DanLuat
Chào mừng bạn đến với Dân Luật . Để viết bài Tư vấn, Hỏi Luật Sư, kết nối với Luật sư và chuyên gia, … Bạn vui lòng ĐĂNG KÝ TÀI KHOẢN.
×

Thêm câu phản hồi

Quy định mới về việc viết giá tiền trong hợp đồng kinh tế

 

Em tra trên Website Bộ Tài chính thấy mục này

Câu hỏi:

Tôi muốn có một số thắc mắc về quy định quản lý ngoại hối muốn hỏi Quý Bộ như sau:

Câu 1. Hai công ty Việt Nam, ký kết với nhau hợp đồng trong đó có điều khoản ghi giá trị hợp đồng là ngoại tệ, phương thức thanh toán là VND theo tỷ giá của ngoại tệ đó tại thời điểm thanh toán. Việc quy định như vậy có vi phạm quy định pháp luật hay không?

Câu 2. Vẫn hai công ty VN. Nếu ghi đơn giá là VND tương đương với ngoại tệ (USD) và phương thức thanh toán là VND. Kèm theo đó là chú thích về tỷ giá (USD) tại thời điểm ký hợp đồng. Việc thỏa thuận như vậy có trái với quy định của pháp luật hay không?

Câu 3. Một công ty VN và một Công ty được thành lập ở nước ngoài có được thỏa thuận về đơn giá và phương thức thanh toán bằng ngoại tệ không? Nếu doanh nghiệp đó là 100% vốn NN được thành lập theo quy định của VN thì có được thỏa thuận như trên không?

Trả lời:

Câu 1. Điều 22 Pháp lệnh ngoại hối 2005 quy định: “Trên lãnh thổ Việt Nam, mọi giao dịch, thanh toán, niêm yết, quảng cáo của người cư trú, người không cư trú không được thực hiện bằng ngoại hối, trừ các giao dịch với tổ chức tín dụng, các trường hợp thanh toán thông qua trung gian gồm thu hộ, uỷ thác, đại lý và các trường hợp cần thiết khác được Thủ tướng Chính phủ cho phép”.

Theo Điều 29 – Quy định hạn chế sử dụng ngoại hối tại Nghị định 160/2006/NĐ-CP ngày 28/12/2006 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành Pháp lệnh ngoại hối 2005:

Trên lãnh thổ Việt Nam, mọi giao dịch, thanh toán, niêm yết, quảng cáo của người cư trú, người không cư trú không được thực hiện bằng ngoại hối trừ các trường hợp sau:

1. Các giao dịch với tổ chức tín dụng và tổ chức khác được phép cung ứng dịch vụ ngoại hối;

2. Người cư trú là tổ chức được điều chuyển vốn nội bộ bằng ngoại tệ chuyển khoản (giữa đơn vị có tư cách pháp nhân với đơn vị hạch toán phụ thuộc và ngược lại);

3. Người cư trú được góp vốn bằng ngoại tệ để thực hiện dự án đầu tư nước ngoài tại Việt Nam;

4. Người cư trú được nhận thanh toán bằng ngoại tệ chuyển khoản theo hợp đồng uỷ thác xuất, nhập khẩu;

5. Người cư trú là nhà thầu trong nước, nhà thầu nước ngoài được nhận thanh toán bằng ngoại tệ chuyển khoản từ chủ đầu tư, nhà thầu chính để thanh toán, chi trả và chuyển ra nước ngoài;

6. Người cư trú là tổ chức kinh doanh dịch vụ bảo hiểm được nhận ngoại tệ chuyển khoản của người mua bảo hiểm đối với các loại hàng hoá và dịch vụ phải mua tái bảo hiểm ở nước ngoài;

7. Người cư trú là tổ chức kinh doanh hàng miễn thuế, tổ chức cung ứng dịch vụ ở khu cách ly tại các cửa khẩu quốc tế, tổ chức kinh doanh kho ngoại quan được nhận thanh toán bằng ngoại tệ và đồng Việt Nam từ việc cung cấp hàng hoá và cung ứng dịch vụ;

8. Người cư trú là cơ quan hải quan, công an cửa khẩu tại các cửa khẩu quốc tế và kho ngoại quan được nhận ngoại tệ từ người không cư trú đối với các loại thuế, phí thị thực xuất nhập cảnh hoặc phí cung ứng dịch vụ;

9. Người không cư trú là cơ quan ngoại giao, cơ quan lãnh sự được thu phí thị thực xuất nhập cảnh và các loại phí, lệ phí khác bằng ngoại tệ;

10. Người không cư trú và người cư trú là người nước ngoài được nhận lương, thưởng và phụ cấp bằng ngoại tệ từ người cư trú, người không cư trú là tổ chức;

11. Người không cư trú được chuyển khoản bằng ngoại tệ cho người không cư trú khác hoặc thanh toán cho người cư trú tiền xuất khẩu hàng hoá và dịch vụ;

12. Các trường hợp khác được Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam xem xét, chấp thuận”.

Như vậy, trong trường hợp giao dịch của hai công ty Việt Nam không thuộc các trường hợp quy định từ khoản 1 đến khoản 12 Điều 29 Nghị định 160/2006/NĐ-CP thì giao dịch đó vi phạm pháp luật ngoại hối.

Câu 2: Việc thoả thuận như trên không trái pháp luật ngoại hối.

            Câu 3: Theo quy định tại Điều 5 Nghị định 160/2006/NĐ-CP:

Trên lãnh thổ Việt Nam, tất cả các giao dịch thanh toán và chuyển tiền đối với giao dịch vãng lai của người cư trú và người không cư trú được tự do thực hiện phù hợp với các quy định tại Nghị định này và các quy định pháp luật khác có liên quan theo các nguyên tắc sau:

1. Người cư trú, người không cư trú được mua, chuyển, mang ngoại tệ ra nước ngoài phục vụ các nhu cầu thanh toán và chuyển tiền đối với giao dịch vãng lai;

2. Người cư trú, người không cư trú có trách nhiệm xuất trình các chứng từ theo quy định của tổ chức tín dụng khi mua, chuyển, mang ngoại tệ ra nước ngoài phục vụ các giao dịch vãng lai và chịu trách nhiệm trước pháp luật về tính xác thực của các loại giấy tờ, chứng từ đã xuất trình cho tổ chức tín dụng được phép.

3. Khi mua, chuyển, mang ngoại tệ ra nước ngoài phục vụ các giao dịch vãng lai, người cư trú, người không cư trú không phải xuất trình các chứng từ liên quan đến việc xác nhận hoàn thành nghĩa vụ thuế với Nhà nước Việt Nam”.

- Trường hợp doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài được thành lập theo quy định của pháp luật Việt Nam có giao dịch với một công ty Việt Nam thì hai doanh nghiệp đó được thoả thuận về đơn giá và phương thức thanh toán bằng ngoại tệ nếu thuộc các trường hợp quy định từ khoản 1 đến khoản 12 Điều 29 Nghị định 160/2006/NĐ-CP./.

Cty em đang ở trường hợp Câu 1

Có quy định nào mới về vấn đề này không các anh /chị tư vấn giúp?

Trân trọng cảm ơn!

  •  17481
  •  Cảm ơn
  •  Phản hồi

Chủ đề đang được đánh giá

0 Lượt cảm ơn
câu phản hồi
Click vào bảng để xem hiển thị đầy đủ thông tin

Bạn vui lòng đăng nhập hoặc Đăng ký tại đây để tham gia thảo luận

Loading…