Trong trường hợp này, chúng ta có thể tham khảo các quy định tại:
- Khoản 2 Điều 10 Luật Cư trú năm 2006 (sửa đổi, bổ sung năm 2013);
- Điểm b khoản 1 Điều 4 Thông tư số 35/2014/TT-BCA
Theo đó, đối tượng được hoãn thi hành án phạt tù thuộc trường hợp tạm thời chưa giải quyết thay đổi nơi cư trú, trừ trường hợp có sự đồng ý cho thay đổi nơi cư trú bằng văn bản của cơ quan đã áp dụng biện pháp đó.
Như vậy, đối tượng hoãn thi hành án vẫn có quyền chuyển nơi cư trú, nhất là trong những trường hợp khách quan phải chuyển, như thực hiện chủ trương di dân để nhường đất cho Nhà nước thực hiện các dự án quốc gia; xây dựng công trình thủy điện; tránh thiên tai; thảm họa môi trường;…
Khi đối tượng chuyển cư trú ra ngoài địa bàn từ phạm vi huyện thì việc nắm tình hình chấp hành quyết định hoãn chấp hành hình phạt tù của cơ quan Thi hành án hình sự đối với Ủy ban nhân dân cấp xã của huyện khác và ngược lại, Ủy ban nhân dân xã đó có trách nhiệm phải báo cáo tình hình người được hoãn cho cơ quan Thi hành án nơi đối tượng chuyển đi hay không ? Đây còn là “khoảng trống” pháp luật chưa có hướng dẫn và quy định cụ thể, cần có hướng dẫn của liên ngành.
Thêm vào đó, trước kia tại Điều 4 Thông tư 52/2010/TT-BCA hướng dẫn Luật cư trú do Bộ Công an ban hành ngày 30/11/2010 cũng có quy định tương tự, cụ thể:
Như vậy, để được thay đổi nơi cư trú, thì đối tượng phải được sự đồng ý cho thay đổi nơi cư trú bằng văn bản của tòa án ra quyết định áp dụng án treo. Hiện nay vẫn chưa có quy định cụ thể về trường hợp nào thì được phép thay đổi nơi cư trú, trường hợp nào thì không, tòa án cho thay đổi nơi cư trú theo thủ tục nào.
Tuy nhiên, đối tượng cần làm đơn xin thay đổi nơi cư trú gửi đến tòa án. Trên cơ sở đơn đó, tòa án sẽ xem xét giải quyết. Nếu không thì cần áp dụng hình thức xử lý “không chấp hành bản án’” để áp giải hoặc truy cứu trách nhiệm hình sự theo tội danh này.
Lưu ý: Theo Điều 84, 85, 88 Luật Thi hành án hình sự (LTHAHS) thì người chấp hành án phạt cấm cư trú không được cư trú ở những nơi cấm cư trú, khi có lý do chính đáng và được sự đồng ý của UBND cấp xã nơi bị cấm cư trú thì mới được đến địa phương đó ở trong thời hạn nhất định; Khi người chấp hành án đến cư trú tại địa phương không được phép đến cư trú thì UBND cấp xã nơi đó lập biên bản và buộc rời khỏi địa phương đó (nếu không được phép). Do vậy, không có việc thay đổi nơi cư trú đến những nơi cấm cư trú đối với người chấp hành án cấm cư trú. Việc họ thay đổi nơi cư trú đến những nơi không bị cấm, hiện chưa có hướng dẫn về thủ tục hồ sơ.
Theo Điều 90, 91, 92, 93 LTHAHS thì người thi hành án quản chế chỉ được phép đi khỏi nơi quản chế khi được người có thẩm quyền cho phép theo thời hạn quy định; Do vậy, trong thời gian chấp hành án Quản chế không được thay đổi nơi cư trú.
Người đang được hoãn, tạm đình chỉ (TĐC) thay đổi nơi cư trú, hiện chưa có hướng dẫn xử lý. Tuy nhiên, theo khoản 2 Điều 24, khoản 3 Điều 32 LTHAHS thì người được hoãn, TĐC đi khỏi nơi cư trú phải được sự đồng ý của UBND xã hoặc đơn vị quân đội đang quản lý người đó. Do vậy, người được hoãn, TĐC khi thay đổi nơi cư trú (đã được UBND xã đồng ý) phải tuân thủ các cam kết về việc chấp hành nghĩa vụ thi hành án, khi nhận được Thông báo hết thời gian hoãn, TĐC phải chấp hành án theo quy định. UBND xã đang quản lý người được hoãn, TĐC nên phối hợp với UBND xã nơi người đó đến cư trú để quản lý người được hoãn, TĐC được chặt chẽ.
(Nguồn tham khảo bổ sung: Tài liệu tập huấn của Viện kiểm sát nhân dân tối cao)