DanLuat
Chào mừng bạn đến với Dân Luật . Để viết bài Tư vấn, Hỏi Luật Sư, kết nối với Luật sư và chuyên gia, … Bạn vui lòng ĐĂNG KÝ TÀI KHOẢN.
×

Thêm câu phản hồi

Công ty Lương thực và Công nghiệp thực phẩm (nay là Công ty cổ phần Lương thực và Công nghiệp thực phẩm) và Doanh nghiệp tư nhân Tân Tiến ...

Số hiệu

448/2006/KDTM-ST

Tiêu đề

Công ty Lương thực và Công nghiệp thực phẩm (nay là Công ty cổ phần Lương thực và Công nghiệp thực phẩm) và Doanh nghiệp tư nhân Tân Tiến tranh chấp hai hợp đồng mua bán gạo

Ngày ban hành

07/09/2006

Cấp xét sử

Sơ thẩm

Lĩnh vực

Kinh tế

 

Theo thỏa thuận trong hợp đồng mua bán thì thời gian giao hàng và thanh toán là từ tháng 4 đến tháng 6 năm 2003. Căn cứ vào quy định của pháp luật về thời hiệu khởi kiện tại Điều 242 Luật thương mại năm 1997 (có hiệu lực tại thời điểm phát sinh tranh chấp), nguyên đơn đã làm đơn yêu cầu Tòa án giải quyết vụ án trong thời hạn quy định (2 năm kể từ ngày quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn bị xâm phạm), do đó, cần được chấp nhận thụ lý để giải quyết.

Về ý kiến của luật sư cho rằng căn cứ Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế và Điều 241 Luật thương mại năm 1997 thì đã hết thời hiệu khởi kiện là không có căn cứ vì tranh chấp giữa các bên là tranh chấp hợp đồng mua bán hàng hóa, thuộc phạm vi điều chỉnh của Luật thương mại (năm 1997). Về thời hiệu khởi kiện, cần áp dụng quy định tại Điều 242 của luật này mà không áp dụng Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế. Mặt khác, Điều 241 Luật thương mại (năm 1997) mà luật sư viện dẫn, là điều khoản quy định về thời hạn khiếu nại, không phải quy định về thời hiệu khởi kiện.

Yêu cầu của nguyên đơn đòi DNTN Tân Tiến phải trả ngay số tiền bán hàng đã nhận nhưng không có hàng giao là 969.803.425 đồng, số tiền lãi chậm trả là 360.000.000 đồng (theo mức lãi suất 8.25%/năm x 150% x 3 năm) và tiền phạt (8% trị giá vi phạm của 2 hợp đồng) là 154.140.000 đồng; nếu không thanh toán thì yêu cầu phát mãi tài sản thế chấp là phù hợp với các chứng cứ có trong hồ sơ cũng như sự xác nhận của bị đơn tại phiên tòa  và quy định của pháp luật tại Điều 70 Luật thương mại năm 1997

Bản án số :448/2006/KDTM-ST ngày 07/9/2006  v/v Tranh chấp hợp đồng mua bán hàng hóa

Trong các ngày 01 và 07 tháng 9 năm 2006 tại phòng xử án của Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh, đã xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số149/2004/TLST-KDTM ngày 15 tháng 7 năm 2004 về tranh chấp hợp đồng mua bán gạo theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số1439/2006QĐST-KDTM ngày 01 tháng 9 năm 2006 giữa các đương sự:

Nguyên đơn: CTY CP LƯƠNG THỰC VÀ CÔNG NGHIỆP THỰC PHẨM

Địa chỉ : 58 Bạch Đằng, P. Hải châu 1, Q. Hải Châu, TP. Đà Nẵng

Chi nhánh tại TPHCM : R2-24 Hưng Phước 2, đường Cao Triều Phát, Quận 7

Đại diện : Bà Phạm Thị Thanh Vân, GUQ số 35/LT/UQ ngày 20/4/2006

Bị đơn : DOANH NGHIỆP TƯ NHÂN TÂN TIẾN

Địa chỉ : Quốc lộ 80, xã Bình Thành, H. Lấp Vò, tỉnh Đồng Tháp

Chủ doanh nghiệp: Oâng Nguyễn Hoàng Những

Thường trú : 434 Đường 3-2, ấp Tân Đông B, thị trấn Thanh Bình, huyện Thanh Bình, tỉnh Đồng Tháp

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan :

Bà NGUYỄN THỊ BẠCH TUYẾT

Thường trú : 434 Đường 3-2, ấp Tân Đông B, thị trấn Thanh Bình, huyện Thanh Bình, tỉnh Đồng Tháp

Uûy quyền cho ông Nguyễn Hoàng Những đại diện

Bảo vệ quyền lợi cho bị đơn : Luật sư Phạm Hoàng Vinh.

