợp pháp của mình bị xâm hại chứ không phải kể từ ngày quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, pháp nhân, chủ thể khác bị xâm phạm như quy định trước đó tại Bộ luật dân sự 2005.

 Có thể thấy, với sự thay đổi trong quy định trên rại Bộ luật dân sự 2015 giúp bảo vệ tốt hơn cho quyền của người bị xâm phạm, bởi trong nhiều trường hợp thì thời điểm chủ thể bị xâm phạm “biết” và thời điểm quyền, lợi ích “bị xâm phạm” là không trùng khớp với nhau. Do đó, nếu chúng ta tiếp nhận thời điểm tính thời hiệu từ khi chủ thể “biết” thì sẽ thuận lợi cho chính chủ thể bị xâm phạm đó do nếu xét như thế thì thời hiệu sẽ bắt đầu chậm hơn và sẽ đảm bảo cho việc bảo vệ quyền lợi của chủ thể bị xâm phạm có yêu cầu bồi thường thiệt hại một cách triệt để hơn.

*** Đối với thời hiệu về thừa kế:

Bộ luật dân sự 2005

Bộ luật dân sự 2015

Điều 645 quy định “Thời hiệu khởi kiện để người thừa kế yêu cầu chia di sản, xác nhận quyền thừa kế của mình hoặc bác bỏ quyền thừa kế của người khác là 10 năm, kể từ thời điểm mở thừa kế. Thời hiệu khởi kiện để yêu cầu người thừa kế thực hiện nghĩa vụ về tài sản của người chết để lại là ba năm, kể từ thời điểm mở thừa kế”.

Điều 623 quy định “Thời hiệu để người thừa kế yêu cầu chia di sản là 30 năm đối với bất động sản, 10 năm đối với động sản, kể từ thời điểm mở thừa kế…”

 

Như vậy, theo quy định tại Bộ luật dân sự 2015 thì thời hiệu để người thừa kế yêu cầu chia di sản được chia thành 02 loại riêng biệt:

Đối với bất động sản là: 30 năm chứ không phải 10 năm như quy định trước đây tại Bộ luật dân sự 2005.

+ Đối với động sản là: 10 năm (giống quy định tại Bộ luật dân sự 2005).

Theo đó, Bộ luật dân sự 2015 đã kéo dài thời hiệu khởi kiện về thừa kế đối với bất động sản. Điều này có thể được lý giải từ thực tiễn những vụ việc liên quan đến thừa kế bất động sản thường khá phức tạp và để đảm bảo quyền lợi cho các bên liên quan thì việc kéo dài thời hiệu giải quyết là đúng đắn, giúp đi đến giải quyết vụ việc một cách triệt để và chính xác nhất.

 *** Giải quyết vụ việc khi hết thời hiệu khởi kiện:

Bộ luật Dân sự 2015 quy định về thời hiệu theo nguyên tắc: Cá nhân, pháp nhân phải yêu cầu Tòa án, trọng tài giải quyết vụ, việc trong thời hạn luật định, hết thời hạn đó mà cá nhân mới có yêu cầu thì thay vì từ chối thụ lý giải quyết vụ việc vì lý do hết thời hiệu theo như quy định của Bộ luật Dân sự 2005, Tòa án hoặc Trọng tài vẫn thụ lý, giải quyết và tuyên bố chủ thể được hưởng quyền dân sự hoặc được miễn trừ nghĩa vụ dân sự. Bởi vì, tại Khoản 2 Điều 149 Bộ luật Dân sự 2015 có quy định mới về vấn đề thời hiệu đó là:

Tòa án chỉ áp dụng quy định về thời hiệu theo yêu cầu áp dụng thời hiệu của một bên hoặc các bên với điều kiện yêu cầu này phải được đưa ra trước khi Tòa án cấp sơ thẩm ra bản án, quyết định giải quyết vụ, việc”.

Và quy định này cũng được cụ thể hóa tại Điều 184 Bộ luật tố tụng dân sự 2015.

Theo đó, với quy định mới nêu trên thì dù thời hiệu khởi kiện đã hết nhưng nếu đương sự không có yêu cầu áp dụng thời hiệu thì Tòa án thụ lý vẫn sẽ tiến hành giải quyết. Còn nếu trong quá trình giải quyết tính đến trước khi Tòa án cấp sơ thẩm ra bản án, quyết định giải quyết vụ, việc mà một bên hoặc các bên yêu cầu Tòa án áp dụng thời hiệu thì lúc này Tòa án mới áp dụng quy định về thời hiệu để đình chỉ việc giải quyết vụ án.

  •  8509
  •  Cảm ơn
  •  Phản hồi

Chủ đề đang được đánh giá

0 Lượt cảm ơn
câu phản hồi
Click vào bảng để xem hiển thị đầy đủ thông tin

Bạn vui lòng đăng nhập hoặc Đăng ký tại đây để tham gia thảo luận

Loading…