Đoàn luật sư tỉnh An Giang

(Tất cả đều có mặt)

NHẬN THẤY

Nguyên đơn trình bày :

Năm 2003, Công ty Lương thực và Công nghiệp thực phẩm (nay là Công ty cổ phần Lương thực và Công nghiệp thực phẩm) có ký kết với Doanh nghiệp tư nhân Tân Tiến hai hợp đồng mua bán gạo số 15/HĐMB/2003 ngày 12/03/2003 (kèm 3 Phụ kiện sửa đổi hợp đồng) và số 28/HĐMB/2003 ngày 04/4/2003.

Cty LT & CNTP đã chuyển trả tiền mua hàng trước cho DNTN Tân Tiến nhưng DN Tâân Tiến chỉ thực hiện giao hàng được một phần của Hợp đồng số 15/HĐMB/2003, còn Hợp đồng số 28/HĐMB/2003 thì hoàn toàn không thực hiện được và cũng không hoàn trả lại số tiền đã nhận mà không có hàng để giao.

Do đó, Cty LT & CNTP khởi kiện yêu cầu DNTN Tân Tiến phải thanh toán cho công ty các khoản tiền sau đây:

- Nợ gốc (cả 2 hợp đồng) : 1.073.136.425 đồng.

- Lãi vay ngân hàng (tạm tính đến ngày 16/3/2006) : 463.806.254 đồng.

Nếu DNTN Tân Tiến không thanh toán đủ các khoản tiền nói trên thì yêu cầu phát mãi các tài sản thế chấp thuộc quyền sở hữu và sử dụng của ông Nguyễn Hoàng Những và bà Nguyễn Thị Bạch Tuyết để thu hồi nợ cho công ty, bao gồm: Căn nhà số 1 và 3 Khu chợ mới, thị trấn Thanh Bình, huyện Thanh Bình, tỉnh Đồng Tháp và khu đất 340 mtại xã Bình Thành, huyện Lấp Vò, tỉnh Đồng Tháp.

Bị đơn trình bày :

Xác nhận hiện còn nợ Cty cổ phần Lương thực và CNTP số tiền (của cả 2 hợp đồng) là 969.803.425 đồng (thời điểm 23/8/2004 còn nợ gốc 1.173.136.425 đồng, sau đó đã thanh toán được 203.233.000 đồng). DNTN Tân Tiến đồng ý thanh toán cho Cty cổ phần Lương thực và CNTP số tiền còn nợ nói trên trong thời hạn chậm nhất đến 31/12/2006 và xin được miễn trả lãi chậm trả vì doanh nghiệp đang gặp khó khăn về tài chính.

Không đồng ý cho phát mãi các tài sản thế chấp nói trên vì trước đây Cty cổ phần Lương thực và CNTP đã đồng ý mua lại kho của DNTN Tân Tiến để cấn trừ nợ, nếu nay không mua nữa thì phải để thời gian cho DNTN Tân Tiến thu xếp việc bán kho cho người khác hoặc tổ chức hoạt động trở lại để có nguồn tiền trả nợ cho Cty cổ phần Lương thực và CNTP. Mặt khác, việc thế chấp các tài sản nói trên cũng chỉ là tạm thế chấp cho Cty cổ phần Lương thực và CNTP để bảo đãm cho việc thanh toán nợ chứ DNTN Tân Tiến không có vay tiền của công ty.

Tòa án đã tiến hành hòa giải nhiều lần nhưng mguyên đơn và bị đơn không thỏa thuận được việc giải quyết vụ án, đồng thời người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan cũng vắng mặt (dù đã được tống đạt hợp lệ) nên không thể tiến hành hòa giải được và Tòa án đã có quyết định đưa vụ án ra xét xử.

Tại phiên tòa hôm nay :

Nguyên đơn : Yêu cầu DNTN Tân Tiến phải thanh toán ngay cho Cty cổ phần Lương thực và CNTP các khoản tiền sau đây:

- Nợ gốc (Hợp đồng số 28/HĐMB/2003) : 969.803.425 đồng.

- Lãi vay ngân hàng (8,25%/năm x 150% x 3 năm) : 360.000.000 đồng

- Phạt vi phạm (8% trị giá vi phạm của 2 hợp đồng) : 154.140.000 đồng.

Tổng cộng: 1.483.943.425 đồng.

Nếu DNTN Tân Tiến không thanh toán đủ các khoản tiền nói trên thì yêu cầu phát mãi các tài sản thế chấp thuộc quyền sở hữu và sử dụng của ông Nguyễn Hoàng Những và bà Nguyễn Thị Bạch Tuyết để thu hồi nợ cho công ty, bao gồm: Căn nhà số 1 và 3 Khu chợ mới, thị trấn Thanh Bình, huyện Thanh Bình, tỉnh Đồng Tháp và khu đất 340 mtại xã Bình Thành, huyện Lấp Vò, tỉnh Đồng Tháp.

Bị đơn :

+ Đồng ý thanh toán cho Cty cổ phần Lương thực và CNTP số tiền còn nợ là 969.803.425 đồng trong thời hạn chậm nhất đến 31/12/2007.

+ Không đồng ý trả lãi chậm trả và tiền phạt vi phạm vì sau khi chấm dứt hợp đồng, các bên không có thỏa thuận việc tính lãi và tính tiền phạt và hiên nay DN Tân Tiến cũng đang gặp khó khăn, phải ngưng hoạt động.

+ Đồng ý cho phát mãi các tài sản thế chấp nói trên nếu quá hạn cam kết nói trên mà DNTN Tân Tiến không thanh toán hết nợ cho Cty cổ phần Lương thực và CNTP.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan (do ông Nguyễn Hoàng Những đại diện) : Thống nhất với ý kiến của bị đơn.

Ý kiến của Luật sư bảo vệ quyền lợi cho bị đơn :

+ Tòa kinh tế TAND/TPHCM thụ lý giải quyết vụ án là đúng thẩm quyền.

+ Nguyên đơn đòi tiền lãi tại phiên tòa cao hơn số tiền lãi ghi trong đơn khởi kiện ban đầu là vi phạm Điều 218 Bộ luật tố tụng dân sự.

+ Theo quy định tại Điều 13 Nghị định 17/HĐBT ngày 16/01/1990, nguyên đơn chỉ được quyền đòi tiền phạt bằng 2% trị giá vi phạm.

+ Nguyên đơn yêu cầu trả tiền lãi chậm trả theo mức lãi suất nợ quá hạn (lãi suất cơ bản x 150%) là không phù hợp với quy định của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2005.

+ Thời gian tính lãi theo yêu cầu của nguyên đơn (3 năm, từ 31/8/2003 đến 31/8/2006) là không chính xác mà chỉ được tính lãi từ ngày 11/10/2004 (ngày ký biên bản làm việc giữa 2 bên) trở đi.

+ Việc nguyên đơn để thời gian giải quyết kéo dài rồi tính lãi đối với bị đơn là không thỏa đáng.

+ Căn cứ Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế và Điều 241 Luật thương mại năm 1997, nguyên đơn khởi kiện đến Tòa án khi đã hết thời hiệu khởi kiện.

Do đó, đề nghị Hội đồng xét xử bác đơn khởi kiện của nguyên đơn. Nếu cần khởi kiện thì nguyên đơn phải khởi kiện thành một vụ án khác.

XÉT THẤY

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định :

1. Về thẩm quyền giải quyết vụ án :

Đây là tranh chấp về kinh doanh, thương mại (mua bán hàng hóa) giữa tổ chức kinh tế và cá nhân có đăng ký kinh doanh và đều có mục đích lợi nhuận, hợp đồng được thực hiện tại TPHCM. Vì vậy, căn cứ vào điểm a, khoản 1, Điều 29, Điều 34, điểm g, khoản 1 Điều 36 Bộ luật tố tụng dân sự; khoản 3 Nghị quyết số 32/2004/QH11 ngày 15/6/2004 của Quốc hội về việc thi hành Bộ luật tố tụng dân sự và Điều 1 Nghị quyết số742/2004/NQ-UBTVQH11 ngày 24/12/2004 của Uûy ban thường vụ Quốc hội về việc giao thẩm quyền giải quyết các vụ việc dân sự quy định tại Điều 33 Bộ luật tố tụng dân sự cho các Tòa án nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh, vụ tranh chấp này thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân TPHCM theo thủ tục tố tụng dân sự.

2. Về thời hiệu khởi kiện :

Theo thỏa thuận trong hợp đồng mua bán giữa các bên thì thời gian giao hàng và thanh toán là từ tháng 4 đến tháng 6 năm 2003. Do các bên có tranh chấp về việc thực hiện hợp đồng nên tháng 7 năm 2004, nguyên đơn đã nộp đơn khởi kiện đến Tòa án.

Căn cứ vào quy định của pháp luật về thời hiệu khởi kiện tại Điều 242 Luật thương mại năm 1997 (có hiệu lực tại thời điểm phát sinh tranh chấp), nguyên đơn đã làm đơn yêu cầu Tòa án giải quyết vụ án trong thời hạn quy định (2 năm kể từ ngày quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn bị xâm phạm), do đó, cần được chấp nhận thụ lý để giải quyết.

Về ý kiến của luật sư bảo vệ quyền lợi cho bị đơn cho rằng căn cứ Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế và Điều 241 Luật thương mại năm 1997, nguyên đơn khởi kiện đến Tòa án khi đã hết thời hiệu khởi kiện (3 tháng): Ý kiến này không có căn cứ vì tranh chấp giữa các bên là tranh chấp hợp đồng mua bán hàng hóa, thuộc phạm vi điều chỉnh của Luật thương mại (năm 1997). Về thời hiệu khởi kiện, cần áp dụng quy định tại Điều 242 của luật này mà không áp dụng Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế. Mặt khác, Điều 241 Luật thương mại (năm 1997) mà luật sư viện dẫn, là điều khoản quy định về thời hạn khiếu nại, không phải quy định về thời hiệu khởi kiện.

3. Về nội dung tranh chấp :

Xét yêu cầu của nguyên đơn đòi DNTN Tân Tiến phải trả ngay số tiền bán hàng đã nhận nhưng không có hàng giao là 969.803.425 đồng, số tiền lãi chậm trả là 360.000.000 đồng (theo mức lãi suất 8.25%/năm x 150% x 3 năm) và tiền phạt (8% trị giá vi phạm của 2 hợp đồng) là 154.140.000 đồng; nếu không thanh toán thì yêu cầu phát mãi tài sản thế cháp để thu hồi nợ cho công ty:

a) Về yêu cầu hoàn trả tiền bán hàng đã nhận (969.803.425 đ) :

Yêu cầu này phù hợp với các chứng cứ có trong hồ sơ cũng như sự xác nhận và đồng ý của bị đơn tại phiên tòa hôm nay và quy định của pháp luật tại Điều 70 Luật thương mại năm 1997 nên có căn cứ để được chấp nhận.

b) Về yêu cầu trả tiền lãi chậm trả (360.000.000 đ):

Căn cứ vào thỏa thuận của các bên tại Biên bản giao nhận giấy tờ tài sản cố định thế chấp lập ngày 29/5/2003 thì DNTN Tân Tiến phải thanh toán hàng hóa thiếu hụt và công nợ phát sinh từ các hợp đồng đã ký chậm nhất đến ngày 30/8/2003. Quá hạn này mà DNTN Tân Tiến chưa giao đủ hàng và giải quyết xong các công nợ phát sinh thì Cty LT & CNTP có quyền nhờ cơ quan pháp luật có thẩm quyền phát mãi các tài sản thế chấp để thu hồi công nợ và các thiệt hại phát sinh.

Thực tế, theo xác nhận của các bên thì cho đến khi Cty LT & CNTP khởi kiện (đầu tháng 7/2004) và cả cho đến nay, DNTN Tân Tiến vẫn chưa giao đủ hàng và cũng không hoàn trả số tiền bán hàng đã nhận trước mà không có hàng giao. Theo quy định của pháp luật đã dẫn (Điều 70 Luật thương mại năm 1997) cũng như sự thỏa thuận nói trên của các bên, số tiền bán hàng đã nhận trước mà không có hàng giao đã trở thành số nợ phải trả từ ngày 31/8/2003. DNTN Tân Tiến không hoàn trả vào ngày 31/8/2003 thì phải có trách nhiệm bồi thường cho Cty LT & CNTP số tiền lãi do chậm trả theo quy định tại Điều 229 Luật thương mại năm 1997 và khoản b Điều 21 Nghjị định số 17/HĐBT ngày 16/01/1990 của Hội đồng Bộ trưởng quy định chi tiết thi hành Pháp lệnh hợp đồng kinh tế. Mức lãi suất mà Cty LT & CNTP yêu cầu 8,25%/năm x 150% (cũng là mức lãi suất cơ bản do Ngân hàng Nhà nước công bố tại Thông báo số7993/TB-NHNN ngày 31/8/2006 x 150 %) là phù hợp, thấp hơn mức lãi suất nợ quá hạn mà Cty LT & CNTP đã vay tại ngân hàng nên có căn cứ để chấp nhận.

Như vậy, có căn cứ để buộc DNTN Tân Tiến có trách nhiệm bồi thường Cty LT & CNTP số tiền lãi chậm trả là:

969.803.425 đ x 8,25%/năm x 150% x 3 năm = 360.039.521 đồng

Do nguyên đơn chỉ yêu cầu số tiền lãi 360.000.000 đồng (làm tròn thấp hơn số tiền được quyền đòi) nên Hội đồng xét xử chấp nhận số tiền lãi này.

c) Về yêu cầu trả tiền phạt vi phạm (154.140.000 đ):

Yêu cầu này phù hợp với thỏa thuận trong hợp đồng (thấp hơn mức phạt thỏa thuận là 10% trị giá vi phạm) cũng như quy định của pháp luật tại các điều 226, 227, 228 Luật thương mại năm 1997 (mức phạt không quá 8% giá trị phần nghĩa vụ bị vi phạm) nên có căn cứ để chấp nhận. Số tiền phạt cụ thể được tính trên giá trị phần hợp đồng mà DNTN Tân Tiến không thực hiện (không giao hàng) như sau:

- Hợp đồng số 15/HĐMB/2003: 200 tấn x 2.730.000 đ/tấn x 8% = 43.680.000 đồng.

- Hợp đồng số 28/HĐMB/2003: 500 tấn x 2.761.500 đ/tấn x 8% = 110.460.000 đồng.

Tổng cộng cả 2 hợp đồng là: 154.140.000 đồng.

d) Về yêu cầu phát mãi tài sản thế chấp:

Yêu cầu này phù hợp với thỏa thuận của các bên ghi tại Biên bản giao nhận giấy tờ tài sản cố định thế chấp lập ngày 29/5/2003, đã được sự chấp nhận tại phiên tòa của bị đơn và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan (là chủ sở hữu tài sản bảo đảm), đồng thời cũng phù hợp với quy định của pháp luật tại Điều 359 Bộ luật dân sự năm 1995 và các điều 22, 23, 24 Nghị định số165/1999/NĐ-CP ngày 19/11/1999 của Chính phủ về giao dịch bảo đảm, nên có căn cứ để được chấp nhận.

Về ý kiến của bị đơn không đồng ý trả tiền lãi chậm trả và tiền phạt vì cho rằng sau khi chấm dứt hợp đồng các bên không có dề cập đến việc tính lãi và tính tiền phạt vi phạm hợp đồng và bị đơn hiện đang gặp khó khăn về tài chínhÝ kiến này không có căn cư để chấp nhận vì như trên đã phân tích, các bên đã có thỏa thuận tại Điều III của hợp đồng về việc phạt vi phạm và bồi thường thiệt hại do không giao đủ theo số lượng hợp đồng, đồng thời pháp luật cũng đã có quy định cho bên bị vi phạm có quyền đòi tiền phạt và tiền bồi thường thiệt hại do hành vi vi phạm hợp đồng và nguyên đơn cũng đã có khiếu nại với bị đơn về hành vi vi phạm hợp đồng nói trên ngay sau khi bị đơn không giao hàng đúng thời hạn thỏa thuận trong hợp đồng (thể hiện ở nội dung Biên bản giao nhận giấy tờ tài sản cố định thế chấp lập ngày 29/5/2003 giữa các bên).

4. Về án phí:

Căn cứ vào khoản 1 Điều 131 Bộ luật tố tụng dân sự và các điều 15, 18 và 19 Nghị định số 70/CP ngày 12/6/1997 của Chính phủ về án phí, lệ phí Tòa án :

- DNTN Tân Tiến phải chịu án phí sơ thẩm trên số tiền vốn và lãi phải trả cho Cty LT & CNTP. Không có căn cứ pháp luật để xét miễn hoặc giảm án phí theo đơn xin giảm án phí của ông Nguyễn Hoàng Những.

- Cty LT & CNTP không phải chịu án phí nên được nhận lại số tiền tạm ứng án phí đã nộp.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng Điều 70 và Điều 229 Luật thương mại năm 1997, Điều 359 Bộ luật dân sự năm 1995;

1. Chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn, buộc Doanh nghiệp tư nhân Tân Tiến phải có trách nhiệm trả choCông ty cổ phần Lương thực và Công nghiệp thực phẩm số tiền bán hàng đã nhận trước nhưng không có hàng giao theo Hợp đồng mua bán gạo số 15/HĐMB/2003 ngày 12/03/2003 (kèm 3 Phụ kiện sửa đổi hợp đồng) và Hợp đồng mua bán gạo số 28/HĐMB/2003 ngày 04/4/2003.giữa các bên là 969.803.425 đồng, số tiền lãi chậm trả là 360.000.000 đồng và số tiền phạt là 154.140.000 đồng, tổng cộng là 1.483.943.425 đ (một tỷ bốn trăm tám mươi ba triệu chín trăm bốn mươi ba ngàn bốn trăm hai mươi kăm đồng).

Nếu Doanh nghiệp tư nhân Tân Tiến không trả đủ số tiền phải trả cho Công ty cổ phần Lương thực và Công nghiệp thực phẩm thì áp dụng biện pháp cưỡng chế phát mãi tài sản thế chấp là Căn nhà số 1 và 3 Khu chợ mới, thị trấn Thanh Bình, huyện Thanh Bình, tỉnh Đồng Tháp và khu đất 340 mtại xã Bình Thành, huyện Lấp Vò, tỉnh Đồng Tháp thuộc quyền sở hữu và sử dụng của ông Nguyễn Hoàng Những và bà Nguyễn Thị Bạch Tuyết theo Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà 116/95/ĐKSH do UBND tỉnh Đồng Tháp cấp ngày 20/11/1995 và Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số U545476 do UBND huyện Lấp Vò cấp ngày 13/5/2002 để thu hồi nợ cho công ty.

2. Về án phí :

Doanh nghiệp tư nhân Tân Tiến phải chịu án phí sơ thẩm là 28.483.000 đồng (hai mươi tám triệu bốn trăm tám mươi ba ngàn đồng), nộp tại Thi hành án dân sự TPHCM.

Công ty cổ phần Lương thực và Công nghiệp thực phẩm không phải chịu án phí nên được nhận lại số tiền tạm ứng án phí đã nộp 14.330.000 đồng (theo Biên lai thu tiền số 004457 ngày 14 tháng 7 năm 2004 của Phòng thi hành án TPHCM).

3. Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của Công ty cổ phần Lương thực và Công nghiệp thực phẩm, nếu Doanh nghiệp tư nhân Tân Tiến không chịu thanh toán số tiền nói trên thì còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất nợ quá hạn do Ngân hàng Nhà nước qui định tương ứng với thời gian chưa thi hành án.

4. Các đương sự được quyền kháng cáo bản án này trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án./.

 

  •  6107
  •  Cảm ơn
  •  Phản hồi

Chủ đề đang được đánh giá

0 Lượt cảm ơn
câu phản hồi
Click vào bảng để xem hiển thị đầy đủ thông tin

Bạn vui lòng đăng nhập hoặc Đăng ký tại đây để tham gia thảo luận

Loading…